CHƯỞNG GIÁO BÙI TRÍ
DŨNG
CHIẾU MINH GIÁO TOÀ B̀NH MINH – VĨNH LONG Năm 1998
LỜI TỰA
Với đương lối
chú trọng về giáo dục con người để sống
thuận hợp trên thế gian, các tôn giáo viết kinh sách
giúp cho họ học hiểu, những chủ thuyết, tư
tưởng để rồi thực hiện trau sửa.
Qua nhiều đời lưu truyền khiến nhân sinh choá
mắt trước thiên kinh vạn quyển họ lạc
v
Từ nhứt bổn ứng vạn
thù.
Nếu sinh nhân giác ngộ không
muốn quẩn quanh trong ṿng vạn hữu, trở về
nguồn cội, chỗ đơn nhất tối sơ, điểm
Một rốt ráo là đỉnh cao tột tâm linh, họ phải
hồi đầu hướng thượng, hiệp giác bội
trần, nương Hữu t́m Vô.
Từ vạn thù qui nhất bổn.
Con đường trở về
Một đó thật trọng đại vô cùng, một cuộc
trường kỳ kháng chiến không mệt mơi để
thắng giặc vô minh ở nơi ḷng. Nhờ phương
tiện thân xác và linh hồn khả dĩ giúp họ về
nguồn cội với kim chỉ nam định hướng
đúng đắn. Tâm lực mạnh mẽ, trí lực dồi
dào họ c̣n lo chi không qui hồi được.
Điều quan trọng nhân
sinh phải rơ là cần phải có trí tụê và đạt đến
cái thấy biết rốt ráo.
Với nhăn giới của Thiên
Chúa, thấy biết của Như Lai soi thông cả thảy
như nhật diện chói chang.
C̣n nhăn giới của thế tục,
tri kiến của chúng sanh như những v́ sao
trùng trùng điệp điệp trên bầu
trời, chỉ là đốm sáng lập loè.
Do đó thấy biết làm Một
là Trí, thấy biết làm nhiều là Ngu.
Chính v́ muốn tỏ rơ chỗ
đạo lư duy nhất không phân biệt, chẳng c̣n ta người,
hữu vô.
Phật Chúa là một.
Đông Tây là một.
Âm Dương là một.
Chân Lư là một.
Chỗ một đó mới thể
hiện cái đạo của Trời.
Như Thích Ca được
sinh ra ở phương Đông vào mùa hè nóng bức trong cung
điện vàng son, chăn ấm nệm êm, cao sang tột độ,
giai cấp thượng lưu Vua Chúa, Ngài cho ḿnh là Như
Lai.
Giêsu được sinh ra ở
phương Tây, vào mùa Đông rét mướt nơi hang đá,
nằm trên máng cỏ, nghèo khổ cùng đinh, giai cấp hạ
lưu du mục, Ngài gọi ḿnh là kẻ Trộm.
Ta thấy ở chỗ lưỡng
biên tương đối: Đông Tây, nóng lạnh, sang hèn,
thượng hạ, Như Lai và kẻ Trộm thật
không phải là hai, chỉ cần cái gạch nối liền
thành cái ṿng pháp luân hằng xoay vận chuyển, không trước,
không sau, không cao không thấp, không đến mà đến, đến
cũng như không đến, thể hiện Trung Đạo
thuần chơn tâm pháp ưu việt,
Tam Tạng Kinh: Di
Đà Diệu Pháp. Lạy
Cha Kinh Báu. Phương
Pháp Bồi Dưỡng
Sức Khoẻ và Tinh Thần.
Chỉ là một mà thôi.
Tuy ba mà một, tuy một mà ba.
Kinh pháp giúp cho nhân sinh giác ngộ
t́m về nguồn cội vừa tri vừa hành theo vô vi lư
nhiệm họ tận tâm thực hành, quyết chí luyện
trau, trước sau ǵ cũng có kết quả đúng như
yêu cầu, y như sở nguyện của ḿnh.
Một ḍng Đông, một ḍng
Tây liên kết.
Nhân sinh quả là diễm phúc. CHƯƠNG I LỜI KINH
DẪN NHẬP
Nhân sinh thường niệm kinh là
sách của các vị chơn
tu liễu tạo hoặc Giáo chủ của tôn giáo
lớn dụng tâm chỉ dạy đường lối tu
hành, giúp họ tầm tu về đạo đức, thực
hiện việc trau tâm luyện tánh. Ngoài ra có những kinh
do các đệ tử cận kề ghi chép lại những
lời thuyết giảng trong lúc hành đạo. Chính v́ vậy
sự sao đi chép lại nhiều lần làm mất đi
pháp ư, sai lệch máy trời, không hợp với sự
thuần nhiên; nhất là quư Ngài dùng thần
ngữ để diễn tả máy Trời - Thiên cơ mật
nhiệm hư hư thật thật, nữa kín nữa hở,
nói đầu giấu đuôi, nói đuôi giấu đầu,
nhân sinh xem th́ thấy, nhưng không hiểu, đạo mầu
quá cao sâu không thể dùng ḷng
phàm tánh tục để đo lường lời Tiên ư
Thánh nên không lănh hội chỗ duy nhất pháp.
Xem kinh nhân sinh chẳng hiểu
lại nghi ngờ những lời phán dạy đầy bí
ẩn, một đôi khi nó trái với thực tế chẳng
hợp với khoa học, nương tướng chấp
sự nên không rơ được tánh. Họ chỉ chấp
vào một cục diện của vấn đề nên không
hiểu đặng cái toàn chu nguyên thể, bất lượng,
bất tri, chẳng rơ đạo pháp ứng hiện. Điều
này nói lên thực tế như thể người mù xem voi,
chẳng có ánh sáng nên không thấu triệt thật tướng
của nó. Đó là nhăn giới của thế tục, thấy
biết của chúng sanh, những đốm sáng lập loè,
làm sao khai minh chỗ tối linh tối diệu, nên họ đành
cam với số phận sống trong ngục tù đen tối.
Nếu muốn liễu đạt
chơn lư nơi kinh văn cần phải có một tŕnh độ
tương đương với tác giả của nó, do đó
kinh sách là đuốc sáng soi đường cho kẻ đại
căn, nhưng lại là bẫy rập gài người hạ
trí. Nhân sinh muốn thấu triệt kinh văn cần phải
có ánh sáng mới thấy biết, cũng như những người
thợ chuyên môn nhận rơ thạch trung hữu ngọc,
trong đá có ngọc th́ việc xem kinh cũng vậy. Tất
cả kinh đều mượn lời bày lư, người
đọc phải đạt lư quên lời, nương
theo sự th́ chỉ biết được cái lớp vơ
bên ngoài, không rơ được thực chất ở bên
trong, cũng như một đứa trẻ lần đầu
tiên thấy sầu riêng, nghe mùi hương
bám mũi vào lớp vơ đụng phải gai nhọn làm chảy
máu, nên cảm thấy sợ hăi. C̣n người lớn biết
được bỏ lớp vỏ, để thưởng
thức cái vị ngon ngọt ở bên trong, mới thấy
giá trị của nó.
Kinh sách cũng vậy, dùng lời
mượn sự để phô bày cho nhân sinh t́m đọc,
học hiểu lư nhiệm sâu kín ẩn tàng ở bên trong.
Các vị tu hành thành đạo muốn lưu truyền cho
hậu thế dụng tâm chỉ
dạy việc cần phải làm trên lộ tŕnh từ mê đến
giác, phàm nên thánh để cho kẽ hậu học sau này biết
được từng mỗi giai đoạn tu tiến,
nhờ có kinh nghiệm quư báu của tiền nhân soi dẫn.
Họ không có ánh sáng để phân định th́ rất
nguy hiểm, cho nên việc t́m đạo nơi kinh sách không
những chẳng có lợi, lại gây tai hại lớn lao
có khi phí cả một đời chẳng tô bồi lại
phá hoại tiêu tan hết quư bửu của trời ban.
Như ta đă biết tất
cả các kinh sách lưu truyền trên thế gian này điều
do cái trí của con người tạo ra. Dù ta có ở lại
trên cỏi đời ngàn kiếp cũng không đọc hết
được, nhưng khi ta trau luyện cái trí đến
chỗ viên măn th́ thiên kinh vạn quyển nhất thời
minh. Điều này chứng tỏ cái trí của ta đối
với vũ trụ bao la khác nào như hạt cát trong sa mạc,
làm sao rơ thấu hết, nhưng một điều hiển
nhiên khi ta rơ biết tận tường hạt cát này th́ ta
biết được cả sa mạc gồm những hạt
cát như thế. Biết một là biết tất cả,
hiểu một là hiểu tất cả, tất cả đó
là cái đạo nơi ta.
“ biết được
Trời đất như hạt thóc, sợi lông như ḥn
núi là biết đạo”
Đi ra : đạo ra pháp
nhất bổn ứng vạn thù. Quy
hồi : vạn thù quy nhất bổn.
Chỗ đạo ra pháp ta phải
nương pháp trở về với đạo, thông cả
ngọn nguồn, hữu vô, đất trời là ta thấu
rơ tất cả.
Ta t́m ngay vào nguồn cội, miền
đất thánh sinh Chúa, mượn ngoài để biết
trong, tất nhiên sự thật lộ bày ra trước mắt.
- Miền Galilê cao tột cũng
là : thượng điền, cái đầu của
ta đấy. Miền này có đỉnh “Xinai”, biển
Galilê, Diêu Tŕ, Năo bộ, nơi đây thường có giông
băo rất nguy hiểm cho người lái thuyền qua biển,
tâm khí dấy động bất thường. (Biển
trần)
- Miền “Samari” ở giữa,
trung điền, ngực của con người. có
con sông “Jordan” với hai ḍng thuận
nghịch, thông thiên hà, cột sống, thông trên và dưới.
Mùa hè nước đổ xuống
xuôi ḍng, khô cạn, thuận đi ra vào biển chết.
Mùa xuân nước dâng trào, nghịch
chuyển về nguồn.
- Miền “Giuda” ở dưới, hạ
điền, bụng,
gồm có biển chết, Liên Tŕ, ao chứa tinh. Ta nhận
thấy:
Đi ra từ trên xuống dưới tuôn
ra
ngoài.
Quy hồi từ dưới
đi lên, nghịch chuyển về nguồn.
Miền đất thánh cũng
giống như thân thể con người, một tiểu
vũ trụ thu hẹp.
Chúa Jêsu sinh ra tại “Bêlehem”,
nhà kho chứa bánh ḿ, thức ăn đem lại sự sống,
cũng là đơn điền của ta để tạo
thần dược cứu khổ ban vui.
Ngài được 3 nhà Tiên Tri
dâng 3 bảo vật:
Người đă là lău thông
Thiên cơ mật pháp nuôi thánh thể bằng Tam bảo:
+ Vàng
:
Thần
+ Nhũ hương : Khí
+ Mộc dược : Tinh
Kết thành khối sáng, nhờ
có tinh đầy, khí đu, thần quang tỏ rạng.
Như vậy thân ta là một
quyển kinh của tất cả kinh, ta có bổn phận
t́m hiểu, thông đạt trọn vẹn bộ kinh này và
hết sức giữ ǵn nó để thực hiện đầu
tư lớn, kinh tế bản thân, sức
và tinh thần để trở thành hữu dụng. Đây
là vấn đề ta cần phải giải quyết trước
tiên, Thánh hoá đại kinh, không c̣n mờ lu u tối,
hắc ám, khổ đau, năo phiền
tiết, chất chứa đầy
thói hư tật xấu, cả một xă hội băng hoại
nơi ḷng nữa. Nhờ ta biết phương pháp giải
trừ ô nhiễm, khử trược lưu danh, khối
sáng trong ta hiện ra-Emanuel, “Trời con” ở với loài người
được đem ra soi rọi, biến mê thành giác, tối
thành sáng, phàm thành thánh, đây là nhiệm vụ thiết thực:
Thánh kinh của chính ḿnh.
Tự ḿnh hành, tự ḿnh đạt,
tự chứng đắc một cách hiện thực, không
mong vọng, chẳng nguyện cầu ta vẫn có được
báu kinh thật sự đem ra ứng dụng bất cứ
lúc nào.
Chính vô tự chơn kinh hiển
linh tột độ!. Trong giai đoạn thanh lọc bản
thể, từ tướng đến tánh, sức khoẻ
và tinh thần, thân tâm của ta đến chỗ tốt đẹp
trở thành quư bửu thật sự của giai đoạn
tự tu, tự độ, đắp
xây tô bồi rồi đến nhiệm vụ kế tiếp
rất quan trọng:
Kinh Thánh
Đem chơn kinh ứng dụng
đến cho mọi người được nhiều
sáng suốt, khải mê hoàn giác của giai đoạn giác
tha, độ tha chia xẽ lời Chúa.
Tự cứu khổ ban vui cho
chính ḿnh chưa đủ cần phải cứu khổ ban
vui cho mọi người, phổ độ chúng sanh của
thời kỳ tận độ, đem đạo vào đời
một cách vi diệu mới có giá trị thật sự.
Qua sự tŕnh bày về:
Thánh kinh và kinh Thánh: nhờ ta thực
hiện cái đạo nơi ta đến chỗ thành tựu
tốt đẹp, từ tiểu vị cá thể đến
đại đồng nhân loại, cứu khổ ban vui là
biểu tượng t́nh thương cao cả của Cha trời
ban xuống khắp cùng thiên hạ. Ta do
đạo tạo thành, nương ta t́m đạo, có ta là
có đạo, mất ta là mất đạo, làm chủ ta
là làm chủ đạo. Cơ thể
con người là vũ
trụ thu hẹp, tương tự như Đại vũ
trụ thế gian bên ngoài, nên được gọi là Thế
Gian Tiểu Đạo, ta quan sát để t́m hiểu :
- Đầu: sức nóng, ánh
sáng; Thần: thượng giới.
- Ngực: không khí, Khí: trung giới.
- Bụng: nước Tinh: hạ giới.
- Tam bữu của trời: Nhật,
nguyệt, tinh.
- Tam bữu của đất:, Hỏa, phong.
- Tam bữu của của người : tinh khí thần
Thuận sanh phàm - thần
ra tinh,
Nghịch chuyển thành Thánh.
Tinh quy thần.
Ta nương sự t́m ư, mượn
tướng rơ tánh, mượn cái dễ biết dễ thấy,
để tri thấu cái không biết không thấy, tất cả
sẽ lộ bày hiện ra trước mắt.
Ta đi ngay vào bộ phận đầu
năo, trung tâm điều khiển mọi hoạt động
đó là: cái đầu. Hiển hiện ra nơi cái mặt,
ta nhận rơ có:
Một cái gạch thẳng đứng
gọi là nhân trung, tượng trưng con người
ở giữa Trời và Đất.
Trên là Trời, dưới là đất.
Ḥa Thượng
lên Trời
Ḥa hạ xuống
đất.
Theo lẽ siêu đọa
của cơ Trời máy tạo.
Ta t́m hiểu dưới nhân
trung thuộc đất có:
- Cái miệng : trong chứa lưỡi ăn vật chất
để nuôi xác
thân, cũng là nơi tiếp thu nhiên liệu để giúp
cho cơ thể có năng lực hoạt động.
Ta tiếp tục quan sát: Hai
cánh tay có nhiệm vụ hoạt động ở hai bên ngực-Hai
chân ở hai bên bụng dưới giúp cho sự đi lại
Tận cùng thân có một lỗ
tiểu và một số lỗ đại để thải
cặn bă ra ngoài.
Lỗ tiểu cũng nằm
trong bộ phận sinh dục. Con
người nam hay nữ lớn lên đến tuổi 16 trăng
tṛn, tế bào sinh dục phát triển, từ vô sanh hữu,
chất nước ái ân được tạo ra, cái nguồn
nước này tuôn chảy theo định luật tức nước
vỡ bờ, rơi rớt tiêu hao.
Tinh lậu hết dầu, thần
mất sáng, đèn lu.
Người giác ngộ hiểu
rơ chỗ nguy hại ấy để biến dầu thành
ánh sáng, thực hiện việc tuyệt dục Nam nữ để
tô bồi thánh thể chân thân của ḿnh. Chúa giảng dạy
có phán: “có người hoạn từ trong bụng mẹ
sinh ra, có người hoạn bởi tay loài người và
có người tự làm nên hoạn v́ cớ nước
thiên đường”.
Người đời quan niệm
bộ phận sinh dục của nam nữ không ái ân giao hợp
được là hoạn.
Có người mang tật từ
lúc sơ sinh, cơ quan sinh dục không phát triển, bán nam
bán nữ theo h́nh thể phô lộ ra ngoài. Lại có người
v́ tai nạn hoặc tự ư giải phẩu cắt bỏ
h́nh thức đó để không thể ái ân giao hợp được.
V́ cớ nước Thiên Đường
tự làm nên hoạn.
Đây là một trường hợp
quan trọng nhất, bởi họ vẫn c̣n đủ bộ
phận sinh dục, có thể ái ân giao hợp được,
nhưng v́ họ giác ngộ hiểu rơ lợi ích của sự
tuyệt dục để dành nhiên liệu thấp sáng ngọn
đèn ḷng, khi họ may duyên gặp được chơn
truyền, có được cái ch́a khoá kết âm dương,
hữu dụng chất nước đó để tạo
trí tuệ, vun bồi thánh thể, ngọn đèn ḷng bừng
sáng, nhà tâm rạng rỡ, với tâm đăng chiếu diệu
thực hiện thiên đàng tự tại.
