Đàn Bửu Liên Đăng.Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí .do Hà Phước Thảo thực hiện

                                                                               

auf  Deutsch             English             Video          FranÇais        Thư Viện  1     4   5   

Những điểm dị đồng của những nhà nghiên cứu Đạo Cao Đài

như  chư  Học giả, Giáo sư, Giáo sĩ ...

                                                                                                                                          Hà Phước Thảo

Qua những buổi thuyết trình của Giáo sư Tiến sĩ Nhân Chủng Học Janet Hoskins tại Viện Đại Học Nam California USC và của Bác sĩ Bùi Đắc Hùm tại Hoa kỳ trước cử tọa người Mỹ và Việt Nam về Đạo Cao Đài, chúng tôi xin viết bài nầy để so sánh mục đích, sở trường, sở đoãn, nhân sinh quan và Vũ trụ quan của các nhà nghiên cứu về Đạo Cao Đài như là những học giả tài tử, giáo sư chuyên nghiệp về Tôn giáo học, giáo sư về Thần học, giáo sư môn Nhân chủng học.... với các giáo sĩ và tu sĩ trong các Tôn giáo khác và nhất là chư vị chức sắc và tác giả về Sử đạo trong Đạo Cao Đài, vì khi chúng ta thấy rõ mục đích nghiên cứu của chư vị nầy thì mới xác định được chiều sâu nghiên cứu và sự ứng dụng của kiến thức về Đạo đối với cá nhân và với đại chúng  cũng như biết ảnh hưởng của việc truyền bá Đạo trên thế giới, vì Đạo Cao Đài là một tôn giáo thế giới mặc dù thế giới chưa biết nhiều, chớ không phải là một Giáo phái, Secte, triết lý suông hay góp nhặt của các tôn giáo khác (Synkretismus) như nhiều nguời lầm tưởng nên đã dùng sai danh từ chỉ tôn giáo khi phổ biến trên báo, trong sách, trong Tự điển hay trên Mạng Lưới Toàn Cầu. Những bài báo, những cuốn sách giáo khoa cho môn Đức dục ( Ethik) và những cuốn sách nghiên cứu cũng như những bài giảng ở cấp bậc Đại học ( lectures, Vorlesungen) , những Luận án Tiến sĩ (Thesis, Dissertationen)  là những tài liệu hỗn tạp mà  nếu chưa phân loại, đánh giá thì kể như chưa được chính thức công nhận theo tinh thần khoa học, mà trong tương lai, tài liệu có giá trị sẽ rất cần thiết cho nhân loại, cũng như những sự thật bị dấu kín vì lý do chính trị, hoàn cảnh, ý thức hệ.... cần được đưa ra ánh sáng của nền văn minh hiện đại nầy. Tại sao có những sự thật không được ghi vào lịch sử hay sử Đạo?
Khi mục đích đã có thì ý chí, hoàn cảnh, phạm vi, khả năng, chiều sâu nghiên cứu mới xác định đúng mức công trình nghiên cứu để nguyện vọng của cá nhân và của đại chúng hổ trợ cho việc phổ độ được hiệu quả, đúng lúc, hợp thời và đúng yêu cầu của đại chúng, nghĩa là phải hòa đồng, khách quan chứ không chủ quan gây chống đối ở giới khác, Phái khác hay tôn giáo khác,  mà trên thực tế các tôn giáo có trước đây trên 2.543 năm đã đào tạo rất nhiều học giả, giáo sư và giáo sĩ cho tôn giáo và cho đại chúng, nhưng không  hoà điệu trong luật đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu để một học giả  ở tôn giáo nầy dạy ở  Viên kia của tôn giáo khác hay có những cuộc bút chiến vì bất đồng ý kiến.Các Viện Nghiên Cứu, các Đại Chủng Viện hay các trường Đại Học đào tạo giáo sĩ và chuyên viên, các Viện Nghiên Cứu Tôn giáo đều do chư giáo sĩ  hay tăng sĩ phụ trách chớ chưa có một cá nhân của học giả nào được mời vào dạy như vị giáo sư chính trong tôn giáo, nếu có , cũng chỉ là vị phụ trách môn phụ thôi, nguợc lại trong các tôn giáo có trước thì chư học giả nghiên cứu rất sâu và thông hiểu tất cả các tôn giáo,  đáng lẽ là giáo sư chính mà chưa là giáo sĩ thì kể như chưa chính thức dạy. Sự khoan dung và mở rộng theo tinh thần khoa học nhân văn chưa được các tôn giáo có trước áp dụng, nếu có thì khi chư vị giáo sư mang dạy một triết lý đại đồng thì bị phê phám và bì sa thải mà hiện nay tại Đức quốc có nhiều vị trở thành tác giả nhiều quyển sách bán chạy nhất, vì đã viết không riêng cho tôn giáo nào, mà cho tất cả các tôn giáo trong tinh thần "Vạn giáo nhất lý", nhất là trong giai đoạn hiện nay với sự toàn cầu hóa nên những học giả Tây phương đang tìm về Đông phương nghiên cứu để bổ túc cho kiến thức với tính cách cá nhân và theo sở thích riêng chớ chưa hòa đồng tôn giáo . Chúng tôi trước đây (1987) đã ghi danh học tại Đức (LMU), đã viết Luận án mà  không được chấp thuận vì lý do đề tài là một Tôn giáo lớn với danh từ lớn mà khi vị  Chủ tịch Hội đồng bảo
