Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh ( Lão Tử) - Cao Đài không Cao Đài mới thật là Cao Đài ( Đức Lý Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo)


http://antruong.free.fr/bannercaodai_cli.gif
Nhãn thi chu Tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả ngã giả


http://antruong.free.fr//Xinchao.gif
                              


http://daovang.free.fr/coDaoCD2.jpg
CAO ÐÀI GIÁO trong TAM KỲ PHỔ ÐỘ

Khi qui liễu đang ngồi thiền nhờ được THẦY THƯỢNG ĐẾ gởi Thiên Thơ Chiếu Triệu, biết trước ngày, giờ qui liễu
Đám tang không mời bà con, anh chị em mà vài người đồng tu đến  mặc Lể Phục, chụp hình, không tẩn liệm trong quan tài mà đặt ngồi trong tháp lục giác,xây tháp lục giác nơi Nghĩa Linh.


ẤN CHỨNG VÀ SỰ HUYỀN DIỆU
của chư  hành giả tu luyện theo bửu pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi lúc qui liễu để về Niết Bàn
thoát Luân Hồi sanh tử và sống trường tôn nơi chốn Bồng Lai.

Hà Phước Thảo

          Trong Thánh Giáo dành cho đệ tử Phái Chiếu Minh Thầy Thuợng Đế có nói: "Đạo Thầy quí ở chỗ chơn thường, chẳng dùng huyền diệu để mê hoặc người mộ Đạo....Bởi vậy, hễ biết Đạo rồi, cứ giữ một mực lo tu, hay dở chẳng nên bàn, giác mê tùy số phận..." Người tu thiền hay tu tịnh theo Tân Pháp Cao Đài (dự bị Sơ Thiền và Sơ Thiền Tâm Pháp cũng như người tu đơn luyện Đạo trong Phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thường tin tưởng vững vàng nơi Thầy Thượng Đế, nên không bao giờ mong thấy cảnh huyền diệu . Tuy nhiên, có vị thường thấy thế nầy hay thế nọ, nên Thầy giáng cơ trong các Đàn Chiếu Minh thường nhắc nhở : "Thầy chẳng dùng phương trấn Thần, truyền điển trị bịnh trừ tà cùng những khoa diệu thuật theo Tả Đạo Bàng Môn. Đạo Thầy không dùng huyền diệu thần thông chi cả, cốt dạy người nên đạo đức hoàn toàn thành Phật, Tiên, chớ không truyền bửu pháp như bên Tả Đạo, hễ thấy môn đệ cứ ai cũng ban, không chọn người hạnh đức hiền lương. Trao như vậy có phải phá đời hại chúng không?" và Thầy còn dặn hễ khi thấy huyền diệu gì thì phải xét lại coi có hành đúng không, phải sửa lại cho đúng, vì hành sai nên quỉ ma nó đến tạo giả cảnh để quyến rũ vào con đường của chúng.