Phía trên nhân trung: Thuộc Trời
Có 1 cái mũi với hai lỗ
thở không khí ra vào.
Hai mắt thấy sắc.
Hai tai nghe thinh
Không khí, sắc thính vô h́nh của
trời.
Không khí để dưỡng nuôi tinh
thần, chân thân của
ta thật quan trọng vô cùng, nó không bao giờ hết, nguồn
cung cấp vô tận, chẳng hao công phí sức ta vẫn có
không khí để thở.
Nó c̣n liên lạc là sống, nó mất
liên lạc là chết.
Không khí của trời cho đời
sống tinh thần
Thiên ư để thực hiện
rơ ràng, con người ở giữa trời và đất.
Thiên địa nhân.
Nếu là người giác ngộ
phải rơ lư của trời đất, t́nh của vạn
vật, nhất là biết bổn phận hiện hữu
trong kiếp vi nhân.
Hăy hướng về trời
nhiều hơn đất:
Của Trời: 2 lỗ mũi,
2 mắt, 2 tai.
Của Đất: 1 cái miệng,
1 lỗ tiểu, 1 lỗ đại.
Chân nhân hiệp giác bội trần,
phàm nhân bám đất ĺa trời, theo đời bỏ rơi
đạo.
Qua sự t́m hiểu về miền
đất Thánh sanh Chúa cũng tương tợ như thân
xác của ta, một tiểu vũ trụ có đầy đủ
tất cả báu linh do Cha Trời ban cho để làm phương
tiện tu tiến. V́ vậy ta phải hết sức ǵn giữ
kho báu này để biến thành pháp bửu hữu hiệu..
LẠY
Đây là hành động của
nhân sinh để biểu tượng ḷng tôn kính đến
người trên trước hay Đấng thiêng liêng cao cả.
Họ dùng đôi bàn tay thực hiện việc xá lạy và
đôi chân qùy xuống, hai chân là phương tiện di hành,
giờ đây ngưng nghỉ để quy hướng về
đấng tôn kính.
Thường thế nhân thực
hiện theo tập quán không thấy ǵ thay đổi, tâm
tánh vẫn u mê, hành động bất nhân cứ tiếp diễn
măi. Họ cầu nguyện lạy bái, van xin khiến thân
xác tiêu hao, tinh thần lụn bại, bởi cái lạy
của họ nương tướng hành sự, chấp
vào pháp tướng của thế gian làm cho pháp tánh không thể
bộc lộ.
Tự họ đi vào con đường
đau khổ.
Chính đây là hành động muội
mê, hành không tri, trở thành ngu xuẩn, chẳng
có kết qủa rồi họ lại trách cứ Trời
Cha, Đấng Cao Cả, không thương tưởng đến
số phận hẩm hiu của họ để ban bố
phước lành, trợ lực, giúp sức trừ dứt
khổ đau theo điều ước nguyện.
Ta đi vào cái lạy chân thật
quy hướng Trời Cha nơi ta, trên đ́nh đầu
chỗ tối linh, Cao Đài đảnh thượng, để
quy hiệp cội nguồn.
Đây là cả một công tŕnh
vĩ đại, phấn đấu không ngừng, vượt
thắng chướng ngại từ khởi điểm
cho đến kết cuộc, phàm nên thánh, con Cha quy hiệp,
nhờ cái lạy chân thật, quy hướng nội tâm để
sáng ḷng thấy tánh. Phương pháp tu luyện của chơn
tu thật sự, ta cần t́m hiểu với h́nh thức
bên ngoài, rơ lư đạo bên trong.
Cái lạy được
trải qua nhiều thời kỳ, ta đi sâu vào mật
pháp để t́m hiểu chân giá trị của nó.
Ngày trước của đời Thượng ngươn lưu truyền cách
lạy
cha chỉ có dùng bàn tay trái để trước ngực,
tay trái thuộc dương, năm ngón tay là cái dụng tượng
trưng cho ngũ khí.
Đến đời Trung ngươn cái lạy tiếp nối thêm
bàn tay mặt cùng áp chặt
bàn tay trái ở ngay trước ngực. Đây là biểu tượng
đạo lư bàn tay trái thuộc dương, bàn tay mặt
thuộc âm, âm dương giao kết, chấp trung quán nhất,
tả chi hữu dục chẳng c̣n, ngũ khí giao hoà
với nhau.
Vào thời Hạ ngươn
mạt pháp, cái lạy thực thi đúng tâm pháp là đường
lối tu luyện, phàm nhân bắt chước cái lạy
hai tay ôm vào nhau nhưng không rơ cái dụng bên trong như thế
nào?
Tay trái thuộc dương,
ngón cái của bàn tay trái ấn vào phía dưới của
ngón áp úp làm thành một ṿng tṛn như h́nh sau đây. (H.1)
Đó
là Ấn Dương:
Ngón cái của bàn tay phải thuộc
âm để vào ṿng tṛn đó và ấn vào đầu ngón áp
út của bàn tay mặt.
Đó là Ấn Âm :
Những ngón của bàn tay phải
c̣n lại nắm gọn những ngón của bàn tay trái. Tượng
trưng ngũ khí giao hoà, âm dương hiệp nhất nên
gọi là hành kiết qủa. Đây là một phần trong
cách ráp nối của bộ máy Thiên, thực hiện để
khởi động luyện công. Điều này sẽ được
chỉ dẫn ở phần chơn truyền khi thọ
pháp.
Đối với những người
đă trau luyện tâm pháp, gầy dựng nơi ḿnh, bồi
dưỡng sức khoẻ và tinh thần, thân tâm đến
chỗ tốt đẹp, việc bái lạy được
chuyển hoá như sau:
Hai bàn tay phải và trái áp chặt
vào nhau, ngón cái của bàn tay trái để trên ngón cái của
bàn tay phải, âm dương giao hoà, ứng dụng quy hướng,
kính dâng Đấng Cao Cả. Cách lạy 2 bàn tay x̣e ra,
ngón cái của bàn tay trái để trên ngón cái của bàn tay
phải, đầu cuí xuống trên ngón cái giao hoà, biểu tượng
ứng dụng với khả năng dâng hiến trí tuệ
do ḿnh hành trau thành đạt. (H.2)
Đối với người
thay mặt Đấng Tối Cao ban thái cực pháp
lành, bố hoá điễn Thiên đến cho nhân sanh - đôi
bàn tay chắp lại ngón cái của bàn trái để trên bàn
tay của ngón cái của bàn tay phải x̣e ra đưa thẳng
ra phía trước. Đầu trung tâm điện năng, thái cực hai
cánh tay lưỡng nghi, hai ngón cái
chồng lên nhau là tứ tượng, tám ngón c̣n lại
là Bát quái, đem nguồn Thiên điển bố ban cho
chúng sanh thọ lănh.
Qua sự tŕnh bày về việc
ứng dụng cái lạy cho thấy đây là biểu tượng
xuất phát từ Vô ra Hữu,
nương Hữu t́m Vô, tri tường că Hữu Vô để
rơ thông mật pháp, áp dụng vào việc hành trau, bồi dưỡng
thân tâm không ngoài phương tiện sẵn có nơi ḿnh, khả
dĩ giúp ta trở về nguồn cội, con cha hội
ngộ.
V́ vậy Kinh Lạy Cha ta phải
đi sâu vào từng chi tiết của bộ máy Thiên, không
thể bỏ sót một bộ phận nào cả. Chính là lộ
tŕnh quy hướng mục tiêu, phản bổn hoàn nguyên,
con đường tu từ phàm phu thành Thánh Thiện,
hành giả phải trải qua từng giai đoạn từ
thấp đến cao, biết bao gian khổ mới hoàn tất
cuộc hành tŕnh
Kinh Lạy Cha
Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Nguyện danh Cha được
tôn thánh.
Ư Cha được nên ở dưới
đất
Cũng như ở trên trời
Xin cho chúng con đồ ăn
hôm nay đủ dùng.
Tha
nợ chúng con như chúng con tha kẻ mắc nợ chúng con
Chớ đưa chúng con vào sự
cám dỗ
Nhưng cứu chúng con khỏi
ác, “Amen” XXX
LẠY
CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI
Cha là nguồn
cội, Đại khối linh quang, trung tâm điện năng,
điểm một cao tột tâm linh, cũng là Cao Đài
của nhân loại. Từ nơi đó Tiểu Linh quang tách
rời xuống hồng trần nhập vào xác thịt, ứng
hiện một thể chất tinh anh, một tuyệt tác
phẩm của tạo hoá gồm cả Hữu Vô. Đạo
trở nên xác thịt.
Nhứt bổn ứng vạn
thù.
Đó là đường đi
ra chỗ sanh hoá vạn loài của Thế gian, đạo
ra pháp.
C̣n nơi Tiểu vũ trụ
của chúng ta ông Trời con ở với loài người,
cũng là thiên hạ, điểm linh quang làm chủ xác thịt, cao đài đảnh
thượng của con người
ngự trị trên đỉnh đầu.
Do định luật biến
thiên sanh hoá từ Vô sanh Hữu, thần ra tinh, trọng
trược nặng nề, đi ra là đọa lạc
không c̣n ở nguyên bản ban đầu, xa cội ly nguồn,
tiêu hao điện năng, làm cho khối sáng lu mờ, thần
hao bị bao phủ bởi màn vô minh.
Hữu tướng tâm che lấp,
nên vô tướng tánh không thể bộc phát.
V́ vậy con người sống
theo phàm tâm, hành động theo tục tánh, đánh mất
linh quang đèn ḷng lu mờ u tối, nhà tâm không c̣n trong sáng.
Bởi nhân sinh không rơ chỗ nguy hại làm tiêu hao quư bửu
: thần lao, khí tán, tinh lậu, Thánh thể hao ṃn do
hành động theo dục tánh, phải chịu cảnh trầm
luân khổ hải.
Đó là đi vào con đường
đọa lạc dẫn đến cảnh khổ.
C̣n người hiểu rơ lẽ
đạo. kịp thời chận đứng không để
cho tiêu hao tam bửu. Họ t́m cách phục hoàn, bồi dưỡng
trở lại, mượn hữu thân giả thể này, để
gầy dựng chân thân thánh thể, đó là hoài băo hướng
thượng trở lại cội nguồn, đại
hóa chúng sanh nơi ḷng, biết rơ cơ trời máy
tạo.
Đọa thành siêu.
Tinh quy thần.
Ngọn đèn ḷng đủ đầy
nhiên liệu, phục hồi sức sáng đó là “Lạy
Cha thiết thực” dâng hiến quư bữu cho Ngài.
Vạn thù quy nhất bổn
Pháp đạo hoàn nguyên
Con đường siêu thăng đưa ta
đến cảnh
hằng sống, nhờ biết phương pháp bồi dưỡng
thân tâm, gội rửa cỏi ḷng, giải trừ ô nhiễm
để cho sáng ḷng. Khi đă rơ lẽ đọa siêu
của cơ tạo máy trời.
Thuận đi ra là Đọa,
tiêu hao.
Nghịch quy hồi là Siêu, tích
lũy.
Là nhân sinh giác ngộ phải nương đất t́m trời,
mượn Hữu hành Vô,
dụng xác thân để công phu tu luyện nối liền
Hữu Vô, âm dương kết tụ, con cha không c̣n
xa cách; đây là nhiệm vụ thiết thực ta cần
phải làm nơi chính bản thân. Nhất là ta có sẵn đường
hướng đă định, phương tiện đủ
đầy, pháp môn hữu hiệu để thực hiện
cuộc hành tŕnh quy hướng Cha Trời là giác tánh, Thiên
tánh, tối thượng ở trên cao, nơi thượng
giới điều khiển mọi hoạt động
trong châu thân.
Con đường đưa
ta đến hạnh phúc an vui khác hẳn đường lối
“lạy
Cha ở dưới đất” quy hướng phàm tâm, dục
tánh điều khiển ta hành động đầy tham dục,
với thói hư tật xấu, làm tiêu tan hết quư bửu
của Trời ban, khiến ta đau khổ không dứt.
Như vậy ta nhận thấy
chỉ có hai con đường:
- Hiệp nhất âm dương
theo chánh pháp tạo tác ánh sáng, khởi sinh trí tuệ, phục
hồi Thánh thể, gầy dựng kinh tế bản thân, sức
khoẻ và tinh thần dồi dào sung măn, có được đời
sống tâm linh tinh minh rạng rỡ, đó là con đường
siêu thăng “lạy Cha ở trên Trời” một cách thiết
thực.
Thánh ở trên cao (Hoà thượng)
Hiệp nhất âm dương
theo phàm pháp sanh con đời, tiêu hao quư bửu, kinh tế bản
thân đi đến chỗ khánh tận, bởi v́ mê muội
chiều theo dục tánh, nô lệ phàm tâm, hành động thỏa
măn dục vọng cũng bởi “lạy Cha ở dưới
đất” mất hết linh quang, đời sống tâm
linh đen tối rối bù, con đường trần dẫn
nhân sinh vào cảnh khổ.
Phàm ở dưới đất
(Hoà hạ)
Qua sự t́m hiểu ở phần
thân xác của tiểu vũ trụ nơi con người
sinh hoạt theo định luật biến thiên:
Bộ ba “tam thanh vô vi”:Thần
Khí Tinh.
Thuận
đi ra sinh hóa, thánh thành phàm.
Nhất khí hóa tam thanh.
Nghịch sanh trở lại “vô
vi tam thanh”, tinh khí thần hợp nhất, phàm nên thánh.
Tam thanh hoàn nhất khí.
Thần ở trên đầu,
thượng giới sanh niệm đi ra chẵng c̣n nguyên
vị thành tư lự chi thần, không sáng suốt do hô hấp chi khí,
thành ra giao cảm chi tinh, chất
nước hữu h́nh trọng trược, phàm phu dùng nó để
thỏa măn nhân dục, trần tâm sai khiến, cha đất
chỉ huy, mây thành mưa, cuộc mây mưa diễn ra, nam nữ
giao ḥa, ân ái làm tinh lậu rơi rớt tiêu hao.
Nhờ lạy cha chân thật,
âm dương hiệp nhất theo chánh pháp nơi bản
thân, chuyển tinh hoá khi, khí hóa thần, siêu thăng thượng
đỉnh, trở thành CHÚA thánh.
Nhờ biết diệu dụng
thân xác hành trau để gầy dựng, tô bồi lại
thánh thể, đúng chánh pháp của Chúa đă chỉ
dạy, hướng thượng
nương hữu t́m vô, mượn giả hành chân, kính
dâng cha Trời đủ đầy quư bửu.
Con đường dẫn tới
sự sống đời đời là như thế đấy! CHƯƠNG III NGUYỆN DANH CHA ĐƯỢC
TÔN THÁNH.
Đạo
vốn vô danh, khối chơn tịnh điển điều
khiển đúng theo vô vi lư nhiệm.
Không làm mà làm tất cả, tất
cả cái làm ra đều do chỗ vô chủ xướng.
Chơn vô xuất sinh diệu hữu.
Người hành tâm pháp thực
hiện công phu bắt nhịp cầu thông hiệp giữa
hữu vô, âm dương giao ḥa, đó là ta thực hiện chơn
cầu nguyện để phát sinh ánh sáng, làm thối
chuyển tối tăm, giải trừ ô nhiểm, thanh lọc
tâm, gội rửa ḷng để có được ḷng trong
tánh sáng, đúng theo yêu cầu ư nguyện của
ḿnh.
Cầu cho ḷng
phàm dứt, nguyện cho tục
tánh tiêu, chuyển hóa phàm tâm
thành thánh tâm; đây là cuộc đại hóa chúng sinh nơi
ḷng tiêu trừ mọi hắc ám khổ đau, năo phiền
luỹ tiết, một xă hội đầy dẫy thói hư
tật xấu nơi ḷng trở thành thiện lương
trong lành. Tất cả đều do con người thực
hiện công phu mới có.
V́ vậy ta đi ngay vào nguồn
cội là tâm ḿnh để giải quyết mọi vấn đề.
Vạn sự do tâm tạo.
Nhờ tâm pháp hành trau để
đắc đạt tâm kinh. Tâm kinh là trở về với
bản thể thanh tịnh của nó. Từ chỗ thanh tịnh
phát sinh trí huệ giúp ta thấy chân biết thật.
Với tâm pháp là phương
pháp chánh yếu hành trau: mắt nh́n vào trong, tai nghe vào trong, lưỡi
nếm vào trong, thở chơn tức, tứ tổ quy gia:
các giác quan không c̣n phóng ngoại, buông lung như trước
nữa: nay đổi hướng thay chiều, quy hướng
nội tâm, gầy dựng tích lũy, tâm an b́nh, con người
thư thái.
Đây là việc làm tối ư
quan trọng của người hành tâm pháp để điều
nhiếp các giác quan trở thành tôi hiền tṛ ngoan, thánh hóa
chúng nó mới hữu dụng cho việc đầu tư lớn
lao của đời ḿnh, tạo tác sự sống và sự
sáng cũng là pháp mầu đầu tiên của Chúa thâu phục
bốn môn đồ ở biển Galilê.