phải sửa đổi đề tài thì chúng tôi không bằng lòng, cho nên phải làm Luận án bên Mỹ mới được chấp nhận, vì tại Đức môn Tôn giáo học chỉ chấp thuận cho Evangelische Theologie và Katholische Theologie mà thôi, cả môn hiện đang dạy cũng không có các tôn giáo khác coi như môn chính, hoặc coi Phật giáo như là triết lý chớ chưa công nhận là tôn giáo.
Việc giáo sư Janet Joskins và B.S. Y Khoa Bùi Đắc Hùm thuyết trình về Đạo Cao Đại tại Hoa Kỳ là một sự khoan dung hòa đồng (Tolerance ) do dân tộc tại đây cho phép mà nước tự do như Hoa Kỳ mới có, còn ở Việt Nam thì không có tự do tín ngưỡng thật sự (chỉ trên sách luật mà thôi) hay ở Âu châu thì chưa có tự do tín ngưỡng hoàn toàn cho tất cả mọi người vì do quyền lực của tín ngưỡng sự ngự trị tôn giáo tại đó và coi như quốc đạo. Sự bỏ đạo trên giấy tờ lý lịch để khỏi đóng thuế nhà thờ là một đại nạn hay nguy cơ
cho Giáo Hội mà chư chức sắc đang lo ngại.
Tại sao việc đưa ra các vấn đề  trong bài nầy cần thiết  ? Tại sao phải tìm hiểu sự ra đi khắp năm châu của người Việt Nam như dân tộc Do Thái trước đây 2.000 năm cũng cần thiết?
Vì  khi biết được thì mới có sự công nhận trên lý luận hợp lý và toàn cầu hóa được. Tại sao phải phân loại Tôn giáo giữa chư Giáo Tổ và chính Đức Chí Tôn Thượng Đế?
Trước hết, lý do người Việt nam lìa bỏ quê hương đi khắp năm châu về phương diện chính trị là tìm TƯ DO là lẽ đương nhiên cả nhân loại đều công nhận nên Liên Hiệp Quốc mới phân công cho các nước kỹ nghệ một
chỉ số nhận người tị nạn Việt Nam ( Kontingenz), còn nhiều nước khác thì nhận người tị nạn do tự nguyện và trách nhiệm khi cứu vớt thuyền nhân ngoài biển.
Tại sao dân tộc Việt nam mang nhiều quốc tịch như hiện nay? Phải chăng đây là một sứ mạng do Ơn Trên giao phó? Các tôn giáo có trước đã đi vào lịch sử, còn Đạo Cao Đài đang trên đường hoằng hoá chớ chưa gắn chặc vào lịch sử vì sử đạo chưa viết ra hoặc đã viết nhưng chưa xong hoặc đang viết, nếu khi đã viết xong thì quyển s ử đạo còn cần bổ túc mãi vì Đạo, đời, chính trị, hoàn cảnh và bộ máy Trời đang chạy chớ chưa dừng lại được mà chu kỳ tiến hóa là một vòng tròn kín cho tất cả các tôn giáo lăn vào bánh xe tiến hóa chung của nhân loại với  5 cây căm xe nhỏ ( hay Ngũ Chi Đại Đạo) trong 3 cây căm xe to (hay Tam Giáo) để chống chịu cho cái vành xe luân lưu mãi, mà mỗi lần tính ra là 700.000 năm mới hết vòng bánh xe lăn.
1. Lý do người Việt nam đi khắp năm châu:
     - làm gương cho Đông Đức với sự can đảm vô cùng khi liều chết giữa biển của thuyền nhân tị nạn, từ dó người Đức mới can đảm ra hết ngoài đường biểu tình, không sợ công an nữa, cả công an cũng ra đường đến phá bức tường ô nhục Bá Linh.
    - Làm gương cho dân Nga can đảm ra đường biểu tình ủng hộ cuộc "đổi đời" do Gorbatschov lãnh đạo để huỷ bỏ chế đô không tưởng là cộng sản chủ nghĩa để đến dân chủ, tư do.
    - Sự bỏ nước ra đi mãi của người Việt nam từ Nam chí Bắc để chứng minh rằng chủ nghĩa lỗi thời của Việt Nam là Xã hội chủ nghĩa, chỉ đưa đến nghèo đói như Cu-Ba. Bắc Triều Tiên mà thôi.
    - Là sự chứng minh rằng chủ nghĩa không tưởng do đảng trị thì độc tài, cuồng tín, tàn ác, hèn nhát để ngoại xâm là Trung quốc chiếm lãnh thổ lần mãi như tầm ăn dâu mà người Việt Nam trong nước không dám biểu tình phản kháng bởi chính quyền sợ sệt quá mức, chỉ có người Việt nam tị nạn mới dám làm, kẻ nô lệ mẫu quốc tự nguyện bán nước bằng nhiều cách như nhượng bộ, trừ nợ bằng cách cắt đất, cắt hải phận hay công nhận trên giấy tờ ngoại giao.
    - Người Việt nam trong Đạo Cao Đài có đọc Thánh ngôn hiệp tuyển và biết 4 câu sau đây:

                                                   Từ đây nói giống chẳng chia
                                                   THẦY hiệp các con lại một nhà,
                                                   Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
                                                   Chủ quyền Chơn Đạo một mình TA.

Như vậy thì vào năm 1926 khi Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài thì ngài đã tiên tri rằng người Việt Nam cả Miền  Nam ( trước) lẫn Miền Bắc (tị nạn sau khi thống nhất đất nước  và dù đã có độc lập rồi mà dân Miền Bắc phải chèo thuyền ra biển qua tị nạn ở Hồng kông) và Chơn Đạo tức là Đạo chân chánh chỉ do Đức Chí Tôn mở ra mà thôi, còn các đạo khác đã do tay phàm canh cải, mất chơn truyền rồi.
2. Phân loại chư Giáo Tổ trong hai thời ký phổ độ trước :
    - Những tôn giáo có trước đều do chư vị Giáo Tổ khai mở. Chư vị Giáo Tổ thì do Đức Chí Tôn Thượng Đế hay Đức Chúa Trời gởi xuống thế hay chư vị là Chơn Linh của Đức Thượng Đế chiết thân ra và giáng thế chớ không phải Đức Thượng Đế tự mình ngài xuống, mà ngài gởi xuống:
        - hoặc là một vị Thái tử giàu sang không chịu ham quyền quí, bỏ hoàng cung đi tìm phương pháp giải thoát và được nhân loại tôn là vị Phật ( Thế Tôn).
      - hoặc là người thợ mộc nghèo mà lúc sanh ra cũng trong nghèo khó, bi vua săn đuổi tìm để giết và cũng đã đi du học một mình mà học phương pháp thiền định tại Kashmir của Đức Phật Thích Ca mà về núi Zion ở Sinai trên nước Do Thái ngồi thiền định trong 40 ngày để thông linh cùng  với Đức Chúa Cha mà đi giảng đạo, nhưng sau rồi ngài cũng bị xử tử trên cây thánh giá, về sau nhân loại dùng những cuốn sach của chư tông hay đệ tử của vị thợ mộc đã chép lại lời giảng  làm cuốn Tân Ước  gọi là Kinh Thánh và xem vị thợ mộc nghèo như là Chúa Con ( Thiên Tôn).
        - Một vị khắc tại vùng Trung Đông nhà nghèo đi làm công cho một bà chủ góa giàu có, được nuông chiều và thương lấy làm chồng, nhờ có thì giờ mà ngồi suy nghĩ rồi viết ra một cuốn kinh (Coran) mà tư tưởng cũng giống như tư tưởng của các vị tông đồ đã viết.
Theo các nhà khoa học hay những người vô thần thì xem tôn giáo là những triết lý về Vũ Trụ Quan và Nhân sinh quan do người phàm nghĩ ra và chư Giáo tổ như là triết gia mà thôi, còn người đời tổ chức thành tôn giáo để tin tưởng theo. Những triết gia khác coi chư giáo tổ như những triết gia lớn làm cuộc cách mạng xã hội, như Đức Thích Ca làm cuộc cách mạng san bằng sự bất công của 4 giai cấp ở Ấn độ, còn Đức Chúa  Giê-su làm cuộc cách mạng để chỉnh đốn tín ngưỡng của người Do Thái, coi dân tộc nầy là dân tộc được Chúa chọn trong khi Đế quốc La-Mã đang dùng thế quyền để cai trị khắp Âu châu. Sự gặp nhau giữa hai quyền lực đế quốc và tín ngưỡng cũ cùng đồng lõa để giết Con của Đức Chúa Trời vì ngài làm cuộc cách mạng bằng Tình thương hay Lòng bác ái.
Các triết gia vô thần, nhất là triết gia Karl Marx chủ xướng đã cho rằng cuộc cách mạng mới do những người vô thần sẽ vĩ đại hơn vì làm cho cả thế giới trở thành thế giới đại đồng, không ai giàu quá, không ai nghèo quá mà các tôn giáo tuy đã làm nhưng còn bất công là kẻ giàu quá, người nghèo quá. và coi "tôn giáo là thuốc phiện" vì tôn giáo làm ru ngủ con người, làm mất ý chí của những nhà cách mạng vĩ đại mới mà người áp dụng đã coi mục đích là cần yếu, còn phương tiện dù cho tàn ác cũng không sao ( „mục đích biện minh cho phương tiên“). Vì lý do nầy mà Liên-xô đã nhốt các điền chủ giàu vào GULAG ( Trại Tập trung) để tiêu diệt bằng sự lao động gian khổ.
3.
Vị Giáo Tổ trong thời kỳ phổ độ lần thứ ba:
Việc phân chia nầy chỉ có người trong Đạo Cao Đài mới biết, còn tín đồ hay các nhà thần học của các tôn giáo khác thì coi tôn giáo của họ là do chính Đức Chúa lập ra mà con ngài là Con Một thực hiện cho nên lịch sử của vị Giáo Tổ được coi như không sanh ra bình thường bằng thụ thai bình thường giữa vợ chồng, mà do huyền năng thiêng liêng hay do con voi ghim ngà voi vào bụng mẹ để thụ thai mà sanh ra.
Lịch sử của Đạo đã ghi trong kinh, sách như một truyện thần bí cho nên nhiều nhà khoa học kiêm tôn giáo học không chịu chấp nhận, cho nên mới có mở ra nhiều Chi Phái trong một tôn giáo. Ngược lại vị Giáo Tổ của Đạo Cao Đài là chính Đức Thượng Đế vô hình, chớ không được do người phàm sanh ra. Và bởi vì vô hình nên ngài mới mượn phương tiện thông linh trong thần linh học mà viết ra thánh giáo tức cơ bút.
Trong khi nhân loại có quá nhiều trình độ, sở thích, khả năng, sự giới hạn và sự cấm đoán trong tôn giáo và phương tiện nghiên cưú khac nhau nên chúng ta có thể phân loại lần nữa là mục đích, sở trường, sở đoãn của chư vị nghiên cứu đối với đối tượng nghiên cứu ra sao?
4. Phân loại các nhà nghiên cứu Tôn giáo:
   
