CAO ĐÀI GIÁO Trong TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đề mục:
TÔN GIÁO HỌC
TỈ GIẢO
Hà Phước Thảo
|
Nguồn gốc |
Địa
điểm |
Ngôn ngữ |
Giáo Chủ |
Triết
lư |
Tổ
chức |
Định
luật |
Kinh sách
|
Dị
|
Đồng |
........................... |
..................... |
.................... |
...................... |
................... |
..................... |
.................... |
........................ |
.................... Brahma, Vishnu,
and Shiva
Khi niệm th́ khác như: Nam Mô, Phật, Nam
Mô Pháp, Nam Mô Tăng |
.................... |
Lăo-Giáo |
Trung-Hoa |
Đạo Đức Kinh |
Đức
Lăo-Tử |
Pháp luyện đơn |
Không có tổ chức |
Tin có luật Trời. |
Lư giải về Kinh Dịch |
giống với Đạo Cao Đài là chiết
KHẢM điền Ly |
pháp tu luyện Huỳnh Đ́nh là Pháp Luân
thường chuển giống pháp thiền của Phật
Giáo và của Đạo Cao Đài |
Khổng-Giáo |
Trung-Hoa |
Tứ
Thư và |
Đức Khổng-Tử |
Đức
Khổng Tử phải |
dùng
nền giaó dục để các nước dạy dân tiệm
tiến: Tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ. |
Tin
có Đức Thượng Đế |
Học
Kinh Dịch |
luyện
Huỳnh Đ́nh. |
giống như Tu Tánh+ Luyện Mạng trong
Đạo Cao Đài. |
Thần-Đạo
tại |
Trung-Hoa |
Khương-Tử-Nha |
Khương-Tử-Nha |
Hy sinh cứu |
Nền
giáo dục tôn giáo chung với Khổng giáo, tiêm tiến Tu,
tề, trị, b́nh. |
Tin
có Đức Thượng Đế |
|
không có tu luyện. |
Tin có Đức Thượng Đế. |
Chính-Thống-Giáo hay |
Do-Thái |
Cựu Ước |
Tin Đức Jéhova Jésus Christ |
Chỉ
tin Cựu Ước do chư Tiên tri viết, không tin Chúa
Jésus. |
1có các Thánh đường làm lễ, đọc
kinh, giảng đạo theo Cựu Ước. |
Tin Chúa Trời. |
Nghi lễ
do dân Do Thái nghĩ ra. |
không
có thiền, nhưng đọc kinh, như Yoga về tín
ngưỡng. |
không có thiền, có vài vị Hồng
Y, Giám mục và linh mục thuộc Thiên Chúa Giáo học thiền
với Chiếu Minh Giáo Ṭa thuộc Chiếu Minh Vô Vi Tam
Thanh trong Đạo Cao Đài. |
Các Tôn-Giáo khác |
|
|
|
|
|||||
Thông
Thiên Học |
tại Madras, India |
học
tất cả triết lư các Tôn giáo, khoa học, triết học,
các pháp thiền. |
Tin có Đức Thượng Đế ba
Ngôi, có môn Tôn giáo học tỉ giảo, để hoà đồng,
thực hiện t́nh Huynh Đệ Đại Đồng.
Từ Bi. |
Nhiều
sách do bà H.P. Blavatski viết về Vũ Trụ và con
người, huyền môn học. |
khi
hiểu chơn lư th́ tự động ăn chay trường, |
||||
Tôn-Giáo Khoa-Học
|
Hoa-Kỳ |
Dùng
nhà khoa học Albert Einstein
|
|
|
|
|
|||
Tôn-Giáo của chính Chùa Thái Nhứt Hư Vô do Sư Tông Ngô Đại
Hùng là Thống Chưởng |
Việt-Nam
|
Thánh giáo do
|
chính
Đức Thượng Đế mở Đại Đạo,
thánh giáo là Kinh Thánh thứ II cho nhân loại học trong thời
Hạ Nguơn Mạt Kiếp.