Đoạn
kinh diễn tả như sau:
Chúa đi dọc theo mé biển
Galilê thấy hai anh em Simon cũng gọi là Pière André đương
thả lưới dưới biển, v́ hai anh em vốn
là người đánh cá, Chúa phán cùng họ rằng: “Các ngươi
hăy đi theo Ta, Ta khiến các ngươi nên tay đánh lưới
người”. Hai anh em bỏ lưới và đi theo Ngài.Từ
đó đi một đỗi xa xa nữa, Ngài thấy hai
anh em khác là Giacơ con Xêbêđê với em là Jean đang cùng
cha ḿnh là Xêbêđê vá lưới trong thuyền, Ngài bèn gọi
hai người, tức th́ hai người đó bỏ thuyền
và cha ḿnh để theo Ngài.
Chúa đi dọc theo mé biển
Galilê:
Biển là bể khổ , Ngài đứng
ngoài sự khổ làm nhiệm vụ cứu khổ, mé biển
là ranh phàm thánh. Hai anh em Pière André là người trầm
ḿnh trong bể khổ lại dùng phương tiện lưới
cá. Cá là loài sinh vật sống trong nước, phù hợp với
thủy tánh, thế mà hai người vớt cá ra khỏi nước,
trái thiên lư.
Người là sinh vật sống
trong không khí nhưng bị đắm ch́m trong bể khổ,
cần phải dùng chiếc lưới phép của Chúa vớt
họ ra khỏi biển trở về với cuộc sống
tự nhiên, thuận theo thiên lư, hợp lẽ đạo.
Nhờ họ nghe được
tiếng nói của thức tâm khai thị ngộ nhập
chân lư, hướng theo đường sáng mà đi, có hành
pháp lần lần khai mở thêm, bỏ đi người
cha già nua rồi, lại c̣n không bế lưới t́nh lủng
nát, đang nổi trôi trên biển ái nguồn ân. Khi giác ngộ
hai người hồi đầu hướng thượng,
hiệp giác bội trần, xa lià phàm tâm, không c̣n theo lối
sống củ nửa về với Chúa Thánh của ḿnh,
ngôi chánh đẳng chánh giác...
Đây là 4 giác quan ở nơi
mặt: mắt, tai, mũi, miệng được thánh hoá
không c̣n phóng ngoại, buông lung nơi hồng trần, lặn
hụp trong bể khổ, phụng sự cho phàm tâm sai khiến
điều khiển. Nhờ tiếng gọi của thức
tâm quy hồi hướng nội trở về với Chúa
Thánh của ḿnh. Trước là “tứ tướng ma da”,
“tứ hầu hổn thế ma vuơng”, nay hoán cải
thành 4 môn đồ đầu tiên của Chúa, Tứ
Thánh, Tứ Thiên Vương ngự trị 4 cửa trời,
hổ trợ cho ngôi vị Thánh Chúa hiển linh, phát quang rạng
rỡ, khai mở toàn năo bộ, thấy chân biết thật
có được nhăn giới của Thiên Chúa, danh Chúa rạng
ngời.
Đây cũng là biểu tượng
4 vị Thiên Vương dâng cho Như Lai 4 bát báu tạo tác
thức ăn cho Như Lai để cung cấp cho Phật
thân Thánh thể của ḿnh đủ đầy sung măn.
Việc làm thiết thực của
người tu chơn hành pháp đạo
là thánh hoá phàm phu, chuyển mê thành giác, các bộ phận chủ
yếu của đầu năo, không c̣n mờ lu u tối.
Sáng là thiên đàng, tối là địa
ngục.
“Dọn gai gốc tầm ra đường
sáng
Vẹt mây mù lố rạng trời
xanh”
Khi tà có sáng phá tan đen tối
Tư ta thực hiện thắp
sáng ngọn đèn ḷng, từ tâm đăng đến huệ
đăng, đạt qủa vị bất thối chuyển, thiên đăng nhật diện, hằng
sáng hằng
soi, nhan Chúa rạng ngời, chính do ta hành trau, đắc
đạt trí huệ để phá tan màn u tối, cái vô minh
nguyên thỉ chuyển hoá thành cái sáng tột độ, nhăn
giới của Thiên Chúa thấy biết tất cả, có như
thế đó “danh Cha mới được tôn Thánh thực
sự”. NƯỚC CHA ĐƯỢC ĐẾN
Nhân sinh
thường mơ tưởng đến cảnh giới
Thiên Đàng cực lạc trên thế gian này, đó là nước
trời, cỏi tiên không c̣n sự khổ, dứt hết
chiến tranh, nhân sinh trường thọ, người người
đều là thánh thiện nhân, nơi nơi đều vui
toại, khắp chốn được yên b́nh.
Tất cả mọi người
cùng nhau hạnh hưởng cỏi đời an lạc của
thời Thượng Ngươn Thánh Đức, nhưng họ
mong chờ măi vẫn không có được, bởi v́ họ
c̣n sống với tục tâm, đối đăi với nhau
bằng hận thù, “trả vay” “vay trả”, gây chiến
tranh giết hại lẫn nhau đưa nhân loại đến
cảnh cùng khổ; nhất là vào thời hạ ngươn
mạt pháp này, đạo đức suy vi, nhân tâm bất
nhất gây bao cảnh tang tóc khắp nơi, mỗi việc
mỗi khổ.
V́ vậy muốn hưởng
thời thượng ngươn Thánh Đức phải
có con người của Thánh đức đủ đầy
trí huệ mới hạnh hưởng những ǵ tạo
hoá bố ban tưởng thưởng cho họ trên cỏi
trần hoàn này. Muốn có đời sống tốt đẹp
an lành đó, không phải tự nhiên có sẵn, mà
phải do con người đắp
xây tạo dựng, từ mỗi người đến mọi
người, phải thực hiện đúng đường
lối tự cứu khổ ban vui cho chính ḿnh, giải trừ
ác nghiệp, dứt hết hận sân, để có được
t́nh thương bao rộng đối với mọi người.
Có được như thế trước sau ǵ nước
trời cũng đến. trước tiên muốn thực
hiện đường lối đó phải nhờ đến
phương pháp bồi dưỡng sức khoẻ và tinh
thần để có thân tâm an lạc.
VẠN SỰ DO TÂM
Tâm b́nh là thế giới b́nh.
làm cách nào để cho tâm b́nh đây?
Ta nhờ đến phương
pháp hữu hiệu này để đạt được
tâm kinh, trở về bản thể thanh tịnh của nó,
khởi sanh trí huệ, tinh thần sáng tỏ, hành động
tuyệt minh.
Chúa khẳng định và phán
quyết: “Ai ăn thịt Ta và uống huyết Ta mới
vào nước Thiên Đàng”. Đây là ẩn dụ thâm sâu đi
vào pháp đạo, tỏ rơ máy linh không bao giờ sai lệch,
nên không thể dùng ḷng phàm, tánh tục để đo lường
được, chỉ có người đi từ trên trời
xuống mới thấu rơ mà thôi.
Thiên cơ ẩn ẩn, nhơn
nan thức
Bất thị nguyên nhân bất
đắc văn.
Chân lư thể hiện rơ ràng,
thánh thể chân thân cái khối sáng trong ta, không tu lần lần
mờ lu, v́ bị tiêu hao, tinh thần kiệt quệ do thần
hao, khí tán tinh lậu, kho báu linh chẳng c̣n. Nếu là người
giác ngộ lập tức thay đổi đường lối
sống, thực hiện việc tô bồi cho khối sáng đó
phục lại hay tái sinh thánh thể bằng cách phục
tinh, dưỡng khí, tồn thần để cho tinh thần
khang kiện, đời sống tâm linh tinh minh rạng rỡ.
Điều này Chúa dạy pháp sanh lại tự hành trau và đắc
đạt. Đây là sự thật hiển nhiên của
Thiên Cơ mầu nhiệm. Ở điểm này người
nào c̣n chấp vào văn tự khó nhận ra diện lư rồi
nghi ngờ chỗtối mật của đạo pháp, nên
họ chẳng lănh hội được ǵ cả và lại
mang lắm điều nghi vấn ở nơi ḷng.
Thịt Chúa đâu mà ăn huyết
Chúa đâu mà uống? như vậy họ đành cam đọa
lạc, sống trong cảnh ngục tù măi sao? nhất là
Chúa sống cách đây gần 2.000 năm làm sao để gặp
Ngài chia thịt lấy huyết. Chúa chỉ rơ: Ta là thần,
là lửa là ngọn đèn lửa ở trên đầu, dầu
ở dưới bụng, ở giữa là không khí. Thịt
Chúa là lửa, huyết Chúa là dầu, ngọn đèn tâm linh
có lửa có dầu bừng cháy sáng, được cung cấp
đầy đủ không bao giờ tắt, sáng rỡ muôn
trùng, có cuộc sống đời đời là như thế.
Chính ngọn lửa thiêng đó
phá tan đen tối, sáng là thiên đường, tối là địa
ngục, tinh thần sung thiệm, chiếu minh khắp
chốn.
Lời Chúa ta phải thực
hành cho bằng được mới tham dự thiên đàng tâm,
tận hưởng cực lạc
quốc của chính ḿnh.
Như vậy chỉ có những
ai ra công nổ lực thực hiện công phu hành pháp, tự
gieo trồng hạt giống lành đến ngày thành qủa
là lẽ đương nhiên và hưởng qủa mới
là đại hạnh.
C̣n những ai vô phước vô
phần cứ trông mong ngóng đợi, cầu khẩn,
không gieo trồng lại đ̣i gặt qủa, trái với tự nhiên,
không thuận với lẽ đạo.
Họ phải chịu sống trong vô minh u tối, bởi
v́ họ hành mà không tri, nhắm mắt làm càn, không định
hướng, chẳng mục tiêu nên họ cứ quẩn
quanh măi trong ṿng vạn hửu.
Nước trời sẽ đến
do con người trí huệ làm nên đúng theo lẽ công bằng
của tạo hóa, tu nhiều hưởng nhiều, tu ít hưởng
ít, không tu không hưởng là lẽ đương nhiên.
Nguời tu tự ban vui cứu
khổ cho ḿnh, giải trừ ô nhiễm, trong tâm nội,
chuyển hóa vô minh thành ra trí huệ, tự họ thấy
chân biết thật, tháo gỡ mọi ràng buộc để
được tự do thông thả. Chính đây là đường
lối tu chân đích thực, tu hành đúng lẽ, tự dời
cái chân thường lạc đến với ḿnh. Tâm an b́nh
tự ḿnh chứng ngộ là diễm phúc tham dự nước
trời thật sự.
Tự cứu khổ ban vui cho
chính ḿnh chưa đủ, cần phải cứu khổ
ban vui cho mọi người, từ cá thể đến đại
đồng, tất cả mọi người đều được
an vui, dứt khổ, thế gian này, nhân loại này cùng nhau
hạnh hưởng cỏi đời an lạc thực sự
cũng là thiên đàng và niết bàn dành cho những thánh thiện
nhân đủ đầy phước đức. Ư CHA ĐƯỢC NÊN Ở DƯỚI
ĐẤT CŨNG NHƯ Ở TRÊN TRỜI
Người
thực hành phương pháp bồi dưỡng thân và tâm, hữu
và vô, sức khoẻ và tinh thần điều do ư điều
khiển. V́ vậy ư rất quan trọng nên hư ǵ cũng
do nó, ứng dụng chánh hay tà mà thôi. Nhất là nhờ vào sự
hành trau để chuyển hoá “Phàm ư”, thành “Thánh ư”. trong tiểu
thiên địa của ta.
Để hiểu rơ nơi tiểu
vũ trụ này, gồm có xác và hồn, đất trời
cùng chung một bọc, tuy hai mà một, tuy một mà hai,
không thể tách rời ra được. Đây là bộ
máy linh gồm có nhị thể xác thân và linh hồn cũng
c̣n gọi là vô thể nằm trong hữu thể,
hồn tiên trong xác tục, hồn trời
trong xác đất, hồn Phật trong xác ma.
Điều này khẳng định
thiếu một trong hai yếu tố sẽ mất hết
tác dụng. Chúa chỉ dạy rơ chỗ tối linh tối
diệu, vô thể nằm trong hữu thể:
Muối gồm có vật thể
và chất mặn bên trong, thể và dụng, nếu không có
vị mặn th́ không phải là muối, bởi v́ vị mặn
là bản chất của muối, không thể thiếu được;
muối mặn là vị thuốc chữa lành các vết thương
và giúp cho cơ thể con người cứng cát để
hoạt động, nếu dùng nhiều trở thành độc
chất làm nguy hại đến đời sống. Con người
là muối, muối có được từ trong nước
biển, “vị mặn” tượng trưng là sự khổ,
nếu họ không có khổ th́ không biết cái khổ như
thế nào để giải trừ và thăng tiến trên
đường
phát triển, nhờ biến khổ đau năo phiền thành
an vui phước huệ.
Phiền năo tức bồ đề,
chúng sanh tức phật tánh
Do đó con người gồm
có thân xác và linh hồn làm phương tiện tu tiến, nếu
đứt hơi ĺa mạng hồn ĺa khỏi xác, không c̣n
tác dụng, không thể nào hành trau. Thế nên khi c̣n sống
ta lợi dụng cái phàm thân giả thể này để gầy
dựng chơn thân thánh thể, tạo
tác trí huệ, thấy chân biết thật, thân tâm khang kiện,
hữu vô thăng tiến, sức khoẻ và tinh thần dồi
dào sung măn mới sống an vui và hạnh phúc trên cỏi đời
này.
Đây là công phu tu luyện hoàn
thiện từ hữu đến
vô, tuớng và tánh, đất và trời nơi tiểu vũ
trụ của ta. Tự ta làm nhiệm vụ thánh hoá biến
phàm ư thành thánh ư, cái giả ngă phàm phu thành chơn ngă
quang minh.
Đi vào chi tiết của bộ
máy linh nơi ḿnh từ trên xuống duới.
Phàm nhân do cơ đọa lạc
theo lẽ tự nhiên, thần ở trên đầu,
khí ở ngực, tinh nơi bụng, nặng nề trọng
trược, từ vô ra hữu, thần ra tinh, lửa ở
trên đầu, dầu ở dưới bụng cách xa ngàn
trùng, nước lạnh tuôn chảy măi, thần mất
tinh, thần chẳng c̣n đời sống tinh thần bị
đen tối.
Chân nhân hiểu rơ lẽ đọa
siêu của tạo hóa chi cớ nơi ḿnh, kịp thời
chận đứng sự tiêu hao mất mát, giữ dầu
bằng cách nghịch chuyển, gom thần, hấp hô tạo
nguồn hỏa hầu có sức nóng rọi xuống nước;
Nước thay đổi không c̣n lạnh lẻo, có độ
nóng, “thủy hỏa kư tế”, bốc hơi thăng
thượng lên đỉnh đầu gặp lửa điện
bừng cháy sáng - Tinh quy thần - Đất liền Trời
- Thượng hạ tương liên - Thần quang rạng
rỡ.
Điều quan trọng là làm
sao ứng dụng phù hợp ư trời điều khiển
thân xác của ta.
Thân: Phàm mê muội của đất.
Tinh thần: Thánh, sáng suốt của
trời.
Khi ứng dụng đất
trời không riêng rẽ, thể dụng tương đồng,
ngoài trong như nhất, ứng hiện chỗ ngũ quan:
Nhăn thức mắt thấy, nhỉ thức tai nghe, tỉ
thức mũi ngửi, thiệt
thức lưỡi nếm, thân thức thân tiếp xúc. Phàm
ư phóng ngoại theo ngũ quan tiêu hao của báu.
Thiên ư quy hồi, ngũ quan hướng
nội gầy dựng tích lỹ, biến ngũ thức thành
sở tác trí, ngũ quan được thánh hóa trong sáng cũng
là ngũ vị A - La - Hán hộ trợ cho Như Lai hay ngũ
hổ tướng oai nghiêm trấn giữ 5 ải để
đấng Quân vương ngự trị đất nước
thanh b́nh.
Như vậy nhờ công phu
hành trau chuyển hóa ư thức để ứng dụng
đúng theo thiên ư. Có ứng dụng cũng như không
ứng dụng, có thấy biết, dường như không
thấy biết, chẳng bám trụ ở một vị trí
đạt đến quả Vị Vô lâu đắc thành “Diệu
Quan Sát trí” cũng chính là ư cha đấy.
Khi người hành pháp tự
hành tự đạt tự điều khiển lấy chiếc
máy thiên của ḿnh, nhờ hiệp nhất âm dương,
càn khôn quy hết, pháp luân vận hành không c̣n đứng yên
một chỗ. Thượng hạ tương liên, đất trời giao kết không c̣n riêng rẽ nữa - Hữu vô hiệp nhất trong một xác thân. Một thể chất tinh anh, ứng dụng tuyệt mỹ, tự ta thắng phục cái tâm, định được cái trí, điều nhiếp các giác quan, làm chủ cái tiểu vũ trụ này thật là vạn hạnh! CHƯƠNG VI XIN CHO CHÚNG CON ĐỒ ĂN HÔM NAY ĐỦ
DÙNG.
Đồ
ăn là vật thực đem lại sự sống cho con
người cũng là nhiên liệu cung cấp cho cơ thể
tiếp thu để hoạt động, thế nên đồ
ăn rất quan trọng. Thiếu đồ ăn là mất
dần sự sống. Việc bồi dưỡng cơ thể
con người bằng vật thực phù hợp với lẽ
tự nhiên không thái quá chẳng bất cập.
Ta phải t́m hiểu sự
quan trọng của đồ ăn để nuôi sống
con người cũng là nhiên liệu tiếp thu của cơ
thể để hoạt động hằng ngày phải
như thế nào cho phù hợp đem đến lợi ích
và không gây nguy hại đến sự sống ?