         Người tu tịnh khi hành Đạo pháp của Đức Thượng Đế qua một thời gian bỗng thấy trong mình về tinh thần lẫn thể xác có sự thay đổi lớn: Trước kia thường hay bịnh hoạn, nay lại khoẻ mạnh, không ớn lạnh hay sợ lạnh trước thời tiết xấu như xưa nữa, tất cả bịnh tật có trước lần lần hết mà không hay, mặc dù không có uống thuốc thường ngày như trước nữa. Vài người làm việc nặng, bị cụp xương sống, nay nhờ pháp thiền và chà bóp khi xả thiền mà hết bị bịnh đau nhức lưng như trước, không phải châm cứu hay bấm huyệt hay uống thuốc đau nhức nữa, da mặt trở nên hồng hào, không có bị táo bón như hồi ăn mặn hay khi ăn chay mà chưa thiền, có sức chịu đựng dẻo dai khi làm việc nhiều... Lúc còn ăn mặn, khi đi ngang qua các quán ăn, thấy họ đang xào nấu, nướng thịt thơm phứt, thèm ăn và đói bụng chảy nước miếng, mong về nhà sớm để nấu món như thế mà ăn cho đã cái miệng. Sau khi ăn chay một thời gian, ngửi mùi thịt nướng thấy còn thơm, tuy ý chí quyết từ bỏ sự quyến rũ của vị giác, không muốn ăn nữa , nhưng khứu giác (mũi)  vẫn thấy thích ngửi, nhờ ý chí mình mạnh nên mình chỉ huy được ngũ quan, bắt nó phải theo mà thôi và sau khi thiền định một thời gian thì lại khác: hiểu được câu "bịnh tùng khẩu nhập" là thế nào với kinh nghiệm đau khổ qua những bịnh tật trong dĩ vãng. Lúc trước cũng hiểu nghĩa chữ Nho, nhưng cái miệng thèm quá, cái lỗ mũi thích mùi thuốc lá cho cay cay thơm dễ chịu và bây giờ mới thật biết phân biệt thế nào là thanh và trược, sợ đến gần trược vì biết rằng cái xác thân tứ đại sau khi luyện tập nó trở nên thanh, và nó giống như nam châm hút sắt, khi gần trược thì thấy nặng nề khó chịu, mùi thơm trước kia bây giờ thành mùi trược không thích ngửi nữa vì sợ thèm mà vì sợ ô nhiểm những cái nặng trược bởi xác chết hay thây ma thú vật. Trước kia ghiền thuốc lá hoặc khi bỏ rồi mà bạn bè mời hút cũng thích hút cho vui; thường hay buồn ngủ khi đến cử mà không uống cà phê, sau nầy khi đứng gần người đang hút thuốc thì thấy hôi, mùi khói thuốc làm khó chịu, phải nín thở khi đi ngang qua người đang phà khói vào miệng mình, tuy thấy khó chịu nhưng không giận họ mà thấy tội nghiệp cho họ vì họ chưa qua kinh nghiệm như mình.Riêng về tinh thần thì có sự phát triển tâm linh rất lớn lao: Thí dụ như lúc trước tánh mình hay sân hận, thường hay phản ứng bằng lời nói cộc cằn, hầm hừ khi có ai chọc giận chạm đến tự ái, tánh tự hào vì học giỏi, có tài, hiểu biết mọi sự, thành công trên đường đời v.v...nhưng sau khi thiền một thời gian thì không còn thắc mắc, bực mình ai nữa khi họ chọc giận, nói nặng mình, khi dễ mình. Lúc bấy giờ mình lại có những tư tưởng khác lạ hơn trước, nghĩa là thấy họ còn tội nghiệp cho họ, vì họ vô minh, chưa học tâm lý nên chưa hiểu người khác nên mới nói như thế! trong tâm có ý cầu nguyện Ơn Trên ban hồng ân và sự sáng suốt cho họ, hầu họ khá hơn, bình tĩnh hơn, tâm lý hơn... Trước kia mình thường hay nạt nộ vợ con, làm oai là bậc trượng phu chủ gia đình, coi thường vợ con, khi tu tập thiền định rồi thì thấy lời cằn nhằn của vợ con như là