a) Học giả : Học giả nghiên cứu tôn giáo học cũng còn được chia ra nhiều phương diện khác nhau, hoặc trong tôn giáo, ở tôn giáo khác, ngoài tôn giáo, không theo tôn giáo nào nhưng hữu thần, không có tôn giáo nào nhưng vô thần. Mỗi vị có một mục đích khác nhau, vì nếu ở trong tôn giáo thì chỉ biết có tôn giáo mình, nên coi các tôn giáo khác là phụ, nếu chủ quan thì coi tôn giáo mình là hay, là chánh, đúng chân lý, còn các tôn giáo khác là còn khuyết điểm cần bổ khuyết hay có khi mang tính cách khoan dung tính coi như hòa đồng bao nhiêu phần trăm thôi chớ chưa đến sự công bình. Những vị nầy càng nghiên cứu thì càng tìm thấy sư giống nhau của triết lý trong các tôn giáo và sẽ tìm thấy vạn giáo nhất lý. Tới chừng đó , nhà nghiên cứu sẽ trở nên khoan dung hơn, hoặc nhà khoa học như Albert Einstein tuy lúc đầu chỉ tin khoa học, nhưng cuối cùng cũng tin vào hữu thần.
Có những học giả  ở trong một tôn giáo và nghiên cứu tôn giáo khác thấy có những triết lý hay hơn rồi theo đạo khác, bỏ đạo cũ, nhất là hiện nay tại Âu châu có nhiều người là đạo dòng trong Thiên Chúa giáo mà khi nghe chư Lạt Ma thuyết giảng rồi bỏ đạo theo thiền phái Tây Tạng hay theo Phật giáo, hoặc có vị là chức sắc lớn trong Anh giáo khi qua  Ấn độ học Đạo Phật thì bỏ đạo cũ theo Phật giáo và trở thành Thượng tọa ( TT Biyana ) hay vẫn theo đạo cũ làm chức sắc cũ mà tu theo pháp của Đạo Phật (Đức Giám Mục C.W. Leadbeater là nhà thông thiên học).
Những học giả thuộc tôn giáo nầy mà nghiên cứu tôn giáo kia rất sâu đậm, có khi lấy bằng Tiến sĩ và dạy cho tôn giáo khác ở bậc Đại học, hoặc vì lý do nghề nghiệp hoặc do đức tin thay đổi đối tượng đức tin.
Những vị chưa vào tôn giáo nào mà có sở thích nghiên cứu tôn giáo thì mục đích là tìm hiểu triết lý của tôn giáo  cho biết hoặc thích thú hoặc để so sánh mà tìm ra nguyên tắc "vạn giáo nhất lý", từ đó sẽ có một sự minh triết về Đạo học, dĩ nhiên sẽ trở thành nhà hữu thần và tùy theo sở thích cuối cùng sẽ vào đạo đó và tu vào pháp tu của tôn giáo đó.Người ta ít thấy nhà vô thần nào trở thành hữu thần khi đang sống trong chủ nghĩa cộng sản, có thể những vị đó do hoàn cảnh không cho phép nói lên những tư tưởng mới thiên về hữu thần, và khi họ tị nạn ở nước tự do thì tư tưởng lại khác. Một số người già là cựu đảng viên cộng sản khi tự do sống ở nước khác thì tư tưởng quay đi ngược chiều 180 độ, như vậy mục đích nghiên cứu để hành nghề hay mục đích của sự học đã đến quá chậm do tuổi cao chồng chất. Những học gia nghiên cứu đa giáo hay những nhà thông thiên học thì có cái nhìn tổng hợp hơn, hòa đồng hơn, vì họ biết về khoa học. triết học và triết học, có học môn so sánh các tôn giáo ( tôn giáo học tỉ giảo) nên đã tìm được "Vạn Giáo Nhất Lý" và đức tin tùy theo cường độ của sự ưa thích tôn giáo nào đó mà vào đạo đó, nhiều khi cũng không cần thiết, khi họ học được bửu pháp tu thiền. trong Đạo Phật  khi nghĩ rằng việc qui y không cần thiết, miễn hành thiền đúng còn hơn qui y làm Phật tử, thực ra khi thiền là Phật tử rồi, vì Phật tử là Anh Nhi khi luyện Đạo.Những nhà nghiên cứu về Cao Đài giáo một cách sâu rộng nguyên là giáo sư triết học Đông phương ở Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn nhưng đang vẫn ở trong tôn giáo khác, vì ý thích nghiên cứu Đạo Cao Đài lại được CQPTGL mời dạy về Tam Giáo (BS Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ ) chớ không giống như nhiều vị giáo sư bên Tây Đức đang dạy về Thần học mà khi thuyết trình về Đạo Phật thì bị sa thải. Như vậy mục đích của chư vị nầy là do cá nhân chứ không do nghề nghiệp, còn chư vị ở bên Đức như Tiến sĩ Drewemann  hay tác giả Kernst Holger thì vì nghề nghiệp mà thất nghiệp do sở thích nghiên cứu tôn giáo khác.
Riêng chư vị chức sắc Đạo Cao Đài chỉ nghiên cứu Đạo Cao Đài thôi thì tư tưởng lại khác những học giả đa tôn giáo ở chỗ nghiên cứu tường tận thánh giáo Đạo Cao Đài, tuy nhiên chưa được tìm thấy "Vạn giáo Nhất Lý" trong các tôn giáo khác, do đó đôi khi hơi chủ quan, mà theo bài thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp ở phần cuối cuốn TNHT Q. 1 thì ngài khuyên rằng  người Đạo Cao Đài nên học tất cả các tôn giáo khác để biết để không chia Chi rẽ Phái.
Có những vị chức sắc cao, nhưng không nghiên cứu thánh giáo của các Chi Phái thì còn chủ quan, vì mục đich là chỉ học TNHT, TL, PCT mà thôi, do đó nhiều khi thuyết đã gặp trở ngại là nói sai đi đôi chút sẽ có hậu quả không tốt trong việc truyền bá Đạo Cao Đài, thí dụ, có vị bảo rằng chỉ cần cúng Tứ thời cũng đủ để được giải thoát, vì vị nầy chưa đọc ĐTCG nên phủ nhận công phu thiền định, có lễ vì vị nầy chưa hiểu chữ „TU“ là tu tánh và luyện mạng („một vị Đại La Thiên Đế xuống đây mà không TU thì khó trở về ngôi vị cũ ….(TNHT) “. Thật ra, bất cứ tôn giáo nào cũng có hai phần: Công truyền và Bí truyền, mà chỉ lo Phổ Độ thì chưa đủ đâu !. Đó là tu theo Trung Thừa thôi, cần phải biết rằng Đạo có ba bậc thì mới hành đạo cho đúng.   
b)