Con người là tuyệt tác
phẩm của tạo hóa, cũng là sinh vật cao cấp
nhất trên thế gian này.
Cơ thể của con người
được cấu tạo giống nhau không sai khác, gồm
có xác thân và linh hồn; như vậy vật thực cung cấp
cho sự sống cũng gồm cả hữu và vô.
Miệng là chỗ tiếp thu vật
chất, đồ ăn của đất để nuôi
xác thân tùy theo tŕnh độ tiến hóa của nhân sinh.
Phàm nhân thích ái ân dục lạc
cố giữ cho thân xác được béo bở ph́ da, dụng
cao lương mỹ vị, cầm thú, thịt cá với đạm
động vật. Họ muốn cho thân xác này được
bền vững sống lâu để hưởng lạc
thú ở đời, nhưng không thể được, hữu
h́nh hữu hoại theo thời gian, nhất là đạm động
vật khó tiêu, nặng nề, thường tạo mỡ
gây bế tắc mạch máu và tăng áp huyết.
Đây là những người
theo thuyết lợi dưỡng chủ trương sống
để ăn. V́ vậy họ bận rộn vất
vă t́m kiếm thức ăn và tranh đấu với nhau để
giành sự sống.
Ngoài ra có một số người
dùng đạm thực vật gồm rau quả gọi là đồ
ăn chay. Những người này chủ trương ăn
để sống. trong kinh “Sáng thế” có nói đến
đồ ăn khi c̣n ở sơ khai gần cội nguồn,
Chúa phán: ”Này ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ
kết hạt mọc quanh mặt đất và các loại
cây sanh quả ấy là đồ ăn cho các ngươi:”..
Ta nhận thấy đồ ăn
Chúa chỉ dạy gồm đạm thực vật và
khuyên bảo con người phải kiêng ăn.
Ở điểm này có nhiều
người kích bác cho rằng ăn chay sẽ suy yếu,
v́ không có đủ chất bổ làm cho cơ thể bạc
nhược, mất hết sức sống.
Thật ra thử hỏi có ai mạnh
bằng con trâu, khỏe như voi chăng ? Vả lại
chúng chỉ chỉ ăn một ít cỏ. Thế nên ta phải
nhận thức một cách đúng đắn mới lănh hội
chân lư.
Hiện nay người ta khuyến
khích ăn đạm thực vật ít gây bệnh tật,
nhất là nó dễ tiêu nhẹ nhàng phù hợp với người
lớn tuổi.
Có người sợ vào thân xác
này kích thích đ̣i hỏi ái ân dục lạc, mắc phải
thân nghiệp, nên theo phương pháp khổ hạnh, ép xác
nhịn ăn gọi là pháp vô úy, cốt sao cho cơ thể
không c̣n đ̣i hỏi.
Việc làm này gây nguy hại chẳng
có lợi ích chi cả, thân xác thành ra vô dụng, không phù hợp
với tự nhiên, hủy hoại sức sống, khác nào
khắc nhượng con ngựa chứng trở nên què xụi
chẳng c̣n dùng được.
Ta đă rơ thân xác này ví như
con ngựa của ta cởi, ta phải làm chủ nó,
ngự trị vững vàng trên nó, từ con ngựa phàm trở
thành long mă để làm phương tiện giúp ta trên đường
trở về nguồn cội.
Một điều đáng chú ư
là nhiên liệu cung cấp thức ăn cho nó.
Máy tốt phải dùng nhiên liệu
tốt cho phù hợp, ta không thể dùng nhiên liệu bừa
băi, máy sẽ không chạy được.
Vật chất nuôi xác thân, c̣n
như thế nên dùng trai giới, chứa đạm thực
vật, chất tinh ba để cho thân thể nhẹ nhàng,
các cơ năng hoạt động thích ứng, ít gây bệnh
tật. Ta có bổn phận chăm sóc thân xác này để
lợi dụng nó vào mục đích phục hồi chân thân,
tái sinh thánh thể.
Đến đồ ăn của
Trời lại càng quan trọng hơn, đó là không khí.
Ta có thể nhịn ăn trong khoảng thời gian lâu cũng
được, nhưng hơi thở không ra vào, ngưng trệ
làm đứt hơi ĺa mạng ngay.
Không khí của trời cho đời
sống tinh thần.
Phàm nhân ít quan tâm để ư tới
bởi không khí khỏi mất tiền mua, chẳng hao công
phí sức, vẫn có không khí để thở. Không khí rất
cần thiết cho con người, giống như cá sống
trong nước vậy, xa rời nó là mất mạng ĺa đời.
C̣n thở là c̣n sự sống, hết thở là chết,
máy hết hoạt động. Con người hiểu biết
chỗ tối ư quan trọng nên t́m không khí trong lành để
thở.
Đồ ăn vật chất
của đất nuôi xác thân, không khí của trời nuôi
tinh thần, nhưng Chúa c̣n
có một món ăn vô cùng quư báu. Chúa phán: “Ta có một món ăn
mà các ngươi không hay biết”.
Thật mầu nhiệm thay lời
Chúa dạy. Đó là cơm Trời, thức ăn của Như
Lai, vượt ngoài sự hiểu biết của con người,
không có trong sách vỡ hoặc ngôn từ nào diễn tả đặng
chỉ có khẩu truyền tâm thọ.
Cơm Trời cho đời sống
chân thật.
Chính Chúa chỉ dạy trong mật
pháp vô vi chỗ tối linh tối diệu, cái thở của
chân nhân không do miệng mũi. Khẩu khuyết: “Nội bất xuất, ngoại bất
nhập - Phi bế
khí giả”
Không phải ở trong ra, không
phải bên ngoài vào, cũng không nín thở vậy.
Thật đây là điều
quá đổi khó khăn, phàm nhân không thể quan niệm nổi,
cái thở của chân tức - Tiên thở bằng rún - Chân
nhân thở đến gót chân.
Khi thọ bí pháp GIÁO SƯ tâm
pháp của Chiếu Minh Giáo Ṭa chỉ dẫn đường
hơi chơn tức, thở bằng tiên thiên khí. PHẬT
DẠY:
“Khi Như Lai muốn ăn th́
có 4 vị Thiên vương trên trời dâng cho 4 bát báu, Như
Lai gồm lại thành 1 bát duy nhất đựng thức ăn
cho Như Lai và Như Lai không bao giờ dùng tay lấy thức
ăn.”
Đây là công án tối quan trọng
của mật pháp vô vi để bồi dưỡng chân
thân, tái sinh thánh thể - khối sáng trong ta cũng là công phu
thiết thực của chân tu, khi theo chơn truyền pháp đạo
ra sức nỗ lực, nấu cơm Trời, có được
thức ăn cho Như Lai và làm ra món ăn của Chúa để
dâng hiến cho Ngài.
Theo tâm pháp bí truyền thực
hành bốn giác quan ở trên thượng giới phần đầu
năo là: mắt, tai, mũi, miệng phải được
thánh hóa không c̣n buông lung, quy hồi hướng nội, mắt
nh́n vào trong, hồi quang phản chiếu, tai nghe vào trong, lưỡi
nếm vào trong, mũi hấp hô chơn tức đúng cách.
Tứ tổ quy gia cũng là tứ thiên vương dâng cho
4 bát báu, quy hiệp đựng tiên thiên khí, tạo hỏa hầu,
hâm nóng hơi thở đúng cách gọi là nấu cơm Trời,
nướng bánh Phật v.v... Bát báu vô vi đựng tiên
thiên khí không phải là chén của ma quỷ, bát của nữ
yêu để dùng thỏa măn cơn đói ḷng theo thú nhục
dục.
Cách thở tiên thiên khí để
nuôi dưỡng chân thân, thánh thể khác hẳn cái thở
phàm phu, hô hấp chi khí do miệng mũi, nhờ hành
pháp công phu chuyển máy linh đúng chơn cơ càng ngày chân
thân khang kiện, trí tuệ mở khai, phát hiện “Cao Đài,
Nhan Chúa”.
Ở điểm này có người
hỏi tôi: tại sao lại không cúng gạo muối cho cô hồn
và đốt vàng bạc ở trên thiên bàn ? Nhất là tại
Chiếu Minh Giáo Ṭa ban truyền pháp đạo không có xin keo
như vậy có đúng ư thiên, môn đồ của phái Chiếu
Minh tu bị thổ huyết là cớ làm sao ?
Qua những vấn đề
nêu trên thắc mắc về chân truyền mật pháp, họ
dùng ḷng phàm tánh tục không thể đo lường ư thánh
nên không hiểu biết ǵ ráo.
Tôi nhă nhặn trả lời:
Chúng tôi thực hành pháp đạo
trong nội giới vô vi của tiểu thiên địa, nên
tất cả điều thắc mắc đó phải hiểu
bằng tâm pháp đại thừa.
Gạo muối tượng trưng
thức ăn đơn giản, đạm bạc cũng
là cơm Trời.
Người tu chơn hành pháp mỗi
ngày phải dâng cơm trời, món ăn cho Chúa bốn lần,
đó chính là tứ thời công phu, thở chơn tức bằng
tiên thiên khí. Do công phu lâu ngày mỗi tế bào đă được
một lượng thức ăn này, đến thời điểm
đó nó cần đ̣i hỏi, ta phải đáp ứng ngay
mới được khoan khoái. C̣n vào ngày mồng 2 - và 16 nước
lớn tượng trưng: tinh đầy khí đủ,
ta phải vận dụng hỏa công đun nóng tinh hóa khí,
khí hóa thần, khỏi bị tẩu lậu, rơi rớt
tiêu hao.
Như vậy trên đường
trở lại cơi trời thiên bàn thực sự, phải
hành công chu đáo mới hoàn tất công phu tu luyện, c̣n nương
theo sự của ḷng mê tánh tục, không ích lợi chi cho việc
trau tâm sửa tánh. Trên thiên bàn chỗ thờ Trời, Đấng
Tối Cao đủ đầy oai nghiêm, quyền năng tột
độ, lại c̣n sợ ma quỷ hay sao ? Đối
với việc xin keo
để được lănh pháp hành đạo. Keo
là gồm một âm một dương, khi thải ra thấy
một sấp một ngửa là xin được keo. Điều
này đi vào mật pháp vô vi, tự hành thủ công phu, thấy
rơ âm dương liên kết, keo sơn gắn bó, nối liền
không c̣n riêng rẽ nữa, đèn mới sáng, máy mới chạy,
tự ḿnh có pháp, đạt đạo lẽ đương
nhiên. C̣n hành theo ḷng mê, cầu mong may rủi, chấp sự
hành sữ mất đạo, tiêu tan ánh sáng.
Một số người tu
theo phái Chiếu Minh có nhiều duyên do đó Giáo chủ dạy
cho họ tùy theo căn cơ
Cao Đài ứng hóa theo ḷng
chúng sanh.
Để chọn mặt gởi
vàng, không thể đem của báu gởi vào tay phàm làm mất
chơn truyền nên Đức Ngài không dạy cho chơn tức
cách thở tiên thiên khí.
Thấy vậy họ canh căi chấp
vào văn tự do các đồng tử không biết pháp diễn
đạt, họ hành theo tâm phàm phải bị hư máy là
lẽ đương nhiên. “Mũi
hít vào trong vừa đủ phải”
Họ hít bằng lỗ mũi
là trái với chơn tức. Giáo chủ chỉ dạy cho họ
động tác như tập thể thao không cho chơn tức
để phát triển trí tuệ.
Chính v́ hành mà không tri, nhắm mắt
làm càng không thấy chẳng hiểu biết ǵ, họ phải
bị sụp hầm rớt hố phí cả đời để
t́m đạo, nhưng rồi đời mất, đạo
không, cũng bởi họ tu mê hành muôi, lănh lấy hậu
quả lớn lao.
Lạc sai luyện đến
bạc đầu như không.
V́ vậy người có đủ
nhân duyên phước đức mới ngộ chân pháp đúng
theo lời Chúa hằng dạy bảo ba hiệp công phu
luôn luôn tỉnh thức thực hành chơn cầu nguyện;
nấu cơm Trời, nướng bánh Phật, cất rượu
Tiên, làm rượu thánh để tận hưởng thành
quả.
Việc nấu cơm Trời
có được đồ ăn cho thánh thể như thế
nào ? Để cho phù hợp vừa đủ không thái quá,
chẳng bất cập đó là thực hành trung đạo
thuần chơn. Như ta đă biết việc nấu cơm
Trời khởi động tạo hỏa công, gây sức
nóng như lửa ngọn gọi là “Vơ hỏa”, khi cơm gần
chín dùng lửa than gọi là “Văn hỏa” hơi nóng xông
riêm đủ độ ấm làm cho cơm chín; Nếu
không nhận thức, hành chu đáo, đúng lúc đúng thời,
không đủ sức nóng ta lại bớt lửa sớm,
cơm sống, c̣n để trễ lửa nóng quá cơm
khét không dùng được.
Chính người thực hành phải
rơ biết t́nh trạng của ḿnh tu chứng ở vào giai đoạn
nào cho thích hợp. Có ra công gầy dựng mới hưởng
quả. Động là làm ra lửa, tịnh là sử dụng
hiệu năng thành quả. V́ vậy động tịnh
liên ḥa mới có kết quả, không c̣n riêng rẽ mới
có cơm Trời để ăn hữu dụng cho việc
gầy dựng chân thân thánh thể của ḿnh.
C̣n có trường hợp không
cơm mà lại đ̣i ăn, nên phải chịu đói ḷng
cũng giống như người có cơm mà không được
ăn vậy.
Điều này được
giải rơ như sau:
Động
và tịnh: Nấu cơm để ăn bồi dưỡng
chân thân.
Động mà không tịnh: Nấu
cơm nhưng không ăn.
Tịnh mà không động:
không nấu cơm lại đ̣i ăn.
Trong hai trường hợp sau
không cung cấp cho chân thân, vun bồi thánh thể để
cho nó tiêu hao kiệt quệ phản lại việc tu hành:
Tu nhưng thật không có tu, bởi
v́ không cung cấp ǵ cho chân thân của ḿnh cả.
Người tu chân phải công
phu hằng ngày mới có cơm Trời, bánh Phật, thức
ăn dâng hiến cho Như Lai. Có người v́ ḷng phàm tưởng
rằng ḿnh tu đủ rồi không cần tiếp tục
hành pháp nữa khác nào như ta đốt ngọn đèn”Ai đa” ra
sức bơm đủ hơi
thắp sáng vui chơi một thời gian hết hơi dầu,
đèn tắt liền phải chịu cảnh u tối, nếu
nhận rơ thực tại cần phải làm tiếp tục
hành công bơm hơi, đèn cháy trở lại, cũng là
phép sanh lại của Chúa đấy. Lời
kinh của Chúa thật vi
diệu ta phải nghiệm suy một cách chu đáo trong việc
hành pháp của ḿnh để tạo tác, gầy dựng ánh
sáng, phục hồi chân thân, vun bồi thánh thể, từ
chỗ tiêu hao lăo nhược trở thành sung măn tṛn đầy,
do công phu thiết thực, tô bồi chỗ khuyết sửa
chửa chỗ hư để được vuông tṛn.
Việc làm này ta phải luôn
luôn sáng suốt và theo dơi sự thăng tiến của pháp đạo,
kiểm chứng thích nghi ở vào từng giai đoạn,
khác nào như dưỡng nuôi con trẻ, đói cho ăn, no
ngũ kỷ, nó mới mau lớn thành nhân đắc dụng.
Đường hành đạo
của ta luôn luôn được Chúa soi dẫn tỏ tường,
từng lời từng chữ đều là châu ngọc quư
báu vô cùng. Ta không thể kinh thường v́ đây là những
kinh nghiệm giúp ích hữu hiệu trên đường đến
với Chúa.
Nhờ gia công nỗ lực bồi
dưỡng sức khỏe và tinh thần đúng phương
pháp cả hữu lẫn vô và bảo vệ chu đáo thân
tâm đến chỗ tốt đẹp.
Đây là một công tŕnh vĩ đại,
lắm công phu nhiều gian khổ không tự nhiên có sẵn
mà do con người làm nên tất cả.
Đường hành đạo,
tu thân chân chính do ta thực hiện dưới nhan Chúa ban bố
đầy điển huệ thật vinh quang và rạng rỡ!.
THA NỢ CHÚNG CON NHƯ
CHÚNG CON THA KẺ
MẮC NỢ CHÚNG CON.
Con người
vào cơi hồng trần này với một thân thịt và một
linh hồn, đó là điểm linh quang giúp cho họ sinh hoạt
trên thế gian này.
Đây cũng là một tiểu
vũ trụ thu hẹp với đầy đủ báu vật
của Đất Trời, cũng là vạn bữu nang của
Phật, Vườn đào của Tiên, Vườn nho của
Chúa, một tuyệt tác phẩm của tạo hóa đă h́nh
thành nên con người trọn
vẹn do: đất, nước, gió, lửa.
Con người sinh hoạt được
nhờ ăn của đất, thở của Trời, tạo
ra sự sống. Từ khi ra đời dần dần lớn
lên theo thời gian trưởng thành cả thể xác lẫn
tinh thần đến già bệnh hoạn rồi chết.
Một đời người diễn ra nơi cơi trần
này bởi lẽ Thành, Trụ, Hoại, Không, chẳng có một
ai tránh khỏi cả.