những người bạn tốt thân cận nhứt giúp mình thấy những sơ sót của mình mà sửa đổi, làm cho tốt hơn. Nếu nhớ lại kỹ thì thấy rằng mình lúc trước khi tu không dễ khoan dung như bây giờ, trái lại khi xưa thấy ai làm điều trái tai gay mắt thì hay nói thẳng và nói tức thì chớ không đợi khi khác mà sửa chữa dùm họ, điều nầy nhiều khi làm cho nhiều người hay phật lòng vì nói thật mích lòng và tự ái ai cũng lớn. Khi tu thiền một thời gian thì không muốn nghe những gì không hợp với đạo đức, không muốn thấy những gì trái với luân thường lễ nghĩa, không muốn nói những gì trái với lời dạy của chư Phật, Thánh, Tiên và nhất là lời dạy của Thầy Thượng Đế thì phải luôn luôn nhớ nằm lòng, những câu Kinh Cảm Ứng hiện ra đúng với việc tai nghe mắt thấy thì nhớ liền như sự phản xạ tự nhiên để mà tránh xa, để không nghe, không thấy, không nghĩ đến nữa. Một hành giả có những kinh nghiệm riêng về ấn chứng trên và nếu kể hết ra thì còn rất nhiều và lần lần sẽ thấy có điều lạ hơn nữa là khi nghi cái gì có xảy ra đúng y như vậy và dường như khi gặp người nào thấy cái nhìn lại thấy được ý nghĩ thầm kín của họ mà tránh va chạm, nếu là người thân thì hỏi họ có nghĩ đến diều đó không thì họ nói rằng có lo nghĩ đến. Nhờ có giác quan thứ sáu nầy mà tránh được nhiều hiểm nguy, xa những khảo đảo... Như vậy ấn chứng là kết quả từ bản thân về thể xác lẫn tinh thần để nhờ đó mà hành giả thấy rằng sự tu thiền ích lợi là dường nào! Người xưa đã nói rằng thắng hàng vạn quân rất dễ, nhưng tự thắng mình, làm chủ mình, chỉ huy cái ý chí mình cho đúng theo lương tâm thì rất khó. Nhờ tu thiền mà người ta mới chủ trị mình một cách dễ dàng. Cơ thể bấy giờ là con heo ( Tác giả Tây Du Ký đặt là Trư Bát Giái) ngoan ngoản, biết siêng năng, thức đúng giờ giấc mà lo thiền định. Cái tâm hay ý muốn hay 13 con ma lục dục thất tình bây giờ riu ríu nghe lời của ý chí. Như vậy cần gì phải thấy cảnh huyền diệu mới tin rằng tu sẽ có kết quả, sẽ đắc? Khi tu thiền mà kết quả như thế là sự tiến bộ về tâm linh mà trước đây chưa có Tôn giáo nào có giáo lý đem tác dụng nhanh chóng và hữu hiệu như thế ! Người tu sĩ hay chức sắc khi chưa luyện mạng thì khó tu tánh vì khó kềm được lục dục thất tình, cống cao ngã mạng, khi tu thiền rồi thì hạ mình, biết nhịn và chịu nhục được khi ai làm nhục mình hay chạm tự ái mình. Khi nói ngũ giới cấm hay Thập Điều Răn thì ai cũng thuộc nằm lòng, có người còn không thuộc nữa là đằng khác, nhưng có mấy ai tập được cho khỏi phạm ngũ giới cấm và mười điều răn? Khi tu thiền thì mới thấy rằng Tiểu Thiên Địa hay xác thân tứ đại hoà nhịp với Đại Thiên Địa trong giờ thiền. Người và Trời là một hay Thiên Nhơn hiệp nhứt trong giây phút nào đó cũng là sự hạnh phúc tràn đầy chưa có thứ hạnh phúc nào trên đời sánh bằng. Vì thế nên người tu thiền khi đến giờ tịnh thì thấy như người đến cử ghiền vậy, trước là ghiền cà phê, ghiền thuốc lá, thèm nhậu...bây giờ là ghiền thiền, cho nên trong bài " Chốn Bồng Lai" (trang 28, Kinh Cúng Tứ Thời Phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ) có câu :

                   Hội Đào một cuộc say sưa, (Âm Dương trong bản thể tương hợp, đó là sự khoái lạc về tâm linh)

         Mê man chẳng tám ngàn thừa Xuân Thu,...

                 ........................................

                   Nghêu ngao vui thú yên hà 

(thú hút á phiện người đời gọi là thú yên hà, còn thiền cũng có cảm giác như hút á phiện)

         Ngoài các ấn chứng trên , một số bạn tu thiền ở Việt Nam còn khám phá một ấn chứng lạ nữa là các tướng lạ trên nét mặt : đầu từ từ to hơn trước, nếu là con gái chưa chồng mà quyết chí  cầu tu giải thoát, sau khi tu thiền ba bốn năm trở lên thì cảm thấy mông mình nở và bụng tròn to ra như đàn bà có bầu. Nhiều người không biết thấy lạ dị nghị hỏi có chồng hồi nào, nhưng không sao, vì trong phép luyện Đạo đã có giải rõ hết nên không lo ngại gì nữa; các gò ở bàn tay ứng với ngũ hành của Hạ Thiên và gò Thổ Tinh lại đỏ ửng lên, nếu người tu trên 5 năm, lỗ tai lớn ra vành tai màu ửng hồng và trái tai (thùy châu) dày to lên. Vào một ngày nọ có một điều bất ngờ xảy ra ở Việt nam là một vị nọ tu thiền lâu năm (vị nầy trên 80 tuổi rồi) đi ra ruộng thăm mạ, phía sau có người đi tới và nhìn xuống đám mạ thì thấy bóng của cụ già in xuống đám mạ non và mặt đất thì thấy phía trên đầu vị nầy có một cái vòng sáng rất to như có ánh đèn rọi có đủ 5 màu (như lá cờ Phật giáo, Đại tá người Mỹ H. Olcott khám phá hào quang của Phật có 6 màu tất cả: 6 màu : 5 màu chánh và màu thứ sáu là tổng hợp của 5 màu kia và ông đề nghị trước HNPGTH ở Colombo màu cờ Phật giáo), người kia bỏi : " Bác ơi! bác có cái đèn pin nào rọi ra không? " - Đâu có ! - Bác nhìn coi kìa ! Đâu bác giở cái nón lá ra coi? Vị nầy giở nón lá ra, nhìn xuống mặt đất thì ánh sáng vẫn như trước và phía dưới bụng ông cũng có cái vòng ánh sáng trắng lớn hơn toả sáng ra. Người khám phá và người mới phát giác hiện tượng lạ về nhà kiểm chứng lại thì thấy hai vòng ánh sáng kia giống như trong hình của Phật mà ông thờ trên Bàn cơ, dưới Thiên bàn nơi thờ phượng để tu tịnh. Ông có thử lại nhiều lần với chư tịnh viên trong Đàn thì thấy rằng : người nào tu trên 5 năm 8 tháng trở lên khi vào buổi sáng (sau thời gian 3 năm tám tháng là thời gian cần thiết cho một cấp tu để lên cấp cao hơn, cộng thêm hai năm nữa ) khi nhằm có sương mù và ánh sáng mặt trời mọc ban mai khi trời còn mát, nếu ra chỗ trống, nhìn thấy bóng của mình do mặt trời rọi xuống, thì thấy bóng mình, xung quanh ở trên đầu có một vòng sáng, lớn nhỏ tùy theo tu lâu hay mau (7,8 năm) mà có vòng sáng lớn hay nhỏ. Khám phá mới nầy không ai dám phổ biến cho người ngoài chưa tu theo Đại Thừa, chư vị nầy chỉ nói nhỏ với các bạn tu khi gặp buổi sáng có sương mù thì ra sân nhìn bóng mình để kiểm chứng công trình tu luyện của mình xem kết quả ra sao để mà mừng và tin tưởng mạnh hơn, cố công nhiều hơn nữa trong viêc tu tịnh luyện Đạo. Mỗi người tu khi nhìn lên tượng Phật hay hình Đức Phật thì thấy hào quang ngũ sắc, nghĩ rằng Phật đã nói rằng Ngài là Phật đã thành, còn con người là Phật sẽ thành nếu tu luyện như Ngài. Ngài có 32 tướng tốt thì chúng sanh khi tu như Ngài cũng có những tướng tốt như Ngài vậy. Ai chưa tu thì chưa có ấn chứng và khi Đức Phật giáng sanh đã bước lên 7 đóa hoa sen thì trên tượng của Ngài lúc còn xích tử cũng có vòng hào quang trên đầu ; Đức Chúa Giê-su cũng có vòng hào quang trên đầu mặc dù hình ảnh hài nhi nằm trong máng cỏ chỗ nghèo hèn. Hai Đấng Giáo Chủ tuy mới giáng sanh mà có hào quang là vì Đức Phật đã tu nhiều kiếp và đã thành Phật rồi, còn Đức Chúa Giê-su là Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế, là Ngôi Hai Giáo Chủ nên mới có hào quang tỏa ra, đó là do đức tin của người đời mà vẽ nên tượng như thế còn người thường chưa tu như Bà Hoàng Hậu Mẹ của Đức Phật thì không có vòng hào quang.

http://daovang.free.fr/Anchung2.JPG

Chư vị nào công phu thiền định một thời gian sẽ thấy bóng rọi xuống cỏ còn đọng sương buổi sáng như trên.
ba người đứng bên cạnh không có tu thiền nên trên đầu không thấy ánh sáng tỏa ra (nông dân mượn đứng xem thử coi có hào quang hay không.

