Hởi các hàng căn cơ sứ mạng!
Bài Pháp Hoa Trang hôm nay nhằm
lưu lại
Chơn Truyền Phật Pháp Nhiệm Mầu cho Đời Thượng
Ngươn Thánh Đức, kịp
thời trong cơ chuyển Đại Đồng, khi sự vận chuyển Đạo
pháp của Cơ Thiên
trong Càn Khôn không bao giờ dừng
nghĩ, cũng như Bộ Máy Tiểu Châu
Thân
Con Người lúc nào những dòng mạch
lưu thông của huyết quản vẫn luôn
luân chuyển điều hòa, thông đồng
qua từng nhịp thở của con tim. Vì lẽ
đó trong Thần Điển của con người vẫn tương đồng
qua Khí Điển Tiên
Thiên của Trời Đất. Càng tinh ba
siêu việt hơn, bước đầu là Âm Nhi,
sau mới đạt thành Anh Nhi, có sức
sáng tỏa ra theo các đường khai
thông của huyệt đạo. Sự cao cả của Âm Nhi
lúc bấy giờ chính là Anh Nhi
Xá Lợi, nên việc khai thông nguồn
Thần Quang Điển kết tựu Anh Nhi Xá
Lợi là một Pháp Nhãn tuyệt vời
của Phật Pháp, đã từng xoay Máy
Điển
vào trong để nhiếp phục Thần Quang.
Nhân sanh đang bước vào sự tiến
hóa toàn cầu. Sự văn minh khoa học
tiến bộ đã khai triển nguồn điện năng
thiên nhiên làm phương tiện hữu
vi, đưa con người tiến tới một Xã Hội Tin Học
Toàn Diện; Cũng tương
đồng sự tiến hóa của Đạo Pháp
cùng một lúc khai triển Lý
Pháp Đạo, có
rất nhiều ấn chứng của mỗi Pháp Đạo được ban
truyền, nhằm đạt đến mục
đích tiến hóa cao cả, phụng sự Đại Đồng.
Đó chính là những siêu
lý của
Phật Pháp Nhiệm Mầu được ghi vào Cẩm
Nang Tuyệt Báu với tựa đề là Pháp
Hoa Trang, Vậy chư thiên mạng hãy đồng
tâm pháp tọa, nghe Bần Đạo
giảng giải kinh báu.
THƠ HOÀNG ĐIỂU
Đại Đồng chuyển Anh Nhi Xá Lợi,
Nguyên Lý khai vạn đại Càn
Khôn;
Pháp Chánh Thiên Môn,
Đại Từ chuyển vận.
Hồng quang linh động,
Ứng trụ Siêu Thiên.
Lập Chánh Giáo từ bổn giác
duyên,
Ngôi cửu ngũ tự tầm nội thể.
Hồng ân điểm thệ,
Lý nhiệm nghĩa nhân.
Thành tựu tinh thần,
Tàng Thơ Bửu Pháp.
Lập chánh danh căn duyên hòa
hạp,
Tiếp hoàn thành sứ mạng thời lai.
Khiếu sáng vạn khai,
Tự tầm kiến ngộ.
Thuần Dương pháp độ,
Hiệp tựu nội thân.
Nhất
Bộ huyền linh chuyển khai thông,
Lập thế giới Đại Đồng, Đại Đạo.
Quy nguyện Tam Giáo,
Hiệp nhứt Ngũ Chi.
Ứng pháp Tổng Quy,
Vô vi chuyển chiếu.
Linh Quang Nhi tuyệt nhiên kỳ diệu,
Cơ
Hà Đồ vận chuyển châu thân;
Thần Điển sáng ngần,
Khí Thần phối chuyển.
Linh thông đại điểm,
Khiếu điển vạn khai.
Lập Liên Hoa điểm tựu linh đài,
Xây Cửu Phẩm hòa minh Thiên địa.
Tất vận chuyển nghĩa,
Tất hiệp điểm truyền.
Tất hóa hiển Thiên,
Tất thông chuyển Địa.
Bần Đạo hiện Thích Ca khai chiếu,
Cơ nhiệm huyền lập Đạo Thiền Môn.
Ý thức thông chơn,
Quy Linh Hiệp Nhứt.
Tinh thần siêu xuất,
Ý chí ngời linh.
Tâm pháp ngời mẫn đạt lý minh,
Bút điển hiện tinh tường phẩm nhiệm.
Pháp do tâm hiện,
Tâm tại pháp hành.
Pháp điểm tâm sanh,
Tâm thâu pháp tướng.
Từ Pháp nhiệm huyền cơ chấp chưởng,
Lý Âm Dương hiển hiện hoằng thâm.
Bạch nhọc chi tâm,
Điểm kỳ bạch sắc.
Ngọc quang điểm Pháp,
Từ bổn giác duyên.
Cơ chánh định vận chuyển Pháp thiền,
Không ngại sự luân phiên nguồn
thái.
Sáng chân không thị,
Ngọc bút điểm duyên.
Chủ tại Ngươn Điền,
Điển Thiên hiệp tựu.
Linh Thông Điển thường nhiên
giáng ngự,
Hồng Huệ Từ phúc lạc Thiền Cơ.
Cội phúc xuân thơ,
Nguồn duyên cảnh lạc.
Thọ truyền Chơn Pháp,
Ứng ngộ điển linh.
Cảnh thiên nhiên Nhựt Nguyệt Hòa
Minh,,
Cơ Thiên Đạo Âm Dương Vận Thái..
Quy nguồn nhân ái,
Hiệp bổn yêu thương.
Khử trược tinh tường,
Lưu thanh hiển hiện.
Bổn tinh thanh, tịnh duyên, tịch chuyển,
Cơ diệu huyền, hiệp tuyển, lợi trinh.
Linh tự siêu linh,
Trùng trùng điệp điệp.
Huyền nhiên chuyển tiếp,
Vạn đại Thiên ân.
Khai Nhất Bộ điểm tại phục hườn,
Luyện Động Tịnh thuần chơn tuyệt kỹ.
Chuyển thành Tứ Quý,
Thống hiệp Âm Dương.
Vận chuyển Càn Khôn,
Hiệp duyên huyền bút.
Đệ Nhứt Thoàn trung thanh ẩn tục,
Tịnh lạc phân tương ứng kỳ duyên.
Ngũ Khí Triều Nguyên,
Thần Quang hiệp nhứt.
Trụ quy ý thức,
Điểm tại Huỳnh Đình.
Đệ nhị thoàn chơn giả tự minh,
Từ vạn đại linh thông điểm chuyển.
Nhiếp hòa tinh luyện,
Mật pháp vô vi.
Tiếp nhận Hồng Kỳ,
Tại phần Huỳnh Khiếu.
Đệ Tam Thoàn bất tri kỳ diệu,
Tự giác tha vi chiếu thể thông.
Khí vận Đại Đồng,
Thần thông siêu lý.
Hữu chung hữu thủy,
Mật chỉ thường hành.
Đệ Tứ Thoàn điểm sắc Thiên Thanh,
Hoằng hóa chuyển tịnh tường Tâm Mật.
Đại Đồng hiệp nhất,
Nguyên Lý quy gia.
Định tại Trung Tòa,
Thiền nơi Tâm Mật.
Đệ Ngũ Thoàn trụ hành như nhất,
Bất Thọ Tham, cẩn mật hàm ân.
Khai sáng tâm chơn,
Lập thành pháp chánh.
Âm Dương bửu cảnh,
Nhị khí Hoa Long.
Đệ Lục Thoàn phò trợ Viên
thông,
Hoằng Pháp ấn Đại Đồng chuyển hóa.
Cơ duyên thành quả,
Diệu dụng hành chuyên.
Ứng ngộ Chơn Truyền,
Lục Thông trọng đại.
Đệ Thất Thoàn hồng ân nhuận tải,
Lập huyền cơ, bộ máy vận hành.
Nguồn điển Nguyên Sinh,
Hòa An siêu lý.
Mật Tâm khai thị,
Lý nhiệm tinh anh.
Đệ Bát Thoàn thoát hóa
tâm sanh,
Trang nghiêm pháp cảnh thanh
nhàn hạ.
Nhuận thường cảm hóa,
Nguồn bổn cao nhiên.
Khai ngộ Chơn Truyền,
Giác duyên siêu lý.
Đệ Cửu Thoàn tinh ngần sắc chỉ,
Thông thoát từ vô thỉ, vô
chung.
Ứng lộ cửu cung,
Chơn như ấn tượng.
Vô thinh sắc tướng,
Thoát Pháp, thoát Ta.
Đệ Thập Thoàn luận giải tinh hoa,
Dụng luật chuyển phân minh yếu nhiệm.
Tùy duyên bổn thiện,
Giao thới vị ngôi.
Hữu bất lai hồi,
Như lai chánh chiếu.
Thập Nhứt Thoàn siêu nhiên khai
khiếu,
Chân Nguyên thừa tối diệu hồng ân.
Thanh tịnh chơn thân,
Khối Thiên hiển lộ.
Kim Chương đại độ,
Ngọc Điện đại ân.
Thập Nhị Thoàn tỏa chiếu tường vân,
Khai Đại Cửu đồng thông vạn pháp.
Khuôn Viên thông thoát,
Chánh Pháp toàn nhiên.
Đài Báu ứng thiêng,
Chân Nguyên lý giải.
Giảng Thánh Giá cao xa nghĩa
lý,
Khai nhiếp đồng: Nhiếp Thọ, Nhiếp Thông.
Chánh ý chơn tâm,
Đại Đồng khai thị.
Giải truyền siêu lý,
Giác ngộ cao thâm.
Chuyển Pháp Luân tùy sự
phù trầm,
Hành Mật Chỉ hòa tâm cảm ứng.
Quyền Năng Tối Thượng,
Diệu dụng thường nhiên.
Đạt lý diệu huyền,
Hồng ân nhuận tải.
Tiếp Nhị Bộ Đài Thiên vạn đại,
Sắc huỳnh quang nhuận tải toàn chung.
Ứng tự Kim Cung,
Ứng từ Kim Đảnh.
Ứng từ Kim Cảnh,
Ứng tự Kim Thân.
Chánh Pháp điểm Sứ Mạng Thiên
Ân,
Siêu Nhiên thọ hồng từ vạn đại.
Đồ Thư khai giải,
Bửu Pháp truyền y.
Nguyên Lý Nhất Quy,
Đại Đồng, Đại Đạo.
Tam Đài ứng, huyền huyền Cơ Tạo,
Mật Chỉ thông, diệu diệu Cơ Thiên.
Pháp Chánh Khuôn Viên,
Phẩm Nguyên Hồng Thệ.
Âm Dương Kim Thể,
Quả Vị Đài Chương.
THI BÀI
Chơn như tỏa sáng diệu thường,
Hồng ân điểm hóa rạng đường huyền vi.
Trong Thần Điển Anh Nhi Xá Lợi,
Máy Càn Khôn chuyển tới
cùng lui;
Vận xoay luân chuyển đúng thời,
Ngày sau mới biết cuộc đời thanh tân.
Vì trọng việc nghĩa nhân gìn
giữ,
Quyết làm tròn ý tứ bài
thơ;
Đường đi không thể sai giờ,
Chơn như hiển hích đợi chờ ngàn sau.
Vì khai được làu làu khiếu
sáng,
Là đem lòng tỏ rạng bên trong;
Ngọc làu nhờ biết chuyên cần,
Trau tria giồi luyện tinh thần sáng ra.
Còn điểm chiếu chương tòa ẩn hiện,
Ẩn rồi khai, rồi chuyển, rồi hành.
Chuyển hành, thâu nhập quẩn quanh,
Để hầu đạt được tinh anh nhiếp hòa.
Đây Bần Đạo thi ca bài giảng,
Đường Long Hoa tỏ rạng cơ truyền;
Rõ ràng trong bổn Chân
Nguyên,
Đại Thừa Chánh Giáo Chơn Truyền Tổng
Quy.
Rồi còn phải ra đi trở lại,
Trở lại rồi còn phải ra đi;
Đó là đến chỗ trường thi,
Đó là rực sáng những gì
Triều Nguyên.
Trong Khí Điển nào tìm tỏ
rõ,
Mở Tri Huyền kết ngõ Phi Long;
Tiếp theo là dạy chữ đồng,
Chữ đồng cũng ẩn nằm trong luật trình.
Vì tất cả tượng hình pháp thệ,
Trong tượng hình tựu thể Kim Quang;
Cho nên Thiền Định Pháp Thoàn,
Chủ truyền chuyển nhãn xoay tâm
làm đầu.
Sáng chân không, một bầu vũ trụ,
Càng rực ngời hội tựu cơ duyên;
Đó là hội chỗ Ngươn Điền,
Đó là hội chỗ Khối Nguyền Đại Đồng.
Bần Đạo giảng tiếp phần thi phú,
Để biết rằng thiền tựu nơi nào;
Niềm vui chen lẫn tự hào,
Tự hào khi thấy làu làu
báu châu.
Nhưng vui trong cái sầu là chẳng,
Vui trong phần phẳng lặng là hay;
Còn như chuyện chẳng giải bày,
Là điều ý nghĩa đơn sai làm
phiền.
Chỉ phiền thôi cũng duyên tan vỡ,
Chỉ phiền thôi cũng lỡ công đầu;
Cho nên thiền pháp báu
châu,
Gọi người vào chỗ công đầu viên
dung.
Đây giảng tiếp trùng trùng tự
toại,
Cho biết rằng trọng đại huyền nhiên;
Vì thương nên mới nỗi niềm,
Vì thương nên điểm pháp thiền
chơn tâm.
Còn cái chuyện xa xăm hơn nữa,
Là chỗ nào chẳng sửa đổi dời;
Chỉ vì lo ngại ôi thôi!
Ngại thời điểm Động ở thời Tịnh đây.
Pháp Hoa Trang truyền khai bí yếu,
Mà ngàn xưa tiêu biểu định
thiền;
Giờ đây làm sáng Chơn Truyền,
Dung Thông Đạt Ngộ ứng duyên Đại Đồng.
Để các hàng Thiền Tông Mật
Quán,
Kịp chuyển hành ứng bản chơn như;
Đại Đồng chung một Khối Hư,
Hườn Nguyên Chánh Giác Đại từ,
Đại bi.
Từ ý nghĩa Nhất Quy Thiên Đạo,
Đến những phần Vạn Giáo Đồng Nguyên;
Soi chung một bổn bí truyền,
Ứng trong tam cõi gắn liền xa xưa.
Đệ Nhứt Thoàn siêu thừa bí yếu,
Dùng Quyền Năng Linh Diệu của mình;
Rãi tâm bất trụ cao linh,
Nhìn trong mới thấy cái nhìn
Triều Nguơn.
Đệ Nhị Thoàn tiếng đờn dồn dã,
Nơi khiếu quang tiếp Hạ Ngươn Điền;
Lần xoay khoảng rộng vô biên,
Mới hay Phật Pháp tùy duyên để
cầu.
Đệ Tam Thoàn giải sầu nhân thế,
Lãnh lịnh tìm bảo vệ Pháp
Thân;
Chẳng đem sanh diệt lý phân,
Bất sanh, bất diệt sáng ngần tuệ quang.
Đệ Tứ Thoàn trần gian Tiên cảnh,
Là những phần rỗi rãnh tâm
trung;
Oai nghi tịch tĩnh viên dung,
Ngần soi tuệ giác ứng dùng huyền
nhiên.
Đệ Ngũ Thoàn tiếp liên Tam Bửu,
Bất Thọ Tham trước sự vọng cầu;
Tinh anh soi sáng quý mầu,
Kim quang ứng bởi thượng lầu Triều Nguơn.
Đệ Lục Thoàn kết đơn chánh
pháp,
Phải quán thông lục sắc thinh hương;
Trì Kinh công đức vô lường,
Niệm vô biệt niệm, diệu thường tinh anh.
Đệ Thất Thoàn năng hành, năng thuyết,
Hiệp tùy duyên minh triết hoằng dương;
Chân Nguyên là bổn diệu thường,
Cho nên chủ thể rạng đường hồng ân.
Đệ Bát Thoàn điểm phân tiếp độ,
Giải thoát từ lý Phổ, Thọ,
Thông;
Tròn duyên theo nghĩa Đại Đồng,
Cơ truyền bí chỉ kỳ công vững bền.
Đệ Cửu Thoàn xây nền Nguyên
Lý,
Xoay vào tâm phục thỉ châu nhi;
Sắc trần hàng phục lý quy,
Rạng phần đuốc huệ hội kỳ đại ân.
Đệ Thập Thoàn trụ trong bất trụ,
Điển Nguyên Sinh thành tựu Hòa
An;
Ứng linh, linh khiếu điển vàng,
Tinh tường Chơn Đạo muôn ngàn huệ linh.
Thập Nhứt Thoàn hữu tình buôn
xả,
Mọi danh xưng đều trả lại trần;
Trả luôn hai chữ Pháp Thân,
Trang nghiêm cõi pháp, tự ngần
cảnh quang.
Thập Nhị Thoàn niếc bàn vô sắc,
Đắc ở nơi vô đắc, vô phân;
Thoát vô, thoát hữu nguyên
nhân,
Chánh Đẳng Chánh Giác
sáng ngần Như Lai.
Giờ dạy việc thường hay giải luận,
Để đạt phần tiêu chuẩn cao xa;
Giữ tâm thanh tịnh sáng lòa,
Sáng nơi trí huệ nhiếp hòa hư
linh.
Mượn phương tiện để nhìn chuyển pháp,
Chuyển đặng rồi trả tất tiện phương;
Nếu còn tiếc nuối vấn vương,
Làm sao đạt lý diệu thường huyền vi.
Sự mơ ước thường khi ẩn hiện,
Cũng bởi do nguồn điện chưa thông;
Điển thông thì đạt Đại Đồng,
Quyền Năng Tối Thượng khắp trong vận hành.
Trí Bát Nhã bất sanh bất diệt,
Luôn hiện bằng minh triết tự minh;
Tường xem muôn vạn chúng sinh,
Chúng sinh là ở nơi mình điểm
mê.
Trí Bát Nhã chỉ về bến
giác,
Nhìn chúng sanh chẳng khác
sông mê;
Phật duyên quả phúc tìm về,
Hành thiền mật chỉ, thoát bề tử sanh.
Để từng bước đắc thành quả vị,
Từ hữu sanh tận chí vô sanh;
Hữu lai đến bất lai thành,
Bất lai đến chổ thường hành Như Lai.
Đây giảng về Hoằng Khai Chánh
Pháp,
Phải biết phần điểm đoạt đầu tiên;
Trở về Khối Đại Chân Nguyên,
Đó là ứng với Cơ Truyền Tổng Quy.
Còn nhiều chuyện phân chi, phân
cảnh,
Cũng tùy nghi điều chỉnh cho hay.
Việc chi cũng được phân bày,
Cơ truyền hiển hóa Tam Đài ứng linh.
Để kết tựu duyên lành căn phẩm,
Để lập thành tươi thắm hồng ân;
Đó là chỗ hiệp Đại Đồng,
Chớ nên sai chạy pháp công của
mình.
Còn việc chung cung đình rạng rỡ,
Nguồn Đại quang muôn thuở sáng ngời;
Hôm nay Bần Đạo đôi lời,
Cho chung tất cả đừng lơi tâm thành.
Đem phần dạy cao thanh hoằng hóa,
Pháp Hoa Trang cao cả toàn chung;
Chánh truyền tâm ấn tận cùng,
Đại Đồng Nguyên Lý trùng
phùng vị ngôi.
Các nguyên căn linh tử thọ Đại Hồng
Ân trong thời kỳ Quy Linh Hiệp
Nhứt, nên được nghe lời giảng giải Pháp
Hoa Trang nhằm vận chuyển
trong cơ Quy Pháp. Ở đây được chuyển về
một lý pháp Tổng Quy rất cao
cả, mà chỉ có những ai có thiện
chí tri tầm một cách nhiệt quyết, nhứt
là các hàng đã đạt ấn
chứng Pháp Đạo mới hầu thấu triệt những
ý mật
của Thiên Điều. Vì nhìn sơ qua
những điểm phần của Pháp Hoa Trang chỉ
nhận thấy cái lý lẽ bày giải
bên ngoài, trong khi cái lý
giải đó luôn
tựu trung ở phần nhứt lý, là làm
thế nào cho tất cả mọi người đều đạt
được sự mầu nhiệm của Cơ Thiên, vì
đó là Mật Tâm Chánh
Pháp, là Khẩu
Khuyết Tâm Truyền, nên càng tinh
tường tuyệt nhiệm ở Pháp Hoa Trang.
Sau đây là phần giảng giải về Kinh
Pháp được gắn liền giữa thơ Hoàng
Điểu và Thi Bài:
Như câu:
Trong Thần Điển Anh Nhi Xá Lợi,
Máy Càn Khôn chuyển tới
cùng lui;
Sự vận hành của Trời Đất luôn do phần
Âm Dương hiển lộ, chính vì sự
hiển lộ đã nhiếp phục được ý nghĩa hiệp
và tan, và kết quả của sự luân
chuyển ấy là một tiến trình mới, gọi
rằng Âm Nhi, cho đến Viên Thông
Vị Giác thì gọi rằng Anh Nhi Xá
lợi. Do luật chuyển đó nên thanh thăng
trược hạ và biến ra muôn trùng
Khí Điển, giai đoạn đầu là Âm Nhi
hay
Tinh Tử, sau kết thành Anh Nhi Xá lợi.
Nên viết:
Đại Đồng chuyển Anh Nhi Xá Lợi,
Nguyên Lý khai vạn đại Càn
Khôn;
Pháp Chánh Thiên Môn,
Đại Từ chuyển vận.
Hồng quang linh động,
Ứng trụ Siêu Thiên.
Còn câu:
Vận xoay luân chuyển đúng thời,
Ngày sau mới biết cuộc đời thanh tân.
Nếu nhìn lý giải đơn thuần thì
ai cũng có thể nhận rằng việc chuyển
đúng thời, thì mới thấy được sự thanh
tân của cuộc đời. Thanh tân là
ý
nói tâm thần mát mẽ, thanh tịnh tự
nhiên trang nghiêm thường lạc, chỗ
đó là nơi tốt đẹp nhứt của cuộc đời,
mà cuộc đời đây là sự vận chuyển
tâm pháp của con người thành tựu
duyên giác do tự tầm nội thể thâm
nhập sâu xa lý nhiệm nghĩa nhân.
Nên viết:
Lập Chánh Giáo từ bổn giác
duyên,
Ngôi cửu ngũ tự tầm nội thể.
Hồng ân điểm thệ,
Lý nhiệm nghĩa nhân.
Thành tựu tinh thần,
Tàng Thơ Bửu Pháp.
Còn câu:
Vì trọng việc nghĩa nhân gìn
giữ,
Quyết làm tròn ý tứ bài
thơ;
Nói đến chỗ nghĩa nhân là cần
phải ghi nhớ việc luân lưu của kiếp nhân
để xoay chuyển Đạo người trong sự tiến hóa.
Đó là cơ duyên hòa hạp
trong sứ mạng con người, nên ai cũng cần phải
tìm đến Tàng Thơ Bửu
Pháp để mà luyện Đạo, tu tiến.
Nên viết:
Lập chánh danh căn duyên hòa
hạp,
Tiếp hoàn thành sứ mạng thời lai.
Còn câu:
Đường đi không thể sai giờ,
Chơn như hiển hích đợi chờ ngàn sau.
Kiếp người ngắn ngũi, nên việc luyện Đạo tu
tiến không thể chờ đợi
nữa, mà hãy tự tạo cho mình đạt
được sự hiển hích của chơn như.
Nên viết:
Khiếu sáng vạn khai,
Tự tầm kiến ngộ.
Thuần Dương pháp độ,
Hiệp tựu nội thân.
Còn câu:
Vì khai làu làu khiếu
sáng,
Là đem lòng tỏ rạng bên trong;
Đó là chuyển pháp Nhất Bộ ở nội
thân do sự đồng thông ngoại thể theo
ý
Quy Tam Hiệp Ngũ để đạt được Đại Đồng, Đại Đạo, khai
sáng Khiếu Quang
Huỳnh Đạo.
Nên viết:
Nhất Bộ Huyền linh chuyển khai thông,
Lập thế giới Đại Đồng, Đại Đạo.
Quy Nguyện Tam Giáo,
Hiệp Nhứt Ngũ Chi.
Ứng pháp Tổng Quy,
Vô vi chuyển chiếu.
Còn câu:
Ngọc làu nhờ biết chuyên cân,
Trau tria giồi luyện tinh thần sáng xa.
Việc luyện Đạo là chuyển theo vòng
nguyên lý Hà Đồ Thiên Địa
Nhân Hợp
Nhứt theo lực chuyển Tiểu Châu Thân Con
Người hòa cùng Đại Châu Thân
Tạo Hóa, để Tiểu Châu Thân hườn
chân hữu thể là một Kim Thân tinh
anh
ngời sáng.
Nên viết:
Linh Quang Nhi tuyệt nhiên kỳ diệu,
Cơ Hà Đồ vận chuyển châu thân;
Còn câu:
Còn điểm chiếu chương tòa ẩn hiện,
Ẩn rồi khai, rồi chuyển, rồi hành.
Từ những bí pháp được tịnh luyện tạo
thành sự ngời sáng nơi trí huệ,
đó là nguồn gốc Trung Ương Khiếu Quang
Tòa Đạo, nên sự chuyển mỗi nơi
thì nơi Trung Ương Tòa Đạo đều có
sức thu hút rất là mạnh mẽ, để rồi
tiếp tục ẩn hiện, chuyển khai, luân hành
tiếp mãi.
Nên viết:
Thần Điển sáng ngần,
Khí Thần phối chuyển.
Linh thông đại điểm,
Khiếu điểm vạn khai.
Còn câu:
Chuyển hành, thâu nhập quẩn quanh,
Để hầu đạt được tinh anh nhiếp hòa.
Sức thu hút càng mạnh mẽ, càng
đạt được nhiều Khí Điển tinh anh ngời
sáng, Thần Điển hiển hích linh
thông, Tinh Điển dồi dào thể lực.
Đó
chính là ứng chuyển Tam Hoa thông
truyền Tựu Đảnh, mọi việc đều thông,
máy Càn Khôn đượm nhuần,
Thiên Địa tuần hườn đồng thông vạn hữu.
Nên viết:
Lập Liên Hoa điểm tựu linh đài,
Xây Cửu Phẩm hòa minh Thiên địa.
Tất vận chuyển nghĩa,
Tất hiệp điểm truyền.
Tất hóa hiển Thiên,
Tất thông chuyển Địa.
Còn câu:
Đây Bần Đạo thi ca bài giảng,
Đường Long Hoa tỏ rạng cơ truyền;
Rõ ràng trong bổn Chân
Nguyên,
Đại Thừa Chánh Giáo Chơn Truyền Tổng
Quy.
Cơ vận hành Pháp Đạo nhằm xây
dựng một cõi đời thanh tân trong con
người, đó là cuộc đỗi mới toàn
diện của Tiểu Châu Thân, là kiến
tạo
Long Hoa Đại Hội ở chính mình chớ
không đâu xa, vì tất cả là
cơ mầu
nhiệm của Lý Nguyên.
Nên viết:
Bần Đạo hiện Thích Ca khai chiếu,
Cơ nhiệm huyền lập Đạo thiền môn.
Còn câu:
Rồi còn phải ra đi trở lại,
Trở lại rồi còn phải ra đi;
Việc lập Đạo để đạt được phẩm vị cao cả bằng tất cả
sự chuyển cùng đi,
cùng về. Chỉ có liên tục đi đi về
về mới tạo thành một gạch nối liền
của vòng luân chuyển. Càng Thuần
Chơn Siêu Thức, càng Hiệp Nhứt Linh
Quy, tinh thần càng mẫn tuyệt, ý
chí càng siêu việt.
Nên viết:
Ý thức thông chơn,
Quy Linh Hiệp Nhứt.
Tinh thần siêu xuất,
Ý chí ngời linh.
Còn câu:
Đó là đến chỗ trường thi,
Đó là rực sáng những gì
Triều Nguyên.
Càng tinh tường Pháp Đạo càng
làm ngời linh bút điển, đó
là sự tinh vi
của nguồn máy để tiếp thu và ghi nhận
đã được khai mở nơi khiếu trung
gọi là máy điển Triều Ngươn do hiệp tựu
Ngũ Khí mà thành.
Nên viết:
Tâm pháp ngời mẫn đạt lý minh,
Bút điển hiện tinh tường phẩm nhiệm.
Pháp do tâm hiện,
Tâm tại pháp hành.
Pháp điểm tâm sanh,
Tâm thâu pháp tướng.
Còn câu:
Trong Khí Điển nào tìm tỏ
rõ,
Mở Tri Huyền kết ngõ Phi Long;
Tiếp theo là dạy chữ đồng,
Chữ đồng cũng ẩn nằm trong luật trình.
Khi tiếp thu linh điển nơi khiếu trung, cũng như sự
hổn hợp đầu tiên
của máy huyền tạo hóa, là
nói đến chữ đồng, tức là nói chỗ
hoàn thành
những màu sắc hiện hữu kết tựu lại màu
sắc duy nhứt gọi là “Thuần
Dương điểm sắc”. Sau khi gạn đục lóng trong soi
sáng trong vạn hữu, và
đó cũng chính là màu Kim
Thân Thánh Thể do đạt được ở ấn chứng
Pháp
Thoàn.
Nên viết:
Từ Pháp nhiệm huyền cơ chấp chưởng,
Lý Âm Dương hiển hiện hoằng thâm.
Bạch nhọc chi tâm,
Điểm kỳ bạch sắc.
Ngọc quang điểm Pháp,
Từ bổn giác duyên.
Còn câu:
Vì tất cả tượng hình pháp thệ,
Trong tượng hình tựu thể Kim Quang;
Cho nên Thiền Định Pháp Thoàn,
Chủ truyền chuyển nhãn xoay tâm
làm đầu.
Pháp Thoàn không ngoài
lý giải nội tâm của Tiểu Châu
Thân Tuần Hườn
Thiên Địa, là cơ trọng đại Hiệp Nhứt Quy
Linh, tâm không, tùy khiếu
điển. Nên vận chuyển Pháp Thoàn
thiền định trước phải gìn giữ trau
sữa thân tâm.
Nên viết:
Cơ chánh định vận chuyển Pháp thiền,
Không ngại sự luân phiên nguồn
thái.
Còn câu:
Sáng chân không, một bầu vũ trụ,
Càng rực ngời hội tựu cơ duyên;
Đó là hội chổ Ngươn Điền,
Đó là hội chổ Khối Nguyền Đại Đồng.
Luyện Đạo chủ yếu là luyện Tâm Thanh
Tịnh để hiệp nhứt với bổn chân
không. Ánh sáng ở nơi chân
không đã tự soi sáng hiệp tựu cơ
duyên và
soi sáng cả Ngươn Điền, soi sáng cả Khối
Nguyên Đại Đồng, vì ánh
sáng
đó ở nơi chân không chớ không
phải ở nơi vọng động. Cho nên muốn tầm
đăng cái bổn linh vi diệu phải tìm nơi
Tâm Thanh Tịnh hay tâm không,
nhưng phải tùy khiếu điển, để tâm
không luôn là diệu hữu thì
mới tìm
được Đuốc Thiên Từ Huệ là ánh
sáng của chính mình tự tầm tri
khai thị.
Nên viết:
Sáng chân không thị,
Ngọc bút điểm duyên.
Chủ tại Ngươn Điền,
Điển Thiên hiệp tựu.
Còn câu:
Bần Đạo giảng tiếp phần thi phú,
Để biết rằng thiền tựu nơi nào;
Niềm vui chen lẫn tự hào,
Tự hào khi thấy làu làu
báu châu.
Niềm hân hoan tiếp đón linh thông
Điển thường nhiên hiển hóa, đó
là do
Đuốc Thiên Từ Huệ hằng chuyển nhiệm mầu, như
thấy mình nơi cội phúc
xuân thơ, hay đáng hướng nguồn
duyên cảnh lạc, vì tâm pháp
rạng ngời
cảnh pháp.
Nên viết:
Linh Thông Điển thường nhiên
giáng ngự,
Hồng Huệ Từ phúc lạc Thiền Cơ.
Cội phúc xuân thơ,
Nguồn duyên cảnh lạc.
Thọ truyền Chơn Pháp,
Ứng ngộ điển linh.
Còn câu:
Nhưng vui trong cái sầu là chẳng,
Vui trong phần phẳng lặng là hay;
Còn như chuyện chẳng giải bày,
Là điều ý nghĩa đơn sai làm
phiền.
Dầu tâm thanh ở trong thể trược nhưng
không chấp vì động trược, mới
thật là niềm hân hoan, hân hoan từ
nguồn thương Nguyên Lý, cội nhớ Đại
Đồng, lưu lọc tinh tường tâm ý, giải
thoát mọi sự phiền thì mới là
hân
hoan thật sự .
Nên viết:
Cảnh thiên nhiên Nhựt Nguyệt Hòa
Minh,,
Cơ Thiên Đạo Âm Dương Vận Thái..
Quy nguồn nhân ái,
Hiệp bổn yêu thương.
Khử trược tinh tường,
Lưu thanh hiển hiện.
Còn câu:
Chỉ phiền thôi cũng duyên tan vỡ,
Chỉ phiền thôi cũng lỡ công đầu;
Cho nên thiền pháp báu
châu,
Gọi người vào chỗ công đầu viên
dung.
Hãy gạn đục lóng trong ở tâm
ý, vì có nhiều cặn bã,
đó là cái động
trược nặng nề như tất cả sự phiền là trược, lo
âu là trược, suy nghĩ
cho việc danh lợi ảo huyền để làm nô lệ
bận bịu kiếp nhân là trược,
buồn vui thương tiếc là trược, v.v… Vì
thế, chỉ phiền thôi cũng duyên
tan vỡ, chỉ phiền thôi cũng lỡ công đầu.
Tất cả sự phiền đều là trược
cả. Cho nên thiền pháp báu
châu, gọi người dứt hẳn sự phiền thì mới
vào chỗ công đầu viên dung. Khi
lắng được điểm trược thì trở về với
viên dung thanh tịnh sáng suốt tự
nhiên.
Nên viết:
Bổn tinh thanh tịnh duyên, tịch chuyển,
Cơ diệu huyền hiệp tuyển, lợi trinh.
Còn câu:
Đây giảng tiếp trùng trùng tự
toại,
Cho biết rằng trọng đại huyền nhiên;
Vì thương nên mới nỗi niềm,
Vì thương nên điểm pháp thiền
chơn tâm.
Dầu ở trong thể trược nhưng có được tâm
chơn ý chánh mới thật là tự
toại, đó là việc tịnh trong động. Khi
soi rọi đúng mức ở tâm chơn ý
chánh thì tự gợi nhớ tận nguồn linh hay
bổn giác, nơi ấy là khối tình
thương bất diệt, vô tận, hay chính
là Khối Nguyên, Thiên ân vạn
đại.
Nên viết:
Linh tự siêu linh,
Trùng trùng điệp điệp.
Huyền nhiên chuyển tiếp,
Vạn đại Thiên ân.
Còn câu:
Còn cái chuyện xa xăm hơn nữa,
Là chỗ nào chẳng sửa đổi dời;
Chỉ vì lo ngại ôi thôi!
Ngại thời điểm Động ở thời Tịnh đây.
Còn việc Động trong Tịnh thì mới
đáng ngại như người đang ngồi tịnh mà
vọng tâm khởi loạn thì cần phải sửa đổi.
Nên viết:
Khai Nhất Bộ điểm tại phục hườn,
Luyện Động Tịnh thuần chơn tuyệt kỹ.
Còn câu:
Pháp Hoa Trang truyền khai bí yếu,
Mà ngàn xưa tiêu biểu định
thiền;
Giờ đây làm sáng Chơn Truyền,
Dung Thông Đạt Ngộ ứng duyên Đại Đồng.
Để các hàng Thiền Tông Mật
Quán,
Kịp chuyển hành ứng bản chơn như;
Đại Đồng chung một Khối Hư,
Hườn nguyên Chánh Giác Đại từ,
Đại bi.
Từ ý nghĩa Nhất Quy Thiên Đạo,
Đến những phần Vạn Giáo Đồng Nguyên;
Soi chung một bổn bí truyền,
Ứng trong tam cõi gắn liền xa xưa.
Bí yếu của thiền định khi đạt Chơn Truyền
là nhờ lấy chỗ động làm
chất liệu để nung nấu luyện rèn, ấy gọi
là “Dung Thông Đạt Ngộ” cũng
là điểm đặc biệt của “Thiền Tông Mật
Quán”, dầu ở cơ cuộc như thế nào
vẫn luôn làm chủ bản thân chớ
không hề trốn chạy những điểm động khi
biết đó là phương tiện giúp ta
có chỗ để luyện, vì động hay tịnh cũng
như Âm với Dương, phải biết “Dung Thông
Đạt Ngộ” mới hiệp duyên cùng
Trời Đất đặng, nên lúc nào cũng
phải trau giồi bí yếu.
Nên viết:
Chuyển thành tứ quý,
Thống hiệp Âm Dương.
Vận chuyển Càn Khôn,
Hiệp duyên huyền bút.
Còn câu:
Đệ nhứt Thoàn siêu thừa bí yếu,
Dùng Quyền Năng Linh Diệu của mình;
Rãi tâm bất trụ cao linh,
Nhìn trong mới thấy cái nhìn
Triều Ngươn.
Đệ nhứt Thoàn nói đến chổ trau giồi
bí yếu là trau giồi cái Quyền
Năng
Linh Diệu của mình tự có, vì
trong sự Quyền Năng Linh Diệu chính là
Quyền Năng Tối Thượng của con người, mỗi mỗi đều
có tánh linh của
“Thượng Đế” do Tiểu Linh Quang chiết từ Khối Đại,
nên mỗi người đều
thể hiện được cái ý nghĩa siêu
thừa đang là điểm tựu của châu
thân,
cũng vì có châu thân,
nên ai cũng có Quyền Năng Tối Thượng như
nhau do
tự mình tìm hiểu mới hầu thông
suốt đặng. Thành Đạo hay chăng cũng là
nhờ sức vận chuyển những Quyền Năng Tối Thượng của
mình được hòa kết
với Quyền Năng Tối Thượng thường nhiên trong
thiên nhiên hằng hữu, thì
mới có đặng cái nhìn Triều Ngươn.
Đó là ý nghĩa quan trọng về quyền
lợi tối cao của mình sẳn có, để biết
dụng nó mà bảo vệ Kim Thân chuyển
thành Thánh Thể.
Khi có đặng cái nhìn Triều
Ngươn, tức là gom được Ngũ Khí
Châu ở phần
Tri Huyền Quang động tác Thuần Dương số 1,
tương ứng với Pháp Thoàn ở
phần Đệ Nhứt, chuyên luyện tích tựu Thần
Điển tại Huỳnh Đình.
Nên viết:
Đệ Nhứt Thoàn trung thanh ẩn tục,
Tịnh lạc phân tương ứng kỳ duyên.
Ngũ Khí Triều Nguyên,
Thần Quang hiệp nhứt.
Trụ quy ý thức,
Điểm tại Huỳnh Đình.
Còn câu:
Đệ nhị thoàn tiếng đờn dồn dã,
Nơi khiếu quang tiếp hạ ngươn điền;
Nói đến Ngũ Châu là điểm tựu
Huỳnh Đình Đại Châu Thân Tạo
Hóa, còn nói
đến Ngũ Tạng là điểm tựu Huỳnh Đình Tiểu
Châu Thân Con Người. Từ đó
thông về Huỳnh Lão Trung Ương.
Pháp luyện Thuần Dương không ngoài
sự
vận chuyển của Thần Điển. Cái nhìn
trút xuống Cung Huỳnh đình là một
sự gom tựu, Thần Điển của Pháp Thiền, và
nếu biết chổ để quang máy
điển vào trong thì thấy rõ Đại
Châu Thân dù to lớn vạn
trùng. Tuy
nhiên, sự chuyển Thần Điển với mục đích
siêu thừa vẫn là gom Tam Bửu,
tựu Ngũ Hành phân thành Ngũ Sắc
tương ứng Ngũ Quang và để thanh lọc
đến khi đưa về nhứt khiếu Huỳnh trung thì phải
là sự tinh thuần Bạch
Ngọc Quang rực rỡ.
Ngày xưa nơi linh Đài Phật Quốc, Đức Di
Lặc Phật Vương cũng từng hiện
lời trình bạch cùng Đức Như Lai qua
những ý bằng lời Zô Ta Pus thô
phas tha ga thi, lô ca sô za, bus a za, A
da hăn, da sa năn gas sa mi
là thể hiện ở khuôn viên thiền định
từ ngũ vị, ngũ hành.
Nên viết:
Đệ nhị thoàn chơn giả tự minh,
Từ vạn đại linh thông điểm chuyển.
Còn câu:
Lần xoay khoảng rộng vô biên,
Mới hay Phật Pháp tùy duyên để
cầu.
Đệ Nhị Thoàn là nói đến sự vận
chuyển của Thần Điển bên ngoài để kết
tinh chuyển về Huỳnh Đình và ứng nơi
khiếu quang bằng một cuộn phim
khoảng rộng trống không, Đệ Nhứt Thoàn
đã nói chỗ Tinh Điển diệu kỳ,
nhưng đó chỉ gôm tinh, dưỡng tinh. Đến Đệ
Nhị Thoàn mới thật sự là
phương pháp luyện tinh. Cho nên tựa thể
lần xoay khoảng rộng vô biên
để tiếp thu đặng nhiều Khí Dương của Trời Đất.
Sự thu Khí Điển vào
trong cuồng phim trắng tinh nguyên để tinh luyện
thành vật báu nhiệm
mầu, cũng như phim thâu ngoại cảnh bằng nguồn
linh diệu của điển
quang, luôn mượn ngoại cảnh để Nhiếp Thông
và Nhiếp Thọ.
Nên viết:
Nhiếp hòa tinh luyện,
Mật pháp vô vi.
Tiếp nhận Hồng Kỳ,
Tại phần Huỳnh Khiếu.
Còn câu:
Đệ Tam Thoàn giải sầu nhân thế,
Lãnh lịnh tìm bảo vệ Pháp
Thân;
Chẳng đem sanh diệt lý phân,
Bất sanh, bất diệt sáng ngần tuệ quang.
Các hàng Khất Sĩ, Sa Môn cần
phải thấu triệt lý pháp nhập định nầy,
làm thế nào cho Chơn Tinh được
luân chuyển đều đồng trong bộ máy giả
thể. Nhờ có luân chuyển đều đồng
nên Chơn Tinh được gắn liền với Thần
Điển vào những lúc Thần Điển còn
vật vờ chưa hoàn định được ý nghĩa
câu vô thi sa a ja ma, thì tức việc
thoát ly trần tục và đem lòng
thành kính của chư Thánh Tăng
chưa được khẳn định. Cũng như từ việc i
đết qua ta, mê đa na, a sa, qua khe za qua kha
a, hô za a na, là tất
cả những ân đức Tăng Bảo nói lên
Pháp Thoàn là pháp chủ
trì chánh yếu
của Tôn Sư để minh định lý giải nhằm kết
tựu Kim Thân Thánh Thể.
Đệ Tam Thoàn là điểm thâu đạt
những ý của Chơn Pháp, ý diệu
đó cũng
không ngoài việc lưu lọc từ ô
trược, và tịnh thanh. Cho nên giải sầu
nhân thế sẽ tìm từ nhân thế
mà thấu rõ những gì ở nội
tâm. Tâm bất
sanh, bất diệt thì sáng ngần tuệ quang,
là lời nói chỗ huyền khiếu
được rực sáng như trăng rằm, ấy là Thuần
Âm Siêu Việt bô thi, ba thi
sa thas ja ma, hãy tin tưởng làm theo
tinh ba nầy, và dâng hết tất cả
sự mầu nhiệm nầy để phục vụ cho Thần Điển, vì
Thần Điển là chủ thể của
trong muôn sự vạn vật.
Nên viết:
Đệ Tam Thoàn bất tri kỳ diệu,
Tự giác tha vi chiếu thể thông.
Khí vận Đại Đồng,
Thần thông siêu lý.
Hữu chung hữu thủy,
Mật chỉ thường hành.
Còn câu:
Đệ Tứ Thoàn trần gian Tiên cảnh,
Là những phần rỗi rãnh tâm
trung;
Oai nghi tịch tĩnh viên dung,
Ngần soi tuệ giác ứng dùng huyền
nhiên.
Đệ Tứ Thoàn là lý giải Chơn
Pháp khai thông điểm chiếu, khí
quang giao
thới trùng trùng. Nên là
điểm khai thông Khí Điển. tất cả sự ứng
hiện
bằng cả không gian khoảng trống của bầu hư linh
vũ trụ đang phủ trùm
mầu thanh thiên rực rỡ. khoảng trống không
đó cũng là ý diệu của chơn
tánh được giao thới cùng tất cả
các thể Pháp và Thân,
nên lãnh lịnh
tìm bảo vệ Pháp Thân và bảo
toàn Tâm Mật.
Chủ yếu chỗ rãnh rỗi cho tâm là
chỉ về khoảng trống của Đại Châu Thân
giao hòa rộng rãi cùng Tiểu
Châu Thân, là điểm liên quan
cùng tuệ
giác, cũng như sự liên đới của máy
Âm Dương Tuần Hườn Thiên Địa, biết
được điểm nầy thì sẽ rõ vì sao
có thành lập giới luật để cơ truyền
điều định trong trang nghiêm thanh tịnh từ sự
thành kỉnh Tam Bảo Bus
Thăng, Thom măn, săn răn là sự chân thật
nhất định, để thâu đạt các tinh tử.
Nên viết:
Đệ Tứ Thoàn điểm sắc Thiên Thanh,
Hoằng hóa chuyển tinh tường Tâm Mật.
Đại Đồng hiệp nhất,
Nguyên Lý quy gia.
Trụ tại Trung Tòa,
Trụ nơi Tâm Mật.
Còn câu:
Đệ Ngũ Thoàn tiếp liên Tam Bửu,
Bất thọ tham trước sự vọng cầu;
Tinh anh soi sáng quý mầu,
Kim quang ứng bởi thượng lầu Triều Nguơn.
Đệ Ngũ Thoàn là nói đến Triều
Nguơn, là điểm ngự tại nhứt khiếu, mà
ánh sáng tinh quang thì
lúc nào cũng do sức vận hành
trong Tam Bửu để
được hiệp tựu đủ đầy kể từ Đệ Nhứt Thoàn, Nhị
Thoàn, Tam Thoàn và Tứ
Thoàn. Nhờ sự vận chuyển bằng tất cả nguồn linh
diệu bên trong, đến
Ngũ Thoàn chỉ sự “Bất Thọ Tham” để khi đạt được
mà tránh mọi vọng cầu,
ấy là Mật Tâm Chơn Pháp, cũng
chính là việc kết tinh Tam Bửu.
Nên viết:
Đệ Ngũ Thoàn trụ hành như nhất,
Bất Thọ Tham, cẩn mật hàm ân.
Khai sáng tâm chơn,
Lập thành pháp chánh.
Âm Dương bửu cảnh,
Nhị khí Hoa Long.
Còn câu:
Đệ Lục Thoàn kết đơn chánh
pháp,
Phải quán thông lục sắc thinh hương;
Trì Kinh công đức vô lường,
Niệm vô biệt niệm, diệu thường tinh anh.
Đệ Lục Thoàn nói đến việc mở tâm
công đức vô lượng và niệm vô
biệt
niệm để quán thông Sắc, Thinh, Hương, Vị
Xúc, Pháp thì tinh anh thường
chiếu. Đó cũng là điểm chủ thi của con
người thường ứng trong khí vận
trợ điển cho điểm trọng yếu của linh hồn.
Đây chính là việc chỉ điểm của
hình đồ Đài Pháp Siêu
Nhiên tinh thông
tuyệt nhiệm. Những huyền cơ bí pháp nếu
ai kiến ngộ đặng thì sẽ thấu
đạt toàn nhiên sức năng rộng lớn của bầu
hư linh vũ trụ, còn như chưa
phân biệt đặng thì Chơn Pháp chưa
hoàn định, vì còn đang phân
biệt nào
Tam Quy Ngũ Giới, nào Lục Trần Lục Độ như
trã bài câu học thuộc lòng
u
vô sa thô, i ma sa tha thil, i mil cha bi
cha sa, mà không chịu thâm
nhập nghĩa lý ấy cho đúng mức, khi tất
cả chỉ là cái hình thức giả tạo
để kiềm giữ lục trần hầu biến pháp lục
thông. Vận chuyển đúng với
chiều hướng Lục Trần Lục Độ.
Nên viết:
Đệ Lục Thoàn phò trợ Viên
thông,
Hoằng Pháp ấn Đại Đồng chuyển hóa.
Cơ duyên thành quả,
Diệu dụng hành chuyên.
Ứng ngộ Chơn Truyền,
Lục Thông trọng đại.
Còn câu:
Đệ Thất Thoàn năng hành, năng thuyết,
Hiệp tùy duyên minh triết hoằng dương;
Chân Nguyên là bổn diệu thường,
Cho nên chủ thể rạng đường hồng ân.
Đệ Thất Thoàn là nói tính
chất viên thông hay tính chất Đại
Đồng có
quyền năng cực kỳ linh diệu đã được phân
giải từ Đệ Nhứt Thoàn. Tuy có
nhiều lý giải khác nhau, nhưng đồng điểm
khai thông Thần Điển. Vì Đệ
Nhất Thoàn “nhứt bổn tán vạn thù”
thì Đệ Nhị Thoàn “vạn quy nhứt bổn”,
nên nó tròn duyên tất cả.
Mới thật là: “Chân Nguyên là
bổn diệu
thường, cho nên chủ thể rạng đường hồng
ân”.
Nên viết:
Đệ Thất Thoàn hồng ân nhuận tải,
Lập huyền cơ trọng đại vận hành.
Nguồn điển Nguyên Sinh,
Hòa An siêu lý.
Mật Tâm khai thị,
Lý nhiệm tinh anh.
Còn câu:
Đệ Bát Thoàn điểm phân tiếp độ,
Giải thoát từ lý Phổ, Thọ,
Thông;
Tròn duyên theo nghĩa Đại Đồng,
Cơ truyền bí chỉ kỳ công vững bền.
Đệ Bát Thoàn ở phần đây là
việc Triều Nghi Thánh Giá vận khí
huờn đơn,
hiệp Âm Dương theo Hà Đồ Tiên
Thiên cho thuận vòng Bát Quan
mà chuyển,
chớ không nên chạy theo hữu hình,
và nhận việc thành tựu của Bát
Thoàn
chỉ là Bát Quan Trai giả định, tựa thể
hàng rào bao phủ bên ngoài
như
đi ba na ti ba ta, a i da na áp ra ma cha pa
sa, bua sa qua đa, sú rá
mê, sá rá mây, cha ba na,
đas tha na, vi ca bô sa na. Nas chú Ji
ta,
qua đi ta, vi su ca, mas sô đê na,
pô Ja, ta vi tô đô na, ta ra
rô na,
pa na vi u sa, nas tha na. Và điều bus sa, sas
sô na ma ha sa sô na,
mà phải cần giữ gìn và đem những
ý nghĩa đó để vận chuyển bên trong
thì đúng hơn. Nên việc Bát
Thoàn điểm phân tiếp độ, nhưng phải
làm sao
thoát đặng từ lý Phổ Hóa,
lý Nhiếp Thông, lý Nhiếp Thọ để
đặng tròn
duyên theo nghĩa Đại Đồng.
Nên viết:
Đệ Bát Thoàn thoát hóa
tâm sanh,
Trang nghiêm pháp cảnh thanh
nhàn hạ.
Nhuận thường cảm hóa,
Nguồn bổn cao nhiên.
Khai ngộ Chơn Truyền,
Giác duyên siêu lý.
Còn câu:
Đệ Cửu Thoàn xây nền Nguyên
Lý,
Xoay vào tâm phục thỉ châu nhi;
Sắc trần hàng phục lý quy,
Rạng phần đuốc huệ hội kỳ đại ân.
Đệ Cửu Thoàn là dùng quyền
pháp của mình mà thâu phục
mọi pháp trần
sắc tướng, để tất cả đều theo lý quy nhứt trong
mỗi vận hành.
Nên viết:
Đệ Cửu Thoàn tinh ngần sắc chỉ,
Thông thoát từ vô thỉ, vô
chung.
Ứng lộ cửu cung,
Chơn như ấn tượng.
Vô thinh sắc tướng,
Thoát Pháp, thoát Ta.
Còn câu:
Đệ Thập Thoàn trụ trong bất trụ,
Điển Nguyên Sinh thành tựu Hòa
An;
Ứng linh, linh khiếu điển vàng,
Tinh tường chơn Đạo muôn ngàn huệ linh.
Đệ Thập Thoàn khi nói về việc trụ trong
bất trụ. Dùng điển Nguyên Sinh
Hòa An màu xanh, để thu phục điển Cạnh
Tranh Nguyên Tử màu đỏ. Sự ứng
linh là hòa xanh đỏ ra vàng nơi
khiếu trung Huỳnh Đạo.
Nên viết:
Đệ Thập Thoàn luận giải tinh hoa,
Dụng luật chuyển phân minh yếu nhiệm.
Tùy duyên bổn thiện,
Giao thới vị ngôi.
Hữu bất lai hồi,
Như lai chánh chiếu.
Còn câu:
Thập Nhứt Thoàn hữu tình buôn
xả,
Mọi danh xưng đều trả lại trần;
Trả luôn hai chữ Pháp Thân,
Trang nghiêm cõi pháp, tự ngần
cảnh quang.
Thập Nhứt Thoàn nói đến giai đoạn
buông xả mọi pháp tướng để trở về
cõi pháp trang nghiêm.
Nên viết:
Thập Nhứt Thoàn siêu nhiên khai
khiếu,
Chân Nguyên thừa tối diệu hồng ân.
Thanh tịnh chơn thân,
Khối Thiên hiển lộ.
Kim Chương đại độ,
Ngọc Điện đại ân.
Còn câu:
Thập Nhị Thoàn niếc bàn vô sắc,
Đắc ở nơi vô đắc, vô phân;
Thoát vô, thoát hữu nguyên
nhân,
Chánh Đẳng Chánh Giác
sáng ngần Như Lai.
Thập Nhị Thoàn nói đến niếc bàn
vô sắc, là nói đến chỗ tâm
vô đắc,
chỗ ý vô phân, là sức
sáng Như Lai, Chánh Đẳng Chánh
Giác, phẩm vị
thông thoát hoàn toàn.
Đó là nói cái lý
mật nhiệm đã soi sáng tận
nguồn ân nguyên bổn.
Nên viết:
Thập Nhị Thoàn tỏa chiếu tường vân,
Khai Đại Cửu đồng thông vạn pháp.
Khuôn Viên thông thoát,
Chánh Pháp toàn nhiên.
Đài Báu ứng thiêng,
Chân Nguyên lý giải.
Còn câu:
Giờ dạy việc thường hay giải luận,
Để đạt phần tiêu chuẩn cao xa;
Giữ tâm thanh tịnh sáng lòa,
Sáng nơi trí huệ nhiếp hòa hư
linh.
Khi nhắc đến Thánh Giá, là điểm
chỉ tận tường Quy Tam Hiệp Ngũ, bởi
theo Thập Tự Tam Thanh giảng giải thì
Thánh Giá là sơ đồ Quy Tam Hiệp
Ngũ, là nói đến chỉ điểm đi tìm
Nguyên lý, vẹt phá bức màn
pháp tướng,
càng thông thuần lý pháp
càng ứng nghiệm chỗ Đồ Thơ.
Nên viết:
Giảng Thánh Giá cao xa nghĩa
lý,
Khai nhiếp đồng: Nhiếp Thọ, Nhiếp Thông.
Chánh ý chơn tâm,
Đại Đồng khai thị.
Giải truyền siêu lý,
Giác ngộ cao thâm.
Còn câu:
Mượn phương tiện để nhìn chuyển pháp,
Chuyển đặng rồi trả tất tiện phương;
Nếu còn tiếc nuối vấn vương,
Làm sao đạt lý diệu thường huyền vi.
Sự mơ ước thường khi ẩn hiện,
Cũng bởi do nguồn điện chưa thông;
Điển thông thì đạt Đại Đồng,
Quyền Năng Tối Thượng khắp trong vận hành.
Còn chỗ tùy duyên phương tiện
thì rất là cao cả. Nhờ có
tùy duyên nên
mới dễ dàng hòa nhập vào
các nguồn điển, nhờ thông các
nguồn điển mọi
phương tiện mới hiệp về cùng Nguyên
Lý.
Nên viết:
Chuyển Pháp Luân tùy sự
phù trầm,
Hành Mật Chỉ hòa tâm cảm ứng.
Quyền Năng Tối Thượng,
Diệu dụng thường nhiên.
Đạt lý diệu huyền,
Hồng ân nhuận tải.
Còn câu:
Trí Bát Nhã bất sanh bất diệt,
Luôn hiện bằng minh triết tự minh;
Tường xem muôn vạn chúng sinh,
Chúng sinh là ở nơi mình điểm
mê.
Trí Bát Nhã chỉ về bến
giác,
Nhìn chúng sanh chẳng khác
sông mê;
Phật duyên quả phúc tìm về,
Hành thiền mật chỉ, thoát bề tử sanh.
Để từng bước đắc thành quả vị,
Từ hữu sanh tận chí vô sanh;
Hữu lai đến bất lai thành,
Bất lai đến chổ thường hành Như Lai.
Còn việc trùng hưng bổn vị, là
bến giác, hay trí bát nhã
đã trọn lành
trọn sáng khi đã tận tường trong
lý Hữu Sanh và Vô Sanh chỉ
là một,
Nên viết:
Tiếp Nhị Bộ Đài Thiên vạn đại,
Sắc huỳnh quang nhuận tải toàn chung.
Ứng tự Kim Cung,
Ứng từ Kim Đảnh.
Ứng từ Kim Cảnh,
Ứng tự Kim Thân.
Còn câu:
Đây giảng về Hoằng Khai Chánh
Pháp,
Phải biết phần điểm đoạt đầu tiên;
Trở về Khối Đại Chân Nguyên,
Đó là ứng với Cơ Truyền Tổng Quy.
Còn nhiều chuyện phân chi, phân
cảnh,
Cũng tùy nghi điều chỉnh cho hay.
Việc chi cũng được phân bày,
Cơ truyền hiển hóa Tam Đài ứng linh.
Trong Nguyên Lý có đa dạng Chơn
Lý, nên mỗi Chơn Lý riêng
rồi sẽ hiệp
về với Chơn Lý gốc, đó là hiệp
Nguyên Lý, hiệp về Khối Đại.
Nên viết:
Chánh pháp điểm Sứ Mạng Thiên
Ân,
Siêu nhiên thọ hồng từ vạn đại.
Đồ Thư khai giải,
Bửu pháp truyền y.
Nguyên Lý Nhất Quy,
Đại Đồng, Đại Đạo.
Còn câu:
Để kết tựu duyên lành căn phẩm,
Để lập thành tươi thắm hồng ân;
Đó là chỗ hiệp Đại Đồng,
Chớ nên sai chạy pháp công của
mình.
Còn việc chung cung đình rạng rỡ,
Nguồn Đại quang muôn thuở sáng ngời;
Biết bao sự biến đổi trong cơ tuyển, cũng kịp thời
vận chuyển những
Sĩ Nguyên, Sĩ Đài của Đài
Báu Pháp Nguyên Thuần Dương hiển
hóa.
Nên viết:
Tam Đài ứng huyền huyền Cơ Tạo,
Mật Chỉ thông diệu diệu Cơ Thiên.
Pháp Chánh Khuôn Viên,
Phẩm Chương Hồng Thệ.
Âm Dương Kim Thể,
Quả Vị Đài Chương.
Còn câu:
Hôm nay Bần Đạo đôi lời,
Giã chung tất cả đừng lơi tâm
thành.
Đem phần dạy cao thanh hoằng hóa,
Pháp Hoa Trang cao cả cho chung;
Chánh truyền tâm ấn tận cùng,
Đại Đồng Nguyên Lý trùng
phùng vị ngôi.
Lời giảng Pháp Hoa Trang hôm nay thật
là viên mãn, là
Chánh Truyền Tâm
Ấn cho những ai cố tâm tầm lấy. Hãy hướng
về Nguyên Lý Đại Đồng, là
hướng về ngôi xưa vị cũ. Giờ ban ân chung
toàn đẳng, Bần Đạo trở về bổn vị /.
(Sao y máy ghi âm ngày 29
tháng 01 Kỷ Tỵ)