Giáo sư : Giáo sư Thần học của  Đại Chủng Viện là chức sắc trong Đạo Thiên Chúa có bằng Tiến sĩ Thần học. Chư vị nầy có mục đích học để vừa hành Đạo với chức vụ giáo sĩ và dạy các sinh viên Linh mục ở Đại Chủng Viện hay tại Phân Khoa Thần Học tại Viện Đại Học. Mục đích rất rõ ràng như thế cho cả cuộc đời không bao giờ thay đổi, do đó tư tưởng trong lúc dạy là chuyên khoa cho tôn giáo của ông thôi. Trong Đạo Hồi cũng vậy, chư chức sắc là Tiến sĩ Thần Học Hồi giáo thì dạy về Đạo Hồi chớ không pha thêm tôn giáo khác vào được.
Rất ít Viện Đại học tôn giáo nào dạy về tôn giáo khác, tuy nhiên cũng có vài Viện Đại Học mà môn Tôn giáo học được mở rộng hơn là nghiên cứu các tôn giáo trên thế giới, thí dụ tại Viện Đại Học Leipzig có Viện Tôn Giáo Học
( Religionswissenschaftliches Institut = RWI ) thì có dạy về các tôn giáo ở Á Châu và có dạy về Đạo Cao Đài
( do Gs.Ts. Nguyễn Khắc Tìến Tùng phụ trách). Chúng tôi nhận thấy đây là một tiến bộ của Tự Do Tôn giáo tại Đức, vì nếu gọi là "Tư do tôn giáo" là ai tin đạo nào cũng được, không cấm cản, lẽ dĩ nhiên thì đúng, nhưng lại gò bó chỉ có hai thần học chung nhau là Tin Lành Học và Thiên Chúa giáo học thôi thì chưa gọi là tự do tôn giáo trong chính hàng giáo phẩm và sinh viên đang có ý muốn học tất cả các tôn giáo chớ không riêng một môn Thần học cho đạo mình mà thôi. Kiến thức của một vị linh mục hay mục sư cần phải biết nhiều về triết lý các tôn giáo khác một cách tương đồng chớ không phải biết sơ thôi. Như vậy mục đích của Trường Đào Tạo giáo sĩ giới hạn trong tôn giáo mà trong dĩ vãng tôn giáo đã qua những biến cố như thánh chiến, cấm giảng dạy về Luân hồi, dịch sai những danh từ trong Kinh Thánh như Wiedergeburt (tiếng Anh là reincarnation) dịch là Auferstehung = „sống lại“ hay trong Kinh Tin Kính thì có câu:" Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại" đã làm cho chư sinh viên biết về Đạo Phật không tin tưởng mấy vì họ học là để học ra làm một nghề là mục sư hay linh mục thôi.
Những giáo sư đại học dạy về môn Tôn giáo học ở Viện Đại Học Quốc Gia thí đa số là học giả tiến sĩ Thần học, Tiến sĩ Phật học
 hay Tiến sĩ Tôn giáo học...không phải là linh mục hay mục sư thì có mục đích khác: Hoặc nghiên cứu về Nhân Chủng Học ( Ethnologie, ethnology), Nhân Chủng Tôn Giáo Học (Religionsethnologie, religious ethnology) hay Khoa Học Nhân Văn (Human Science) thì sở làm không bị ảnh hưởng, nghĩa là không bị đuổi sở khi dạy về đề tài tôn giáo khác, cho nên chư vị nầy có dịp thăng tiến, hiểu thêm nhiều hơn khi đọc những Luận án Tiến sĩ của các sinh viên (vị giáo sư là người học của những sinh viên khắp nơi khi đọc và sửa luận án tiến sĩ, điều nầy rất đúng = Học thầy không tày học bạn hay học từ ông thầy tiến sĩ cha (Doktorvater = người Patron) không bằng học từ sinh viên = Chư vị giáo sư nên khiêm nhượng nói như vậy mới được).
  
  c) Giáo sĩ:  Ở Tây phương khi nói đến giáo sĩ là nói đến nguồn gốc đào tạo, hoặc là Đại Chủng Viện, hoặc là tốt nghiệp Đại Học ở Phân Khoa Thần Học hay Đại Học Hồi Giáo, Viện Đại Học Phật Học ở Ấn độ, Thái Lan, ở Mỹ...còn Đạo Cao Đài thì chư giáo sĩ, tu sĩ hiện nay học ở Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, nơi đây học và tu cùng lúc, vì phải hiến thân vì Đạo, vì THẦY, tức không lập gia đình, ăn chay trường và học thiền để công phu, thuyết trình để công quả thí pháp làm đúng theo Lịch Trình Hành Đạo do Đức Lý đã ấn định. Nơi đây trước kia có GS. BS Nguyễn Văn Thọ giảng về Tam Giáo: Nho, Phật, Lão và do chư Đạo Trưởng giảng về Sử Đạo, Triết Lý Đạo, Tổ Chức, Hạnh Đường, Nghi Lễ... Như vậy tuy chưa gọi là Viện Đại Học hay Viện Cao Đài hay Đại Chủng Viện Cao Đài giáo mà còn đầy đủ và cao hơn nữa, vì tại các Viện Đại Học ở Tây phương không có dạy thiền định và bắt ăn chay, chưa biết lý do tại sao phải ăn chay, chưa biết Tiên Thiên và Hậu Thiên là gì.
Ở tại Hoa Kỳ có TLBT cũng đã tổ chức những Khóa học Hạnh Đường là những bắt đầu cho Viện Đại Học theo đúng nghĩa như đã trình bày về CQPTGL.Trong kỳ Đại Hội Cao Đài tại Hoa Kỳ thì CĐGHN đã bằng lòng yểm trợ cho Dưa án mở Viện Việt Học và Cao Đài Giáo ( Institut für Vietnamologie und Cao-Đài-Religion) tại Leipzig trong phiên họp với sự hiện diện của Bác sĩ Bùi Đắc Hùm từ Hoa kỳ sang, Huynh Hà Phước Thảo, các huynh đệ từ Wuppertal, Đức quốc đền) về tiền mướn nhà và hy vọng số sinh viên càng ngày càng tăng thì Viện nầy có giá trị như Viện Đại Học tư về Đạo Cao Đài mà phương pháp học Hàm Thụ sẽ giúp cho chư vị đã có nghề khác như Kỹ sư, Tiến sĩ ngành khác, kể cả Linh mục hay ;
mc sư nếu muốn học để biết, nhưng sẽ thất nghiệp.... nếu muốn có văn bằng Cao Học hay Tiến sĩ Việt Nam học hay Tiến sĩ Cao Đài Học thì có thể dạy tại các Trường Đại học khác trên thế giới, thí dụ như dạy tại Bangladesh vì nơi đây có dạy về Đạo Cao Đài mà chư vị giáo sư người Ấn độ theo Hồi giáo chưa rành về tiếng Việt đang dạy, trong khi thánh giáo Đạo Cao Đài thì có rất nhiều từ Hán, Việt khó hiểu thì làm sao giảng cho sinh viên hiểu hết triết lý Đạo Cao Đài được ? (Dư án không thể thực hiện được vì quá ít người tham dự, chừng vài chục sinh viên học tại  Religionswissenschaftliches Institut der Universität Leipzig thích học Tôn giáo học và làm Dissertation về Cao-Đài-Giáo, cho nên trong tương lại Viện Đại Học Cao Đài sẽ mở tại Việt Nam khi cả dân tộc có tự do, độc lập, lãnh thổ và các quần đảocòn đủ như xưa cho đúng theo Tiên Thiên Bát Quái, còn việc động đất noi khác là do cộng nghiệp của các dân tộc khác. Việt Nam là Thánh Địa và cơ sở Viện Đại Học có hình Bát Quái Đài). Hy vọng trong tương lai người Âu và Mỹ sẽ biết về tôn giáo của Cha Chung nhân loại, có lẽ sẽ phải trải qua cuộc thi Long Hoa Đại Hội và môn học mớiCao-Dai-Theologie sẽ dành cho giống dân Bích Ngọc học trong 700.000 năm sắp tới, sau khi trái da916t có những biến động lớn lao trong khi nhân loại chuẩn bị chiến tranh nguyên tử thì trái đất đổi trục và Đại Hồng Thủy vì những núi nước đa từ2 lục địa từ cực tan ra, nhân loại phải lo sao để sống còn và giúp nhau cứu vớt cho khỏi chết hết, thì "có đau khổ mới thương nhau" chứ bây giờ thì vô số tôn giáo tàn phá nhau, vì chưa hiểu "Vạn giáo nhất lý" và chưa đọc được thánh giáo bằng các ngoại ngữ về Tôn Giáo do chính Ông Trời ( Gott = God = Dieu = Jehova = JHVH = Allah, Đức Cao Đài = Đức Chúa Trời = Chúa = Chúa Cha = Ngôi Lời = Lord = Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế = Đức Thượng Đế = Đấng Sáng Tạo = Creator = Créateur = Schöpfer ....) mở ra và ngài ban Sắc Lệnh để người phàm làm những trang có Links sau đây:

                                              http://caodaigiaoly.free.fr/
                                              http://antruong.free.fr/
                                              http://antruong.free.fr/chieuminh.html

Hy vọng bài nầy sẽ thúc đẩy các sinh viên khắp nơi trên thế giới là người Việt Nam muốn trở thành những vị Tiến sĩ và tu sĩ trong Đạo Cao Đài thì tự học, khỏi cần ghi danh, vì trong tương lai nhân loại từ các nuớc văn minh tiến bộ về kỹ thuật cao tột, nhưng bị mất gần hết thuần phong mỹ tục và đạo đức truyền thống cũ, sẽ đến Việt Nam học với chính Đức Đưong Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật Giáo Chủ Long Hoa Hội tại Thánh Địa Việt Nam. Ngài hiện diện rồi về hình thức mà tại núi Sam đã có ngôi tượng rất to lớn, nhưng ngài xuất hiện khi Long Hoa Hội xong.
                             
                      Viết tại Viện Đại Học Kỹ Thuật München (TUM), Campus  Garching,  17.2.2005
                                                                   Hà Phước Thảo (bis 30.4.2005  => pensioniert)

(c) haphuocthao@hotmail.com



MỤC LỤC

ViDeo Tham Quan Thanh Dia Tay Ninh  1       4   5       7    8

          

Địa chi liên lạc với các Đàn Chiếu Minh Hải-Ngoại