         Ấn chứng trên là thực tế và rất khoa học chớ không huyền hoặc nếu người ta nghiên cứu về Tiểu Thiên Địa. Trời có gì thì người có nấy : Tam tài , tam bửu , ngũ hành, ngũ khí , Âm Dương , Tiên Thiên và Hậu Thiên ...và Trời có Dương Hỏa thì người cũng có ánh sáng dương hỏa phát ra từ ánh mắt trái, nếu biết luyện cho cái trược hay sự dơ bẩn của cõi Hậu Thiên đừng che khuất ánh sáng của Điểm Linh Quang từ bên trong phát ra. (ngọn đèn này Đức Di Lạc Thiên Tôn gọi là Huệ Đăng và Ngài mở ngoặc ghi thêm: transistor , Thánh giáo tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện Hội Thánh Di Lạc Vĩnh Long).
Công phu luyện Đạo

            Khi Ðạo Trưởng Nguyễn Ngọc Cẩn qui liễu (bỏ xác để về cùng THẦY) thì mắt trái mở, ngồi trong tư thế thiền định để hồn thăng lên đỉnh đầu. Xin chư độc giả bấm vào link sau đây sẽ thấy hình ảnh:

http://daovang.free.fr/BacTamCanQuiLieu.jpg
   http://daovang.free.fr/bacCan2.jpg

        Ấn chứng khi qui liễu của Bác Tám Lê Minh Cẩn Đàn Thánh Đức Qui Nguyên Vĩnh Long: Mằt trái mở.
       Tại Đàn Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh Thánh Đức Qui Nguyên tại Vĩnh Long có thêm Ấn chứng của Đạo Huynh Lê Ngọc Ẩn như sau:
http://caodaigiaoly.free.fr/DHLeNgocAnQuiLieuCoAnChung.jpg
Đạo Huynh Lê Ngọc Ẩn, cố chủ Đàn Thánh Đức Qui Nguyên đang ngồi trong tháp lục giác có rải trà vào khi tẩn liệm, da vàng, tay chơn mền dịu, mùi thơm, mắt trái mở ra
(Thuần Dương nhứt Mục)

http://daovang.free.fr/bacsuquilieu.jpg


Ấn chứng lúc qui Tiên của Bác Đào Văn Sử tại Hoa Kỳ 

http://daovang.free.fr/BacTamGaiTDQN2.JPG

                        Ấn chứng của Bác Tám Gái tại Đàn Thánh Đức Qui Nguyên, Vĩnh Long.

http://daovang.free.fr/DTChiTin.JPG

Ấn chứng của Đạo trưởng Chí Tín ( Lê Văn Bá), thuộc Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, đã tu theo Chiếu Minh
chỉ kiểu
Tân Pháp Cao Đài
cho chư Giáo sĩ tại Cơ Quan  tùy duyên từ dễ đến khó với Dự Bi Sơ Thiền, Sơ Thiền Tâm pháp
với phép xả thiền Thập Nhị Cẩm Đoạn của Đức Đông Phương Chưởng Quản, bá Nhựt Trúc Cơ và Nhị Cơ. Chư vị nào muốn
nội trong kiếp nầy luyện có Kim Thân để về ngôi vị cũ trên Bạch Ngọc Kinh ( Niết Bàn) thì xin keo, khi được keo thì
Đạo trưởng Chí Tín chỉ kiểu để hành Bá Nhựt Trúc Cơ Khử trược lưu thanh trong 100 ngày rốt ráo, sau đó lên Nhứt Bộ với Văn Hỏa (đưa Khí Hư Vô hay Đạo đến các huyệt ở Nhâm và Đốc mạch bằng ThầnKhí) và Võ Hỏa ( bôm lò rèn cho khí xuống Trung điền và Hạ Điền, nấu đơn dược ) trong 3 năm tám tháng để tạo Thánh Thai ( Phật tử = Xá Lợi  = Anh Nhi = Hồng Hài Nhi = Nhị Xác Thân) và xin keo lần nữa lên Nhị Bộ, phá Thiên môn, khi qui liễu thì có ấn chứng như chư vị có hình trên, không còn luân hồi nữa.
http://www.caodaism.net/thuvien/hinh/chieuminh/btdung.gif 

Đức cố Chưởng Giáo Chiếu Minh Giáo Tòa
là Đạo Huynh Bùi Trí Dũng
lúc sanh tiền.    

