WELCOME TO

http://caodaigiaoly.free.fr/CaoDaiGiaoTrongTamKyPhoDo.jpg

                               


Webmaster Hà Phước Thảo

Ý Thức Tôn giáo trong một số truyện Cổ Tích Việt Nam
                                                                                       
                                                                                                                                                                                                                                  sinh viên Hà Phước Thảo
Viện Ðại Học Sài Gòn
Trường Ðại Học Văn Khoa

Câu hỏi phụ I Kỳ thi Cao Học Nhân Văn
Nhận đề tài ngày 22.3.1975 viết xong và nạp bản 3 đề tài ngày 29.3.1975
Ðệ trình và thi tại VP Khoa Trưởng ngày 12.4.1975

Giám khảo ra đề :
Giáo sư Lê Thành Trị
Tiến sĩ Triết học


Sinh viên : Hà Phước Thảo
Ðệ trình Tiểu Luận Cao Học Nhân Văn với Ðề tài : HỘI THÁNH DI LẠC VĨNH LONG
ngày 29 tháng 3 năm 1975 , sẽ thuyết trình ngày 15.5.1975 vào lúc 8 giờ tại Đại Giảng Đường, ĐHVK Đường Cường Để, Sài Gòn (1)

NXB : Trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn
Ban Báo Chí & Ấn Loát
1975
Số lượng in: 50 cuốn
Phân phối: Đệ trình 3 vị Giáo sư: Lê Thành Trị, Nghiêm Thẩm, Lê Quang Trung
Nạp bản: Thư Viện Trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn
Viện Đại Học Sài Gòn
Thư Viện Quốc Gia Việt Nam
Lời Phê của G.S. Lê Thành Trị : Ưu

Kính tặng và thành kính tri ân
HỘI ÐỒNG GIÁM KHẢO
Giám Khảo - Chủ Khảo Câu hỏi phụ I
Giáo sư Lê Thành trị
Tiến sĩ Triết Học , Trưởng Ban Nhân Văn va Khoa Học Xã Hội
Khoa Trưởng Trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn
Giám khảo Câu hỏi phụ II
Giáo sư Lê Quang Trung
Tiến sĩ Xã Hội Học
Phó Khoa Trưởng Học Vụ và Sinh Viên Vụ
Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn
Giám Khảo - Thuyết Trình Viên
Giáo sư Nghiêm Thẩm
Giám Ðốc Viện Khảo Cổ Sài Gòn
Giáo sư phụ trách môn Nhân Chủng Học và Khảo Cổ Học
Trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn

Ðã hoan hỉ chấp thuận làm Chủ Khảo và Giám Khảo Tiểu Luận và Câu Hỏi phụ.
Ðã khích lệ, hướng dẫn và tận tình giúp đỡ chúng tôi.



Copyrights (c) , 1975, ĐHVK Sài Gòn (in Ronéo) , 2004, Tái bản lần thứ I Peter Ha, Technische Universitaet Muenchen, Germany, font unicode, tiếng Việt , online trong các Thư Viện Cao Đài: http://thaoha.free.fr/thuvien
http://www.caodaism.net.com/thuvien
http://www.daocaodai.com/
http://www.caodaigiaoly.de/
E-Book (CD-ROM) gồm 3 cuốn : Hội Thánh Di Lạc Vĩnh Long , Ý thức Tôn giáo trong một số truyện cổ tích Việt Nam, Sơ lược về các Hệ Phái Phật giáo tại Việt Nam : có hình ảnh, nhạc, CD-Autorun, Kinh sách bằng E-Book kèm theo.

Cấm trích dịch và in trùng. NXB hay Cơ sở, Hội nào muốn xuất bản, xin liên lạc với tác giả , Email: haphuocthao@hotmail.com

M ỤC L Ụ C

Dẫn Nhập trang 1
Chương I Ý thức Tôn giáo đối với người bình dân Việt Nam 3
Tiết I Trạng thái Thần quyền 3Mục 1 Vật tổ
2 Thần Thánh 43 Nguồn gốc dân tộc 4II Ý thức Tôn giáo 5
II Tín ngưỡng của người Việt nam và ảnh hưởng của Tam Giáo 6

Chương II Ý thức Tôn giáo trong một số truyện cổ tích Việt nam 9
Tiết I Thân phận con người trước Vũ Trụ 9
Mục 1 Trước thiên nhiên 9
2Con người và lòng tin tưởng vào sự hiện hữu của Thượng Ðế 9
3Con người trước cái chết 10
4
Ý thức về sự tồn tại của linh hồn sau khi chết 10
II Tư tưởng Tam Giáo trong một số truyện cổ tích Việt Nam 11
Mục 1 Nho giáo 11
2 Phật giáo 12

Kết Luận 15
Thư tịch 16

Tiểu sử tác giả 18

CHỮ VIẾT TẮT

CÐX : Chuyện Ðới Xưa của Trương Vĩnh Ký
TCNN : Chuyện Cổ Nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
TTVN : Thần Thoại Việt nam của Nguyễn Tử Năng
VNVHTT : Việ Nam Văn Học Toàn Thư của Hoàng Trọng Miên



D Ẫ N N H Ậ P

Con người từ khi sanh ra đến khi biết nhận thức được thân phận mình trước Vũ Trụ bao la đầy huyền bí luôn luôn tự hỏi về sự hiện hữu của mình trước Vũ Trụ vạn vật. Tất cả những thắc mắc của con người trước hiện tượng thiên nhiên được trí tưởng tượng giải đáp một cách miễn cưỡng và chỉ làm thỏa mãn phần nào thôi. Trí tưởng tượng người bình dân đem sử dụng bằng cách ký thác vào những truyện, đa số là thần thoại, cổ tích để cắt nghĩa những sự kiện mà họ chưa thấu triệt được. Khi nói đến các hiện tượng siêu hình, nguồn gốc loài người, của dân tộc cũng như đời sống sau khi chết, người ta thường dùng một ý thức vượt ngoài lý trí để hướng về huyền hiệm bất khả tri mà người ta có thể gọi là Ý THỨC TÔN GIÁO. Ý thức nầy thể hiên qua văn chương, nhất là văn chương bình dân có thể nói lên diễn tiến trong cuộc tiến hóa của dân tộc Việt nam.