Ông
Sư Tông đặt ra Kinh Cúng Tứ thời riêng,
|
công phu thiền định, luyện Kim
Thân, đắc Tiên, Phật nội kiếp nầy.
|
đọc Sấm giảng, đốt
nhang, làm lễ |
rất ít Thánh giáo, lời giảng của Sư
Tông tự gọi là thánh giáo (khẩu truyền) đọc các Sấm Giảng thuộc Bửu Sơn Kỳ Hương |
|
|
Tuy có nhiều điểm
khác nhau v́ lư do khác địa phương, phong tục của
các dân tộc không có chung nền văn hoá nên xoá bỏ những
Dị biệt mà đưa những điểm Đồng
th́ thấy mục đích đều giống nhau là Tôn giáo
lúc nào cũng dây dân làm lành, lánh dữ, cho nên ḷng khoan dung
( Tolérance) mà người tín đồ nào có tánh đức
th́ cũng cũmg không cố chấp, nhờ thế mà không
xảy ra chiến tranh tôn giáo mà người đời
đặt cho là "thánh chiến", chữ nầy dùng
sai, v́ không có vị thánh nào mà đi đánh giặc cả!
Chỉ có thần mới đánh nhau mà thôi. Đó là Hội
Phong Thần thường xảy ra ở cuối Hạ
Nguơn trong cuộc sàng sảy chung là dữ mất, hiền
c̣n để dựng đời Thánh Đức Tân Dân cho
chu kỳ hay Nguơn mới.
Hiện nay Khoa Tôn giáo học được mở khắp
các Viện Đại Học trên thế giới nhờ
chư vị tu sĩ của các tôn giáo có cái nh́n rộng
hơn là hoà ḿnh học hỏi triết lư các tôn giáo khác
để tránh tự tôn, tự cao tự đại mà cố
gắng bắt chước Tứ Vô của Đức
Không Tử, học cả với đứa con nít, c̣n nói
" Hậu sanh khả úy" nữa.
Tóm lại những điểm giống nhau của các Tôn
giáo chính là Vạn giáo nhất lư và vị Giáo Chủ duy nhứt
chính là Đấng Sáng Tạo hay Cha Trời mà loài người
đặt tên khác nhau do ngôn ngữ của họ, chứ
ngài vẫn là MỘT ĐẤNG mà thôi.
Tôn giáo có nhiều triết lư mà Kinh Thánh, Tam Tạng Kinh,
Thánh giáo cơ bút,... không do chư Giáo Tổ viết, mà do
chư Tông Đồ, chư đệ tử, chư Tiên Tri
viết. Những vị đó toàn là người phàm viết,
như vậy ư riêng vẫn dính dáng vào đôi chút. Việc dịch
ra ngôn ngữ khác cũng do câu "dịch là phản"
hay việc in lại nhiều lần th́ có việc "Tam
sao thất bổn", dịch nghĩa sai v́ Đạo là
vô vi khó cắt nghĩa ra được cho đủ nghĩa
như Đức Lăo-Tử nói:" Đạo khả đạo,
phi thường đạo, Danh khả danh phi thường
danh".
Tuy có nhiều điểm khác
nhau v́ lư do khác địa phương, phong tục của
các dân tộc không có chung nền văn hoá nên xoá bỏ những
Dị biệt mà đưa những điểm Đồng
th́ thấy mục đích đều giống nhau là Tôn giáo
lúc nào cũng dây dân làm lành, lánh dữ, cho nên ḷng khoan dung
( Tolérance) mà người tín đồ nào có tánh đức
th́ cũng cũmg không cố chấp, nhờ thế mà không
xảy ra chiến tranh tôn giáo mà người đời
đặt cho là "thánh chiến", chữ nầy dùng
sai, v́ không có vị thánh nào mà đi đánh giặc cả!
Chỉ có thần mới đánh nhau mà thôi. Đó là Hội
Phong Thần thường xảy ra ở cuối Hạ
Nguơn trong cuộc sàng sảy chung là dữ mất, hiền
c̣n để dựng đời Thánh Đức Tân Dân cho
chu kỳ hay Nguơn mới.
Hiện nay Khoa Tôn giáo học được mở khắp
các Viện Đại Học trên thế giới nhờ
chư vị tu sĩ của các tôn giáo có cái nh́n rộng
hơn là hoà ḿnh học hỏi triết lư các tôn giáo khác
để tránh tự tôn, tự cao tự đại mà cố
gắng bắt chước Tứ Vô của Đức
Không Tử, học cả với đứa con nít, c̣n nói
" Hậu sanh khả úy" nữa.
Tóm lại,
khi so sánh những điểm giống nhau th́ mọi người
mới thấy VẠN GIÁO NHẤT LƯ v́Chỉ có một
Đấng Chí Tôn Thượng Đế mà thôi. Giáo lư các
Tôn giáo giống nhau do chánh giáo của chư Giáo Tổ dạy,
c̣n những dị biệt la do phàm nhơn hay những hậu
duệ canh cải sửa theo ư riêng mà tín dộ cứ măi
tin nên mới xảy ra chiến tranh tôn giáo, giành nhau quyền
thống tri đức tin. Sự nô lệ hay cuồng tín,
vô minh sẽ được giải toả khi nhơn loại
hiểu môn học nầy.
Thí dụ:
Tên
Đấng Sáng Tạo Vũ Trụ |
Ba ngôi ,
tin có Trời
|
triết
lư chánh |
Bàn
thờ
|
Lễ
vật cúng trên bàn thờ |
Con
số 12 |
cách
lạy
|
Tu
là
sao? |
Phật giáo |
Đức Phật Thích ca không
có nói ba ngôi, |
Tứ Diệu Đế hy
nguyên của sự khổ. |
Tượng Phật cây, xi măng, vàng, |
bông, đốt nhang khử
ḷng trần. |
Thập nhị nhơn duyên là
nguyên nhân tạo ra Vũ Trụ. |
chấp 2 tay lại tượng
trưng Âm Dương. Lạy 3 lạy |
tu thiền để thành Phật.
Nếu tu chậm th́ kiếp khác tu tiếp cho đến
khi thành Phật. Chỉ có Đức Phật Thích Ca đắc
Phật, thiêu c̣n Xá Lợi. |
Những phần
giống nhau chứng minh rằng Đức Chúa Trời hay
Đức Thựợng Đế chiết thân xuống dạy
cho nhơn loại qua các thời kỳ. Thời kỳ chót
ngài ôn lại tất cả những ǵ mà chư Giáo Tổ
đă dạy để nhơn loại học ôn dự kỳ
thi chót là Long Hoa Đại Hội lúc Hạ Nguơn Mạt
Kiếp nầy
(2010, 2011, 2013) th́ trái đất thay đổi tất cả
lục địa, chết 9 phần, c̣n có một phần
mà thôi. Ai hiểu Thiên Cơ th́ ngay bây giờ rán tu cho kịp
kỳ Phán Xét cuối cùng nầy mà sống sót tu tiếp,
lên Niết Bàn, các cảnh cao như lên Quả cầu 67 hay
xuống Quả cầu thấp hơn.
Triết lư căn bản của các Tôn giáo là Tin có Đấng
Tối Cao là Đức Thượng Đế - Riêng Đạo
Phật là triết lư của giai đoạn đang t́m tứ
khổ, tự tu để diệt khổ, nếu chỉ
tin Thập Nhi nhân duyên và thuyết Không Không duyên khởi mà
không tin có Đức Thượng Đế th́ đó là giai
đoạn đầu mà thôi. Sau khi tiến đạo có
tŕnh độ khá th́ tự nhận biết là có Đấng
Sáng Tạo. Hiện nay chỉ có 1 vài vị tin có Trời mà
thôi .Thí dụ Hoà Thượng Tuyên Hóa bên Mỹ th́ tin, c̣n
đa số cứ măi dùng truyện "Bị thương
băng bó gấp, đừng hỏi máu chảy ra chết!"
để phủ nhận Đức Chúa Trời là làm hại
cho tín ngưỡng nhơn loại và thiên về Duy vật
biện chứng pháp rất nguy hiểm), nhưng Đạo
Phật chủ trương mở ḷng Từ Bi, biết
thương người và sinh linh, đó cũng là tiến
bộ, v́ những ǵ nhân loại đă học được
từ Đức Phật chỉ là lá trong nắm tay của
ngài, con sự minh triết của ngài th́ lớn lao như
lá cây trong rừng, và ngài dă tiên tri là pháp thiền mà ngày dạy
chỉ tồn tại có 1.500 năm mà thôi. Các tôn giáo đều
dạy : Thương người, Nhân ái, công bằng, b́nh
đẳng (không phân giai cấp như Ấn độ
giáo), tin có Trời và tin pháp Phật một lượt
như Đức Dalai Lama th́ mới là đúng chân lư trong
giáo lư Đạo Phật, do đó ngài là Thần tượng
của mọi tín đồ các tôn giáo cũ là phải!
Riêng trong Đạo Cao Đài th́ có câu: "Cao Đài
không Cao Đài mới chính thật là Cao Đài", có nghĩa
là người tu theo Đạo Cao Đài, không xưng là tín
đồ Đạo Cao Đài hay Đạo của chính
Đức Thượng Để mở ra ở thời kỳ
Phổ Độ lần thứ Ba hay lúc Nguơn thứ ba
sắp tàn, sẽ bước qua Ngươn mới hay trở
lại Ngươn đấu là Thượng Ngươn
Thánh Đức như xưa, mà ai thực hiện
được ḷng nhân đạo, biết thương
người khác, vong kỷ, vị tha, nhường cơm
xẻ áo khi cùng gặp hoạn nạn như nhau, tánh t́nh tập
hiền lành, nói năng dịu dàng, sống cho ra người
hiền đức, có nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín, không
tham, dục, sân, si mà nhịn nhục, hạ ḿnh, ai thấy
cũng mến thương, dù không có Sớ Cầu Đạo,
không ghi trong lư lịch là theo Đạo Cao Đài, nhưng
người khác thấy gương tốt trong đời
sống như thế th́ sau cùng hỏi: "ông tu theo giáo lư
nào vậy". Tới chừng đó đưa ra kinh, sách,
thánh giáo ra, th́ người hỏi đó mới xác nhận
vị không xưng Cao Đài chính thật là người hành
theo Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ hay Cao
Đài vậy, nhờ cách sống gương mẫu đó
mà cứ hỏi tiếp và lần lầm đi t́m Đạo
Cao Đài, v́ họ thấy quá mới mà chưa ai phổ biến,
ngược lại nhiểu người xưng là tín dồ
hay chức sắc Đạo Cao Đài mà chưa hoà đồng
, chưa khoan dung, thích chánh trị, chưa hoà đồng,
không chịu tu thiền , sửa tánh, chỉ lo đọc
kinh cấu lư và tin rằng cũng đắc Đạo và
lo đi phổ độ th́ ít ai nghe và theo Đạo
Cao Đài. C̣n Đạo Thiên Chúa th́ dù Đức Chúa Giê-su
đă dạy Luật Nhân Quả và Luân Hồi mà Toà Thánh
Vatican không tin, c̣n cấm chư vị Linh mục dạy,
đó là để ngăn cản Đức Tin những
người theo Đạo Ḍng từ đời cha đấn
đời con, cháu. và chắt. Sau cùng con cháu tự t́m học
chơn lư, bỏ Nhà thờ học Đạo Phật,
nhưng khi nghe chư vị tăng sĩ dạy là không có
Đức Chúa Trời, th́ lúc bấy giờ họ hoang mang
và quay lại Đạo Thiên Chúa, nghiên cứu Ḍng Tên tại
sao tu thiền, như vậy tu thiền theo Phật giáo th́
kết quả ra sao? Cái ṿng lẩn quẩn làm cho nhân loại
như ở trong huyền môn trận. Ngày 30.4.1975 Đức
Thượng Đế cho dân Việt Nam đi kháp nơi và
trong số người Đạo Cao Đài có mang theo kinh,
sách, thánh giáo Đạo Cao Đài, nhờ đ1o mà một số
người Mỹ xin nhập môn, đầu tiên là Bác sĩ,
Tiến sĩ, các học giả nghiên cứu Tôn giáo học,
c̣n ở Đức th́ Viện Đại Học Leipzig mở
thêm Viện Tôn Giáo Học, có mời người thuyết
tŕnh về Tôn giáo Cao Đài với đề tài: "Đạo
Cao Đài: Die neue Religion Gottes in der Dritten Phase der Erlösung und
Amnestie" do một nhân viên (tên là Peter Ha) làm tại Viện
Truyền Thông ĐHKH Munich, Germany thuyết tŕnh Luận án
Tiến sĩ viết xong mà không thi lấy bằng v́ lư do bị
kỳ thị Tôn giáo.
Để giải toả ảnh hưởng bảo thủ
nầy, các nhà nghiên cứu Tây Phương mới mở ra
môn Tôn Giáo Học Tỉ Giảo, môn Religious Tolerance, môn
Religion-Anschauung, Tôn giáo học... và họ thấy Tôn giáo do
chính Đức Thượng Đế mở mới là câu
giải đáp sau cùng cho họ để xoá tan những thắc
mắc về tín ngưỡng.
Môn Tôn Giáo Học Tỉ Giảo là
một môn học thuộc Tôn Giáo Học hay Nhân Chủng Tôn
Giáo Học nhằm bổ túc cho các nhà Tôn giáo học mất tự
do đầu tiên mà có tự do cuối cùng là tự do học
những Tôn Giáo mới, tự xoá bỏ những chấp ngă từng
người do ảnh hưởng từ lúc c̣n trẻ do
Tôn Giáo của gia đ́nh (đạo ḍng) và Hội Thánh giáo
dục thành ra bảo thủ hơn là rộng mở, thánh
quyền làm sức mạnh ngăn chận tín ngưỡng
khi Tự Do vượt thoát để t́m sự minh triết
và sự Hoà Đồng Tôn Giáo mới là động cơ
thúc đẩy để loài người nói chung hay các Khối
Tín Ngưỡng của các Dân Tộc nói riêng về Đức
Tin thí dụ như Khối Thiên Chúa Giáo, Khối Phật
Giáo, Khối Hồi Giáo… mà cả thế giới chỉ mới
biết chút ít về một Tôn Giáo mới do chính Đức
Thượng Đế khai mở tại Việt Nam vào
năm 1926 và coi như là một Tôn Giáo „mới lạ“ nên một
số ít học giả đă và đang nghiên cứu chứ
chưa lập môn Môn học mới gọi là „CAO-ĐÀI-HỌC“
(CaoDaitum theo tiếng Đức, Cao-Đài-Study = CaoDai-Studie,
Cao-Đài-Theology = Cao-Đài-Theologie = Theology of the
Cao-Đài-Religion = la théologie de la religion du Dieu Cao-Đài hay
Cao-Đài-ology…). Dự án nầy chúng tôi đă nghĩ đến
từ năm 1975 khi viết cuốn Thesis nầy mà biến
cố 30.4.1975 làm ngăn chận lại khi chúng tôi làm điển
kư tại Hội Thánh Di Lạc Vĩnh Long th́ thánh giáo giáng
cơ của Đức Di Lạc Thiên Tôn dạy “….Kể từ
nay (ngày giáng cơ là 20.10. Âm lịch, 1974) không
được cầu cơ nữa, không được mặc
áo tràng, về nhà tu và không cho ai biết ḿnh tu th́ mới
tránh khỏi cơ khảo đảo“ và sau ngài sẽ dạy
tiếp tại Thánh Địa và tại
vùng Cửu Long (có thể là ở Vùng Tiền Giang) khi Long
Hoa Đại Hội kết thúc.