V́ vậy con người mang nợ
của đất trời để có sự sống trên
thế gian với thân xác và linh hồn, vật chất và
tinh thần, cả hữu lẫn vô. Họ nhận lănh vốn
liếng đầy đủ, nợ của đất trời,
để thực hiện cuộc đầu tư trong một
kiếp người.
Khi rơ được bổn phận
hiện hữu của kiếp vi nhân, ta phải làm như
thế nào cho xứng đáng là một con người tốt
đẹp, nhất là hoàn tất sứ mạng khi vào cơi hồng
trần này. Với
một thân thịt
và một cái Trí của Trời ban để làm lẽ
sống, ta mượn giả thân hữu thể này để
tô bồi cái thánh thể chân thân, ngày càng rạng rỡ thêm.
Nhờ có phương tiện
vay mượn, vốn liếng của đất trời để
thực hiện tạo tác ánh sáng, gầy dựng trí tuệ,
chỉnh trang cho đời sống tâm linh. Người đời
không biết cho nên đem ra phung phí của báu, tiêu xài hết
vốn liếng th́ lấy đâu làm phương tiện đầu
tư nên họ cam chịu sống trong cảnh đau khổ.
Nhờ rơ được sự
quan trọng đó ta bắt đầu thực hiện việc
gầy dựng chính yếu nơi bản thân, sức khỏe
và tinh thần, vốn một lợi nhuận muôn ngàn, là
thành tựu của đường lối tu thân chân chính.
Người tu chân quư trọng
của báu, bảo vệ chu đáo không để hao hụt,
ngày đêm hạ thủ công phu, chuyển pháp luân, gom góp những
hạt cát vàng răi rác trong chân thân nơi tiểu vũ trụ
này để h́nh thành kim cang thân, thánh thể của Chúa hiển
linh. Nhờ có sáng mới thấy biết, rơ thông sự việc
nơi cơi hồng trần này và đem ra ứng dụng đối
nhân ứng vật giải quyết mọi vấn đề
một cách thuận hợp, chuyển hóa cùng thành thông, bĩ
thành thới, loạn thành trị, thoát khỏi ràng buộc
vấn vươn.
Tất cả mọi phiền
năo, hắc ám đau khổ nơi ḷng đă cưu mang nhiều
đời nhiều kiếp, nợ nần oan nghiệp chồng
chất, thêm vào thất t́nh lục dục, với phép lành của
Chúa, bát nhă trong ta xua đuổi băy con quỷ và làm cho lục
căn thanh tịnh bằng nước thánh, uống vào say
sưa vui vẻ. Chính đây là phép rửa tội bằng lửa
tiêu trừ ô nhiễm, dứt hết tật bệnh của
trần tâm, tháo gỡ oan khiên nghiệp chướng, nợ
nần vay trả trả vay, giờ nay may duyên ngộ phùng
pháp đạo tu hành để giải thoát.
Chính v́ có những chướng
ngại khó khăn khảo trở mới đo lường
cái dụng do Huệ trí ứng hiện. Đây là quyền năng
tối thượng pháp mầu của Chúa giúp ta vượt
qua biển trần đầy sóng gió. Ta
đă mang nợ pháp, tất nhiên ta phải trả nợ
pháp.
Nhờ có pháp hành trau để
trở về với đạo là sự sống và sự
sáng trong ta, do tự tu, tự độ, tự ngộ, tự
tri, tự thành đạt lấy trong sứ mạng, tự
cứu khổ ban vui cho chính ḿnh của giai đoạn: Tự
độ tự giác.
Với thành tựu đạo
pháp, ta cần phải bố răi cái nguồn - ân phước
- Phép lành - cứu cánh đến cho mọi người của
giai đoạn: độ tha, giác tha. Sứ mạng cứu
khổ ban vui cho mọi người được ta thực
thi vi diệu, dạy người mà người không biết,
độ người mà người không hay, có như thế
sự cứu độ mới
trọn vẹn đúng đạo lư vô vi.
Ta mang nợ cũng như không
mang nợ, có ứng dụng dường như không ứng
dụng, mà lại ứng dụng hơn bao giờ hết,
đạt đến quả vi vô lậu, xuất sinh ánh
sáng, đắc đạt “B́nh đẳng tánh trí”.
Có sáng là soi rọi, soi rọi dường
như không soi rọi th́ cái soi rọi đó trùm bao tất cả
như thể tánh của mặt trời.
Con giống cha, cha con không sai
khác, cha có ǵ, con có nấy, đấy là bản thể của
tiểu vũ trụ thông lưu cùng bản thể của đại
vũ trụ. Con là thầy, thầy là con, con thầy hiệp
nhất. Chính chỗ vi diệu pháp: nợ cũng như
không nợ, vay cũng như không vay; Bởi v́ ta nợ với
ta, ta vay với ta. Ta là người, người là ta. Ta người
không sai khác.
Một thể chất tinh anh đem
ra ứng dụng tuyệt mỹ, thể dụng tương đồng,
ngoài trong
như nhất, không c̣n thấy sai biệt giữa ta, người,
hữu vô, thể và dụng.
Lời chúa được ta thực
thi đến trọng vẹn để có được
thân tâm hoàn mỹ. Đây chính là phần thưởng xứng
đáng cho người tu thân chân chính vượt hẳn mọi
chướng ngại khó khăn nơi thế trần mới
siêu giai giải thoát.
Tương đối tâm trở
về với tuyệt đối tánh.
Thể tánh của con người
ḥa nhập với thể tánh của Trời - Thiên nhơn
hiệp nhất trong một bộ máy hành tàng; đầy đủ
năng lực mới hữu dụng đem đến lợi
ích thiết thực cho con người hiện hữu trên
thế gian này.
Đây là pháp nhiệm Chúa đă
chỉ dạy cho con người có hoài băo thông hiệp với
Ngài nhờ hành trau và đắc đạt.
Con người sẽ làm nên tất
cả. CHƯƠNG VIII CHỚ ĐƯA CHÚNG CON VÀO
SỰ CÁM DỖ
Con người
sống trên thế gian này để học hỏi và thăng
tiến, tùy theo tŕnh độ của mỗi người đem
ra ứng dụng khả năng của ḿnh trong sinh hoạt
hàng ngày, nhân đó có thể đo lường cường độ
sức giác ngộ và tính liễu tri của họ.
Chân nhân tu hành trau tâm luyện
tánh, thực hiện đầu tư trí tuệ, bồi dưỡng
thân tâm, đáp ứng với muôn ngàn thử thách ở đời.
Nhờ có những vấn đề khi họ tiếp cận
với xă hội bên ngoài, đối mặt với thực
tế, mới đánh giá đúng mức thành tựu trau sửa;
bởi v́ đây là những dịp tốt để giúp họ
thi thố tài năng, kiểm chứng lại thực chất
khi đem ra ứng dụng.
Thánh dụng hay phàm dụng, từ
tánh ra hạnh. Khi ḥa nhập với đời, con người
phải chịu đựng biết bao cám dỗ, hấp lực
lôi cuốn của t́nh, tiền, danh, lợi làm cho tinh thần
dao động, không c̣n tự chủ, thần trí theo các giác
quan phóng hoại; mắt thấy cái đẹp cái xinh, tai
nghe lời ngon tiếng ngọt, mũi ngữi mùi hương
thơm tho kích thích, lưỡi nếm vị đời ham
muốn, thân thịt đụng chạm da mát thịt mềm
cảm xúc, người đời đắm đuối
say mê, đ̣i hỏi rồi thỏa măn, cứ tiếp nối
măi không dứt, khiến họ bị đau khổ nơi
chốn biển trần. Phàm nhân để giả tâm làm chủ
sai khiến họ trở thành nô lệ cho tham dục. Ngay cả
người tu hữu tướng, hướng theo hữu
vi, Chúa gọi kẻ tu giả h́nh, tranh danh đoạt lợi,
chất chứa tham vọng nơi ḷng. Họ sống theo đời,
là c̣n đời, xa hẳn cỏi Trời, phải bị gạn
lọc theo lư vô vi chi đạo.
Họ bị khổn tiên thằng
trói buộc Ông Tiên, vị Phật của ḿnh, lại để
yêu tinh ngự trị, thú tánh điều khiển thật
là bất hạnh !
Người giác ngộ lư chân tầm
phương giải thoát, may duyên gặp chơn truyền
hành trau phục hồi chân thân, tái sinh Chúa Thánh của ḿnh đủ
đầy phép mầu. Nhờ ánh sáng của tâm minh chiếu
diệu, Chúa đến chữa lành nan y tật bệnh, người
điếc được nghe, người câm biết nói,
người què biết đi, người phung được
sạch. Khi chỉ dạy mật pháp, tỏ bày lư nhiệm
Ngài dạy: “Các ngươi uống nước đó lại
càng khát khao thêm, ta sẽ ban cho các ngươi thứ nước
trong người uống vào không c̣n khát nữa”. Nước
của phàm phu là nước nhân dục, khát khao ân ái, không
bao giờ thỏa măn, nên c̣n khao khát măi. Nước của
Chúa chỉ dạy là nước Thánh, cam lồ thủy, tự
hành tự tạo, uống vào đoạn dứt dâm căn,
không c̣n khát khao nhân dục, dẫn đến cảnh sống
đời đời.
Chính nhờ Chúa chỉ dạy
con đường sáng, ta đi theo, vào ngơ hẹp, hướng
nội quy hồi, các giác quan không c̣n buông lung do giă tâm tục
tánh điều khiển nữa. Giờ nay chúng được
thánh hóa phụng sự cho thiên tâm, ứng dụng sáng suốt,
thất t́nh lục dục không c̣n dấy động làm mưa
làm gió, trở thành thất bửu và lục thần thông,
giúp ích đắc lực cho ta.
Mỗi nhân sinh điều có những
khảo trở khi đối mặt với đời, cũng
là bài thi cần phải được giải quyết,
không khó cũng chẳng dễ, phù hợp với khả năng
sẵn có. Nếu không có ánh sáng, chẳng thấy được
sự thật dễ bị lầm nhận sẽ dẫn đến
thất bại. C̣n người có trí tuệ soi dẫn, thấy
chân biết thật giải quyết mọi vấn đề
một cách thỏa đáng.
Một điều hiển
nhiên là bài thi cho mỗi người, không ai giống ai đạo
cao ma cao, cuộc khảo dợt xứng hiệp với khả
năng, đó là: thi đức thi tài, thi điển quang, để
đánh giá thực sự tŕnh độ.
Lửa thử vàng, gian nan thử
sức.
Với khả năng của
huệ trí có được do hành trau đem ra ứng dụng
đúng lúc, kịp th́, chuyển hóa mọi khó khăn thử
thách trở thành thuận lợi. Người hành tâm pháp tự
tin vào khả năng của chính ḿnh, chứ không mong cầu
ngoại lực tha nhân giúp đỡ, sẵn sàng đón nhận
khảo trở như những vị khách quư, dù có vừa ư
hay không vừa ư chăng nữa, họ có thừa sức giải
quyết vơí đáp án đoan trang.
Trong giai đoạn hành trau vừa
gầy dựng và bảo vệ phải luôn luôn đi song
song với nhau mới đạt đến thành tựu. Nhất
là ta không được ỷ y khinh lờn, tự cao, tự
đại vào mức độ hành trau, tu chứng khi đối
đầu với cám dỗ quá mức vượt bực sẽ
gặp trở ngại, gây nguy hại cho tính mạng. Bởi
v́ môn đồ tu học chưa đủ thần thông, lại
thích khoe khoan phô trương đạo pháp để chứng
tỏ ḿnh tu cao, thành đạt đạo cả, nhưng
thật sự quả vị c̣n non kém muốn mau thành chống
đạt khác nào nhốm gốc cây lúa để cho mau lớn
ra hạt, cây lúa phải bị úa tàn.
“Con đại bàng trong hạt
trứng kia,
Nở ra chưa kịp trau
tria,
Cánh lông chưa đủ bay v́a
nơi đâu ?”
Sự cám dỗ là thước
đo khả năng tu chứng của người hành đạo.
Một trường hợp điển
h́nh như Lưu Trường Sanh vào nhà điếm để
luyện sắc, bởi v́ ông đă nhiều phen thất bại
vấp ngă do sắc dục cám dỗ, đến khi có được
khả năng chịu đựng, pháp mầu trong tay đối
đầu trực tiếp với sức hấp dẫn kề
vai sát cánh, vuốt ve, chiều chuộng, khiêu gợi kích động
cảm giác do sắc dục nữ nhân”Mỹ Ngọc” cám dỗ,
Ông thành công chế ngự, thắng được con thú nơi
ḷng nhờ có được phép nấu nước trên bụng
(vơ hỏa) và phép nướng bánh trên bụng (văn hỏa)
mới diện kiến Đạt Mạ Tổ Sư. Đó
chỉ là thành đạt một phần của Đạo
quả, Tổ sư Đạt Mạ chỉ khuyên Ông hăy rời
bỏ ngay chỗ chấp, bám trụ ở một vị
trí, pháp luân không chuyển động, máy không chạy, chẳng
phát điện năng, đèn tắt chẳng c̣n sự
sáng.
Bởi c̣n chấp vào chỗ
thành đạt là không thành đạt ǵ cả.
Người hành chân đạo
trau sửa thân tâm luôn luôn giác tỉnh ở hành động
khi ứng dụng chịu đựng thử thách, đối
đầu gian nguy, thắng phục cám dỗ, nhờ vào tuệ
tính của chính ḿnh khởi ra diệu dụng, vừa gầy
dựng và bảo vệ để khỏi phải phí công
vô ích.
Ba năm đốn củi chỉ
thiêu một giờ.
Con đường trau sửa
của chân tu lúc nào cũng có khó khăn, gian khổ, cám dỗ
dẫy đầy. Đây chính là nguồn cổ vũ hào hứng,
bạn đồng hành để vượt bể khổ
tới bến đến bờ một cách vinh quang.
Sự khảo trở, thử
thách là bài thi cần phải được giải quyết
của mỗi nhân sinh, từ thấp đến cao, của
từng giai đoạn tu tiến như trường hợp
ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu. “Ngài
đă kiêng ăn bốn mươi ngày đêm, sau th́ đói”. Đây
là giai đoạn tu luyện, không để cơn đói
ḷng tự do hoành hành thao túng, mà phải do chơn tâm điều
khiển chẳng cho cảm giác sai khiến, ham thích mùi vị
ngon ngọt của thức ăn vật chất cung cấp
cho xác thịt, cố lo phục hoàn thánh thể bằng thức
ăn của Chúa. Bốn mươi ngày đêm là vô vi bí số,
vượt ngoài chu kỳ của mặt trăng 30 + 10 chỉ
rơ sự vận hành của âm dương, ngày đêm qua lại
hết tối rồi sáng, giác mê lẫn lộn, đói no của
lẽ tương đối, một vọng niệm phát
sanh quỷ liền xuất hiện xúi dục. “Quỷ
cám dỗ đến nói với Ngài rằng: Nếu Ngài là
con Đức Chúa Trời hăy bảo đá này trở nên bánh
đi”
Phần đen tối đến,
tà thần xuât hiện do không giữ được các giác
quan, nên nghe thấy, chúng khuyến dụ làm chuyện ma quái
huyền hoặc để thỏa măn cơn đói ḷng, đang
thôi thúc mănh liệt, kích động liên hồi bỡi nhu cầu
đ̣i hỏi. Sự tranh đấu giữa tối và sáng,
ma quỷ cùng với Ngài để tranh cao thấp. Con Trời
là điểm linh quang xuất phát từ đại khối,
tự ḿnh có một tạo hóa cơ, tương tự như
Cha Trời cũng có thể sản xuất, tạo tác, nghĩa
là Cha có ǵ con có nấy với đầy đủ quyền
năng phép lạ có thể chuyển hóa tất cả .
Đá là nền tảng xây dựng
cho ngôi đền thánh - thánh tâm - thần thất, cao đài
đảnh thượng của người tu, nó
là tinh đấy. Nếu bị cảm giác chi phối,
âm thầm xúi dục biến nó thành giao cảm chi tinh, chất
nước dâm dục, nam nữ dùng nó để no ḷng đỡ
dạ qua cơn thèm khát, ái ân thú vui của trần tục,
phàm chỉ lo phần tướng, bỏ mất phần
tánh, chiều chuộng nhục thân chẳng kể đến
tinh thần.
“Ngài đáp rằng: Loài người
chẳng những chỉ nhờ bánh thôi đâu, song cũng
nhờ mọi lời ra từ miệng của Đức
Chúa Trời”
Nhờ giác tánh ánh sáng của
tâm linh, tự chiếu tự minh, thấy rơ để ứng
phó kịp thời. Thông cả hữu lẫn vô, vật chất
và tinh thần, Đời và Đạo
không chấp riêng rẽ, phải rơ chỗ toàn nguyên. Cái hữu
thể của con người phải được cung cấp
bằng vật thực thanh đạm để có được
sự sống. Thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, “Con
ngựa phàm” này phải biến thành “Long mă” mới đưa
ta đến nơi đến chốn.
C̣n điều đặc biệt
là phải cung cấp chân thân, thánh thể của ḿnh bằng
cơm Trời. Trong cuộc chiến ở nội tâm giữa
giác và mê, huệ trí và muội trí, xiển triệt tương
tranh với nhau, mọi lư lẽ được giải bày
phô trương ra hết; Nếu không có tuệ tính khởi
sinh dẫn đường chỉ lối, lă thông lư mầu
dễ bị kẹt vào bẫy rập của vô minh tục
tánh.
Nhờ phân định giả
chơn, hư thiệt, hữu vô, phàm thánh, người tu
tô bồi thân tâm, sức khỏe và tinh thần có được
sự sống và sự sáng. Tự chiến thắng được
sự cám dỗ thấp hèn của thú nhục dục.
“Đoạn ma quỷ đưa
Ngài vào đền thánh, đặt Ngài trên cánh dơi của
Nhà thờ”.
Đến giai đoạn khảo
trở cao hơn đột nhập vào thần thất của
ta trên đỉnh cao tột chỉ rơ sự khảo trở
này lắm gian nguy, nhiều khổ khó, sinh mạng tợ như
chỉ mành treo chuông.
Cánh dơi: Dơi là loài sinh vật
vượt ra ngoài loài cầm thú; sự khảo trở này đặt
trên nền tảng không c̣n thấp cao, thượng hạ,
thú cầm. Cuộc phân cao thấp giữa huệ trí và tà thần
giă trí, một mất một c̣n, tất cả bửu bối, pháp mầu đều được
đem ra thi thố.
“Ma quỷ nói rằng:
Nếu Ngài là con Đức Chúa
Trời, hăy gieo ḿnh xuống đi v́ có chép rằng: Chúa sẽ
v́ ngươi truyền lệnh cho thiên sứ Ngài, chúng sẽ
nâng đỡ người trong tay kẻo người vấp
chân vào đá chăng”.
Do sự xúi dục của tà thần,
chấp vào hư danh, giả tướng rồi hành động
trái thiên ư, hiểu chỉ có một cục diện, khía cạnh
của vấn đề, không rơ chỗ toàn chu nguyên thể
nên mất hẳn cái chánh tri kiến, thấy chân biết thật,
hành động dễ bị sai thất, nhất là chấp
vào kinh sách, diễn dịch sai pháp ư bị lời kinh ràng buộc
rơi vào Bàng môn tả đạo.
Kinh dụng lư ở bên trong thuộc
tánh chỉ rơ đời sống tâm linh. Người tu chân
luôn luôn nghĩ đến việc phóng thích tâm trí ḿnh ra khỏi
tham vọng hoặc do ngă si pháp si chế ngự. Có như
thế mới phát hiện cảnh giới chân thật và chỉ
có chân thật mới đưa ta đến chỗ giải
thoát.
Tự hiểu ḿnh, tự biết
ḿnh do chân trí thật trí khởi sinh, vô tự kinh, tự
ḿnh ứng dụng bất cứ lúc nào khi cần đến.
Giêsu phán: Cũng có chép rằng
Ngươi chớ thử Chúa là Chúa Trời ngươi.
Người đă đắc
nhất tâm, thấy nhất tánh làm chủ tiểu thiên địa,
toàn giác toàn minh, thấy biết tất cả, Christ ngự
trị vững vàng trên ngôi báu, tiếp thông với nguồn
sống, liên lạc với Trời Cha. Con cha đồng nhất
tánh. Con là Cha, Cha con là một, đủ đầy quyền
năng.
“Ma quỷ lại đem Ngài
lên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian
cùng sự vinh quang các nước ấy mà nói rằng. Nếu
Ngài sấp ḿnh th́ tôi sẽ cho Ngài mọi sự này”. Đến
đây dự thử thách ở vị trí cao nhất, lấy
vật chất của đất làm nền tảng vững
chắc để khảo dượt người tu, chỉ
ranh phàm thánh, đất và Trời, Đời hay đạo.
Nếu hướng theo muôi trí
nh́n xuống phía dưới, quay về với đất,
khai mở tri kiến của chúng sanh, nhăn giới của thế
tục, thấy cảnh đời
nguy nga, ngôi vị cao sang, mặc t́nh hưởng thụ thú
vui trần tục. C̣n bằng nh́n thẳng, quy hướng
hư không cảnh giới bao rộng, không vướn bận
thế trần, tuy không mà có, cái có đó mới chân thật.
“Không không tâm đắc Như
Lai tánh”
Thấu rơ tất cả, dưới
thiên nhăn quang minh của Ngài chân tướng lộ bày không
c̣n che giấu được nữa. Giêsu bèn phán rằng: Ở
Sa tăng hăy lui đi.
Huệ lực phát huy, khối
sáng trong ta tự chiếu tự minh, tiêu trừ mọi hắc
ám, diệt hết khổ đau, vô minh thoái nhượng,
nhan Chúa rạng ngời, cảnh giới quang minh là thiên đường
tự tại. “Ngươi
hăy thờ lạy Chúa là Đức Chúa Trời ngươi
và chỉ phụng sự một ḿnh Ngài thôi”
Hăy nói theo giác tánh, trở về
với bản thể duy
nhất nghĩa là phải quán nhất chỗ tối cao, tối
linh, tối diệu ấy.
Hăy trở về chỗ Cao Đài
của ḿnh với trí bát nhă để đắc Ba La Mật,
đáo bỉ ngạn tức thiên nhăn, thiên tâm hay phật
tánh hằng hữu hằng thường là Như Lai bản
thể, Niết bàn vô thượng,
chánh đẳng chánh giác.
“Ma quỷ bèn ĺa khỏi Ngài,
ḱa Thiên sứ đến phụng sự Ngài”
Ma quỷ là phần đen tối,
tà thần giả trí nay hoán cải thành Bồ đề
chánh trí, phiền năo tức Bồ đề, chúng sinh tức
Phật tánh.
Cái tối lớn dường
bao, giờ đây trở thành cái sáng to cũng dường ấy,
nghĩa là Chúa yêu hoán cải thành Chúa thánh. Toàn giác toàn minh,
không có ma quỹ hay Thiên sứ riêng rẽ, hiệp nhất
thành ngôi Chúa đủ đầy quyền năng nhờ
quán nhất, đắc nhất, quy nhất mà thành đạo.
Nay ta đă rơ đường lối
tu thân chân thật, trở về với bản tâm lo gầy
dựng trên con đường tu tiến của ḿnh, trăi
qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao phải
luôn luôn cảnh giác không thể thờ ơ mới đến
nơi đến chốn, chỗ rốt ráo sau cùng, giải
thoát ta ra khỏi vô minh và phiền năo, tự chúng đắc
một tinh thần vê thượng, nằm trong bản thể
vô thượng gồm đủ thể chất tinh anh thuần
khiết rồi đem ứng dụng vi diệu.
Người đi trước
đă rơ chỉ dẫn cho kẻ đi sau am tường
trong đoạn kinh cám dỗ này, pháp ư của Chúa tỏ bày
một cách mạnh mẽ chỗ đối pháp.
Mượn lưỡng biên tương
đối để hội ngộ chỗ tuyệt đối
trung tâm là duy nhất pháp, pháp bất nhị, người tu
chân hăy trở về chỗ một đó mới lănh hội
trọn vẹn đạo pháp của Ngài.
Đưa chớ đưa, sợ
chẳng sợ, cám dỗ không cám dỗ, chỗ không ấy
là bản thể chơn như, trụ cốt chủ yếu
để vận hành máy linh, bất biến ứng vạn
biến, đúng với đạo lư vô vi, không làm như đă
làm, tất cả cái được làm ra đều do cái
vô chủ xướng, từ đó đi ra nay lại quay về
thành một ṿng đạo hằng xoay vận chuyển,
không bám, chẳng trụ, đúng chơn cơ, y máy tạo,
có được như thế ta ḥa cùng đạo, hiệp
cùng Chúa, tuy ta đang sống nơi chốn trần gian, nhưng
tâm ta không vướn bận, tự tại an nhiên đúng
là tiên tái thế, chơn nhân nơi trần tục.
Nhục thân ḥa trần cảnh. Pháp thể hiệp bồng lai. CHƯƠNG IX NHƯNG CỨU CHÚNG CON
KHỎI ÁC.
Con người lúc ban sơ chơn
tánh thiện lành vốn có sẵn nơi ḷng, dần dần
lớn lên chung lộn trong cuộc sống, đụng chạm
với thế nhân dấn thân vào xă hội. Họ phải cạnh
thanh địch đối, dùng toàn những thủ đoạn
đê hèn, mưu mô xảo quyệt, độc kế nham hiểm
để hăm hại lẫn nhau cho thỏa ḷng phàm, vừa
ư tục. Chính v́ thế, cái chơn tánh ban đầu không
c̣n nguyên vẹn nữa, nó đă bị nhiễm trước
ô trược, trở nên không thiện, bất nhân, ác tính được
thực hiện từ trong tư tưởng đến
hành động, gây nên cảnh xáo trộn khốn cùng trên thế
gian này.
Chính đấy là do ḷng tham hành
sử, tánh tục khiến xui, điên loạn oán hờn,
hung hăng dữ tợn. Cái thú tánh thô bạo tục tằng
ấy đă choán ngự chủ tâm. Họ đối xử
với nhau bằng ḷng phàm tánh tục, chấp nhất bài
tha, chỉ lo cho cái của ta - chủ nghĩa cá nhân - phân
ranh ngăn cách, lại do ảnh hưởng của quốc
túy quốc hồn, dị biệt độc tôn làm cho tâm
trí của họ hạn hẹp trong
khuôn khổ, tư tưởng thiển cận, định
kiến cố
thủ cố chấp, phục vụ riêng tư.
Từ dân dă man đến người
văn minh chẳng c̣n lương tri, mất hẳn lương
năng, gây hại cho đời quá ư ác độc, do đó
tài năng hóa ra khổ ách, họ đều giải quyết
với nhau bằng nhân tranh đấu, nên gặt phải quả
đấu tranh, sát phạt lẫn nhau, không c̣n kể t́nh đồng
loại.
Phương kế hung ác, chiến
tranh tận diệt. Họ lấy ác đối ác, cái quả
ác tự nhiên thành. Thế mà họ lại mong cầu Thượng
đế, khẩn nguyện ơn Trên bố ba ân phước,
giải trừ ác nghiệp ! Thật đấy chỉ là ảo
tưởng, cảnh an lạc thái ḥa, không bao giờ đến
với họ, bởi v́ họ c̣n chấp vào thế gian chi
pháp Chúa cũng có nói đến khi Ngài thuyết Đạo.
“Các ngươi đă nghe phán rằng:
mắt đền mắt, răng đền răng”.
Phàm nhân đă bị ung đúc bởi
lậu tập lâu đời, trở thành ác tập cưu
mang, cái mầm giống hung dữ ấy choán cả cỏi
ḷng của họ, do đó tạo ra bao cảnh tang tóc, giết
chóc rùng rợn. Cái thú tánh hung tợn ngấm ngầm trọng
tâm thừa cơ hội bộc phát một cách dữ dội,
trong khi họ chẳng có một năng lực nào kềm
chế ngăn chặn nỗi nên sanh ra hành động bất
pháp vô đạo từ xưa đến nay. Cái quan niệm
sống đấu tranh đă tạo oan nghiệp “Vay trả,
trả vay” liền liền, nên con người phải chịu
khổ. Tỏ bày chân lư ứng hiện cho phù hợp tự
nhiên, Chúa ra lệnh: “Song
ta nói cũng các ngươi đừng chống cự kẻ
ác”
Nhờ tiếng gọi của
thức tâm, noi theo giác tánh, ánh sáng soi tỏ hành động
chánh chơn, đúng theo đạo lư, thể hiện t́nh thương
cao cả, lấy nhân để đối xử, lấy đức
để cảm hóa, mới đem đến cảnh hiệp
hoà, nhờ hiểu rơ được nguyên nhân phát sinh ra
tranh đấu, hận thù để kịp thời ngăn
chận dập tắt hành động thô bạo ấy. Có được
như thế nhờ họ chịu thương chịu
khó, quy hướng nội tâm, lóng sạch bợn ḷng, thắng
phục “ cái ta giă ngă” chuyển hóa thành “chơn ngă
quang minh”.
Tự hiểu ḿnh, tự biết
ḿnh, tự thắng ḿnh là một nhiệm vụ trọng đại
vô cùng.
Chính nhờ có thắng ḿnh mới
kiềm chế được những hành động xấu
xa không hợp lẽ đạo.
Thắng nhơn giă hửu lực
Tự thắng giă cường
Hành trau tâm pháp điều nhiếp
các giác quan, tâm an trí định, thanh tịnh hằng thường,
từ chỗ thanh tịnh lóng nghe tiếng nói vô thinh từ
đài cao xuất phát, tỏ bày chân lư đạo giúp ta rơ
thông cả thảy, trong lẫn ngoài, vô lẫn hữu, phân định
đúng đắn để ứng dụng không nhầm lẫn,
thoát hẳn mọi khó khăn trở ngại của thế
trần.
Chúa dạy rơ “Nương chỗ
tương đối để trở về chỗ tuyệt
đối trung tâm, thể hiện đạo lư duy nhất
không c̣n phân biệt thiện ác, ta người, có không. Chính
nhờ thấy Một ấy là nguồn cội sơ khai
Cao Đài của nhân loại, chừng đó mới chứng
nhập chân đạo cao cả, cái dụng của chúng
sinh không c̣n mà là toàn chân đắc dụng, từ bi lân tuất,
bác ái đượm nhuần, đại bi tâm ứng hiện
toàn khắp.
Tự cứu khổ ban vui cho
chính ḿnh, đem ḷng ái lân thương xót mọi người,
ta người không phân biệt, thân thù chẳng phải hai,
thiện ác bất tranh là đường lối tốt nhất,
Chúa đă vạch sẳn con đường sáng dẫn đến
hạnh phúc ở thế trần để cho nhân sinh hành
trau, hợp thiên tâm, đúng thiên lư, y như cơ Trời
máy tạo của Trung đạo thuần chơn. Đây
là lẽ công bằng của tạo hóa đem đến sự
vững bền, tồn tại an vui trong thành tựu của
đạo pháp.
Người trau tâm, luyện
tánh và đem ra ứng dụng chung đụng với thế
trần, có được khả năng điều khiển
chế ngự các giác quan, làm chủ bản thân, không c̣n thấy
băn khoăn lo lắng trước bất cứ một
trở lực khó khăn nào ngăn đường đón
ngỏ bước tiến đạo. Họ vui vẽ đón
nhận chúng nó như những người khách qúy đến
nhà, ân cần giải quyết thỏa đáng. Chính nhờ
thành quả này tự họ di lạc cho ḿnh và cho mọi người,
chuyển pháp luân cứu khổ thế gian này.
Như ta đă thấy lời
chỉ dạy của Chúa đi vào mật pháp chỗ duy
nhất lư, từ tương đối trở về
chỗ tuyệt đối, không c̣n thấy biết làm hai
làm nhiều mới chuyển
hóa thế trần. Càn khôn quy kết, âm dương hợp
nhất tạo thành một ṿng pháp luân hằng xoay vận
chuyển, đúng theo cơ trời máy tạo.
Chân lư của Chúa chỉ dạy
là đường sáng, đạo lành, kim chỉ nam định
hướng, chiếc phao cứu cánh giúp cho nhân sinh vượt
bể khổ, từng lời từng chử là châu ngọc
thật quư báu vô cùng. Nhân sinh cố tâm
học hiểu
và hành trau!
CHƯƠNG X CẦU NGUYỆN THẬT
Khi đă
rơ nơi bản thân ta có đầy đủ của báu khả
dĩ làm phương tiện để ta tu dưỡng
thán tâm đúng chơn cầu nguyện. Cầu cho ḷng phàm dứt,
nguyện cho tục tánh tiêu để có đủ trí tuệ
soi sáng trong sinh hoạt hằng ngày. Đây cũng là phương
pháp tu hành theo lời chỉ dẫn quư giá mà Chúa đă tỏ
bày, cầu nguyện trong thanh vắng là hành thủ
công phu đấy, nhưng hành bằng cách nào, công phu ra sao?
Việc tu hành trau luyện nơi thanh vắng chốn tịnh
pḥng cũng như tâm thất của ta phải yên tịnh,
các cửa là các giác quan, phải khép lại thực hành cầu
nguyện thật, chiêm niệm rốt ráo mới tiếp
thông với nguồn cội, liên lạc với trời
cha, đài cao tột đỉnh.
A . Phương pháp đi vào
cầu nguyện :
Đây cũng được gọi
là pháp sinh lại của Chúa. Bồi dưỡng thân tâm của
ḿnh là chiếc phao cứu cánh, ch́a khoá duy nhất, nhịp cầu
thông hiệp nối liền âm dương, hữu -vô, con
Cha hội ngộ sẽ được chỉ dẫn sau.
Phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần nhân sinh muốn tiếp nhận
sẽ được Giáo Sư tâm pháp của Chiếu Minh
giáo Ṭa hướng dẫn thực hiện công phu.
Với
phương tiện đủ đầy, pháp môn vi diệu
rồi nhất tâm hạ thủ công phu, thực hiện cầu
nguyện thật quy hướng cội nguồn, tiếp
thông với nguồn sáng, hoà nhập nguồn sinh đó là lạy
Cha thật sự, người nguyện cầu luôn luôn
tâm nguyện hoài bảo trở về.
Từ nơi đó ta ra đi, từ nơi đó
ta phải
quy hồi, hoàn thành sứ mạng vi nhân, có đi có về
không c̣n bị lạc lỏng chơi vơi nơi chốn
chợ đời thế gian bao rộng.
Trong hiện kiếp ta gặp đạo,
sẵn pháp để thực hiện việc trau sửa
này một cách hữu hiệu,
nhất là ta không thể dần dà do dự, bởi v́ hơi
thở ra không hẹn thở vào, ở bất cứ thời
điểm nào cũng có thể đứt hơi lià mạng,
mất một kiếp sinh quư báu. Muốn tiếp
nhận chân truyền, sinh nhân phải hội đủ điều
kiện, phương tiện sẵn có để bắt
tay vào việc hành trau. Chơn truyền có 3 cấp, tuy một
mà 3, tuy ba mà một, tuỳ theo khả năng căn duyên của
từng người để chọn lựa mức độ
hành trau. Thấp hoặc cao rồi dần dần thăng
tiến lên nữa. 1. Bồi dưỡng cấp 1 Người thực hiện phương
pháp bồi dưỡng cấp 1 phải hội đủ điều
kiện: - Dùng đạm thực vật 10 ngày
trong một tháng - Được sinh hoạt vợ chồng 2. Bồi dưỡng cấp 2 Người
thực hiện phương pháp bồi dưỡng cấp
2 phải hội đủ điều kiện: - Dùng thường xuyên toàn thức ăn
đạm thực vật - Được sinh hoạt vợ chồng 3. Bồi dưỡng cấp 3 Người thực hiện phương
pháp bồi dưỡng cấp 3 phải hội đủ điều
kiện: - Dùng thường xuyên thức ăn đạm
thực vật - Không được sinh hoạt vợ
chồng “nhiên liệu” này được dùng trong việc đầu
tư trí huệ, tạo tác ánh sáng đi đến chỗ
viên thuần. Con người ai cũng vậy, gồm
có một “thân xác” và một cái trí theo quan điểm Đông
Phương, đó là một bộ máy gồm “nhị thể
là xác” và “hồn” ta phải biết hữu dụng nó vào mục
đích cao cả đầu tư vào phát triển bản
thân “sức khoẻ và tinh thần” mới có lợi bằng
không ngày tháng trôi mau thân thể tiêu hao, tinh thần kiệt
quệ sẽ mất tất cả kho, báu linh chẳng c̣n
do ḿnh vô minh phá hoại. Thân ta gồm Ngũ quan và tay chân nguyên vẹn,
đầy đủ yếu tố vận hành là một bộ
máy hoàn hăo. Một số người không may mắn bị
thiếu sót một vài bộ phận như mắt kém, mũi
hư, tai điếc, cụt tay hoặc cụt chân hay mang
tật nguyền từ nhỏ quyết chí hành trau vẫn
có kết quả nhất định, tuy không hoàn mỹ lắm
nhưng có c̣n hơn không. V́ vậy ta phải nương vào phương
tiện sẵn có nơi ḿnh để khởi động
cái máy đang nằm yên một chỗ. Thêm vào đó nhiên liệu
cung cấp rất cần thiết, tuỳ theo cấp bậc
hành trau từ thấp đến cao, đạm thực vật
nhẹ nhàng tinh ba “máy” chạy điều ḥa mau, máy tốt
cần có nhiên liệu thật tốt là lẽ đương
nhiên. V́ vậy người thực hành sẽ
đạt kết qủa theo yêu cầu ư nguyện của
ḿnh. Phần kế tiếp là “tinh thần” phải không điên
loạn mới tiếp thu được sự chỉ dẫn,
để thực hiện phương pháp “bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần”. Tất cả hai phương tiện
trên mặc dù nó có tiêu hao và yếu chăng nữa sau khi thực
hiện việc trau sửa sẽ được hồi phục
trở lại, lâu hay mau là tùy theo sự gia công tu sửa và
sự tŕ chí của ḿnh ít hay nhiều. B. Phương Tiện Phụ
Trợ Thực
Hành: 1/ Một cái
áo choàng màu trắng, tượng trưng cho sự thanh bạch
gồm 4m vải nối với nhau thành h́nh vuông, ở ngay
chính giữa xẽ chử thập (+) để choàng vào cổ,
công dụng của cái áo choàng này là giữ hơi ấm, ngăn
không cho gió xâm nhập vào khi hành công vận khí, mồ hôi tiết
ra lỗ chân lông rất nhiều. Ngoài ra cái áo choàng này để
cử động thoải mái, không cho ai bên ngoài thấy động
tác trong khi thực hành cơ động tịnh. 2/ Một tấm
nệm nhỏ 5 tấc vuông để ngồi cho êm bàn toạ
và giữ hơi ấm ở phía dưới hạ chi, khi vận
hành khỏi bị trở ngại, người thực hành
cũng cảm thấy dễ chịu hơn. 3/ Một cây
đèn nhỏ, khi thực hành ta vận ngọn đèn hơi
xuống, để cho vừa tầm mắt, chính là ta mượn
đốm lửa này để “gom thần” “quy hướng
nội tâm” mượn giả hành chơn “chơn hoả” tạo
ra hơi ấm đợm nhuần. 4/ Một lư
hương; khi hành công vận khí nên đốt lên một
nén hương để cho mùi thơm phảng phất gom
thần an trụ nơi đỉnh đầu, không c̣n
phóng ngoại buông lung nữa. 5/ Một đồng
hồ để biết thời giờ khi vận hành khởi
động “máy linh” phải đúng giờ ấn định,
không được chểnh măng giờ giấc, hoặc bỏ
sót, bởi thời gian là thước đo kiên tŕ, chịu
đựng để rèn tâm luyện trí, thân tâm quen dần,
sau đó sẽ tự động đúng thời gian ấn
định. 6/ Một cái
ghế: người hành trau tốt nhất nên ngồi trên
ghế cho vững vàng. động tác thoải mái không đụng
chạm vật xung quanh, như vậy tâm không bị chi phối,
chân tay cử động lên xuống “ra vào” một cách nhịp
nhàng đồng bộ với nhau. Những phương
tiện trên đây ít tốn kém, người thực hành có đủ
để thực hiện đúng phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần mới đạt kết quả
khả quan. C/ Thời Điểm Thực Hành: Ta phải dành sẵn cho ḿnh thời gian
nghỉ ngơi trong một ngày và phải biết lợi dụng
để bồi dưỡng lại cái hao hụt năng
lượng do hoạt động gây ra, nhờ dưỡng
khí nuôi các tế bào đầy đủ sức sống và
thải trược chất ra ngoài. Khi sức khoẻ phục hồi, tinh thần
thư thái, con người cảm thấy thoải mái mới
đạt hiệu năng lao động cao. Thời gian ấn định tập luyện
tuỳ theo cấp đạo: trong
khoảng - Sáng từ : 4 giờ đến 6 giờ - Trưa từ : 11 giờ đến 13
giờ -
Chiều từ : 17 giờ đến 19 giờ - Tối
từ
: 23 giờ đến 1 giờ Đây là giờ nghỉ ngơi nên mọi
người thực hành phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ không gặp trở ngại cho công việc
làm hằng ngày. Với quyết tâm cao để phục vụ
lợi ích cho bản thân về sức khoẻ và tinh thần,
ta cần phải cố tâm thực hành, mới ban đầu
phải giữ cho đúng giờ ấn định, qua một
thời gian trở thành thói quen tự động tới giờ
ta biết thực hành một cách mau lẹ đúng đắn.
Thực ra lúc đó “máy linh” của ta khởi động,
ta phải hành công để đáp ứng sự đ̣i hỏibồi
dưỡng nhiên liệu dưỡng khí, là thức ăn
chính yếu cũng giống như con trẻ khát sữa đ̣i
ăn.V́ vậy người thực hành cung cấp đầy
đủ được sự thoải mái và sảng
khoái. Khi có một vài trường hợp bỏ sót, ta cảm
thấy bứt rứt khó chịu vô cùng. Thời gian lâu hay mau tùy theo cấp bậc
cao hay thấp của người thực hành. D/ Động Tác Thực Hành : Vào đúng thời điểm ấn định
trong ngày, ta phải mang áo choàng thực hành trau luyện, phải
ngồi thẳng người trên ghế có nệm và tâm giữ thanh
tịnh đoạn khởi sự
ráp nối các bộ phận cho ăn khớp với nhau, đúng
vị trí không sai lệch, từ chân tay đến đầu,
dưới lên trên, nghịch chuyển về nguồn. 1/ Động
tác chân: Chân phải
thuộc âm ta kéo vào cách bụng 5 phân, chân trái thuộc dương
đặt trên chân phải ở vùng mắt cá đúng vị
trí khu cảm giác kích thích bộ phận sinh dục theo h́nh
chử W. Động tác ở chân theo theo phương pháp bồi
dưỡng này có tác dụng “phục tinh” . Động tác
phục tinh khác hẳn các động tác nhơn dục làm
hao tinh, rơi rớt ra ngoài. Khi tinh bị hao hụt chỉ
cần hành công tinh lực phục hồi. Đây là động
tác ở hạ chi để luyện tinh. 2/ Động
tác ở tay: Kế
tiếp đến hai tay, bàn tay
trái (thuộc dương) ngón cái ấn vào phía dướicùng
của ngón áp út làm thành h́nh ṿng tṛn. Đoạn ngón cái của
bàn tay phải để vào ṿng tṛn đó như một trụ
cốt có thể xoay được, những ngón của
bàn tay phải nắm ngọn những ngón của bàn tay trái
c̣n lại. Thực hiện
“giao ḥa ngũ khí” hiệp nhất âm dương gọi là “kiết
quả”. Đoạn các gu của bàn tay trái để vào chấn
thủy giữ cố định, không được áp
sát cũng không được đưa ra ngoài, xong rồi
nhịp động tác đôi tay “ra vô” để luyện
khí, ngũ khí ra vào xuất nhập đồng bộ, hấp
hô đúng cách khác hẳn với cái thở bằng miệng
mũi b́nh thường. Đường
hơi từ dưới rún rút lên “hấp” từ dưới
bao tử đưa lên cuống họng âm vang nghe “rè rè” như
tiếng ngáy, “hô” nuốt hơi tưởng như xuống
bao tử sao cho tṛn ṿng điều đặn hết hơi
này đến hơi khác một cách thong thả trong thời
gian động tác. Với khoa học ngày nay có thể áp dụng
cho việc dạy này, nhờ máy ghi tiếng thấy h́nh
cùng một lúc, khi thực hành đạt “đường hơi
hấp hô” kết qủa. Chính đó là cái ch́a khoá nối liền
tinh thần, chiếc cầu thông hiệp “kết âm dương”
tóm thâu về một mối. Đây c̣n là “thức
ăn” chủ yếu bồi dưỡng sức khỏe và
tinh thần. Dưỡng khí phải được huân chưng
hâm nóng đúng cách để cung cấp mới tiêu hoá dễ
dàng, không nên hấp tấp vội vàng hơi chưa nóng như
cơm chưa chín ăn vào sẽ no hơi śnh bụng không
tiêu. 3. Đầu: Đến phần trên mặt người
thực hành ngậm miệng lại, lưỡi hơi cong
lên trên ṿm họng, cắn chặt hai hàm răng lại, lần
lượt đến hai mắt không được mở
rộng, cũng không được nhắm lại, khép mắt
nữa hở nữa kín, hơi sụp rèm, tưởng ngọn
“đèn” xuống phía dưới rốn rồi đem ánh
sáng soi rọi bên trong. Giờ đây tất cả mấu chốt
của “cái máy” đă được ráp nối đúng nơi
đúng chỗ, bắt đầu khởi động hai
chân nhịp đều lên xuống, kích thích khu cảm giác tạo
tác sinh tinh, tinh lực dồi dào, sức sống gia tăng,
chất nước lạnh lẽo trước kia, do tà
tinh giao cảm, nay đă được huân chưng ấm
áp, trong nước có sức nóng (thủy hỏa kư tế). Người ốm yếu trước đây
v́ mê muội phung phí của báu, nay đến lúc kiệt
tinh, lăo nhược, nhờ phương pháp bồi dưỡng
này luyện tập phục hồi trở lại sức
khoẻ tiến tăng “phản lăo hoàn đồng” dương
tinh phát khởi, nguồn sống hồi sinh. Một điều
đáng chú ư là nhịp động của người lớn
tuổi phải phù hợp với sức lực của
ḿnh, không được thái quá hoặc bất cập, có như
thế mới cảm thấy sảng khoái, thoải mái được. C̣n trẻ c̣n nhiên liệu nhiều hơn,
cần phải có động tác mạnh, đúng độ
nóng nước bốc hơi bay lên, tự động biến
hoá khinh thanh thượng đỉnh nghịch chuyển về
nguồn. Chính “nhịp động” hạ chi điều
hoà tinh này, thiếu th́ được phục hồi, dư
tự biến hoá, không hao chẳng hụt tràn đầy nhựa
sống khiến con người cảm thấy lâng lâng hưng
phấn, yêu đời hơn. Hai tay ở vị trí ấn định,
động tác ra vô, hấp hô đúng cách, xuất nhập đồng
bộ với nhau. Ngũ khí giao hoà lưu thông khắp châu
thân đến các bộ phận nuôi dưỡng các tế
bào, kinh mạch khai mở không c̣n bế tắc ngăn trệ
nữa. Chính nhờ khí lực dồi dào, sức khoẻ
hàm dưỡng trong người làm cho các bộ phận
trong châu thân hoạt động mạnh mẽ, khoẻ khoắn
chịu đựng dẻo dai. Nhờ có sự cung cấp đầy
đủ dưỡng khí, máu đỏ gia tăng, sắc
mặt hồng hào, da thịt tươi mát. Đối với
năo bộ, khí về óc sinh minh, khởi sinh trí tuệ, người
thực hành không c̣n bị bứt rứt, nhức đầu
v́ thiếu dưỡng khí. Đến bộ phận đầu năo,
trung tâm điều khiển mọi hoạt động
trong châu thân, hành công “gom thần” rất quan trọng không thể
thờ ơ hoặc chễnh măng, bởi đây là sự việc
chủ yếu để thắp sáng ngọn đèn tinh thần
của ta. Người thực hành phải khéo léo và cẩn
thận giống như người đốt đèn “ai da”
khi bơm dầu đúng mức qui định rồi, ta
hăy nhẹ tay mở khoá để hơi dầu bay lên gặp
lửa đốt đỏ man-xông không c̣n đen nữa,
chừng đó ngọn đèn bừng sáng. Trong đầu
ta cũng vậy, phải giữ cho an tịnh, không có một
niệm đen tối, các giác quan hướng nội, soi rọi
vào trong để “gom thần” tạo lửa điện, mắt
nh́n vào trong, tai nghe vào trong, lưởi nếm vào trong, bốn
giác quan tiếp nhận dưỡng khí, thần khí giao hoà
âm dương hiệp hội, đèn ḷng bừng sáng, thần
quang tỏ rạng, trí lực dồi dào, huệ tâm phát, trực
giác khai, cái sáng càng ngày càng được bồi tô thêm măi
phát huy đến cao độ, soi thông cả thảy, thấy
rơ chân thật. Trong phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần này vận hành các bộ phận
phân ra ba giai đoạn “luyện tinh, luyện khí, luyện
thần”, nhưng xảy ra cùng một lúc đúng độ
và đồng bộ không sớm cũng không muộn mới
hữu dụng. Trên đây là các động tác của các
bộ phận thân thể giống như “cái máy” đang vận
hành. Mỗi phần đều quan trọng không thể thiếu
được, lên xuống điều hoà ăn khớp với
nhau, nhiên liệu đầy đủ th́ “máy chạy” thoải
mái không trở ngại chi cả, sẽ khởi ra diệu
dụng thật không ngờ. 4. Động tác xoa tán bụng: Sau khi hành công động tác “phục
tinh, vận khí” “gom thần” khoản 15 phút (hiệp 1) ta vẫn
ở tư thế cũ rồi lấy tay phải ra đặt
ở bụng dưới, phiá bên trái, xoa theo chiều kim đồng
hồ 36 ṿng, lấy cái rún làm trung tâm, ṿng cuối cùng ngưng
ở phiá dưới phiá bên phải,
từ đấy xoa ngược
chiều kim đồng hồ 24 ṿng, ṿng cuối ngưng ở
vị trí đầu tiên nơi bụng dưới bên trái. 5. Động tác xoa vuốt mặt. Xong rồi đến động tác xoa
vuốt mặt, cái mặt phân ra làm 3 phần: ngang miệng,
ngang mũi, ngang mắt. Ta bắt đầu xoa từ dưới
lên trên, hai bàn tay chà thật nóng, vuốt 2 bên miệng 6 cái,
sau đó chà thật nóng lại áp hai bên mũi vuốt hai
bên 6 cái, sau cùng chà thật nóng áp vào mắt vuốt hai bên
trán 6 cái, xong để chân trái gác lên chân phải, tay trái trên
tay phải nghỉ 2 phút. E.