Kho tàng văn chương bình dân Việt Nam rất phong phú, riêng về truyện cổ tích đã chiếm một địa vị quan trọng trong tiến trình văn hóa của dân tộc.

Người bình dân Việt nam qua những giai đoạn tiến hóa, mỗi thòi kỳ lịch sử lại góp nhặt thêm nhiều kinh nghiệm sống do mình trải qua hay do sự giao tiếp sống chung vói các dân tộc khác mà có, để kết tinh thành một nền văn minh riêng biệt.

Từ trạng thái thần quyền đến trạng thái siêu hình, từ sự pha trộn văn minh Trung hoa và văn minh Ấn độ cho đến sự kết tinh tổng hợp của nền văn minh Chàm, văn minh Phú nam, văn minh Chân lạp, tinh thần của dân tộc Việt là « Sự đúc kết của đủ các Ðạo, từ Ðạo Phật Ðại Thừa đến Tiểu Thừa Nguyên Thủy Thérévada, từ Bà-la-môn đến Hồi giáo, từ Gia-tô-giáo đến Tin lành và những mê tín thô sơ đến tin tưởng man rợ, cho đến những tín ngưỡng văn vẻ « (1). Tất cả ý thức về Tôn giáo của người Việt nam chứa đựng trong ý nghĩa của một số truyện cổ tích, nói lên phần nào là mớ tín ngưỡng thần bí, tức là tin vào việc làm lành, sự làm việc phúc đức cũng như tin vào số mệnh của mỗi người.

__________
(1)LÊ, Văn Siêu , Việt nam Văn minh Sử Cương, Sài Gòn : Lá Bối, 1967, trang 148.

Ngoài ra, ý thức tôn giáo còn phô diễn ẩn náo dưới hình thức màu sắc lịch sử. Các tác giả truyện cổ tích « tin vào nguồn gốc thần thánh của nhân loại, tin vào sự sáng thế, tin vào uy quyền tuyệt đối của Hoá công và tính cách bất tất, hạn hạn hữu của loài người. Luôn luôn giũa Hoá Công và nhân loại có một sự liên lạc chặt chẽ ».(2)

___________
(2)LÊ, Hữu Mục, Phần Dẫn Nhập Linh Nam Chích Quái, trg. 26 , Sài Gòn : Khai Trí , 1961 .

Sự nhận thức về các vấn đề trên (Ý thức Tôn giáo ) đã nói lên phần nào cái dân-tộc-tính đặc biệt của người Việt nam là sự ưa thích nếp sống hiền hòa, đơn giản, giải thích các vấn đề khó hiểu bằng những câu chuyện mang tính chất hoang đường, thần tiên, nhưng rất giản di.

Nhằm mục đích nghiên cứu đối tượng thuộc phâm vi nhân chủng học (Tín ngưỡng của dân tộc ), về nền văn minh Việt nam cũng như khía cạnh xã hội học của thời xưa, việc tìm hiểu Ý THỨC TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI VIỆT NAM QUA MỘT SỐ TRUYỆN CỔ TÍCH cũng rất cần thiết. Nội dung đề tài nhỏ nầy sẽ trình bày sơ lược các điểm sau đây :

Ý thức tôn giáo đối với người bình dân Việt Nam qua trạng thái thần quyền cho đến khi có sự du nhập của Tam Giáo vào Việt Nam.
Ý thức tôn giáo trong một số truyện cổ tích Việt nam qua tư tưởng Nho, Lão, Phật.
Vì thời gian ngắn ngủi để hoàn thành tập nghiên cứu nầy ( 1 tuần lễ ) , nên phần trình bày có tính cách đại cương và còn nhiều thiếu sót , kính mong sự chỉ giáo, bổ túc của các bậc cao minh.
Vĩnh long, ngày 29 tháng 3 năm 1975
Hà Phước Thảo

C H U Ơ N G I
Ý THỨC TÔN GIÁO ÐỐI VỚI NGƯỜI BÌNH DÂN VIỆT NAM

TIẾT I : TRẠNG THÁI THẦN QUYỀN

Sống giữa cảnh hùng vĩ của núi non hiểm trở, vớI thiên tai khủng khiếp luôn luôn đe dọa, vớI những hiện tượng thay đổI của TrờI Ðất, con người không khỏi khiếp sợ thiên nhiên vì cảm thấy mình nhỏ bé trước Vũ Trụ đầy huyền bí. Ðịa thế của nước Việt nam thờI xưa là Miền thượng du và đồng bằng Bắc Phần tạo nên bởi Nhị Hà (Hồng hà và Thái Bình) cũng như các phong cảnh đẹp của những hòn đảo ở Vịnh Hạ Long như những con rồng đang trầm mình dưới nước … Tất cả những yếu tố đó là những đề tài sáng tạo nên những truyện cổ tích ang tính chất thần quyền, hoang đường của những ngườI bình dân Việt Nam qua bao thế hệ.

Ngoài những hiên tượng thiên nhiên, dân tộc Việt Nam còn tô điểm cho mình bằng một nguồn gốc thần thánh : Con Rồng, cháu Tiên .
Trạng thái thần quyền thống trị tư tưởng ngưòi Việt nam trong giai đoạn đầu của thói khuyết sử được chứa đụng trong một số truyện cổ tích thần thánh hoá các sự vật. Ðó là giai doạn thờ vật tổ ( totem).

