ẤN CHỨNG VÀ SỰ HUYỀN
DIỆU Hà Phước Thảo Trong Thánh Giáo dành cho đệ tử Phái Chiếu Minh Thầy Thuợng Đế có nói: "Đạo Thầy quí ở chỗ chơn thường, chẳng dùng huyền diệu để mê hoặc người mộ Đạo....Bởi vậy, hễ biết Đạo rồi, cứ giữ một mực lo tu, hay dở chẳng nên bàn, giác mê tùy số phận..." Người tu thiền hay tu tịnh theo Tân Pháp Cao Đài (dự bị Sơ Thiền và Sơ Thiền Tâm Pháp cũng như người tu đơn luyện Đạo trong Phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thường tin tưởng vững vàng nơi Thầy Thượng Đế, nên không bao giờ mong thấy cảnh huyền diệu . Tuy nhiên, có vị thường thấy thế nầy hay thế nọ, nên Thầy giáng cơ trong các Đàn Chiếu Minh thường nhắc nhở : "Thầy chẳng dùng phương trấn Thần, truyền điển trị bịnh trừ tà cùng những khoa diệu thuật theo Tả Đạo Bàng Môn. Đạo Thầy không dùng huyền diệu thần thông chi cả, cốt dạy người nên đạo đức hoàn toàn thành Phật, Tiên, chớ không truyền bửu pháp như bên Tả Đạo, hễ thấy môn đệ cứ ai cũng ban, không chọn người hạnh đức hiền lương. Trao như vậy có phải phá đời hại chúng không?" và Thầy còn dặn hễ khi thấy huyền diệu gì thì phải xét lại coi có hành đúng không, phải sửa lại cho đúng, vì hành sai nên quỉ ma nó đến tạo giả cảnh để quyến rũ vào con đường của chúng. Người tu tịnh khi hành Đạo pháp của Đức Thượng Đế qua một thời gian bỗng thấy trong mình về tinh thần lẫn thể xác có sự thay đổi lớn: Trước kia thường hay bịnh hoạn, nay lại khoẻ mạnh, không ớn lạnh hay sợ lạnh trước thời tiết xấu như xưa nữa, tất cả bịnh tật có trước lần lần hết mà không hay, mặc dù không có uống thuốc thường ngày như trước nữa. Vài người làm việc nặng, bị cụp xương sống, nay nhờ pháp thiền và chà bóp khi xả thiền mà hết bị bịnh đau nhức lưng như trước, không phải châm cứu hay bấm huyệt hay uống thuốc đau nhức nữa, da mặt trở nên hồng hào, không có bị táo bón như hồi ăn mặn hay khi ăn chay mà chưa thiền, có sức chịu đựng dẻo dai khi làm việc nhiều... Lúc còn ăn mặn, khi đi ngang qua các quán ăn, thấy họ đang xào nấu, nướng thịt thơm phứt, thèm ăn và đói bụng chảy nước miếng, mong về nhà sớm để nấu món như thế mà ăn cho đã cái miệng. Sau khi ăn chay một thời gian, ngửi mùi thịt nướng thấy còn thơm, tuy ý chí quyết từ bỏ sự quyến rũ của vị giác, không muốn ăn nữa , nhưng khứu giác (mũi) vẫn thấy thích ngửi, nhờ ý chí mình mạnh nên mình chỉ huy được ngũ quan, bắt nó phải theo mà thôi và sau khi thiền định một thời gian thì lại khác: hiểu được câu "bịnh tùng khẩu nhập" là thế nào với kinh nghiệm đau khổ qua những bịnh tật trong dĩ vãng. Lúc trước cũng hiểu nghĩa chữ Nho, nhưng cái miệng thèm quá, cái lỗ mũi thích mùi thuốc lá cho cay cay thơm dễ chịu và bây giờ mới thật biết phân biệt thế nào là thanh và trược, sợ đến gần trược vì biết rằng cái xác thân tứ đại sau khi luyện tập nó trở nên thanh, và nó giống như nam châm hút sắt, khi gần trược thì thấy nặng nề khó