Giai Đoạn An Tịnh Để Trưởng Dưỡng
Tinh Thần Giai đoạn này gồm
3 cấp tư thế: Ta nằm nghiêng về phiá tay phải,
chân trái cong lên, để trên chân phải ngay vùng mắt cá,
ngón tay cái trái ấn ấn vào ngón tay út, áp vào bàn tay phải,
đoạn áp sát vào vành tai bên phải, mắt lim dim hướng
về ánh đèn để gom thần 5 phút (cấp 1) Động
tác 2 hiệp tán bụng và mặt, an tịnh trưởng dưỡng
tinh thần 10 phút là hoàn tất thời gian
trau luyện của phương pháp bồi
dưỡng cấp 2. Đối với cấp 3 thời gian
trau luyện lâu hơn sẽ do Giáo sư tâm pháp hướng
dẫn sau. *** Người thực hành phương pháp
bồi dưỡng sức khoẻ và tinh thần, trải
qua một thời gian trau luyện sẽ thấy rơ sự
thay đổi nơi ḿnh, từ thể xác đến tinh
thần, khác hẳn trước kia. Với lối sống
cũ, các năng lực ở bên trong cơ thể một
kho tàng báu vật, chưa biết tận dụng đúng mức,
nay phải nhờ đến và thực hiện việc “đầu
tư” thêm năng lực bản thân để sức khoẻ
và tinh thần gia tăng. Ở vào giai đoạn đầu, trau
luyện pháp động tác c̣n vụng về ngượng
nghịu, tay chân không ở vị trí ấn định, ít ăn
khớp với nhau, rời ra tuột xuống, quên cái này lại
nhớ cái kia, không đồng nhất. Người thực
hành phải hết sức kiên tŕ chịu đựng vất
vả và để khắc phục những nhược điểm
trên, cơ thể bị băi hoải, đau nhức từng
thớ thịt, gân cốt rêm hết. Họ cảm thấy
dường như chịu đựng không nổi. Vạn
sự khởi đầu nan, thật lắm công phu, nhiều
gian khổ, nhưng vẫn phải cố gắng vượt
qua mọi khó khăn của giai đoạn ban đầu.
Rồi một thời gian trôi qua ta thực hành chu đáo, đúng
theo phương pháp chỉ dẫn, tự ta thấy rơ sự
thăng tiến, cơ thể quen dần, chân tay mềm mại,
gân cốt dẽo dai không c̣n cứng đơ như trước
nữa, các bộ phận chân và tay ráp nối đúng vị
trí ăn khớp với nhau, động tác nhuần nhuyễn
lên xuống, ra vô đúng độ và đồng bộ, vận
chuyển điều hoà, khỏi cần quan tâm để ư
tới nữa, tự động vận hành giống như
các bộ phận của chiếc máy đang hoạt động
trơn tru. Các động tác bên ngoài tuy khó nhưng dễ
học, nh́n thấy ta có thể tập dợt một thời
gian sẽ trở nên thuần thục, không c̣n là điều
khó khăn nữa. Bởi “hữu vi hữu tác” dễ thấy
dễ biết nên dễ thực hiện. Nhưng có một
vấn đề tối ư quan trọng là đường
hấp hô, hơi thở này thuộc vô vi, vô ảnh không thể
sờ mó, chẳng có nơi sách vở, nhờ đến chỉ
dẫn của thầy mới thông suốt. Lúc đầu ta cảm thấy khó khăn
không thể thực hành đường hơi như thế
nào cho đúng, không t́m ra mối, hơi thở chưa thông,
tức ngực, ngặt ḿnh, khô cổ họng. Nhưng với
sự kiên tŕ luyện tập bền tâm thực hành đúng
y như phuơng pháp khí huyết
sẽ lưu thông kinh mạch khai mở, đường hơi
không c̣n bế tắc như trước nữa, ta có thể
thực hiện một cách dễ dàng và cảm thấy thoải
mái, mỗi thời tập luyện đều gặt hái kết
quả khả quan. Đây chính là kinh nghiệm quư báu với
biết bao công tŕnh gian khổ tập luyện nghiên cứu
mới đúc kết nên. Người thực hành lâu, mỗi
khi tập luyện rất thích thú và sảng khoái lạ thường.
Một đôi khi đến giờ hành công vận khí không
thể thực hiện được, họ cảm thấy
dường như thiếu sót một cái ǵ, trong người
bứt rứt, bực bội, ngặt ḿnh uể oải.
Thật ra ngay từ thời điểm này, mỗi tế
bào trong châu thân cần một lượng dưỡng khí
nhất định, do thiếu lại không cung cấp kịp
thời nên mới có t́nh trạng trên. Qua một thời
gian tập luyện chu đáo, siêng năng bồi dưỡng
cơ thể thay đổi tinh lực dồi dào, khí lực
mạnh mẽ, sức khoẻ gia tăng, lên cân, da thịt
hồng hào, mịn màng tươi mát, trong người tràn đầy
nhựa sông ta cảm thấy hoan lạc yêu đời. Thể
xác thay đổi tốt đẹp, tinh thần từ đó
cũng thay đổi. Tinh thần
minh mẫn trong một
cơ thể cường tráng. Do
“bảo tinh” đúng phương
pháp ta biến nhiên liệu này, thăng thượng thành ánh
sáng, thần tinh giao hoà, phát huy tỏ rạng. Ngọn đèn
tinh thần soi tỏ nhà tâm, cải tạo giáo hoá một Xă
Hội băng hoại nơi ḷng thành ra thiện lương
trong lành, vơi hết ác tâm, từ tâm chất chứa, chuyển
mê thành giác, ḷng trong tánh sáng, thần quang rực rỡ, không
c̣n mờ lu u tối nữa. Tinh thần vững mạnh,
thần lực sung thiệm, ta cảm thấy an nhiên điềm
đạm, vui vẽ lạ thường không c̣n bứt rứt,
bực bội năo phiền nơi tâm, có thể coi đây là
liều thuốc “giải sầu” đem đến cỏi
ḷng hưng phấn yêu đời. Tinh thần cởi mở
thể hiện t́nh thương yêu mọi người một
cách chân thật. Đèn tinh thần minh chiếu đạt
tới thật trí của trí tuệ, thấy biết tất
cả và có tất cả. Đây là sự sống và sự
sáng nơi ta, ta sẵn có trí tuệ ứng dụng bất
cứ lúc nào, khi ta cần đến, thể dụng tương
đồng, ngoài trong như nhất, có đèn ắt sáng,
không đèn ắt tối, sáng là an vui, tối là đau khổ. Có được như vậy là nhờ
ngọn đèn tinh thần của ta bừng sáng, phát huy đến
cao độ và được bồi dưỡng đúng
mức, chiếu minh cho ḿnh và cho mọi người. Tự
hành tự đạt, gieo nhân đến hồi gặt qủa,
tự ta ra công chuyển động chiếc máy, tạo tác
trí tuệ, giúp ích cho nhân loại. Con đường sáng dẫn mọi người
đến hạnh phúc chân thật, thành qủa này tưởng
thưởng cho những ai hữu phúc, gắng công thực
hiện, tự trau sữa ḿnh thành “con người tân tiến,
trí tuệ” của thời đại bước vào kỷ
nguyên mới gồm cả văn minh vật chất và tinh
thần. Muốn có được thành quả như
trên, người thực hành phải nhất tâm tin tưởng
và hành đúng phương pháp đă chỉ dẫn, nhất
là không canh cải, hành sai trái nguyên tắc sẽ gây trở
ngại. Lợi
ích của phương pháp là bồi dưỡng sức khoẻ
và tinh thần rất thiết thực cho con người.
Nhất là hiện nay, môi trường bị ô nhiễm nặng,
gây nên nhiều bệnh tật mà các loại thuốc chữa
trị c̣n hạn chế. Phương pháp bồi dưỡng
này c̣n góp phần giải trừ
độc chất do thức ăn
uống trong cơ thể chúng ta, làm cơ thể thích ứng
với môi trường sống, tạo ra sức đề
kháng, chống lại bệnh tật, nhờ có sức khoẻ
dồi dào, chịu đựng dẻo dai làm việc với
năng suất lao động cao. Người làm việc nặng
nhọc chỉ cần vận hành trong một thời gian
nhất định sức khoẻ hồi phục lại
ngay, các nhà doanh thương chính trị, kinh tế gia, trước
hằng khối công việc, bận tâm rối trí, nhờ
có phương pháp bồi dưỡng này họ giải quyết
mọi vấn đề một cách lẹ làng sáng suốt
hữu hiệu.
Với các bậc cha mẹ trẻ
thực hành phương pháp bồi dưỡng (cấp I
và II) sức khoẻ dồi dào hơn, tinh thần minh mẫn,
tâm trí bao rộng, sẽ tạo ra những người con ưu
tú đầy thông minh, tiếp thu mọi sáng kiến mới
dễ dàng phù hợp với trào lưu tiến bộ khoa học.
Con người tân tiến đầy
đủ trí tuệ mới xây dựng xă hội tốt đẹp
sau này. Thay Lời Kết
Kinh lạy Cha, ta đă đọc
qua và hiểu rơ pháp ư quy hướng cội nguồn, trở
về với bản nguyên, đại khối linh quang, từ
nơi đó ta đi ra xuống hồng trần để
tiến hóa, cũng từ nơi đó mục đích chính yếu
ta phải quy hồi, trở về cựu vị.
Có đi có về, hiểu rơ tận
tường “đường đi” “lối về”,
thêm vào phương tiện sẵn có để thực hiện
đúng không c̣n lạc nẻo chơi vơi nơi hồng
trần khổ hải.
Con đường đi ra là
xa cội ly nguồn làm mất sự sống, tiêu hao sự
sáng, không c̣n liên lạc với bản nguyên, trung tâm điện
năng nên phải sống trong cảnh tối tăm, trái
thiên lư theo cơ đọa lạc.
Khi hiểu rơ đường đi
ra làm hao hụt điện năng, mất đi sự sống
và sự sáng, nhân sinh giác ngộ phải nỗ lực quy hồi
trở về nguồn cội, liên lạc với Trời
Cha, hiệp cùng đại khối, nghịch chuyển siêu
thăng, tạo ra ánh sáng, tiếp nhận điển linh
do tự hành, tự đạt để tự giải
thoát lấy. Đấy là ta ḥan thành sứ mạng vi nhân của
ḿnh.
Nhờ Chúa chỉ dạy phương
cách “Lạy Cha chân thật” theo mật pháp vô vi, nối nhịp
cầu thông hiệp giữa Hữu Vô, âm dương không
c̣n riêng rẽ, máy linh chuyển động nơi chính bản
thân này với đầy đủ phương tiện để
thực hiện bồi dưỡng thân và tâm, sức khỏe
và tinh thần đến chỗ dồi dào sung măn.
Đây là bí pháp sinh lai của
Chúa, bởi v́ chân thân thánh thể của ḿnh, khối sáng
trong ta bị hao hụt cần phải phục sinh, tái tạo
lại cũng là đường lối tu thân chân chính.
Tu là tô bồi chỗ khuyết,
sửa chữa chỗ hư cho nguyên vẹn trở lại,
vừa gây dựng và bảo vệ cùng đi song song với
nhau, mới đạt được thành quả trau luyện.
Với pháp ư của Chúa tỏ
rơ chỗ tối linh tối diệu của Thiên cơ nơi
tiểu vũ trụ gồm cả Trời và Đất,
vô thể nằm trong hữu thể, xác và hồn trong một
thân thịt, ta cần phải t́m hiểu cho thấu đáo
là tri và bắt tay vào việc làm là hành, nhờ Tri
và Hành đúng theo đạo lư vô vi thực thi đúng mức
sẽ được thành quả tốt đẹp, đúng
yêu cầu, y sở nguyện của việc cầu nguyện
thật trong thanh vắng. Chúa chỉ dạy một cách tận
tường hành trau tâm pháp đường lối hồi hướng nội tâm vào ngỏ hẹp
dẫn đến sự sống đời đời.
Những điều Chúa dạy
nơi Kinh lạy Cha phải hiểu theo lư đạo vô vi,
mượn lời bài lư, nương Hữu t́m Vô, lấy hư
rơ thật mới đúng chân lư, tất cả đều
chân thực, không bao giờ thay đổi, vạn cổ bất
dịch. C̣n
cầu nguyện theo ḷng phàm tánh tục, chấp sự theo
lời, sa vào mê tín dẫn đến chỗ tối tăm đau
khổ.
Lời châu ngọc của Chúa
ta phải hết tâm cung kính tuân hành chắc chắn sẽ
thành công đắc quả.
Cuộc hành tŕnh về nguyên
luôn luôn có nhan Chúa soi dẫn, với kim chỉ nam định
hướng, chiếc phao cứu cánh giữa biển trần
và là thang mây đưa ta về hiệp một với Trời
Cha.
Tự ta làm nên tất cả ! MỤC LỤC
LỜI
TỰA CHƯƠNG
I A.
Lời kinh dẫn nhập B.
Kinh 1/ Thánh kinh 2/ Kinh thánh C.
Miền đất thánh D.
Tiểu vũ trụ E.
Lạy 1/ Thượng ngươn 2/ Trung ngươn 3/ Hạ ngươn F.
Kinh lạy cha CHƯƠNG II LẠY
CHA CHÚNG CON Ở TRÊN TRỜI A.
Cơ tạo hóa 1/ Đọa lạc: Thần ra Tinh 2/ Siêu thăng: Tinh quy thần B.
Lạy cha 1/ Ở trên trời 2/ Ở dưới đất C.
Lạy cha chân thật CHƯƠNG III
25
NGUYỆN
DANH CHA ĐƯỢC TÔN THÁNH E.
Nguồn cội 1/ Cầu: Ḷng phàm dứt. 2/ Nguyện: Tục tánh tiêu B.Cầu
nguyệntrong thanh vắng C. Tâm pháp D. Thánh hóa cơ quan đầu năo - Chúa thâu phục 4 môn đệ - Thiên đăng nhựt diện
CHƯƠNG IV
30 NƯỚC CHA ĐƯỢC ĐẾN A. Nước thiên đàng B. Con người trí tuệ C. Điều kiện tham dự D. Nước trời 1/ Ở ḷng người 2/ Ở thế gian
CHƯƠNG V
35 Ư CHA ĐƯỢC NÊN Ở DƯỚI
ĐẤT CŨNG NHƯ Ở TRÊN TRỜI A. 1/ Ư a) Phàm ư b) Thánh ư 2/ Ở dưới đất: Thân: Phàm của đất 3/ Ở
trên trời: Tinh thần: Thánh của trời B. Ư cha Hữu vô hiệp nhất Chuyển thức thành trí Ư thức thành diệu quan sát trí
CHƯƠNG
VI
39 XIN CHO CHÚNG CON ĐỒ ĂN HÔM NAY ĐỦ DÙNG E.
Đồ ăn 1/ Thực vật của đất – Cho thân xác 2/ Không khí của trời – Cho tinh thần 3/ Cơm trời – Cho thánh thể B. Dưỡng nuôi chân thân 1/ Bát: Chén của Chúa 2/ Y: Ao lễ của Chúa C. Cách dưỡng nuôi thánh thể 1/ Vơ hỏa 2/ Văn hỏa CHƯƠNG
VII
50 THA NỢ CHÚNG CON NHƯ
CHÚNG CON CŨNG THA KẼ MẮC NỢ CHÚNG CON E.
Con người mang nợ 1/ Nợ của trời 2/ Nợ của đất. B. Chân nhân mang nợ 1/ Nợ đạo pháp 2/ Trả nợ pháp C. Mật pháp vô vi Nợ cũng như không nợ “B́nh đẳng – Tánh trí” CHƯƠNG VII
50 CHỚ ĐƯA CHÚNG CON VÀO
SỰ CÁM DỖ E.
Khả năng ứng dụng 1/ Phàm dụng 2/ Thánh dụng 3/ Toán chơn đắc dụng: Giải thoát B. Thi thố tài năng 1/ Phàm: Đen tối: Vô minh 2/ Thánh: Sáng suốt: Trí huệ C. Tŕnh độ tu chứng 1/ Non kém 2/ Thành đạt D. Cám dỗ 1/ Lưu Trường Sanh luyện sắc 2/ Chúa Giêsu bị ma quỹ cám dỗ CHƯƠNG IX
65 NHƯNGCỨU CHÚNG CON
KHỎI ÁC E.
Nhân tánh 1/ Ac 2/ Thiện B. Thực hiện nhân tánh 1/ Theo phàm nhân. 2/ Theo thánh nhân C. T́nh thương chân thật. 1/ Không c̣n tương đối tâm 2/ Ứng hiện tuyệt đối tánh 3/ Hạnh bát ái thể hiện CHƯƠNG X
72 CẦU NGUYỆN THẬT E.
Phương pháp cầu nguyện 1/ Bồi dưỡng cấp I 2/ Bồi dưỡng cấp II 3/ Bồi dưỡng cấp III B. Phương tiện phụ trợ thực hành 1/ Ao choàng 2/ Tấm nệm 3/ Cây đèn 4/ Lư hương 5/ Đồng hồ 6/ Cái ghế C. Thời điểm thực hành D. Động tác thực hành 1/ Động tác ở chân 2/ Động tác ở tay 3/ Đầu 4/ Động tác xoa tán bụng 5/ Động tác xoa vuốt mặt E. Giai đoạn an tịnh để trưởng dưỡng tinh thần Giai đoạn này có 3 cấp THAY LỜI KẾT
91 MỤC
LỤC
94 Kết quả đắc Đạo khi qui liễu, có Ấn chứng như
sau: Địa chỉ liên lạc: Chiếu Minh Giáo Toà Số 1907-Tổ 53, ấp Đông B́nh A, xă Đông B́nh,
huyện b́nh Minh, tỉnh Vĩnh Long. HT: 66 Bưu Điện
B́nh Minh – Vĩnh Long ĐT: 070
– 890450 Email: chieuminhgiaotoabm@yahoo.com Website: http//www.chieuminhgiaotoa.org
|
![]() |
V̀ SAO THƯỢNG-ĐẾ MỞ ĐẠO TẠI VIỆT-NAM | |
Một Trang Web bất Vụ Lợi ,
Không Quyên góp. Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí
|
Thư Viện 1 2 3 4 5 |