MỤC I : Vật tổ

Văn chương truyền khẩu khởi nguồn từ lúc con người bắt đầu ý thức, bắt đầu mở đôi mắt để nhìn thấy sự bí ẩn của Vũ Trụ, khám phá ra những ý nghĩa của sự vật chung quanh. Những sự vật có thể dùng lý trí để hiểu được sẽ thành những kinh nghiệm, để lại đòi sau bằng sự truyền khẩu qua cao dao, tục ngữ. Tuy nhiên, những sụ vật đầỳ vẻ bí ẩn thì con người lại tưởng tượng ra để đặt thành những sự tích, những truyện cổ. Những truyện thần thoại đầu tiên đều có nói đến các hiện tượng thiên nhiên : Thần thoại về Trời (VNVHTT, trg. 61) , Thần Sét, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa, Mặt Trời, Mặt Trăng vv. (VNVHTT, trg. 62, 63, 64,65 ). Tâm hồn sơ khai của con người nguyên thủy chưa có tư tưởng về Tôn giáo mà chỉ thấy mọi sự vật chung quanh đều có linh hồn. Vì chưa hiểu thiên nhiên nên con người cho rằng mọi hiện tượng tự nhiên hay đặc biệt trong trời đất, từ ngọn cây, dãy núi, hòn đá đến các tinh tú vận hành, gông tố, sấm sét, bảo lụt vv. đều do Thần Thánh gây nên. Trí tưởng tượng của con người tạo ra những vị Thần. Họ tôn sùng chư vị nầy để họ được che chở.

Con người tin từ Ða Thần đến Ðộc Thần . Giai đoạn nầy sắp bước qua giai đoạn vượt khỏi tình trạng dã man.Những thần thoại ở giai đoạn cuối là sự nhân hoá các vị Thần là các bậc anh hùng ( Lý Ông Trọng, Phù Ðổng Thiên Vương tức Thánh Gióng v ).

MỤC II : Thần Thánh

Dân tộc Việt nam trong giai đoạn lập quốc thì thần thoại về các thần thánh vá lịch sử bắt đầu lẫn lộn. truyền thuyết xen vào thần thoại, như vậy lý trí xen vào trí tưởng tượng. Do đó, Thần Thánh mang tính chất lịch sử hay dã sử .

Thần thoạilà tự-nhiên-giáo ấu trỉ (1) “vì thần thoại ang ý thức về tín ngưỡng dân tộc. Ngoài ra, thuyết tôn giáo cho rằng thần thoại về các thánh thần là những hình trạng biến tướng của thiêng liêng” (VNVHTT, trg. 43 ). Như vậy, trong thần thoạI đã có mầm móng của ý thức Tôn giáo.

MỤC III : Nguồn gốc dân tộc

Mỗi dân tộc đều có một truyền thống tổ tiên. Tại Việt nam có nhiều sắc tộc thiểu số, mỗi sắc tộc đều có một thần thoại về tổ tiên mình : như thần thoại Rốc-lai ói về thuỷ tổ của người ở Vùng Cao Nguyên, nói về Hổng Thủy, đời sống buổi đầu tiên ( VNVHTT, trg. 137) hoặc thần thoại Ba-Na giải thích về sự Sáng tạo Trời Ðất do hai vị Thần là Bok-Kơi-Dơi ( Thần nam) và Iă-Kon-Keh ( Thần Nữ) đã tạo lập Vũ Trụ. Dân tộc Ra-Ðê, Ka-Tu, Pu-Noi … đều có truyền thuyết về nguồn gốc của mình.
Riêng dân tộc Việt nam tin rằng mình là con Rồng, cháu Tiên. Những truyền thuyết của những truyện thần thoại nói về nguồn gốc dân tộc xuất phát từ những biến cố lịch sử từ khi con người thành lập thị tộc (quốc gia đô thị ở phương Tây), Bộ lạc ….
Ðề tài truyện được phát triển qua những nguyện vọng giống nhau của các nền văn hóa. Những nhân vật có thực trạng đó được nâng lên hàng Thần và tượng trưng cho những ước vọng, tình cảm…. Ðó là sản phẩm của tư tưởng, phản ảnh sinh hoạt, tư tưởng của một thời đại, một dân tộc.
Các truyện thần thoại cổ tích Việt nam trong mấy tập sách sưu tầm “Lĩnh nam Chích Quái” của Trần Thế Pháp, “Việt Ðiên U Linh Tập” của Lý Tế Xuyên là các truyện có dính liền với tín ngưỡng Tôn giaó, pha trộn với những truyện cổ tích thần tiên, có khi vay mượn truyện của Trung Hoa để sửa đổi lại làm truyện của mình. Ðiều nầy Lê Quý Ðôn trong “Kiến Văn Tiểu Lục” có viết: ”Sách Lĩnh nam Chích Quái” có nhiều chỗ vay mượn rồi tô vẽ vào không thể kể xiết”.

Từ ý thức về thần thánh, linh hồn bất diệt vá luân hồi qua sự tưởng tượng của con người trong thời sơ khai, ý thức tôn giáo được thể hiện rõ hơn khi cosự truyền bá tôn giáo từ Trung Hoa sang. Quan niệm về luân hồi khi chưa có Phật giáo du nhập vào, bắt nguồn từ tạo vật, Về sau tư tưởng Phật giáo được hệ thống hóa thành triết lý vững chắc hơn.

TIẾT II : Ý THỨC TÔN GIÁO

Triết lý Luân hồi chứa đựng trong các truyện cổ tích không hẳn là triết lý luân hồi của Phật giáo, má là triết lý tự nhiên của dân tộc sống hòa hợp với thiên nhiên ( VNVHTT. Tr. 235 ). Từ tín ngưỡng về thần thánh, tư tưởng con người nẩy nở ý thức tôn giáo.