 

      

                                                                                              Khi qui liễu thì có ấn chứng: Thuần Dương nhứt Mục, da vàng, mềm,
                                                                                             ấm. Biết trước có Thiên Thơ chiếu triệu. Dặn mở Viện Đại Học Cao Đài
                                                                                             tại CMGT (Học Hàm Thụ), trao kinh sách để đưa lên Mạng Lưới Toàn
                                                                                            Cầu.
Đức Chưởng Giáo Thiên Tôn (có thánh giáo THẦY ban = Thiên phong), không ngủ trên ghế bố, mà trên giường, nhưng có vài cái gối cao tấn gốc giường nằm đầu cao lên mà thôi. Khi qui liễu cũng nằm trong quan tài chứ không ngồi trong tháp lục giác.




http://caodaigiaoly.free.fr/HHCheThuanNgiepQuiLieu.jpg
Đạo Huynh Chế Thuần Nghiệp được Đạo Trưởng Chí Tín chỉ cách công phu theo Cao Đài Tân Pháp (theo pháp của Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý), về sau HH Nghiệp có hành bửu pháp Chiếu Minh (HH có sang Tây Đức cùng HH  Hà Thế Trạch (tu theo CMVVZZ) và HH Huệ Tánh. Huynh Hà Thế Trạch hồi ở VN phải làm nghề xe rác, Khi qua Mỹ thì học và hành pháp Chiếu Minh, HH Nghiệp cũng học, nhưng cả hai dấu không cho đồng đạo biết - sợ bi phê bình là sao không đi Lễ Sóc Vọng thường xuyên mà lén ở nhà công phu). Tuy nhiên đến ngày qui liễu thì có ấn chứng THUẦN DƯƠNG NHỨT MỤC thì cả nhà mới biết là khi tới giờ công phu thì vô phòng đóng cửa không cho ai thấy. Có khi con cháu gọi khi có điện thoại thì làm thinh khi công phu mới ra gọi điện thoại xin lỗi là mắc công phu. Khi công phu mà lỡ ở nơi Thánh Thất thì có mang choàng gọi là Y Đạo , tay chơn cử động mà không biết đang làm gì. Khi qui liễu mở mắt trái thì mới rõ ra là lúc sanh tiền công phu theo bửu pháp CMVVTT mấu dấu cả gia đình, con cháu không biết - bạn đạo cùng tu thì biết - nay nói rõ tại đây và xin cho ảnh HH vào:

http://caodaigiaoly.free.fr/DaoHuynhHaChiKiem.jpg

Đạo Huynh Hạ Chí Khiêm tu pháp Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh DIỆU KHUYẾT tại Tỉnh Bến Tre, sau về PHÁP BỬU ĐÀN tại gần Tòa Thánh Tây Ninh lập ra do Chủ Đàn đồng thời là đồng tử và người chỉ kiểu là Sư Huynh Kiều Minh Tâm. Đạo Huynh Khiêm qui liễu có ấn chứng mở mắt trái giống như Đức Ngô khi cỡi rồng về nguyên và chư hành giả trước đã qui liễu và được THẦY cho giáng cơ xưng ngôi vị..


  Đạo tỉ Hạ Thị Thơm tu theo CMVVTT tại Đàn Diệu Khuyết Tỉnh Bến Tre, sau về Đàn Pháp Bửu, Tây Ninh, lúc qui liễu có ấn chứng  mở mắt trái

( Nhị vị trên là thân phụ và cô của gia đình Hiền tỉ Hạ Thị Huê Liên và chồng là HH Danh, pháp danh Phổ Thông cũng tu tại Pháp Bửu Đàn tại Tây Ninh.)

http://caodaigiaoly.free.fr/DSC01793.JPG
cụ Bà Lễ Sanh Hương Tiếng (nhơn danh Lê Thị Tiếng) lúc qui liễu mở mắt trái, da vàng, xông mùi thơm, tay chơn dịu, không tẩn liệm trong
tháp lục giác mà trong quan tài bình thường, thời gian còn sanh tiền tuy không ngủ ngồi và công phu mấy năm chót, vì hai đầu gối co lên không được,
vẫn nằm trên giường có cần quay lên cho cao 30 độ thôi.
Tại Đàn Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh Chợ Lớn tại đường Phú Thọ (dọc Trường Đua Phú Thọ)
có Đạo Huynh Sáu Lớn qui liễu thì Thuần Dương Nhứt Mục như hình sau đây:
 




Bác sĩ Đại tu theo bửu pháp Chiếu Minh Tam Thanh tại Đàn Toàn Chơn (Sài Gòn) khi qui liễu 2.016 có ấn chứng thuần Dưong nhất mục như thế này. Mỗi hành giả đang tu luyện rán lo công phu để ngày về cùng CHA TRỜI có ấn chứng như vậy để làm đức tin cho người sau.