chịu, mùi thơm trước kia bây giờ thành mùi trược không thích ngửi nữa vì sợ thèm mà vì sợ ô nhiểm những cái nặng trược bởi xác chết hay thây ma thú vật. Trước kia ghiền thuốc lá hoặc khi bỏ rồi mà bạn bè mời hút cũng thích hút cho vui; thường hay buồn ngủ khi đến cử mà không uống cà phê, sau nầy khi đứng gần người đang hút thuốc thì thấy hôi, mùi khói thuốc làm khó chịu, phải nín thở khi đi ngang qua người đang phà khói vào miệng mình, tuy thấy khó chịu nhưng không giận họ mà thấy tội nghiệp cho họ vì họ chưa qua kinh nghiệm như mình.Riêng về tinh thần thì có sự phát triển tâm linh rất lớn lao: Thí dụ như lúc trước tánh mình hay sân hận, thường hay phản ứng bằng lời nói cộc cằn, hầm hừ khi có ai chọc giận chạm đến tự ái, tánh tự hào vì học giỏi, có tài, hiểu biết mọi sự, thành công trên đường đời v.v...nhưng sau khi thiền một thời gian thì không còn thắc mắc, bực mình ai nữa khi họ chọc giận, nói nặng mình, khi dễ mình. Lúc bấy giờ mình lại có những tư tưởng khác lạ hơn trước, nghĩa là thấy họ còn tội nghiệp cho họ, vì họ vô minh, chưa học tâm lý nên chưa hiểu người khác nên mới nói như thế! trong tâm có ý cầu nguyện Ơn Trên ban hồng ân và sự sáng suốt cho họ, hầu họ khá hơn, bình tĩnh hơn, tâm lý hơn... Trước kia mình thường hay nạt nộ vợ con, làm oai là bậc trượng phu chủ gia đình, coi thường vợ con, khi tu tập thiền định rồi thì thấy lời cằn nhằn của vợ con như là những người bạn tốt thân cận nhứt giúp mình thấy những sơ sót của mình mà sửa đổi, làm cho tốt hơn. Nếu nhớ lại kỹ thì thấy rằng mình lúc trước khi tu không dễ khoan dung như bây giờ, trái lại khi xưa thấy ai làm điều trái tai gay mắt thì hay nói thẳng và nói tức thì chớ không đợi khi khác mà sửa chữa dùm họ, điều nầy nhiều khi làm cho nhiều người hay phật lòng vì nói thật mích lòng và tự ái ai cũng lớn. Khi tu thiền một thời gian thì không muốn nghe những gì không hợp với đạo đức, không muốn thấy những gì trái với luân thường lễ nghĩa, không muốn nói những gì trái với lời dạy của chư Phật, Thánh, Tiên và nhất là lời dạy của Thầy Thượng Đế thì phải luôn luôn nhớ nằm lòng, những câu Kinh Cảm Ứng hiện ra đúng với việc tai nghe mắt thấy thì nhớ liền như sự phản xạ tự nhiên để mà tránh xa, để không nghe, không thấy, không nghĩ đến nữa. Một hành giả có những kinh nghiệm riêng về ấn chứng trên và nếu kể hết ra thì còn rất nhiều và lần lần sẽ thấy có điều lạ hơn nữa là khi nghi cái gì có xảy ra đúng y như vậy và dường như khi gặp người nào thấy cái nhìn lại thấy được ý nghĩ thầm kín của họ mà tránh va chạm, nếu là người thân thì hỏi họ có nghĩ đến diều đó không thì họ nói rằng có lo nghĩ đến. Nhờ có giác quan thứ sáu nầy mà tránh được nhiều hiểm nguy, xa những khảo đảo... Như vậy ấn chứng là kết quả từ bản thân về thể xác lẫn tinh thần để nhờ đó mà hành giả thấy rằng sự tu thiền ích lợi là dường nào! Người xưa đã nói rằng thắng hàng vạn quân rất dễ, nhưng tự thắng mình, làm chủ mình, chỉ huy cái ý chí mình cho đúng theo lương tâm thì rất khó. Nhờ tu thiền mà người ta mới chủ trị mình một cách dễ dàng. Cơ thể bấy giờ là con heo ( Tác giả Tây Du Ký đặt là Trư Bát Giái) ngoan ngoản, biết siêng năng, thức đúng giờ giấc mà lo thiền định. Cái tâm hay ý muốn hay 13 con ma lục dục thất tình bây giờ riu ríu nghe lời của ý chí. Như vậy cần gì phải thấy cảnh huyền diệu mới tin rằng tu sẽ có kết quả, sẽ đắc? Khi tu thiền mà kết quả như thế là sự tiến bộ về tâm linh mà trước đây chưa có Tôn giáo nào có giáo lý đem tác dụng nhanh chóng và hữu hiệu như thế ! Người tu sĩ hay chức sắc khi chưa luyện mạng thì khó tu tánh vì khó kềm được lục dục thất tình, cống cao ngã mạng, khi tu thiền rồi thì hạ mình, biết nhịn và chịu nhục được khi ai làm nhục mình hay chạm tự ái mình. Khi nói ngũ giới cấm hay Thập Điều Răn thì ai cũng thuộc nằm lòng, có người còn không thuộc nữa là đằng khác, nhưng có mấy ai tập được cho khỏi phạm ngũ giới cấm và mười điều răn? Khi tu thiền thì mới thấy rằng Tiểu Thiên Địa hay xác thân tứ đại hoà nhịp với Đại Thiên Địa trong giờ thiền. Người và Trời là một hay Thiên Nhơn hiệp nhứt trong giây phút nào đó cũng là sự hạnh phúc tràn đầy chưa có thứ hạnh phúc nào trên đời sánh bằng. Vì thế nên người tu thiền khi đến giờ tịnh thì thấy như người đến cử ghiền vậy, trước là ghiền cà phê, ghiền thuốc lá, thèm nhậu...bây giờ là ghiền thiền, cho nên trong bài " Chốn Bồng Lai" (trang 28, Kinh Cúng Tứ Thời Phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ) có câu : Hội Đào một cuộc say sưa, (Âm Dương trong bản thể tương hợp, đó là sự khoái lạc về tâm linh) Mê man chẳng tám ngàn thừa Xuân Thu,... ........................................ Nghêu ngao vui thú yên hà (thú hút á phiện người đời gọi là thú yên hà, còn thiền cũng có cảm giác như hút á phiện)
Ngoài các ấn
chứng trên , một số bạn tu thiền
ở Việt Nam còn khám
phá một ấn chứng lạ nữa
là các tướng lạ
trên nét mặt : đầu từ từ
to hơn trước, nếu là con
gái chưa chồng mà quyết
chí cầu
tu giải thoát, sau khi tu thiền
ba bốn năm trở lên thì
cảm thấy mông mình nở
và bụng tròn to ra như
đàn bà có bầu. Nhiều người không
biết thấy lạ dị nghị hỏi có chồng
hồi nào, nhưng không sao,
vì trong phép luyện Đạo
đã có giải rõ hết
nên không lo ngại gì nữa; các
gò ở bàn tay ứng với ngũ
hành của Hạ Thiên và
gò Thổ Tinh lại đỏ ửng lên,
nếu người tu trên 5 năm, lỗ tai
lớn ra vành tai màu ửng
hồng và trái tai
(thùy châu) dày to
lên. Vào một ngày nọ
có một điều bất ngờ xảy ra ở Việt
nam là một vị nọ tu thiền
lâu năm (vị nầy trên 80 tuổi
rồi) đi ra ruộng thăm mạ, phía
sau có người đi tới và
nhìn xuống đám mạ
thì thấy bóng của cụ
già in xuống đám mạ non
và mặt đất thì thấy
phía trên đầu vị nầy
có một cái vòng
sáng rất to như có
ánh đèn rọi có đủ 5
màu (như lá cờ Phật
giáo, Đại tá người Mỹ H.
Olcott khám phá hào
quang của Phật có 6 màu
tất cả: 6 màu : 5 màu
chánh và màu thứ
sáu là tổng hợp của 5
màu kia và ông đề
nghị trước HNPGTH ở Colombo màu
cờ Phật giáo), người kia bỏi : "
Bác ơi! bác có
cái đèn pin nào rọi
ra không? " - Đâu có
! - Bác nhìn coi
kìa ! Đâu bác giở
cái nón lá ra coi?
Vị nầy giở nón lá ra,
nhìn xuống mặt đất thì
ánh sáng vẫn như trước
và phía dưới bụng
ông cũng có cái
vòng ánh sáng trắng
lớn hơn toả sáng ra. Người
khám phá và người
mới phát giác hiện tượng
lạ về nhà kiểm chứng lại
thì thấy hai vòng
ánh sáng kia giống như
trong hình của Phật mà
ông thờ trên Bàn cơ,
dưới Thiên bàn nơi thờ
phượng để tu tịnh. Ông có
thử lại nhiều lần với chư tịnh
viên trong Đàn thì
thấy rằng : người nào tu
trên 5 năm 8 tháng trở
lên khi vào buổi
sáng (sau thời gian 3 năm
tám tháng là thời
gian cần thiết cho một cấp tu để
lên cấp cao hơn, cộng thêm
hai năm nữa ) khi nhằm có sương
mù và ánh
sáng mặt trời mọc ban mai khi
trời còn mát, nếu ra chỗ
trống, nhìn thấy bóng của
mình do mặt trời rọi xuống,
thì thấy bóng mình,
xung quanh ở trên đầu có
một vòng sáng, lớn nhỏ
tùy theo tu lâu hay mau
(7,8 năm) mà có
vòng sáng lớn hay nhỏ.
Khám phá mới nầy
không ai dám phổ biến cho
người ngoài chưa tu theo Đại
Thừa, chư vị nầy chỉ nói nhỏ với
các bạn tu khi gặp buổi
sáng có sương mù
thì ra sân nhìn
bóng mình để kiểm chứng
công trình tu luyện của
mình xem kết quả ra sao để
mà mừng và tin tưởng mạnh
hơn, cố công nhiều hơn nữa trong
viêc tu tịnh luyện Đạo. Mỗi người
tu khi nhìn lên tượng Phật
hay hình Đức Phật thì thấy
hào quang ngũ sắc, nghĩ rằng Phật
đã nói rằng Ngài
là Phật đã thành,
còn con người là Phật sẽ
thành nếu tu luyện như
Ngài. Ngài có 32
tướng tốt thì chúng sanh
khi tu như Ngài cũng có
những tướng tốt như Ngài vậy. Ai
chưa tu thì chưa có ấn
chứng và khi Đức Phật
giáng sanh đã bước
lên 7 đóa hoa sen
thì trên tượng của
Ngài lúc còn
xích tử cũng có
vòng hào quang trên
đầu ; Đức Chúa Giê-su cũng
có vòng hào quang
trên đầu mặc dù hình
ảnh hài nhi nằm trong máng
cỏ chỗ nghèo hèn. Hai Đấng
Giáo Chủ tuy mới giáng
sanh mà có hào
quang là vì Đức Phật
đã tu nhiều kiếp và
đã thành Phật rồi,
còn Đức Chúa Giê-su
là Điểm Linh Quang của Đức Thượng
Đế, là Ngôi Hai Giáo
Chủ nên mới có hào
quang tỏa ra, đó là do đức
tin của người đời mà vẽ nên
tượng như thế còn người thường
chưa tu như Bà Hoàng Hậu
Mẹ của Đức Phật thì không
có vòng hào quang.
Chư vị
nào công phu thiền định một
thời gian sẽ thấy bóng rọi xuống cỏ
còn đọng sương buổi sáng như
trên.
Ấn chứng trên là
thực tế và rất khoa học chớ
không huyền hoặc nếu người ta
nghiên cứu về Tiểu Thiên
Địa. Trời có gì thì
người có nấy : Tam tài ,
tam bửu , ngũ hành, ngũ
khí , Âm Dương
, Tiên Thiên và Hậu
Thiên ...và Trời có
Dương Hỏa thì người cũng
có ánh sáng dương
hỏa phát ra từ ánh mắt
trái, nếu biết luyện cho
cái trược hay sự dơ bẩn của
cõi Hậu Thiên đừng che
khuất ánh sáng của Điểm
Linh Quang từ bên trong
phát ra. (ngọn đèn
này Đức Di Lạc Thiên
Tôn gọi là Huệ Đăng
và Ngài mở ngoặc ghi
thêm: transistor , Thánh
giáo tại Trước Lâm
Thánh Đức Thiền Điện Hội
Thánh Di Lạc Vĩnh Long). Khi Ðạo Trưởng Nguyễn Ngọc Cẩn qui liễu (bỏ xác để về cùng THẦY) thì mắt trái mở, ngồi trong tư thế thiền định để hồn thăng lên đỉnh đầu. Xin chư độc giả bấm vào link sau đây sẽ thấy hình ảnh:
Ấn
chứng
khi
qui
liễu
của Bác Tám Lê Minh
Cẩn Đàn Thánh Đức Qui
Nguyên Vĩnh Long: Mằt trái mở.
Tại Đàn Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh Thánh Đức Qui Nguyên tại Vĩnh Long có thêm Ấn chứng của Đạo Huynh Lê Ngọc Ẩn như sau: Đạo Huynh Lê Ngọc Ẩn, cố chủ Đàn Thánh Đức Qui Nguyên đang ngồi trong tháp lục giác có rải trà vào khi tẩn liệm, da vàng, tay chơn mền dịu, mùi thơm, mắt trái mở ra (Thuần Dương nhứt Mục)
Ấn chứng của Bác Tám Gái
tại Đàn Thánh Đức Qui
Nguyên, Vĩnh Long.
Ấn
chứng
của Đạo trưởng Chí Tín (
Lê Văn Bá), thuộc Cơ Quan Phổ
Thông Giáo Lý,
đã tu theo Chiếu Minh Đức
cố
Chưởng Giáo Chiếu Minh Giáo
Tòa
Khi qui liễu thì có ấn chứng: Thuần Dương nhứt Mục, da vàng, mềm, ấm. Biết trước có Thiên Thơ chiếu triệu. Dặn mở Viện Đại Học Cao Đài tại CMGT (Học Hàm Thụ), trao kinh sách để đưa lên Mạng Lưới Toàn Cầu. Đức Chưởng Giáo Thiên Tôn (có thánh giáo THẦY ban = Thiên phong), không ngủ trên ghế bố, mà trên giường, nhưng có vài cái gối cao tấn gốc giường nằm đầu cao lên mà thôi. Khi qui liễu cũng nằm trong quan tài chứ không ngồi trong tháp lục giác. Đạo Huynh Chế Thuần Nghiệp được Đạo Trưởng Chí Tín chỉ cách công phu theo Cao Đài Tân Pháp (theo pháp của Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý), về sau HH Nghiệp có hành bửu pháp Chiếu Minh (HH có sang Tây Đức cùng HH Hà Thế Trạch (tu theo CMVVZZ) và HH Huệ Tánh. Huynh Hà Thế Trạch hồi ở VN phải làm nghề xe rác, Khi qua Mỹ thì học và hành pháp Chiếu Minh, HH Nghiệp cũng học, nhưng cả hai dấu không cho đồng đạo biết - sợ bi phê bình là sao không đi Lễ Sóc Vọng thường xuyên mà lén ở nhà công phu). Tuy nhiên đến ngày qui liễu thì có ấn chứng THUẦN DƯƠNG NHỨT MỤC thì cả nhà mới biết là khi tới giờ công phu thì vô phòng đóng cửa không cho ai thấy. Có khi con cháu gọi khi có điện thoại thì làm thinh khi công phu mới ra gọi điện thoại xin lỗi là mắc công phu. Khi công phu mà lỡ ở nơi Thánh Thất thì có mang choàng gọi là Y Đạo , tay chơn cử động mà không biết đang làm gì. Khi qui liễu mở mắt trái thì mới rõ ra là lúc sanh tiền công phu theo bửu pháp CMVVTT mấu dấu cả gia đình, con cháu không biết - bạn đạo cùng tu thì biết - nay nói rõ tại đây và xin cho ảnh HH vào: Đạo Huynh Hạ Chí Khiêm tu pháp Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh DIỆU KHUYẾT tại Tỉnh Bến Tre, sau về PHÁP BỬU ĐÀN tại gần Tòa Thánh Tây Ninh lập ra do Chủ Đàn đồng thời là đồng tử và người chỉ kiểu là Sư Huynh Kiều Minh Tâm. Đạo Huynh Khiêm qui liễu có ấn chứng mở mắt trái giống như Đức Ngô khi cỡi rồng về nguyên và chư hành giả trước đã qui liễu và được THẦY cho giáng cơ xưng ngôi vị..
(
Nhị vị trên là thân phụ
và cô của gia đình Hiền tỉ
Hạ Thị Huê Liên và chồng
là HH Danh, pháp danh Phổ
Thông cũng tu tại Pháp Bửu
Đàn tại Tây Ninh.)
Bác sĩ Đại tu theo bửu pháp Chiếu Minh Tam Thanh tại Đàn Toàn Chơn (Sài Gòn) khi qui liễu 2.016 có ấn chứng thuần Dưong nhất mục như thế này. Mỗi hành giả đang tu luyện rán lo công phu để ngày về cùng CHA TRỜI có ấn chứng như vậy để làm đức tin cho người sau. Kết luận :
Học Đạo, hành hay luyện Đạo phải
chính mình thấy kết quả
thì mới có đức tin vững mạnh.
Thấy nhiều người cùng hành
pháp có kết quả thì mới
chắc chắn 100% là Một Kinh ( Kinh Cảm Úng )+
Một Pháp (Bá Nhựt
Trúc Cơ khử trược cũ từ nhỏ đến hiện
tại từng nuôi bằng khí Hậu
Thiên là xác thú +
Nhứt Bộ = tiếp tục khử trược lưu thanh tạo Anh
Nhi + Nhị Bộ tạo Kim Thân) để áp
dụng huyền vi được chứng đắc. Khi thấy người
nào tu pháp khác trong
84.000 pháp mà không
có ấn chứng như Đức Ngô Minh
Chiêu đã có khi
ngài cỡi rồng về nguyên
thì mới có quyế định
chính xác, đúng
lúc, bỏ pháp đã
hành, không để trễ khi các
Hào Dương mất lần, cố gắng tìm
cho đuợc bửu pháp CHIẾU MINH VÔ
VI TAM THANH mà học, luyện vào
lúc cuối cuộc đời để tự giải
thoát chứ không ai là
người phàm quyết định hay bắt buộc
chúng ta được. Chư vị nào giảng
nói chỉ niệm lục tự thì Đức
A-Di-Đà rước về Tây Phưong Cực
Lạc, nhưng có thấy ai về chưa?
Nói mà không chứng minh
được thì có nên tin
không? Thái
tử
Siddharta
là
Chơn
Linh
của
Đức Thượng Đế xuống thế dạy dân tu luyện
và ngài phải vào rừng tu
một mình mà thấy khó
quá, tìm hai vị thầy
Bà-la-môn học và thiền
và không đ đến kết quả gì,
sau cùng chính Đức Thượng Đế
phải hóa thân thành một cụ
già xưng tên là
A-tư-đà-tiên dạy Văn Hỏa
và Võ Hỏa cho ngài
và ngài luyện trong 49
ngày thì đắc Đạo, lại bị quỉ
vuơng biến hóa phá hóa
phép dụ dỗ. Chơn
Linh
của Đức Chúa Trời hay Đức
Chí Tôn Thượng Đế là Đức
Giê-su giáng thế, thì
ngài cũng phải học cách
công phu ở Kaschmir từ nhỏ đến năm 31
tuổi mới về Do Thái và luyện rốt
ráo 40 ngày không ăn, chỉ
uống nước, đắc Đạo và bị Sa-Tăn biến
hóa dụ dỗ, nhưng ngài biết
rõ và không theo, rồi sau
đó thì ngài mới đi giảng
Đạo, vậy mà còn bị loài
người cũng giết nữa, vì hồi còn
hài đồng trong máng cỏ
thì Thánh Gia Thất đi
trốn, vua Do Thái là Herodes
kiếm không ra để giết. Trong Tam Kỳ Phổ
Độ thì Nhị Thiên Giáo Chủ
là Đức Ngô Minh Chiêu cũng
tự ngài học Đạo, h5c pháp với
chính Đức Thượng Đế là một cụ
già dạy xong rồi biến mất. Ngài
dạy lại chư đệ tử trực tiếp chứ không
qua cơ bút. Ngài không
xưng là Jesus Christ lúc sanh
tiền, vì ngài biết sẽ bị giết,
do đó ngài không lo Cơ Phổ
Độ mà chỉ lo Cơ Vô Vi mà
thôi. Khi ngài đắc quả Đại
Tiên (hay Phật) thì ngài
giáng cơ về các Đàn Chiếu
Minh nhắc nhở chư đệ về cách công
phu, phải giữ y cựu pháp như
ngài đã dạy. Ngài
giáng cơ thường xưng CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG NGÔ TIÊN
ÔNG, nhu vậy Đức Chí Tôn
là Ngôi Thứ Nhứt và
ngài là Ngôi Hai vậy.
Trong tương lai Đức Di Lạc cũng là
Ngôi Hai hay Nhị Thiên Giáo
Chủ và hiện giờ ngài là
ĐUƠNG LAI HẠ SINH DI LẠC TÔN PHẬT.
Ngài là Long Hoa Giáo
Chủ, khi Hạ Nguơn Mạt Kiếp chấm dứt thì
ngài là MINH VƯƠNG, thế gian
là đời Thượng Nguơn Thánh Đức,
dân của Quả Cầu nầy có tên
là Giống Dân BÍCH NGỌC văn
minh và đạo đức vô cùng!
Như vậy những gì sa đoạ, tồi tệ, mất
đạo đức sẽ không còn. Muốn
có đạo đức để còn sống
sót đến đời Thượng Nguơn Thánh
Đức thì phải TU TÁNH và
LUYỆN MẠNG như chư vị đắc Đạo có
hình trên. Cho
nên
tu theo Chiếu Minh là tu ẩn,
không tham gia vào việc Quốc
chính, không lo Phổ Độ
cho đông, mà phải lo chỉ kiểu 12
người theo như lời thề khi cúng hằng
đêm vào Tí thời
là:" Không làm khó
dễ cho người, để cho kẻ thế để lời phiền
phân .... muôn năm
trâu ngựa để đời làm gương".
Trong số 1 trong 12 nguời mà có
ai đắc Phật thì công đức vô
luợng vậy.
|
Copyrights
©
Hà Phước Thảo & http://caodaigiaoly.free.fr/
http://daovang.free.fr/
updated: 03. 3.2016
15:27 Prien, Germany., Tây Đức: mới
thêm một vị đắc Đạo là Bác sĩ Đại ở
Đàn Toàn Chơn, Sài Gòn, Việt
Nam.
phuocthaoha@yahoo.de