Dưới nhãn quan thực tế của người Việt nam, xung quanh con ngưòi còn có một thế giới siêu nhiên gồm nhiều Thần, Thánh: thiện cũng như ác, tất cả đều có cấp bực. Những vị Thần tốt biểu hiệu cho những lực lượng tốt của thiên nhiên như Thần Ðất ( Thần Hoàng Bổn cảnh), Thần Trời (Ông Trời),hoặc những linh hồn có được những quyền năng siêu việt được gọi là Phúc Thần. Ngoài ra, những vị Thần gieo tai họa ( Thiên tai, Bảo lụt, Ôn Dịch … ) biểu hiệu cho những lực lượng xấu của Thiên Nhiên và những Linh hồn đọa lạc.

Giai đoạn đầu của lịch sử, người Việt nam không có ý thức vế Ðấng Tối Cao theo tín ngưỡng tôn giáo. Ðối với Thượng Ðế, họ chỉ tin có Thần Trời hay gọi nôm na là Ông trời, Thần Ðất. Về sau, Ðạo Lão, Ðạo Khổng, Ðạo Phật được truyền sang thì con người mới có những tín ngưỡng mang tính cách triết lý sâu xa hơn.

Sự thờ cúng tổ tiên xuất phát từ quan niệm vạn vật có linh hồn. Tuy người còn sống không còn thấy người chết nữa, nhưng họ tin rằng linh hồn còn tồn tại trong cõi vô hình, quanh quẩn trong nhà dể phù hộ con cháu. Ý thức nầy ngày nay vẫn còn, và quan niệm đó vẫn còn thống trị tư tưởng người Việt nam : Qua nghi lễ và hành động hằng ngày, hiên nay, người ta gọi là Ðạo Thờ Cúng Ông Bà. Khi có thêm ý thức tôn giáo, thì việc thờ cúng Ông Bà vẫn còn ( mỗi nhà, ngoài bàn thờ Phật, có bàn thờ Ông Thiên ở trước sân, có bàn thờ Tổ Tiên ở giữa nhà). Ngày nay Hội Thánh Thiên Chúa giáo lại cho thờ Ông Bà ở một bàn thờ thấp hơn hay bên hông trái ).
Ngoài việc thờ cúng Ông Bà, triết lý của Tam Giáo mới du nhập vào ảnh hưởng rất nhiều đối với ý thức Tôn giáo sơ khởi của người Việt Nam.

TIẾT III : TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TAM GIÁO

Ý thức về sự hiện hữu của một cõi siêu nhiên, tín ngưỡng về vật tổ, về thần linh và về linh hồn bất tử của tổ tiên … không thấy khác biệt lắm đối với triết lý mới của Tam Giáo được du nhập vào Việt Nam vào thời kỳ đầu. Do đó, dường như trong các truyện cổ tích thờI sơ khai đã có đề cập đến thuyết luân hồI như truyện “Kéo cày trả nợ”, truyện “Sinh con rồI mớI sinh cha” … (TCNN, trg. 3, 14, 28) cũng như sự liên hêẹ chặt chẽ giữa thuyết Luân hồi và Nhân quả : Truyện “ Cái cân thuỷ ngân” (TCNN, trg. 16 ).

Triết lý Ðạo Nho vớI thuyết Thiên Mệnh và Ðạo Lão vớI cõi đờI tốt đẹp của cảnh Tiên đã bổ túc rất nhiều cho tín ngưỡng của ngườI Việt nam, nhất là Vũ trụ quan và Nhân sinh quan.

Ở thời kỳ sơ khai, con người đã ý thức về Tôn giaó rồI, vì qua những truyện cổ tích hoang đường, những truyện thần thoạI do trí tưởng tượng xây dựng nên, đã mang màu sắc huyền ảo để xoá nhòa thực tế khắc nghiệt do nềp sống tạo nên.
Ðó là những truyện Thần Tiên, ma quỉ, quái đản, phong thủy, phép tắc, pháp thuật vv. Tuy nhiên, trong nộu dung, các truyện đó ít thiên về Tôn giáo. Người ta chỉ thấy bàng bạc những sự can thiệp của Trời, Phật, Tiên, Thánh, tượng trưng cho tín ngưỡng hồn nhiên của dân chúng về điều thiện, đối chọi với lương tâm con người là điều ác, lẽ phải cũng như đạo đức, luân lý, công bằng ở đời… Do đó, giai đoạn sơ khai, khi chưa có sự du nhập của Tam Giáo, ý thức tôn giáo là tư tưởng thiện lương có từ bản chất con người ( theo Nho gaío cho rằng “Nhon chi sơ tánh bản thiện” ) và tín ngưỡng siêu hình về Tôn giáo chỉ là cái mầm giống đã có từ con người rồi. Người ta tin rằng ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ. Ða số các truyện cổ tích đều có kết thúc co hậu, nghĩa là: Nhân vật làm ác sẽ gặp ác: truyện Tấm cám, làm Lành (TCNN, trg. 77).

Lòng Trời chẳng phụ ai ngay,
Hoạ gieo phúc, thiện xưa nay nào lầm (Ca dao)

Nhân sinh quan tự nhiên và lành mạnh của dân chúng trong các truyện cổ tích hoang đường lẫn lộn với tư tưởng quả báo, luân hồi của Phật giáo, tinh thần thoát tục của Ðạo Lão và thuyết Ðịnh Mệnh của Nho giáo.

Các quyền năng siêu hình đã được con người đồng hóa với con người để đem đến nguồn an ủi, tin tưởng ở cuộc sống lương thiện. Tiên, Phật (Bụt), Thánh, Phúc Thần… tượng trưng cho đạo đức, lý tưởng cao đẹp mà con ngưòi luôn luôn hướng về sự cao thượng.

Những truyện cổ tích hoang đường cũng thưòng lẫn lận với những truyện Thần Tiên. truyền thuyết hay lịch sử. Sự pha trộn nhiều loại với nhau chứng tỏ rằng dân chúng Việt nam thời xưa đã có ý thức về tín ngưỡng siêu hình do thiên nhiên đã đào luyện, nhưng đó chỉ là một nhân sinh quan thực tế chớ chưa mang một triết thuyết có hệ thống. Khi Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo truyền sanh, truyện cổ tích thường lấy những đề tài như Ông Sư, Chú Tiểu, chùa chiền, sư tu hành … chẳng hạn như truyện Ống Nhổ (VNVHTT, trg. 397) Bình Vôi (VNVHTT, trg.399), Con Bìm Bịp ( VNVHTT, trg.400), Chuông, Trống, Mõ (VNVHTT, trg.404) Mười tám Vị La Hán (VNVHTT, trg.406); Chùa Một Cột (VNVHTT, trg. 409) vv. Ða số truyện cổ tích chứa đụng tư tưởng Phật giáo : Một số ít chịu ảnh hưởng Nho giáo như truyện Lưu Bình Dương Lễ đề cao tình bằng hữu trong Ngũ Luân, truyện Trầu Cau ( tình vợ chồng anh em) và ảnh hưởng của Lãi giáo là những truyện nói về cảnh Thần Tiên như truyện “Tiên xuống Trần” (VNVHTT,,trg.416), Người thành Tiên ( VNVHTT, trg.417), Chữ Ðồng Tử và Công Chúa Tiên ung vv.

Những truyện cổ tích nói về Nho, Phật, Lão thường thuờng “bao trùm tản mác qua tất cả các truyện, tức là sức chi phối của Trung Hoa đối với văn hoá ta” (1). Ngoài ra, “Lòng căm thù kẻ thù phía Bắc (Tầu): Một bên Ông cha ta muốn chứng tỏ cho bọn họ thấy dân ta vốn dĩ là một quốc gia đã được an bài do mệnh Trời, còn bọn họ là kẻ phản nghịch, một bên Ông Cha giaó dục con cháu có ý thức về quốc gia như là một bên gia tài thiêng liêng thần thánh giao cho ta phải bảo vệ một cách cẩn trọng” (2)

____
(1)THANH LÃNG, bảng Lược Ðồ Văn Học Việt nam, Sài Gòn, trình bày, 1967, trg. 27
(2)THANH LÃNG, Op. Cit. trg. 29


Mặc dù có sự đối kháng Trung Hoa, mặc dù cha ông ta muốn đề cao dân tộc, đề cao nguồn gốc quốc gia mình, người Việt nam thuộc dòng dõi thần minh vv… nhưng sức chi phối của Tam Giáo vẫn còn, nghĩa là truyện cổ được xây dựng trên hoàn cảnh địa phương, nhưng nội dung vẫn hàm chứa văn hoá Trung Hoa. (1)

___________
(1) Nước Trung hoa bắt đầu tứ 10.000 năm trưóc Thiên Chúa hay 10.000 năm văn hiến, còn Việt nam là cái nôi giữa nước Trung Hoa và nằm giữa hai tỉnh Quảng Ðông và Quảng tây, một trong 100 nước Việt, nhưng 99 nước Việt bị đồng hóa thành dân của Lưỡng Quảng, riêng con cháu của chúa Ðộng Ðình Hồ (Vua dưới nước hay Long Vương : Lạc Long Quân) và Tiên Nữ trên núi (Âu Cơ) đã bị sức ép nên phải tìm tự do ở phương Nam để khỏi bị đồng hóa, cho nên cuộc Nam Tiến phải xảy ra. Tuy lúc đầu có thứ văn chương truyền khẩu vì không chịu dùng thứ chữ của nước ở phương Bắc, sau cũng phảI dùng và tự chế biến thành chữ Nôm và hiên nay mớI có quốc ngữ. Vì thế cho nên ngườI Viẹt nam cho rằng dân tộc mình có 4000 hay gần 5000 năm văn hiến.

C H Ư Ơ N G II

Ý THỨC TÔN GIÁO TRONG MỘT SỐ TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

TIẾT I : THÂN PHẬN CON NGƯờI TRƯỚC VŨ TRỤ

Mục I : Trước Thiên nhiên

Sống trước thiên nhiên khi nhìn bầu trờI đầy tinh tú giữa không gian vô tận, ngườI ta không thể tưởng tượng nổI đến cái vô cực, vô biên nên phảI thu gọn trí tưởng tượng trong phạm vi gần vớI con ngườI hơn và siêu việt hóa các hiên tượng thiên nhiên : Ðó là các vị Thần : Thần Núi ( Sơn Thần), Thần Hoàng Bổn Cảnh hay Ðịa Thần, Miễu Ông Hoàng (1), Long Vương, Hà Bá ( Thần Sông) vv. Con ngườI cũng coi các vị Thần như con ngườI, nghĩa là cũng có đủ tánh xấu, tánh tốt, ghen hờn vv.

Trước những hiện tượng thiên nhiên như lụt lội thường xảy ra ở Bắc Phần vì nước sông Hồng Hà dâng tràn khắp đồng bằng, nước càng dâng cao, con ngườI phảI tìm chỗ cao hơn ở Miền Thượng Du để lánh nạn. Sự việc tái diễn hằng năm và con ngườI đặt ra truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh để giảI thích : nước lên bao nhiêu, núi cao bấy nhiêu.
Khi giảI thích về những danh lam thắng cảnh ở Vịnh Hạ Long, có những hang động ngầm, khi nước dâng lên thì bít cửa hang, bên trong là thạch nhũ, hoa thơm, cỏ lạ, có đường lên đỉnh núi, khác nào cảnh Tiên ( Thần Trụ TrờI, VNVHTT, trg. 66), Truyện Từ Thức gặp Giáng Hương đã giảI thích về thủy triều lên làm bít lốI đi (hang). Tuy để giảI thích hiện tượng hay những sự vật tầm thường như lò nấu cơm có ba cục đất, ngườI ta lạI thần thánh hóa bằng truyện ông Táo, rồI đề cập đền việc ba ông Táo về trờI vào ngày 23 tháng Chạp Âm lịch …
Những truyện cổ nầy cũng bàng bạc một tín ngưỡng về một cõi nào ngoài cõi trần mà sau nầy mớI hiện rõ trong triết lý của Nho, Lão, Phật.

Mục II : Con người và sự tin tưởng vào sự hiện hữu của Ðức Thượng Ðế

Chưa rõ về Vũ Trụ và một Ðấng Sáng tạo ra Vũ Trụ, ngườI ta cho rằng con người lệ thuộc vào các lực lượng siêu nhiên và thế giớI loài người liên hệ mật thiết đến các giới thần tiên, Thiên Ðàng hay Ðịa ngục. Ở Thượng giớI thìn người ta tin có Ngọc Hoàng Thượng Ðế như một bậc Quân Vương ( trong chuyên Chim Chèo Bẻo, Ngọc Hoàng phán xử kẻ có tội như một vi Vua ). Con người đồng hóa Ngọc Hoàng Thượng Ðế như một bậc Quân Vương, nghĩa là giống hình ảnh con ngườI / Truyện Trời , VNVHTT, trg. 62).

_________
(1)Truyện tích Việt nam, Lê Hương, trg. 16

Tin rằng Trời là một vị cai quản thế gian , Vũ Trụ. Như vậy, quanh ngài cũng có các Thần nhà Trời như Thần Sét, Thần Mưa, Thần Gió vv. (VNVHTT. trg. 62, 63, 64 ).

Triết lý vạn vật tương quan cho rằng giữa con ngườI và vạn vật, Vũ Trụ có liên quan mật thiết, ngoài cõi trần còn có cõi Thượng giới ( cõi TrờI) do Ngọc Hoàng Thượng Ðế cai trị, Thủy Phủ ( cõi Nước), Âm Phũ ( cõi Âm), ba thế giới nầy có ảnh hưởng chi phốI thế giới loài người . VớI tín ngưỡng như thế, con ngườI ói chung và ngườI Việt nam nói riêng tin rằng Vũ Trụ không phải tự nhiên mà có như các nhà vô thần, mà phảI có một Ðấng sáng Tạo. tín ngưỡng nầy đã ảnh hưởng sâu rộng trong tâm hồn ngưòi Việt thời xưa. VớI đức tin nầy mà vào năm 1926 Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế đã mở Ðạo riêng của ngài tại Việt nam, mà chúng tôi sẽ nghiên cứu trong Luận án vào năm tới (1975) với đề tài “Cao Ðài Giáo trong Tam Kỳ Phổ Ðộ” mà Giáo sư Lê Thành Trị đã hứa nhận làm GS Bảo trợ luận án cho chúng tôi.

MỤC III : Con người trưóc cái chết

Cái chết là một bí mật mà con người luôn luôn khiếp sợ vì chưa có kinh nghiệm về cõi đờI sau khi chết. NgườI ta tin rằng sau khi chết con ngườI sẽ xuống Ðịa ngục có quỉ sứ, có Diêm Vương phán xét việc làm hiền hay dữ ở trên thế gian. Có tộI mà có công thì cũng có thể lấy công chuộc tộI như truyện “Ông tấn Sĩ lưng mọc lông dê” ( Chuyện ÐờI Xưa”, Huỳnh Tịnh Của). trong truyện nầy ngưòi ta vừa cắt nghĩa tạI sao ông tấn sĩ có cái bớt ( vết chàm) có mọc lông ở sau lưng, đồng thờI tin có Diêm Vương phán xét công và tộI con ngưòi ( Viếng Ðịa ngục, VNVHTT, trg. 428), cảnh sung sướng ( Tú Uyên, VNVHTT, trg. 352) hoặc người ở cõi Tiên mà có tộI cũng phảI xuống cõi trần dể đền tộI ( Tiên xuống trần, VNVHTT, tr. 416), Ngưu Lang Chức Nữ: Vừa giải thích hiện tượng Trời Ðất : Sao Hôm, sao Mai mà ngườI ta thuở xưa chưa biết Kim Tinh Mộc Tinh là gì) vừa chúa đụg cõi Trời và cõi Tiên.

MỤC IV : Ý thức về sự tồn tại của linh hồn sau khi chết

Trước quan niệm về các cõi TrờI, về sự hiện hữu của Thượng Ðế và tín ngưỡng về đờI sống sau khi chết, người bình dân thời xưa tin rằng linh hồn bất tử. Với truyện Thần Tử và Thần Sinh hoặc hai vị Thần Nam Tào Bắc Ðẩu sẽ trông nom loài ngườI cũng như loài vật lúc sanh đến lúc chết, còn qui định số mạng giàu nghèo, lành dữ của mỗi người và sau khi chết sẽ đầu thai kiếp gì ( Truyện “Nửa ngày trên Thiên Ðình, TCVN, trg. 87). Con ngườI còn tin tưởng ở sự sinh hóa của vạn vật theo luật Luân Hồi ( mặc dù Ðạo Phật chưa truyền sang). Quan niệm luân hồi nầy bắt nguồn từ tạo vật, về sau Phật giáo truyền sang mới hệ thống hóa thành một tín ngưỡng của Tôn giáo. Ðó là triết lý tự nhiên của dân tộc Việt nam sống hòa hợp vớI thiên nhiên. Những truyện cổ tích loại nầy có rất nhiều như truyện: Viếng Ðịa ngục (VNVHTT, trg. 428), NgườI chết đi kiện ( VNVHTT, trg. 151) vv.

Ngoài niềm tin xuất phát do thiên nhiên, con người thời xưa càng tin tưởng hơn khi hệ thống triết lý Phật giáo du nhập vào với thuyết Luân Hồi và Nhân quả. Tư tưởng về sự bất sanh bất diệt lại càng có ý nghĩa hơn khi Lão giáo truyền sang, rồi sau đó, quan niệm nầy lại biến thành một tín ngưỡng của Thần Ðạo và Tiên Ðạo . Ngoài ra, Nho giáo lại đóng góp thêm cho tín ngưỡng của người Việt nam một triết lý đặc biệt mang một sắc thái dân tộc gọi là tinh thần Tam Giáo đồng nguyên.

TIẾT II : TƯ TƯỞNG TAM GIÁO TRONG MỘT SỐ TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

MỤC I : Nho giáo

Con người và vạn vật cũng như quỉ thần có sự liên hệ với nhau. Mỗi hành động của con người đều có sự đồng thanh tương ứng. Một tư tưởng kiêu căng tự cao hay một lời bất kính của con người đối với quỉ thần thì chư vị khuất mặt nầy đều biết hết. Tánh tình và tư tưởng của con người sẽ quyết định sự thành công hay thất bại; như vậy, số mệng do Trời mà cũng do ta nữa ( truyện “Người học trò và con chó đá”, VNVHTT, trg. 381 ).

Vì sự tương ứng đó nên con người trọng quỉ thần, chỉ trọng chớ không thờ, vì những vị nầy là những nhân vật ở cõi vô hình cũng có những tánh tầm thường như con người vậy. Con người chỉ tin ở số mệnh an bày sẵn ( truyện “Thiên lực, không phải nhân lực”, CÐX, trg. 74). Ngoài việc trọng quỉ thần, người Việt nam thời xưa còn nhớ ơn tổ tiên, vì tin tưởng rằng linh hồn ông bà, tổ tiên còn phưởng phất xung quanh để giúp đỡ con cháu. Những bậc anh hùng dân tộc cũng được dân chúng thò kính và thần thánh hóa lên ( truyện Phù Ðổng Thiên Vương ). Những người vô danh có công giúp nước, tạo dựng cơ đồ của dân tộc cũng được thấn thánh hóa như truyện Thần Kim Qui ( Thần Kim Qui: theo thiển ý của chúng tôi, có lẽ là một người bình thường ở miền duyen hải, có sáng kiến về phương diện kiến trúc, cố vấn cho An Dương Vương xây thành XCổ Loa, còn việc một mũi tên bắn ra hàng vạn mũi tên khác là một kỹ thuật bắn đá từ trên cao điểm bằng đòn bẫy chứ không có quyền phép gì cả ).

Mặc dù con người bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, nhưng người ta tin rằng con người cũng có những vị có khả năng siêu việt như vừa nói phần trên. Do đó, từ thuở xưa, người Việt nam đã có ý thức về năng lực của con người cũng như của muôn loài ( truyện Con Cóc là Cậu Ông Trời, hoặc truyện Cưòng bạo đánh Thiên Lôi, VNVHTT, trg. 456 ).

MỤC II : Phật Giáo

Tìn ngưỡng về Luân Hồi và Nhân quả có sẵn trong tư tưởng người Việt nam từ thời Thượng cổ, tín ngưỡng Tôn giáo càng rõ rệt hơn khi Ðạo Phật được truyền sang. Cũng có thể những truyện nầy đã được truyền miệng khi đã có Ðạo Phật rồi vì chưa có ai biết thời gian các truyện đó được kể ra, bởi những cuốn sách nầy được đúc kết các truyện xưa vào thời kỳ có chữ viết rồi.

Người ta tin rằng kẻ làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác. Hành động của con người quá ác có thể làm cho họ đầu thai thành thú vật ( theo lục đạo của Phật giáo). Luật Luân Hồi và Nhân quả liên hệ nhau nhu sợi dây xích, chi phối vận mệnh con người ở cõi trần cũng như ở cõi vô hình sau khi chết ( truyện “Kéo cày trả nợ , truyện Sinh con rồi mới sinh cah, truyện con Muỗi, truyện “Ở hiền gặp lành, “Con lợn ăn no lại nằm, “Cây cân thủy ngân … (TCNN ), truyện Ông Tấn sĩ lưng mọc lông dê ( Chuyện Giải buồn của Huỳnh Tịnh Của ), chuyện Diêm Vương, Ðịa ngục ( VNVHTT, trg. 81, 82 ).

MỤC III : Lão Giáo

Bắt đầu từ thế kỷ thứ hai, từ khi Đạo Nho, Phật và Lão từ Trung Hoa truyền sang Việt Nam, hơn nữa manh tâm đồng hóa của ngưòi phương Bắc, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng văn hóa của ta dều bị chi phối sâu đậm, do đó, truyện cổ tích và thần thoại Việt nam laị bị pha trộn với Phật thoại như đã trình bày ở trên và nhất là Tiên thoại của các dân tộc miền Bắc. Vì truyện cổ tích Việt nam không được ghi chép trong thời nước ta chưa có chữ viết nên chỉ được lưu truyền bằng miệng, nên càng ngày càng dễ bị thêm bớt, tản mác hay lẫn lộn với truyện cổ tích Trung quốc. Tuy nhiên, khi đã là truyện cổ Việt nam thì nội dung, chủ đề đều nhuộm màu sắc dân tộc, Việt hóa và địa phương hóa. Tư tưởng cao siêu của thuyết vô vi của ạo Lão ( Lão giáo) khi truyền sang Việt nam lại biến đổi thành một thứ đạo Thần Tiên, huyến bí, giống như những truyện thần thoại cổ tích sẵn có ở thời cổ sơ. Dấu vết văn hoá và tín ngưỡng ở thời nguyên thủy còn sót lại ngày nay là mỗi làng thờ một ôn Thần và những đồg bóng, thầy pháp vv. Đó là những biến thể của Đạo Lão. Thuở xưa người ta đã thần thánh hóa và huyền thoại hóa những vị tu sĩ tu Tiên như truyện Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không vv. Những vị có những phép thần thông do sự tu luyện để khai mở những quyền năng tiềm tàng trong con người.
Sở dĩ triết lý vô vi quá cao siêu của Lão giáo không còn giữ được cái tinh túy của nó là vì một đàng thì hình nhi thượng học quá cao, còn dân chúng thì tư tưởng trình độ thấp, tri thức con người lúc bấy giờ thuộc về hữu hình và thực tế Ngoài ra, cả ở Trung hoa, Lão giáo còn chia ra nhiều Phái nhỏ thien về huyền bí, phù thủa, đồng bóng có tính cách mê tín dị đoan, như thế thì làm sao mà còn giữ được nguyên vẹn triết lý Đạo khi truyền qua Việt nam ?
Ý thức về Tôn giáo tronggian đối với các hiện tượng siêu hình cộng thêm tư tưởng Lão giáo từ Trung Hoa truyền sang đã đưa tín ngưỡng của người Việt nam đến chỗ huyền thoại và dĩ nhiên các sản phẩm của trí tưởng tượng được tổng hợp một cách tế nhị mang tính cácch đặc thù như truyện cổ tích mang tính chất nên thơ, thần tiên như truyện “Tiên xuống trần, Người thành Tiên vv (VNVHTT, trg. 416, 417 ) hoặc những vị Phúc Thần ở các đền thờ Việt nam.
Với trí tưởng tượng, các nhân vật trong truyện có những khả năng siêu việt, có tài boến hóa và đoạn kết thường thưòng là sự giải thoát cõi trQuan niệm =>Tín ngưỡng về Thần quyền =>Ý thức Tôn giáo => Tín ngưỡng Tôn giáo =>Phân chia tín ngưỡng Tôn giáo (đa phức) =>Qui nguyên thống nhất các tín ngưỡng (tổng hợp).

Tóm lại, cuộc tiến hóa về ý thức hay tín ngưỡng của người Việt nam phần lớn thể đã hiện qua một số truyện cổ truyền khẩu, một số tác phẩm văn chương cũng như các tổ chức tôn giáo ( các chùa, miếu, thánh thất, Hội Thánh vv ). Dó cũng là đạc tính cố hữu của người Việt nam vậy.

CHUNG

THƯ TỊCH

HUỲNH, TỊNH CỦA , Truyện Giải buồn, Sài Gòn, Hoa Tiên, 1972.
MINH CHIẾU , Truyệ cổ Phật giáo, Đà nẳng: Hoa Sen, 1962.
NGUYỄN, DUY , Truyện cổ Việt nam, Sài Gòn : Sống Mới, 1971.
BẠCH LIÊN PHẠM, NGỌC ĐA, Những truyện Thần quyền và Thần Bí trong Đạo Phật, Sài
Gòn: Đạo Học Tùng Thư, 1974.
DƯƠNG, QUẢNG HÀM, Việt Nam Văn Học, Sài Gòn: Bộ Giáo Dục, không ghi năm.
Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Sài Gòn: Bộ Giáo Dục, 1968.
LÊ, HƯƠNG , Truyện tích Việt Nam, Sài Gòn: Nhóm Văn Hữu, 1970.
TRẦN, VĂN HIẾN MINH, Tam Giáo Đại Cương, Sài Gòn: Ra Khơi, 1962.
TRẦN TRỌNG KIM, Nho Giáo, Sài Gòn : Bộ Giáo Dục, Tung Tâm Học Liệu, 1971.
Pétrus T.B. TRƯƠNG, VĨNH KÝ, Chuyện Đới Xưa, Sài Gòn: Hoa Tiên, 1974.
THANH LÃNG, Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam, quyển Thượng, Sài Gòn: Trình Bày,
1967.

ĐINH, NHO LINH, Sự tích vị Thần Xã Đa Hoà, Sài Gòn, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1062.
HOÀNG, TRỌNG MIÊN, Việt Nam Văn Học Toàn Thư, Quyển I Thần Thoại Cổ Tích, Sài
Gòn: Tiếng Phương Đông, 1973.
LÂM, THẾ NHÂN, Truyện tích đồng quê, Sài Gòn: Sống Mới, 1972.
HOÀNG TRÚC LY và ĐINH, KHẮC NGHĨA, Truyện cổ Việt Nam, Sài Gòn: Khai Trí,
1970.
ÔN NHƯ - NGUYỄN, VĂN NGỌC, Truyện cổ Nước Nam, Sài Gòn: Khai TRÍ, 1966.
TRẦN, THẾ PHÁP, Lĩnh Nam Chích Quái, Lê Hữu Mục dịch giả, Sài Gòn, Khai Trí, 1961.
NGUYỄN, VĂN SÂM, Tín ngưỡng Việt Nam, Cận Đại và Hiện Đại, Sài Gòn: Nhóm Nghiên Cứu Khoa Học Nhân Văn
( Giảng khoa Chứng Chỉ Văn Minh Việt Nam), 1972 (tài liệu in
Ronéo ).
DOÃN QUỐC SỸ, Truyện Cổ Tích – Kịch, Sài Gòn: Sáng Tạo, 1963.
LÊ, VĂN SIÊU, Việt Nam Văn Minh Sử Cương, Sài Gòn : Lá Bối, 1067.
SƠN NAM – PHẠM, BỬU TÀI, Chuyện xưa tích cũ, I và II , Sài Gòn: Khai Trí, 1971.
LÝ, TẾ XUYÊN, Việt Điện U Linh Tập, Lê Hữu Mục, dịch giả, Sài Gòn: Khai Trí, 1961.
_________
__________

(1) Buổi thuyết trình không tổ chức được vì quốc biến ngày 30.4.1975
Curriculum vitae

  MỤC LỤC  

 


         
 
  Độc giả đã đọc đến họm nay: