SƠ ĐỒ CÁC HUYỆT ĐẠO NHƠN THÂN TIỂU THIÊN ĐỊA
                                                   

Ngũ tạng tương ứng với Ngũ Hành và Ngũ Khí

BÁ HỘI

Tên Huyệt:

Huyệt là nơi các (nhiều = bách) các đường kinh Dương họp lại (hội) vì vậy gọi là Bách Hội.

 

Tên Khác:

Bách Hội, Duy Hội, Điên Thượng, Nê Hoàn Cung, Qủy Môn, Tam Dương, Tam Dương Ngũ Hội, Thiên Mãn, Thiên Sơn.

 


KHÍ HẢI

Tên Huyệt:

Huyệt được coi là bể (Hải ) của khí, vì vậy gọi là Khí Hải .

 


 

Tên Khác:

Bột Anh, Đan Điền, Hạ Hoang.

TOÀN CƠ




Tên Huyệt:

Toàn Cơ là trời của chòm sao, các sao khác vây quanh. Phế giống như trời của các tạng, mà lại ở giữa, có tác dụng tuyên thông Phế khí, vì vậy gọi là Toàn Cơ (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Triền Cơ, Triển Cơ, Truyền Cơ, Tuyền Cơ.
CỬU  VĨ

 

Tên Huyệt:

Đỉnh xương ức giống như đuôi con chim ban cưu, huyệt ở tại vị trí này, vì vậy gọi là Cưu Vĩ (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Hạt Cán, Vĩ Ế.

TRƯỜNG CƯỜNG = Sanh Tử Lộ = Vĩ Lư = Kundalini = Hỏa hầu

Tên Huyệt:

Huyệt là Lạc của mạch Đốc, ở giáp cột sống, đi lên đầu, tản ra ở vùng đầu, đường phân bố vừa dài (trường) vừa cường, vì vậy gọi là Trường Cường (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Cùng cốt, Hà Xa Lộ, Khí Chi Âm Khích, Mao Cốt Hạ Không, Mao Lư, Mao Thúy Cốt, Quy Mao, Quyết Cốt, Tam Phân Lư, Tào Khê Lộ, Thượng Thiên Thê, Triêu Thiên Sầm, Vĩ Lư.

 

Xuất Xứ:

Thiên ‘Kinh Mạch’ (LKhu.10).

Đặc Tính:

+ Huyệt thứ 1 của mạch Đốc.

+ Huyệt Lạc nối với mạch Nhâm (qua huyệt Hội Âm).

+ Hội của mạch Đốc với kinh Thận và Đởm .

+ Là 1 trong nhóm huyệt ‘Tuỷ Không’ (Phong Phủ - Đc.16), Ngân Giao (Đc. 28), Á Môn (Đc.15), Não Hộ (Đc. 17) và Trường Cường (Đc. 1) là những huyệt của tuỷ xương (thiên ‘Cốt Không Luận’, (TVấn.60).

Vị Trí:

Ở chỗ lõm sau hậu môn và trước đầu xương cụt 0, 3 thốn.






 Tề Thiên Đại Thánh cầm thước bảng lên làm loạn Thiên Cung = Khí Hư Vô đưa lên Nê Huờn Cung lúc công phu = Hồng Hài Nhi chạy xe 4 bánh bằng lửa chở Đạo hay Hư Vô chi Khí + Tinh + Khí + Thần khi lắc mình qua 3 cửa đóng tiền xa lộ để cổng mở chạy tiếp Auto route đi Paris hay Đường Minh Hoàn đi trên lưng những con quạ đen làm cầu bước lên gặp Hằng Nga và đến chỗ hẹn là chỗ cong lười là nơi động phòng hoa chúc, Tinh hai người xuất ra tại giáp mối của Nhâm (Âm hay Rồng chờ đón) và Đốc (Dương hay Cọp) phóng nguơn tinh hoà bạch đái (huyết tinh) chế ra ĐỀ HỒ = CAM LỒ tức nước miếng = Ngọc tử = Tiên Tửu = Bồ Đào = Bồ đào cam giá Tửu Nam phương = Bá Trản Cung Trần Mỹ Vị Hương = Tửu vị hương = Mỹ vị hương  Huỳnh tương tửu  => nuốt xuống như sữa nuôi Thánh Thai đang ngự tại Trung Điền cho lớn (trong vòng 3.000 lần bú sữa, khoảng 9 năm công phu tứ thời = nếu bận lo trả nợ đời thì bù thêm cho đủ khoảng 12 năm lúc bắt đầu tu luyện cho Kim Thân trưởng thành rời nơi tạm ngự ở Trung Điền lên Thiên Môn đi chu du trong Càn Khôn Thế giới.. Kim Thân hay phi thuyền của NASA phải đóng toàn bằng vàng 24 Karat thì lên Vũ Trụ bay đến Niết Bàn mới đến nơi, nếu còn dính vài mảnh kim loại xấu như thép, sắt, Alumium tức Hậu Thiên Khi hay thịt cá động vật = ăn mặn thì phi thuyền bằng vàng ròng có vài chỗ nứt ra = Thuyền Bác Nhã hay KIM THÂN sẽ bị sét đánh tan ra tro bụi (phi thuyền nổ tung vì ráp không đúng phẩm chất). Như vậy tu luyện CHIẾU MINH cho có KIM THÂN phải ăn chay trường và ngủ ngồi, vì dàn phóng hỏa tiển tại Cap Canaveral hay Cap Kennedy không xây thẳng đứng thì phóng hỏa tiển không lên đứng được.

Nếu ngủ nằm thì cái Vía đi ra ở  mỏ ác chứ không phải Kim Thân xuất ra:


Anh Nhi = Xá Lợi Phật = Phật tử hay Kim Thân lên Thiên môn xuất ra khi ngủ ngồi.



http://caodaigiaoly.free.fr/KhauKhuyetSoThienTamPhap.html

http://antruong.free.fr/congtruyenvatamphap.html


 

Video Tham Quan Thanh Dia Tay Ninh  1       4   5      7    8


    free web counter