Kết luận : Học Đạo, hành hay luyện Đạo phải chính mình thấy kết quả thì mới có đức tin vững mạnh. Thấy nhiều người cùng hành pháp có kết quả thì mới chắc chắn 100% là Một Kinh ( Kinh Cảm Úng )+ Một Pháp (Bá Nhựt Trúc Cơ khử trược cũ từ nhỏ đến hiện tại từng nuôi bằng khí Hậu Thiên là xác thú + Nhứt Bộ = tiếp tục khử trược lưu thanh tạo Anh Nhi + Nhị Bộ tạo Kim Thân) để áp dụng huyền vi được chứng đắc. Khi thấy người nào tu pháp khác trong 84.000 pháp mà không có ấn chứng như Đức Ngô Minh Chiêu đã có khi  ngài cỡi rồng về nguyên thì mới có quyế định chính xác, đúng lúc, bỏ pháp đã hành, không để trễ khi các Hào Dương mất lần, cố gắng tìm cho đuợc bửu pháp CHIẾU MINH VÔ VI TAM THANH mà học, luyện vào lúc cuối cuộc đời để tự giải thoát chứ không ai là người phàm quyết định hay bắt buộc chúng ta được. Chư vị nào giảng nói chỉ niệm lục tự thì Đức A-Di-Đà rước về Tây Phưong Cực Lạc, nhưng có thấy ai về chưa? Nói mà không chứng minh được thì có nên tin không?
Đức Chí Tôn có nói: "Một vị Đại La Thiên Đế xuống đây mà không tu thì khó mong trở về ngôi vị cũ".

Thái tử Siddharta là Chơn Linh của Đức Thượng Đế xuống thế dạy dân tu luyện và ngài phải vào rừng tu một mình mà thấy khó quá, tìm hai vị thầy Bà-la-môn học và thiền và không đ đến kết quả gì, sau cùng chính Đức Thượng Đế phải hóa thân thành một cụ già xưng tên là A-tư-đà-tiên dạy Văn Hỏa và Võ Hỏa cho ngài và ngài luyện trong 49 ngày thì đắc Đạo, lại bị quỉ vuơng biến hóa phá hóa phép dụ dỗ.

Chơn Linh của  Đức Chúa Trời hay Đức Chí Tôn Thượng Đế là Đức Giê-su giáng thế, thì ngài cũng phải học cách công phu ở Kaschmir từ nhỏ đến năm 31 tuổi mới về Do Thái và luyện rốt ráo 40 ngày không ăn, chỉ uống nước, đắc Đạo và bị Sa-Tăn biến hóa dụ dỗ, nhưng ngài biết rõ và không theo, rồi sau đó thì ngài mới đi giảng Đạo, vậy mà còn bị loài người cũng giết nữa, vì hồi còn hài đồng trong máng cỏ thì Thánh Gia Thất  đi trốn, vua Do Thái là Herodes kiếm không ra để giết. Trong Tam Kỳ Phổ Độ thì Nhị Thiên Giáo Chủ là Đức Ngô Minh Chiêu cũng tự ngài học Đạo, h5c pháp với chính Đức Thượng Đế là một cụ già dạy xong rồi biến mất. Ngài dạy lại chư đệ tử trực tiếp chứ không qua cơ bút. Ngài không xưng là Jesus Christ lúc sanh tiền, vì ngài biết sẽ bị giết, do đó ngài không lo Cơ Phổ Độ mà chỉ lo Cơ Vô Vi mà thôi. Khi ngài đắc quả Đại Tiên (hay Phật) thì ngài giáng cơ về các Đàn Chiếu Minh nhắc nhở chư đệ về cách công phu, phải giữ y cựu pháp như ngài đã dạy. Ngài giáng cơ thường xưng CAO ĐÀI TIÊN ÔNG NGÔ TIÊN ÔNG, nhu vậy Đức Chí Tôn là Ngôi Thứ Nhứt và ngài là Ngôi Hai vậy. Trong tương lai Đức Di Lạc cũng là Ngôi Hai hay Nhị Thiên Giáo Chủ và hiện giờ ngài là ĐUƠNG LAI HẠ SINH DI LẠC TÔN PHẬT. Ngài là Long Hoa Giáo Chủ, khi Hạ Nguơn Mạt Kiếp chấm dứt thì ngài là MINH VƯƠNG, thế gian là đời Thượng Nguơn Thánh Đức, dân của Quả Cầu nầy có tên là Giống Dân BÍCH NGỌC văn minh và đạo đức vô cùng! Như vậy những gì sa đoạ, tồi tệ, mất đạo đức sẽ không còn. Muốn có đạo đức để còn sống sót đến đời Thượng Nguơn Thánh Đức thì phải TU TÁNH và LUYỆN MẠNG như chư vị đắc Đạo có hình trên.

Cho nên tu theo Chiếu Minh là tu ẩn, không tham gia vào việc Quốc chính, không lo Phổ Độ cho đông, mà phải lo chỉ kiểu 12 người theo như lời thề khi cúng hằng đêm vào Tí thời là:" Không làm khó dễ cho người, để cho kẻ thế để lời phiền phân ....  muôn năm trâu ngựa để đời làm gương". Trong số 1 trong 12 nguời mà có ai đắc Phật thì công đức vô luợng vậy.



                   Trước khi qui liễu 1 tuần lễ, Đức Chưởng Giáo Bùi Trí Dũng có trao cho chúng tôi (Hà Phước Thảo) bức tâm thư tặng cho Đạo bất động sản như
 Chiếu Minh Giáo Tòa, đất tại Tổ Đình và cơ sở sẵn có để kêu gọi chư Mạnh Thường Quân ở hải ngoại đóng góp tài, vật, tri thức... dể mở Viện Đại Học Cao Đài và Tam Tạng Kinh,
là ba cuôốn sách nhỏ do ngài viết để cho Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo đọc, học và công phu. Ngài cũng giao cho tôi những cuốn thánh giáo để phổ biến trên Internet.
Chúng tôi đã mở Viện Đại Học Cao Đài học Hàm Thụ xong, vì ở Việt Nam không thể xin phép được. Như vậy Đức Chưởng Giáo dường như có Thiên Thơ chiếu triệu và ngài đươc THẦY triệu hồi về Bạch Ngọc Kinh, vì ngài đã gởi cuốn sách tuy nhỏ, mà bao gồm cả Tam Tạng Kinh mà ngài gởi cho tất cả Tổng Thống, Vua, Thủ Tướng, Chủ Tịch Nước (như Fidel Castro ờ Cuba) mà chẳng ai in ra cho dân họ đọc, học và hành, cho nên việc hoằng hoá không có tác dụng gì, bởi nhân loại theo duy vật nhiều quá! Đức Thượng Đế ước muốn con cái ngài lo tu cho kịp LONG HOA ĐẠI HỘI mà không ai tin. TAM NHẬT ĐÀN đưa ra trên Internet mà có ai đọc đâu?
Nhân loại phải chờ thiên tai xảy ra thì mới chức tâm. 92 ức nguyên nhân đa số là tỉ phú, Địa Tiên, chức sắc... mà cũng tu giả để hưởng đời vậy thì nhân loại cứ muốn ở trong  lục đạo luân hồi mãi, nên THẦY THƯỢNG ĐẾ không thể bồng ẳm ai vè cùng ngài được. Than ôi ! Bài học đau khổ của chiến tranh, bệnh tật, thiên tai sẽ trực tiếp thức tâm nhân loại vào giờ chót mà thôi, nhưng làm sao thi kịp kỳ thi chót để đậu mà thăng hoa cho được? Bản đồ thế giới sẽ thay đổi vì nhiều lục địa bị sụp, lục địa cũ nổi lên. Nhờ biết trước Thiên Cơ nên nhiều vị nguyên căn rán tìm Đàn xin keo thọ pháp. luyện Đạo để nội kiếp nầy thoát Luân Hồi sanh tử, về Niết Bàn trường tồn trong Càn Khô Vũ Trụ.
Ấn chứng giúp cho ai không tin, không chịu tu, phải tin và rán tu!

                                                              


Bác sĩ Đại hành pháp Chiếu Minh Tam Thanh tại lúc qui liễu có ấn chứng mở mắt trái.

Copyrights ©  Hà Phước Thảo   & http://caodaigiaoly.free.fr/
                                                              http://daovang.free.fr/

updated: 03. 3.2016           15:27   Prien, Germany., Tây Đức: mới thêm một vị đắc Đạo là Bác sĩ Đại ở Đàn Toàn Chơn, Sài Gòn, Việt Nam.
phuocthaoha@yahoo.de





Thư Viện

MỤC LỤC

Một Trang Web bất Vụ Lợi , Không Quyên góp. Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí


Số người đọc đến hôm nay là: