CHƯỞNG GIÁO BÙI TRÍ DŨNG ![]() CHIẾU MINH GIÁO TOÀ BÌNH
MINH – VĨNH LONG NĂM 1998 LỜI TỰA Với đường lối chú trọng về giáo dục con người để sống thuận hợp trên thế gian, các tôn giáo viết kinh sách giúp cho họ học hiểu, những chủ thuyết, tư tưởng để rồi thực hiện trau sửa. Qua nhiều đời lưu truyền khiến nhân sinh choá mắt trước thiên kinh vạn quyển, họ lạc vào rừng kinh sách và hoang mang không biết đâu là chánh là tà, nhất là họ chẳng có đuốc sáng để nhận chân, biết thật, nên họ bị lưới vạn thù úp chụp, khó trở về bản nguyên, càng đi ra càng xa cội ly nguồn.
Từ nhứt bổn ứng vạn
thù.
Nếu sinh nhân giác ngộ không
muốn quẩn quanh trong vòng vạn hữu, trở về
nguồn cội, chỗ đơn nhất tối sơ.
Từ vạn thù qui nhất bổn.
Con đường trở về
Một đó thật trọng đại vô cùng, một cuộc
trường kỳ kháng chiến không mệt mỏi để
thắng giặc vô minh ở nơi lòng. Nhờ phương
tiện thân xác và linh hồn khả dĩ giúp họ về
nguồn cội với kim chỉ nam định hướng
đúng đắn. Tâm lực mạnh mẽ, trí lực dồi
dào họ còn lo chi không qui hồi được.
Điều quan trọng nhân
sinh phải rõ là cần phải có trí tuệ
và đạt đến
cái thấy, biết rốt ráo.
Với nhãn giới của Thiên
Chúa, thấy biết của Như Lai soi thông cả thảy
như nhật diện chói chang.
Còn nhãn giới của thế tục,
tri kiến của chúng sanh như những
vì sao
trùng trùng điệp điệp trên bầu
trời, chỉ là đốm sáng lập loè.
Do đó, thấy, biết làm Một
là Trí, thấy, biết, làm nhiều là Ngu.
Chính vì muốn tỏ rõ chỗ
đạo lý duy nhất không phân biệt, chẳng còn ta
người,
hữu vô.
Phật Chúa là một.
Đông Tây là một.
Âm Dương là một.
Chân Lý là một.
Chỗ một đó mới thể
hiện cái đạo của Trời.
Như Thích Ca được
sinh ra ở phương Đông vào mùa hè nóng
bức trong cung
điện vàng son, chăn ấm nệm êm, cao sang tột độ,
giai cấp thượng lưu Vua Chúa, Ngài cho mình
là Như
Lai.
Giê-su được sinh ra ở
phương Tây (Trung Đông),
vào mùa Đông rét mướt nơi hang đá,
nằm trên máng cỏ, nghèo khổ cùng đinh, giai
cấp hạ
lưu du mục, Ngài gọi mình là kẻ Trộm.
Ta thấy ở chỗ lưỡng
biên tương đối: Đông Tây, nóng lạnh, sang
hèn,
thượng hạ, Như Lai và kẻ Trộm thật
không phải là hai, chỉ cần cái gạch nối liền
thành cái vòng pháp luân hằng xoay
vận chuyển, không trước,
không sau, không cao không thấp, không đến
mà đến, đến
cũng như không đến, thể hiện Trung Đạo
thuần chơn tâm pháp ưu việt,
Tam Tạng Kinh: Di
Đà Diệu Pháp. Lạy
Cha Kinh Báu. Phương
Pháp Bồi Dưỡng
Sức Khoẻ và Tinh Thần.
Chỉ là một mà thôi.
Tuy ba mà một, tuy một mà ba.
Kinh pháp giúp cho nhân sinh
giác ngộ
tìm về nguồn cội vừa tri vừa hành theo vô vi
lý
nhiệm họ tận tâm thực hành, quyết chí luyện
trau, trước sau gì cũng có kết quả đúng như
yêu cầu, y như sở nguyện của mình.
Một dòng Đông, một dòng
Tây liên kết.
Nhân sinh quả là diễm phúc. CHƯƠNG I XXX LỜI
KINH DẪN
NHẬP
Con người là một bảo
vật vô giá được tạo hóa ban cho cũng là
“vườn
nho” của Chúa, “vườn đào” của Tiên, “vạn bửu
nang” của Phật. - Cái vũ trụ thu hẹp này chứa
đựng
đầy đủ cũng giống như “đại vũ trụ” thế
gian bên ngoài. Gồm cả hữu vô “trong một vóc”
- “xác”
và “hồn” nương nhau để sinh hoạt và tiến
hóa. Bảo vật này thuộc quyền sử dụng của
riêng từng người để tự họ giải
quyết lấy trong cuộc đầu tư lớn nhất
của đời người . - Nếu “giác ngộ” họ tạo đủ
điều kiện để “giải khổ thoát trần”. - Bằng “mê ngộ” ắt họ phải
bị đọa lạc chốn mê tân. Thượng đế cho con người
tự do từ tư tưởng đến hành động,
rồi nhân đó lãnh lấy kết quả thành
công hay thất
bại . Chính vì vậy mỗi người phải
định rõ mục đích cho cuộc đời của
mình, để rồi đến khi lâm chung trút hơi thở
cuối cùng họ khỏi phải ân hận hoặc hối
tiếc chi cả . Người ta được sinh ra và lớn
lên theo thời gian, trưởng thành cả
thể
xác lẫn tinh thần,
dần dần đến ngày chết - Một đời
người diễn ra trên cõi trần hoàn này, ngắn,
dài,
mau, lâu, không một ai định trước hoặc ước
đoán được; Bởi vì hơi thở ra không hẹn
thở vào, ở thời điểm nào cũng có thể đứt
hơi lìa mạng , xác rã hồn tan đâu có
lâu bền vững
chắc. Thường người
ta quan niệm một chu kỳ 60 năm cho một đời
người : - Từ 1 tuổi đến 20 tuổi :
thời kỳ phát triển , trưởng thành - thượng
ngươn . - Từ 20 tuổi đến 40 tuổi
: thể chất đầy đủ, trụ, trung ngươn
. - Từ 40 tuổi đến 60 tuổi
: Xuống dốc, “tinh, khí, thần” kiệt quệ - hoại,
hạ ngươn. Rồi một ngày nào đó hết
thở,
“long hoa tận thế” đến với mình để hoàn
không, theo lẽ “ thành, trụ. hoại, không”,
xong một
kiếp người trên cõi đời này. Cái vòng
lẩn quẩn
ấy không một ai tránh khỏi cả ! Vì thế khi còn thở là
còn sự sống,
ta phải biết vận dụng cái gì mình đang có ,
vốn
liếng lãnh của “đất trời”, cố lo cho đời
sống chân thật. nương vào đó để làm phương
tiện tu - tiến giúp ta giải
khổ thoát trần ngay trong kiếp
vi - nhân này . “ Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời
“ Hễ nhân sinh sống theo phàm,
nương
theo trần cảnh phải chịu ảnh hưởng của
nhân dục, thất tình buộc ràng,
lục dục vấn
vương,
triền phược bủa vây. Là “khổn tiên thằng”
cột trói ông Tiên, vị Phật của mình. Họ để
vật chất phủ lấp tâm linh, con thú làm chủ
mình,
quỷ ma che khuất Phật. Họ sống trong vô minh ngục tù u
tối, cũng vì muội
mê đi theo “con đường đau khổ”. Người giác ngộ lại khác, hiệp
giác bội trần, hồi đầu hướng thượng,
nhờ hiểu được lẽ sống chết của
tinh thần , xuống dốc của chơn thân, trước
muội mê, sau giác ngộ . Tự mình tìm phương
cách cứu
chữa, hướng theo “con đường giải
thóat” nên họ kịp thời chận đứng hành động
tự sát bất giác vô minh ấy. Họ không phung phí tiêu
xài, hủy hoại
gia sản của mình nữa, nhưng lại cố lo giữ
gìn, bảo vệ báu vật và biết sử dụng chúng
nó vào mục đích tô bồi chân
thân, phục hoàn thánh thể
làm cho khang kiện đủ đầy, từ mê đến
giác, phàm nên Thánh, chúng sanh
thành Phật. Việc làm này là “tu
thân chân chính”. Chữ ‘tu’
tuy chỉ có một song có nhiều cách quan niệm
khác nhau, bởi vì nhân sinh
có nhiều duyên, tùy theo trình độ tiến
hóa, nên tự
họ lựa chọn lấy đường lối để
tu thân. Chính hành động phô lộ ra ta
có thể đo lường
căn tánh của họ, tức cường độ của
sức giác ngộ, sự sáng ở
vào chừng mức nào ! Nếu họ thích trống kèn, nhạc
lễ,
phù hợp với sắc tướng âm thinh, họ theo nhạc
trống rình rang, lễ nghi trang trọng của các tôn
giáo để
chiêu dụ họ; có kẻ lại thích phú thi kinh kệ
, họ
nương vào thi vịnh ngâm nga ê a hòa theo
đó . Còn người nào muốn tìm
hiểu triết
lý nhiệm mầu, cao sâu Pháp đạo dẫn vào con
đường
giải thoát, họ tự lặng lẽ cách xa chỗ phồn
hoa ca hát trống kèn nhạc lễ, để tìm ra chơn
lý, thấy được chỗ mật nhiệm ẩn vi
nhờ tri nên hiểu, rồi họ cố lo tu. Đây là hạng
người chân tu, nên việc hành trau của họ rất
chín chắn, suốt đời không thay đổi , bởi
vì họ hiểu biết thật sự mới bước
vào đường
tu. “Tri hành” đúng lẽ khác hẳn với những
người tu mê hành muội hay bị đời hất hủi,
xua đuổi thất vọng nặng nề, nên mới
tìm về nẻo đạo. Họ coi việc tu hành như
chiếu bông, gối dựa, nương tựa một thời
gian cho đến khi nào thuận cảnh, họ
lại
theo đời ra thế
nữa . Vì vậy nhân sinh ở “vạn
duyên
hành theo vạn pháp” nên họ bị lạc lỏng chơi
vơi nơi rừng u minh đầy chúng sanh tánh. Trong khi
đó,
trước mặt có trăm đường vạn lối
chằng chịt khiến họ chóa mắt phân vân, không
biết
được nẻo tà đường chánh để tu
hành giải thoát. Độc hại hơn nữa lại có
các “minh sư triệt giáo”, “đạo sĩ bàng
môn”
tự xưng Phật Tiên xuất thế, khoe khoang nào tài
hay, phép lạ, mầu nhiệm linh thiêng, rủ
ren
chỉ biểu dẫn dụ họ
vào ngõ dị đoan mê tín. Chính
đây là trường hợp
vấp phải của hạng người tìm đạo
ngoài lòng, ham thích huyền diệu, nên họ bị
sụp hố
sa hầm, rớt nhằm bàng môn rơi nơi tả đạo
. Họ nương theo hữu tướng,
hướng theo hữu vi, chấp sự bỏ lý, bám vào lớp
vỏ cho đó là thật. Họ
ôm ấp cái hữu tướng bên ngoài, lại bỏ mất
cái đạo tánh bên trong , “Lục tổ Huệ Năng”
đã hằng chỉ rõ “Tìm đạo ngoài lòng”
khác nào
như cầu “lông rùa sừng thỏ” không bao giờ
có! Họ ứng dụng theo Phàm làm mất
Thánh, đua đòi theo pháp tướng của thế
gian ở vạn thù sai biệt.
lại mất đi pháp tánh “nguyên bản hằng thường”
nên chẳng tri tường “duy
nhất pháp” . Chính các “văn sĩ giả
hình”. “biện
sĩ du phương” cố phô trương giáo lý, dụng
tướng thuyết mê hoặc
để thu hút thêm nhiều đệ tử đi vào ngõ
ngoại đạo giáo tôn, rồi khép khuôn họ trong
giáo điều,
giáo luật, theo ức đoán này, bởi định kiến
kia, do tư tưởng nọ. khiến cho sự thấy,
biết của họ trở nên hạn hẹp, sai lạc
khác nào họ quan sát không gian qua một khe
hở, chỉ thấy
một khía cạnh , một cục diện của vấn đề,
chẳng rõ được toàn chu nguyên thể . Vì thế
họ
không biết ĐẠO 道
tức là cái “vô cùng vô tận “
.Họ cố tìm kiếm trên
không gian một bóng mờ viễn tượng , tất cả
việc làm đó là ảo tưởng hoài mong,
không bao giờ
có thật : Họ tìm Phật, nhưng lại mất Phật,
xa lìa Ngài, lại cận kề với ma quỷ . Họ hành đạo theo đời là
còn đời, xa hẳn cõi trời, gắn liền với
đất, bị vật chất đậy lấp tâm linh
không còn sáng suốt, trở thành kẻ mù
đui, câm điếc,
mang lấy nan y bệnh tật, cần phải nhờ đến
diệu dược của “y vương Phật” để
giải trừ , còn ngoài ra vô phương cứu chữa . Con đường họ đi
khác nào vào hang sâu tăm tối,
ngõ cụt, đường cùng , không một lối thoát,
chính là “Tử lộ”. Cái chết đang chờ
đón,
khiến họ hoang mang tuyệt vọng, không còn tin tưởng
vào khả năng sẵn có nơi mình, chỉ mong chờ
ngoại lực tha nhân đến cứu độ. Họ
cầu nguyện nơi hình cây, tượng đá, van xin ơn
trên cảm thương đoái tưởng đến số
phận hẩm hiu của họ rồi ban cho phước
lành đúng theo điều mong ước. Họ tin tưởng
tuyệt đối vào sự cầu nguyện, cùng tập
hợp với nhau, đem hết tinh thần, dụng toàn ý
chí, cố gây nên một nguyện lực mạnh mẽ, thấu
tận hư không, đến “Đấng vô hình “ thương
tình chứng minh cho lời nguyện . Ngoài ra họ lại dùng “Pháp
tụng”,”Pháp
niệm”, đọc kinh vang rền, ê..a... trầm bổng
rất êm tai, lải nhải
như trẻ nít học bài, cốt sao mau thâu thập nhiều kinh
điển. Họ lấy làm tự hào với
số vốn “đạo lời”
ấy, cho rằng mình lãu
thông
sách kinh hiền truyện. Hơn nữa với phương
pháp này họ coi là chánh chơn, chủ yếu cho
việc tu
thân, nên việc trì kinh tụng niệm được họ
thực thi một cách triệt để. Họ mượn
lời kinh tiếng kệ để chế ngự cái tâm,
gò bó cái trí, không cho nó
phát huy, có như thế dễ sai khiến
điều khiển, nhưng thực ra, trái với lòng mong
vọng ấy vì tâm phàm duyên leo chuyền tứ tung
, thần
thông vô kể, họ không thể kềm
giữ được . Họ còn lầm
tưởng tụng nhiều, niệm nhiều sẽ được
ơn trên chứng giám, gia ban phước đức và hữu
công với đạo . Ngoài ra họ còn tôn
sùng kinh sách như “phép
mầu” có thể giải tội, cải hối lòng
phàm, tiêu trừ tánh tục, giúp đỡ người sống,
siêu độ kẻ chết. Bởi vì hiểu như thế
nên họ cổ động hô hào thuê bao nhiều người
khác tụng niệm để hổ trợ cho thân nhân tai
qua nạn khỏi, nhưng chắc chắn chẳng có hiệu
quả chi cả ! Họ tụng niệm theo lòng phàm,
nguyện
cầu theo tánh tục, đúc tượng xây đền, lo
lót ơn trên chứng minh cho lòng thành , khẩn
nguyện với
đầy đủ tế phẩm : hương đăng,
hoa quả; có khi mù quáng đến nỗi họ hiến cả
xác thân cúng dường cho Tam bảo. Nhất là
thích quì
lụy bên những vị mà họ tôn sùng coi như “ hoạt
Tiên, Phật sống” cố mong cầu phước đức
ban bố ơn lành, xóa tan tội lỗi, cải hối
lòng phàm thành ra tinh anh thánh thiện. Họ
tưởng sai
nên hành trật, dù ngay cả “Phật Tiên”
hiện ra trước
mắt cũng không giải khổ cứu độ cho ta được
đâu , bởi vì chính ta là người đã
gây ra não phiền
điên đảo nên chỉ có ta là vị cứu tinh với
đầy đủ khả năng ban vui cứu khổ
cho ta đấy thôi ! Họ muốn về trời hưởng
“Niết bàn cực lạc” trong cõi vô hình,
nhưng lại
bám đất lìa trời theo đời làm người trần
tục, nên mất tất cả,
suốt đời họ mang tiếng “tu hành” nhưng
chẳng đem lại một thành quả nào cho việc “tu
thân chân chính”, nhất là kinh
sách của các vị Giáo chủ
lưu truyền cho hậu thế, nhân sinh lại chấp lời
theo sự, tưởng rằng đời sống ấy
có thật xảy ra nơi cõi trần hoàn này,
nên họ cố
học từng lời, hành từng sự, in khuôn đúng rập,
giống hệt như Giáo chủ của
mình . Họ mong
đem cái gian trá giả dối để hòa đồng với
mẫu mực tinh anh , nhưng điều hy vọng đó
bất thành. Bởi vì các Ngài dùng thần
ngữ diễn tả
đời sống tinh thần thuộc tâm linh nội giới
trong vô vi mật nhiệm, khác hẳn với đời sống
phàm phu “giả và tạm”. Hơn nữa không gian
và thời
gian khác biệt nên họ không thể nào sống
giống như
thế được, hữu thể thế trần có hạn,
có lượng . Còn đối với đạo pháp vô vi
vô
cùng vô tận , lúc nào cũng chân
và thật “vạn cổ
bất dịch”, họ lầm lạc sai thất, tự
làm mất đạo vì lòng mê tánh muội, họ
cứ miệt
mài theo sự “cầu nguyện giả hình”, từ tốp
mê tín này rủ ren tốp mê tín
khác dẫn vào ngõ u tối. Họ
dụng trống kèn nhạc lễ, sắc tướng âm
thinh mong cầu thấy Như Lai, Cao Đài nhan Chúa, do
đó
họ không bao giờ nhìn thấy, bởi nhãn giới của
thế tục, thấy biết của chúng sanh bị màn vô
minh che kín ,có mắt cũng như không , có tai
như chẳng
có , nên không thể nào thấu rõ
lý đạo ẩn tàng
trong ngôn thuyết hoặc hình tướng biểu tượng
của Đạo. Chính vì vậy sự thờ phượng
của họ trở nên mê tín dị đoan. Họ tụng
kinh như kéc biết nói tiếng của người, nhưng
không làm được việc người, phát ra lời
Phật nhưng chẳng hành theo ý Phật, lời nằm
lòng nhưng ý chẳng thông, lầm giả tưởng chân
, họ chấp vào văn ngôn giáo lý cho rằng
“chân kinh”nhưng
thật sự nó là “giả kinh hữu tự” còn lý
nhiệm
ẩn tàng sâu kín là “chơn kinh vô tự”
quý báu vô cùng . Chính vì vậy họ đã bị
kinh chuyển,
hành theo lời, xa rời lý đạo, chấp giả bỏ
chân, cái hình thức của lớp vỏ văn chương
là thành trì kiên cố chôn nhốt họ
trong đó làm bịt
đường bí lối không thấy biết gì ráo,
nào rõ được
Đạo . Muốn thông đạt sách kinh hiền
truyện phải có trình độ tương đương
với tác giả của nó, bằng không vô phương thấu
rõ. Do đó kinh sách là bẫy rập gài
người hạ
trí, nhưng là đuốc sáng soi đường cho kẻ đại
căn, bởi vì đạo vượt ngoài phạm vi ngôn
ngữ , chỉ mượn lời bày lý, khi đạt lý rồi,
ta cần phải quên lời, có như thế việc xem
kinh sách mới đem lại lợi ích thiết thực
cho
việc tầm tu, còn bằng
ngược lại rất tai hại, nó dẫn ta đi sai
đường lạc nẻo . Việc tụng kinh niệm Phật, nguyện
cầu Trời đất không đem lại một kết
quả nào cho công phu gầy dựng tâm tô bồi
tánh - Nó chỉ
làm hao hơi tổn sức cực thân, tinh thần kiệt
quệ; Nhưng “người tu hình tướng”cho đây
là đường lối hành đạo chân chính giúp
họ
hy vọng, tạo một niềm tin vững chắc, hỗ
trợ giúp đỡ, bởi họ chẳng có cái gì
bám víu
vào để tu thân . Họ tu mê hành muội suốt đời
cùng kiếp lặn hụp trong ao tù nhân dục, sống với
vô minh tục tánh không thể nào giải
thoát được,
Địa ngục trùm bao họ rồi, thật rất bất
hạnh . Ta hãy để ý sự việc
trưóc
mắt : Giữa đêm đen vạn vật đắm
chìm trong bóng tối, cái màn vô minh
dày đặc ấy dầu
ta cố sức nguyện cầu, phục đầu vọng
bái, tụng niệm trì kinh để xóa tan nó đi,
nhưng
không đem lại kết quả, chẳng hề hấn gì
cả, thậm chí ta bực mình nguyền rủa và ngay cả
dùng quyền lực tột bực của thế gian cho nổ
hạt nhân nguyên tử để hủy diệt nó . Thật
ra cũng bằng thừa “đêm đen vẫn là đêm đen”. Một sự thật hiển nhiên, đêm
đã tàn, bình minh xuất hiện, nhựt diện lộ
hình, vô minh thoái nhượng. Tự nhiên đen tối
mất,
cảnh vật hiện ra rõ ràng chan hòa trong ánh
sáng . Vậy “ánh sáng đến là
tối lui” Cho nên nhân sinh khi tâm
không giác, trí
không ngộ,
lại lo miệt mài theo việc cầu nguyện mong
ước viễn vong là còn tạo
mãi cảnh bất giác tối tăm trầm luân nơi khổ
hải. Bởi họ tìm Đạo nhưng không
biết Đạo ở đâu ? cứ nhắm mắt làm
càn không định hướng, chẳng mục tiêu , phó
mặc
cho định mệnh may rủi, thật tai hại vô cùng
, cũng bởi vì họ tu hành còn nằm trong ảo tưởng
. Người giác ngộ quan niệm đúng
đắn , không đi theo ngõ hữu vi, chẳng hành theo hữu
tướng, họ tự đổi hướng xoay chiều,
trở lại nội tâm nơi tiểu vũ trụ
này để tìm Đạo,
hành Đạo và đắc Đạo, tạo ra ánh sáng để
thanh lọc tâm, gội rửa lòng , cũng là “phép
thanh luyện”
hay “phép rửa tội” tiêu trừ đen tối, khử
trược lưu thanh, có được lòng trong tánh
sáng, “Minh
tâm kiến tánh” việc làm này gọi
là “tụng kinh vô
tướng”, càng tụng, càng niệm cái sáng
được
bồi tô thêm, có năng lực phi thường, phép mầu
tột độ, cứu khổ ban vui thành ra giải thoát. Tất cả điều đó do ta thực
hành , ta nên tụng, nên niệm, nên
cầu như
thế để đạt tâm kinh đắc
trí Huệ đúng theo yêu “cầu”, y như sở “nguyện”
của việc “cầu nguyện thật”. Người thực hành tâm pháp,
“cầu”
với chơn - như, “nguyện” với chơn -
tánh, cầu cho lòng phàm dứt, nguyện cho tục
tánh tiêu,
như vậy tuy có cầu có nguyện cũng như không
nguyện không cầu Người tu hành đúng “chơn cầu
nguyện” nầy mới được giải thoát, cũng
gọi là tham thiền, tịnh tọa để đắc
trí huệ, chứ không phải hành thiền có chừng
lấy
lệ chẳng được chi, chỉ mang khổ vào
thân, xương khô thịt héo ,tự hủy hoại lấy
mình . Do đó ta chỉ cầu nguyện với
ta, cầu thấy tánh và nguyện rửa lòng , chẳng
có
mong vọng nơi đâu cả. Nhờ biết nơi tiểu
vũ trụ này có tất cả, chứa đựng vật
báu giống như đại vũ trụ thế gian bên
ngoài. Chính tư tưởng “Lão Trang” dạy rõ : “Ai biết được trời đất
như hạt thóc Sợi lông như hòn núi
là biết Đạo ”
. Ta hãy trở về với Ta tìm đường
lối trong Ta, hiểu Ta là hiểu tất cả, biết
Ta là biết tất cả, tất cả là Ta, Ta là tất
cả - Tất cả đó là Đạo . Chính nhờ “con đường sáng”
này dẫn ta đến sự sống - Từ “vạn
thù
hữu vi”
trở về với “nhứt bổn vô vi” là chân và
thật,
rõ biết “đường đi lối về”, tới
cái điểm một, nguồn cội trong tâm nội, ngõ hầu
gặp được “Thiên hạ” ông “Trời con”
nơi ta. Cái điểm linh quang vì mê muội ta
không biết
nên đã đậy lấp , đắp lên cái vỏ vô
minh.
Giờ nay ta hiểu biết chân thật, cố ra sức
thực hành, lột trần vén sạch nó đi để
ánh sáng lộ bày, “Phật Chúa” hiện ra
cũng chính
là Huệ Năng của mình . Cái khối sáng trong
ta ứng
dụng đến chỗ vi diệu, có khả năng vô lượng,
chuyển hóa vô minh thành ra “Trí Huệ”
và nhờ nó giúp
ta thấy chân biết thật, vì chỉ có chân thật
mới
giải thoát ta ra khỏi vô minh và phiền não . Đến đây ta đã hành được
cái đạo nơi ta. Tự ta nhận rõ trong thân này
“Đạo
ẩn tàng” cả một nguồn đạo sung thiệm đang
dâng trào, tràn đầy nhựa sống. Nên ta không
phóng ngoại mong cầu nơi
đâu nữa. Ta cố tâm tận lực thực hiện
việc tô bồi xây đấp cho “cái nhà
Đạo” của
mình càng ngày
càng bền vững , đoan trang tháp vàng hào
quang rực rỡ
, với xá lợi viên minh có được một “ thể
chất tinh anh “ rồi đem ra ứng dụng “tuyệt mỹ”,
thể dụng tương đồng, ngoài trong như nhứt
. Chính thành quả này
có được là
do công phu tu luyện, nhiều gian khổ. lắm nhọc
nhằn,
chịu thương chịu
khó khác nào dồi trau một viên ngọc, chỉ
có người
thợ chuyên môn mới biết được “Thạch
trung hữu ngọc” với kỹ thuật cao và bàn tay khéo
léo, tỉ mỉ giũa mài để tránh gây tì
vít mới
có giá trị . Thật sự là quý bửu ở
trên đời.
Còn đây là việc tu hành tạo tác bảo
vật tinh thần
vô ngần quý báu , đắp xây Phật thân,
cái “Thánh thể
chân thuần” ấy không ai có thể cưỡng đoạt
hoặc tiêu hủy đặng ; Vì nó “vô ảnh
vô hình”
trong tâm linh nội giới, hằng hữu hằng thường
, vô sanh bất diệt, nên nói có cuộc sống đời
đời, trường sanh bất tử, khác hẳn với
“giả thể nhục thân” hữu hình hữu hoại theo
thời gian . Chính nhờ đường lối vô vi
hướng nội, sẽ tìm đến Phật, diện
kiến Như Lai . Ta đi
ngay tìm đúng không còn dần dà do dự
nữa - Hãy mạnh
dạn tiến lên ! Mỗi bước của ta đi làm
san bằng chướng ngại, dẫm nát chông gai, tiêu trừ
đen tối trong khi ánh sáng lại phục hồi . Đây
là sự hành đạo tạo tác trí Huệ vun bồi
Thánh
thể . Con đường sáng đưa ta vào cảnh giới
quang minh rạng rỡ là “Phật đạo cao thâm”
khác hẳn với danh từ tôn giáo, đạo này đạo
nọ. Họ cho rằng chỉ có giáo tôn của mình mới
chánh chơn, cao siêu tột bực rồi lại bài
xích tôn
giáo khác. Chính vì óc kỳ thị dị
biệt độc
tôn ấy làm cho họ bị khép khuôn trong những
tư tưởng
thiển cận . Người tu hành chân chính
ắt phải
vượt hẳn cái tầm thường đó, tiến đến
cái phi thường của các đấng thánh nhân để
thực hành chân lý đạo. “Đi ra” là sa vào lưới
vạn
thù chằng chịt vấn vương không phương
tháo gỡ, khác nào chim lồng cá chậu, phải
chịu cảnh
tù đày, đọa lạc chốn u đồ bi thảm “mất
tất cả”. “Trở về” từ vạn thù quy
nhất bổn, nương hữu hườn vô tô
bồi Đạo
quả. Chính
nhờ vào đường lối này tự ta tháo gỡ , mở
trói, vượt khỏi lưới rào san bằng bẫy rập
“giải thoát tất cả”. Chính con đường trở về nguồn
là chơn hành, đi ngay vào chủ chốt, đầu mối
phát sanh vạn sự do tâm tạo . Tất cả đều
do tâm “Tâm tà tất
cả đều
tà”, “Tâm chánh tất cả đều chánh”.
Phật
dạy rằng : “Tâm tức Phật - Phật tức
Tâm” Ta có nhiệm vụ
Phật hóa chúng sanh trong tâm mình, nhờ
vào phương tiện
duy nhất “tâm pháp bí truyền” hành
trau và đắc đạt,
tự ta làm chủ cái tâm, thắng phục cái
trí, biến
Chúa Yêu thành Phật tột, đến đây không
còn một
trở ngại nào ! Người tu tự hành trau trong tâm
linh
nội giới, thuộc vô vi vô tướng, không thể
dùng ngôn từ diễn tả hoặc lột trần hết
đạo lý được. Ta chỉ cảm nhận chứng
ngộ khi hành đạo, chuyển máy linh của mình . Ngày xưa Phật thuyết minh chân
lý đạo
cho các môn đồ dụng tâm “lý giải” chỗ
tối
mật bí yếu “Đại thừa tâm pháp”, mượn
cái có trước mắt dễ thấy biết để
tỏ ngộ cái chưa thấy biết, tất nhiên ai nhận
rõ
sẽ thông lý đạo. Ngài dạy
bảo : “ Các đệ tử ơi ! nước
biển ngoài khơi kia chỉ có một vị mặn, Đạo
ta đây cũng vậy, có một vị là vị giải
thoát”. Chúa Jésus cũng khẳng định
cùng
một pháp ý: “ Các ngươi là muối của
đất,
nếu muối mất mặn đi rồi lấy chi làm mặn
lại , chỉ thải xuống đất cho người
ta chà đạp”! Không một ngôn từ nào
có thể diễn
tả được vị “mặn”, cái tính chất
mặn tiềm tàng trong muối, chỉ cảm nhận khi
ta nếm vào mới rõ biết “mặn
ra sao”,
như thế nào? - Đạo pháp
vô vi cũng vậy ! Khi thuyết pháp độ đời, cứu
rỗi nguyên căn các Ngài dùng “Sự việc thường
ngày xảy ra trước mắt để dẫn dắt
họ vào vô vi chân đạo, vượt ngoài hình
tướng,
biểu tượng của Đạo, nghĩa là mượn
tướng để thấy tánh, nương sự bày
lý, nhưng khi đạt lý rồi chớ nên chấp sự
, có như vậy ta mới không bị sự chi phối,
kinh buộc ràng mới chuyển được kinh, thực
hành theo mật ý nhiệm mầu. Một hình ảnh ta thường
thấy trong nhà của những người mê tín, tin tưởng
thần quyền, thờ ông “Quan công” phò trợ gia
đình
an lành mạnh giỏi, quỷ ma không dám quấy
phá, bức
tượng trưng bày như sau : “ Quan công mặt đỏ ở giữa”
hai bên Châu xương mặt đen, Quan Bình mặt trắng
theo phò tá và có cả “Thanh long đao”. “Đen trắng” tượng trưng
cho “Âm dương” tương đối, tả chi hữu
dực ở hai bên. Hãy tôn thờ người mặt đỏ
ở ngay chính giữa, tiêu biểu
cho trung can nghĩa khí, chánh trực quang minh,
không nghiêng chinh
“Ngôi
tuyệt đối” tối cao luôn sẵn có thanh long đao,
tuệ đao, huệ kiếm, vũ khí sắc bén, khử
ma trừ ta, quá ngũ quan, trảm
lục tướng ( qua năm
ải giết sáu tướng giặc ) giữ gìn bờ
cõi. Tất cả đều ám chỉ lý đạo duy nhất,
giúp ta trở lại tìm hiểu nơi tiểu vũ trũ
này, rồi áp dụng đúng trong công phu gầy
dựng và bảo
vệ “Tâm thể an bình” đời sống tâm linh,
tinh minh rạng rỡ. Cũng như ngày “Thích Ca Phật
Đản”
tượng trưng với pho tượng Đức Phật một tay
chỉ
trời, một tay chỉ đất ; sách kinh lưu truyền
dạy lời Đạo lý “Thiên thượng, thiên hạ
duy ngã độc tôn”. Thêm nữa ngày Giáng
sinh Chúa hài đồng
nằm trong máng cỏ. Một bên ông Joseph, một
bên
bà Maria, không ngoài chỗ dụng
chỉ
rõ “duy nhứt lý” cho
biết Ngôi độc nhất gồm tất cả thể
chất “Đất trời”, “Hữu vô” trong một
thể, âm dương hiệp nhứt, cái ta được
sinh ra, cái gạch nối liền càn khôn quy kết, quan
trọng
vô cùng, ta phải hết sức chú trọng
và có
bổn phận tường
lãm, bởi vì nó là “Ngôi vị độc
tôn”, có nó là có
tất cả, lên trời, xuống đất, thành Phật,
hóa ma, đều do ta dụng chánh hay tà, chơn hay giả. Mượn chỗ “hữu vi tương
đối” trở về chỗ “vô vi tuyệt đối”.
Thông suốt cả Hữu lẫn Vô là tri tường lý đạo
. Người ta khi thông đạt nhất
lý rồi không còn chấp hữu, chấp vô. Vô
hữu là một,
kết thành một vòng pháp luân do trụ cốt
chuyển
xoay “cái trung đạo”ở giữa đó chi phối
tất cả. Bởi lẽ sinh hóa “đi ra”, Đạo
từ nhứt thể ứng ra muôn ngàn, thiên hình vạn
trạng,
vô sanh hữu - “Đạo ra pháp”. Khi quy hiệp “trở về” từ
muôn ngàn hồi hướng chỗ một ấy. Pháp đạo
hoàn nguyên - Hữu hườn Vô. Ta rõ biết “đường
đi lối về” nên không còn lạc lõng chơi
vơi
giữa chợ đời muôn ngã - Tự ta thực hành đường
lối trở về nguồn, sớm muộn gì cũng
đến mục
tiêu, cứu
cánh sau cùng “hồi cựu vị” do ta ứng dụng
bí pháp một cách vi diệu, thoát hẳn mọi sự
ràng
buộc của thế trần “siêu giai giải
thoát”. Trên đường tu, hành giả phải
kiên trì chịu đựng, đừng nản chí thối
lòng, trước muôn ngàn chướng ngại, nhưng đền
đáp lại “Trí Huệ”, phát triển dồi
dào, càng
hành càng sáng, cái sáng được
tô bồi thêm mãi. “Huệ
tâm phát”, “trực giác khai”, hiểu chân
biết thật,
am tường chỗ hữu, thấu triệt chỗ vô, mượn
đời rỏ Đạo, dưới “thiên nhãn quang minh”.
Đạo thị hiện đủ đầy, những
cái không thể biết, không thể đo lường được
lộ bày ra trước mắt. Khi đó người tu thấy
đặng đạo lý ẩn tàng trong hình tướng nên
họ không còn bận tâm hoặc thắc mắc về sự
việc bên ngoài, nhất
là hình
tượng tôn thờ , lễ nghi cúng tế, kinh kệ
nguyện cầu của các tôn giáo. Tất cả đến
với họ đều thấm nhuần lợi ích, chân tướng
lộ hẳn ra, không còn che giấu được nữa. Con đường chân lý quang minh,
hành giả
cứ thẳng tiến với pháp bửu hữu hiệu
bên mình ứng phó kịp thời, giải quyết đúng
mức,
đáp án đoan trang! họ sẽ đi nốt đoạn
đường gian khổ nhờ “Thần chú nhiệm mầu”
ôn tập . Người tu phải : “Có
chí lớn
- Cố gắng lớn - Kiên nhẫn lớn để đạt
thành
công lớn” nếu không có chí lớn
thì làm thế nào ly gia cắt
ái, vượt ái hà cho nỗi ! Có chí lớn không phải
vượt ái
hà không, mà còn vượt bao trở ngại
khó khăn của
cuộc đời. Khi đối đầu với một
việc khó, ta lại hỏi. Trước việc khó ta “cố
gắng lớn” để vượt qua chăng ? Có “kiên
nhẫn lớn” để chịu đựng chăng ?
Thì “chí lớn” sẽ giúp ta có “cố
gắng lớn”
và “kiên nhẫn lớn”. Khi vượt qua gian khổ trở ngại
xong rồi thì ta sẽ được “thành công lớn”.
Tất nhiên người tu phải tận lực thực
hành, không được chần chừ do dự, với
tâm lực mạnh mẽ, trí lực dồi dào, thêm
vào đó “Pháp
môn vi diệu”. Sống ở thế trần ta phải
chấp nhận đối đầu với mọi sự
việc đến với mình , dù tốt, dù xấu, đều
có lợi ích cho công phu tu luyện tự biết chân
và hành
thật, Phật Chúa sẽ hiển linh trong cuộc sống,
không còn cách xa diệu vợi , Đạo thị hiện . CHƯƠNG II XXX PHƯƠNG TIỆN TIẾN
HÀNH
ĐẠO
PHÁP Người tu phải trở
lại cái ta này để hiểu biết, chính đây
là đầu
mối quan trọng, hiểu ta là hiểu tất cả.
Kinh sách nào cũng không nói ngoài
“bản thân” của ta. Chính nó
là một “Đại kinh”, một pho sách vô lượng
trang, ta lần lượt tham khảo và am tường. “
Vạn năng trong bản thân ta Không
tìm phí
mất thật là uổng thay” Ta phải làm chủ trọn vẹn “pho
báu kinh” để thực hiện
cho đời sống tâm linh, chân hạnh phúc của
chính
mình. “NGÔ cái ta gồm “chơn và giả”, thật
và hư
trong một khối, muốn tri tường ta phải thấu
triệt cả hữu lẫn vô, ngọn và nguồn không bỏ
sót một phần nào cả . “Thân xác” là nhục
thân do cha mẹ tạo
ra, âm dương kết tụ, một hình hài ra đời,
một tuyệt
tác phẩm của Thượng Đế có đầy đủ
tất cả, một kho tàng quý bửu Linh hồn là điểm linh quang
tách rời
khỏi đại khối nhập vào xác thịt để
làm lẽ sống và sinh hoạt. Linh hồn là
“chủ”, thân xác là “nhà”, vô thể
nằm trong hữu thể cũng là “hồn tiên” trong “xác
tục”,
“hồn trời trong “xác đất”, “hồn Phật” trong “xác
ma”. Bộ máy gồm nhị thể ấy, nếu thiếu
một trở nên vô dụng. Vì vậy ta không thể chấp
ở một vị trí vô hay hữu, cần phải hiểu
rõ toàn chu nguyên thể để đắc dụng nó
làm phương
tiện tiến hành Đạo Pháp . Ta do Đạo tạo thành : nương
ta tìm Đạo, có ta là có Đạo, mất ta
là mất Đạo,
làm chủ ta là làm chủ Đạo. “ Đạo còn nhân vật còn -
Đạo
tuyệt nhân vật mất”. cơ thể con người
là vũ trụ thu hẹp, tương tợ như Đại
Vũ Trụ
, thế
gian bên ngoài, nên được gọi là “Thế gian
Tiểu
Đạo” ta quan sát để tìm hiểu, nó gồm có : Đầu : sức nóng ánh
sáng Thần
:
Thượng giới. (Phật) Ngực:
không khí Khí:
Trung giới.
(Pháp.) Bụng:
đất
nước
Tinh : Hạ giới. (Tăng) . - Tam bửu của Trời :
Nhựt- Nguyệt - Tinh - Tam bửu của đất : Thủy
-Hỏa - Phong - Tam bửu của người : Tinh
- Khí- Thần Còn trong Phật kinh tượng trưng:
Phật, Pháp, Tăng, người tu giác ngộ phải làm
sao trở thành Phật Tử, con Phật thật sự ,
nhưng không biết cách nào để quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng của chính mình, kết thành
Ngôi Tam Bảo,
pháp thân bất diệt, khi ứng dụng đúng chơn
pháp; còn hành sai, ngược lại phải bị đọa
lạc, tiêu tan Tam bửu, hủy diệt Phật thân, trầm
luân khổ hải . - Thuận sanh ra phàm : đi xuống “Đọa”
Phật theo tà pháp, hóa chúng sanh tục tăng . - Nghịch chuyển thành Thánh,
thăng thượng
“Siêu” chúng sanh giác ngộ “Thánh tăng”
nương “chánh pháp”
thực hành trở thành “Phật”. Tóm lại người tu tùy theo chỗ
dụng
: Tu hành “chánh” hay “tà”, chơn hay giả, tạo
tác hay phá hoại
- định đoạt số phận - thành công hay thất
bại đều do ở nơi mình . Trước sự việc trọng đại
đối với đời mình - Một kiếp vi nhân quý
báu, ta phải rõ cái gì mình đang
có, tạo hóa đã ban cho để
làm phương tiện tu tiến . Ta hãy bắt đầu
tham cứu cái tiểu vũ trụ - Thân xác của ta -
Báu
kinh thực sự giúp ích cho ta trên đường tìm
Phật,
kiếm Chúa, diện kiến Như Lai. Việc làm này thiết
thực nhưng rất vất vả, ta có bổn phận
phải hoàn thiện đủ đầy và thấu triệt
nó . Thật khó tìmkhó thấy, nhưng biết được
đầu mối, mấu chốt, ta lần lượt
tháo gỡ lột trần, tất cả sẽ lộ bày hiển
hiện ra trước mắt . Ta đi ngay vào bộ phận “ đầu
não” phát sinh, trung tâm điều khiển mọi hoạt động
để tri thấu cội căn, nguồn gốc CÁI
ĐẦU của
ta đấy.
Hãy trở về đó để rõ “diện mục” của
chính mình. Hiển lộ ra nơi CÁI MẶT, dễ
thấy, dễ biết, ta nhận rõ có một cái gạch
thẳng đứng ở ngay chính giữa, tượng trưng
con người ở giữa TRỜI và ĐẤT đó là
:
“Nhân
Trung” Trên là
“Trời”
- Dưới là “Đất” Vì vậy nếu con người “Hoà
Thượng”
lên Trời - “Hòa hạ” xuống đất theo lẽ “siêu đọa”
của Thiên cơ mầu nhiệm tùy theo ta hành động
đúng
hay sai, chơn hay giả, giác hay mê. Ta hãy
tìm hiểu phía dưới
Nhân trung thuộc đất có: - Cái miệng : ăn vật chất của
đất nuôi xác thân, chính đây là
nơi tiếp nhận nhiên
liệu, giúp cho cơ thể
có năng lực hoạt động . Phàm nhân chấp tướng ,
chú trọng
vào nhục thân, ham mê ăn uống, cung phụng cho
nó béo bở,
phì da với đầy đủ mỹ vị cao lương,
nào thịt béo rượu ngon. Vì nhu cầu như thế họ
tranh giành từng miếng ăn
thức uống, đôi khi dùng những thủ đoạn đê
hèn giết chóc lẫn nhau, tranh đấu để mà sống.
Họ lại hủy diệt những sinh vật khác
để làm
thức ăn cho
mình. Những kẻ man di còn ăn thịt ngay cả đồng
loại nữa . Ôi ! cũng vì lòng tham, thèm
khát gây ra hành động
bất nhân thất đức, mất hẳn lương
tri, một điều hiển nhiên còn sống còn ăn. Suốt
đời họ bận rộn vất vả về chuyện
ăn uống lo dụng kế sinh nhai, đáp ứng nhu cầu
đòi hỏi. Một đôi khi đồ ăn tới miệng
rồi, nhưng lại bị kẻ khác dùng quyền lực
tước đoạt hoặc
cấm đoán đến nỗi không thể ăn được,
thật khốn khổ thay ! Người theo phép lợi dưỡng ăn
quá no, uống quá mức, trúng thực, đứt hơi
lìa
mạng. Bởi họ chủ trương sống để
ăn, cho đó là một trong tứ khoái ở đời.
Họ cố lo cho đủ đầy chất bổ cung
phụng nhục thân khỏe mạnh để hưởng
lạc thú ái ân . Họ hy vọng giữ
gìn thân
xác được cường tráng sống
lâu, nhưng nguyện ước bất thành bởi hữu
hình hữu hoại theo thời gian. Một điều đáng chú ý, đồ
ăn vật chất của đất nuôi xác
thân có hạn
lượng tận
cùng . Khi có thiên tai làm mất mùa
thiếu vật thực, người
ta phải lâm vào nạn đói cho đến chết.
Ôí!cũng
vì mang xác thân này nên phải chịu
khổ . Người giác ngộ lại khác,
không
coi đời sống xác thịt là trọng, chỉ cần
chú ý quan tâm nhiều đến đời sống “tinh thần
chân thật”. Họ dụng vật thực thanh đạm
để nuôi thân “Ăn để mà sống” thức ăn gồm
thảo mộc, ngũ cốc chứa đạm thực vật
gọi là “Ăn chay” - Họ suốt đời hành như
thế không thay đổi . “Trường trai” một đại giới
của người tu luyện Đạo, việc ăn uống
này chính Chúa cũng chỉ dạy rõ và đề
cập
trong “kinh sáng thế”. Lúc còn gần nguồn cội buổi
sơ khai , nay ta muốn hồi hướng trở về
cựu quê phải thực hành đúng như
thế, Chúa
gọi là “Kiêng ăn”. Chúa phán: “ Này , ta
ban cho các ngươi mọi
thứ cỏ kết hạt mọc khắp mặt đất
và các loại cây sinh quả có hạt giống, ấy
là đồ
ăn cho các ngươi “. Ta hữu dụng thân thể để
trợ lực cho việc tu hành , Phật chỉ rành : Người tu pháp Đại thừa phải
giữ gìn nó và luôn luôn chăm
sóc, bồi dưỡng bằng
thức ăn đặc biệt “ cơm Trời bánh Phật”.
Từ lúc nó lão nhược suy yếu, trở nên cường
tráng mạnh khỏe, nhất là ta phải biết rõ
lúc đói
khi no, đói cho ăn, khát cho uống, nuôi dưỡng đầy
đủ, nghỉ ngơi đúng giờ giấc, bởi
vì đây là phương tiện chủ yếu không thể
thiếu được .Ta phải làm chủ ngự trị
và chỉ huy nó, “Tiên cỡi thú”, Thánh
kinh ghi lại, lúc Chúa
vinh quang tiến vào đền Thánh, cỡi trên “con lừa”.
Tự thắng được thú nhục dục, một
thành công rạng rỡ, để đột nhập vào “Đền
Thánh thần thất” của ta, trong tâm linh nội giới
. Lại có một số người chấp vào
vấn đề ăn
uống
cho rằng đây là phương pháp tu để thành Tiên,
nên Thánh, đắc Phật .
Thật là quan niệm rất sai lầm. Từ trước
đến nay có chơn truyền nào dựa vào việc ăn
uống để thành đạt đâu, chỉ coi đây
là phương tiện tiến hành hay trợ lực cho công
phu tu luyện của ta đấy thôi. Trâu, voi, khỉ không
ăn chay sao ? Nó có thành Tiên ,nên
Phật chi đâu ! Hơn nữa
tỏ tiên chúng nó cũng chay lạt lâu rồi. Ta
còn thua chúng thay bởi
vì ông cha ta chưa chắc đã ăn chay ! Ngoài ra người theo thuyết lợi
dưỡng kích bác rằng : ăn chay sẽ suy yếu, bạc
nhược, không đầy đủ chất bổ, mất
hết sinh lực đi đến chỗ hủy hoại
tự sát. Thật ra ta thử hỏi :có ai mạnh bằng con trâu, khỏe như con
voi chăng ? Chúng chỉ ăn một ít cỏ, nhưng lại
có sức mạnh phi thường. Thế nên ta phải nhận
thức đúng đắn để khỏi bị lung lạc,
xao xuyến vì thị phi gièm siễm, khó lãnh
hội mật
nhiệm lý chân . Vậy trường trai giúp cơ thể
nhẹ nhàng, dùng vật thực thanh đạm không trọng trược
nặng nề như
thịt cá. Ngoài ra một số người tu không
thành công
ở công phu, chẳng thắng phục ở con thú nơi
lòng, sợ thân nghiệp cái xác thân
này đòi
hỏi gây trở ngại
cho việc tu hành nên họ phải nhịn ăn, nhịn
khát gọi là : “Pháp vô úy” để cho cơ
thể suy nhược,
không còn sinh lực đòi hỏi dục lạc ái
ân . Với
hành động này họ tự hủy hoại nguồn
sinh, khác nào khấc nhượng con ngựa chứng trở
nên què xụi để dể bề sai khiến, nhưng
chẳng giúp ích gì cho họ cả “Hữu
thể vô
dụng” việc làmnày rất tai hại
, một sai lầm lớn lao ! Ta nhận thấy Không ăn thì cơ thể suy nhược
khô cằn, trái với tự nhiên, không hợp lẽ Đạo
mất đi sự sống; còn dùng thịt cá, cung phụng
nhục thân dẫn vào cảnh sa đoạ đam mê ân
ái ,
phải trầm mình trong dục hải,;tự giết Phật,
hại Chúa cuả mình, trợ lực cho yêu tinh vô
minh hành sử.
Cả hai trường hợp trên đều sai . Ta phải nhận chỗ trung dung đúng
lý Đạo không thái quá, chẳng bất cập, mới
lãnh hội được chơn lý, phù hợp tự nhiên
, khác hẳn với cái thấy biết của phàm phu ,
nhãn
giới của thế tục, chấp tướng trụ
vật. Tự họ làm mất Đạo, tiêu tam bửu, đời
sống tâm linh đi đến chỗ khánh tận . Đây là trường hợp của đa
số người tu khi lý chơn chẳng rõ và không
ngộ
“pháp đạo” nên đành cam với số phận cứ
lầm lủi đi vào con đường
đau khổ . Cảnh nguy vong , thật bất hạnh
thay ! Ta tiếp tục quan sát : Ở tận cùng thân : có một
lỗ tiểu
và một lỗ đại, để thải cặn bả
ra ngoài . Lỗ tiểu cũng nằm trong bộ
phận sinh dục của con người , nam hay nữ lớn
lên đến tuổi “16” trăng tròn hay tuổi cặp kê,
tế bào sinh dục phát triển. Từ vô sanh hữu - Hạt
giống chúng sanh thành hình, chất nước ái
ân được
tạo ra. Cái nguồn nước này luôn tuôn chảy
theo định
luật tức nước vỡ bờ, phải tràn rơi
rớt, tiêu hao . Người thế tục bị chất
nước này kích thích giao hợp nữ nam để giải
quyết sự khao khát thèm thuồng của thú nhục dục,
do sự kích động đốc thúc từ bên trong ngày
càng mãnh liệt, dâm niệm phát khởi
“mây thành mưa”, giọt
tinh rơi xuống trên thửa đất lòng . Cuộc mây
mưa diễn ra giữa nam nữ theo phàm pháp tận hưởng
lạc thú xác thịt, thỏa
mãn lòng dục , nhưng lại càng ham muốn. khao
khát thêm nữa
. Thế nên bao nhiêu nhiên liệu họ đem ra phung
phí tiêu
xài, của báu hao hụt, vạn bửu nang của Phật
trống rỗng vì bị thủng đáy, thải bảo vật
ra ngoài. Đời sống “tinh thần” trở
nên đen tối cùng cực , thần mất tinh, thần
chẳng còn, ánh sáng tiêu tan, lửa tắt
vô minh ngập
tràn, làm chấn động rung chuyển đất trời
“con đời kết tụ” theo công thức “giả tạo
hóa chi cơ” Hai con thủy long “Hà bá”
đâu đầu
với nhau nơi hạ bộ. Họ thích muốn làm “Hòa hạ”
đó.! Đây là hành động ngay cả Thiên tử chí ư thứ dân, kẻ
văn minh, người mọi rợ cũng y khuôn một
rập diễn ra, không phương ngăn cản nổi.
Họ coi đây là sự sung sướng tột cùng, cảnh
khoái lạc ái ân là chân hạnh
phúc. Họ tranh giành chiếm
đoạt cưỡng bức để thực hiện
dâm sự . Hành động phàm phu này
cứ tiếp diễn
mãi nên họ phải chịu đau khổ triền miên. Họ
đã để con thú làm chủ mình , quỷ ma che lấp
Phật. Thế mà họ nguyện cầu ân trên ban cho sức
khỏe dài lâu để tận hưởng lạc thú ở
đời Thiên đường nơi trần thế ! Phàm nhân bội giác hiệp
trần, bám đất
lìa trời, rơi vào “Lò lửa” hỏa ngục thiêu
đốt,
lửa dục hoành hành, không bao giờ tắt . Người giác ngộ kịp thời
chận đứng hành động nguy hại tự sát ấy
, thực hiện việc “tuyệt dục” đại giới
thứ hai để hành đạo tu thân . Chúa phán : “ Có người
hoạn từ
trong bụng mẹ sinh ra, có người hoạn bởi tay
loài người và có người tự làm
nên hoạn vì
cớ nước Thiên đường”. Người đời quan niệm bộ
phận sinh dục của nam
nữ không ái ân giao hợp
được
là “hoạn”. Có người mang tật từ lúc sơ
sinh, cơ quan sinh dục không phát triển, bán nam,
bán nữ
theo hình thể phô lộ ra ngoài. Lại có người vì tai nạn hoặc tự ý giải phẫu cắt bỏ
hình
thức đó để không
thể ái ân giao hợp. “Vì cớ nước
Thiên đường tự làm nên
hoạn” Đây là một trường hợp quan
trọng nhất, bởi họ vẫn còn đủ bộ
phận sinh dục , có thể ái ân, giao hợp được,
nhựng vì họ giác ngộ, hiểu rõ lợi ích của
sự
tuyệt dục, để dành nguyên liệu thắp sáng ngọn
đèn lòng , tạo tác trí tuệ, vun bồi
thánh thể .
Chính đây là yếu tố không thể thiếu được
. Cái hạt giống chúng sanh ấy được họ
biến thành hạt giống thánh “Bồ đề chơn
chủng”.
Khi họ may duyên gặp đặng chơn
truyền, thọ bí pháp tu luyện , với phương tiện duy
nhất ấy có được
cái chìa khóa kết âm dương , hiệp đặng Đạo;
hữu dụng chất nước đó để tạo trí
Bát nhã.
Ngọn đèn lòng bừng
sáng, nên càng có nhiều càng tốt.
Tâm đăng chiếu diệu
thần thất quang minh, tinh thần rạng rỡ. Tự
mình tham dự Thiên Đàng - Cực lạc Quốc. Cũng có người thấy vậy cố
lo tu giữ giới tuyệt dục, không vợ, không chồng
, sống độc thân, chẳng ái ân giao hợp. Họ
kiên trì chịu đựng, chống lại sự cám dỗ
đòi hỏi của xác thịt để thực hiện
công phu tu luyện “Bảo dưỡng tinh”. Nhưng rất
đáng thương thay hoài công vô ích,
vì họ không có bí pháp
chân truyền để nghịch chuyển tinh trở về
nguồn “tinh quy thần” nên chất
nước ấy cứ xuôi dòng tuôn chảy mãi . “Tuyệt
dục” nhưng không đem lại lợc ích cho việc tu
hành đúng nghĩa, giữ gìn màkhông được
... như
công dã tràng, mất tất cả, chẳng nên
Tiên thành Phật;
bởi đèn không dầu chẳng có ánh sáng,
khác nào “con trâu,
con heo” thiến, có thành Đạo chi đâu ? Họ suốt
đời cứ lo tu hoài, lìa đời, tìm Đạo nhưng
không bao giờ có Đạo, hành thân hoại thể,
ép xác
theo thuyết “khổ hạnh”, nhưng vẫn không giữ được
bảo vật, thật đáng thương thay cho họ ! Tu hành
có dễ
gì đâu Lạc sai
luyện đến bạc đầu như không !
Ta tìm hiểu kế tiếp
: Phía
trên Nhân Trung. Có
một mũi với hai lỗ
thở không khí ra vào Không khí, sắc, thinh, vô
hình của trời. Không khí để dưỡng nuôi
tinh thần,
chân. thân của ta. Thật quan trọng vô cùng
nó không bao giờ
hết, nguồn cung cấp vô tận, chẳng hao công phí sức,
khỏi mất tiền. Ta vẫn có không khí để thở. Nó còn liên lạc là
sống. Nó mất liên lạc là chết. Vật thực nuôi xác thân, ta
có thể nhịn
ăn một thời gian không sao cả. Chẳng hạn như
rùa rắn suốt năm không ăn gì chỉ thở cũng
sống được, còn đối với không khí, thiếu
nó là mất mạng ngay. Không khí của “Trời”
cho đời
sống tinh thần, ta không thể khinh thường nó được
. Phàm nhân không quan
tâm để ý tới,
còn đối với người giác ngộ hết sức
bảo trọng coi đó là sự sống của mình. Chính
nhờ nó có thể tô bồi
chân thân, dưỡng nuôi thánh thể gọi là
“cơm Trời,
bánh Phật” thức ăn của Như Lai . Điều
này sẽ được giải bày ở phần mật
pháp. Qua những điều tìm hiểu ở
trên giúp ta biết qua về cái “Tiểu vũ trụ”
này, một
kho tàng báu vật của Phật ban cho, Chúa giao
phó để
ta tự sử dụng lấy; nhờ nương Hữu
tìm Vô,
mượn
hư rõ thật. Từ cái đã thấy biết ,rõ
thông cái
chưa thấy biết ẩn tàng ở bên trong. Ta phải
biết tất cả Hữu Vô mới tường tri lý
nhiệm. Thiên ý thể hiện rõ
ràng “con người”
đứng giữa trời và đất. Thiên-địa-nhân
. Nếu là
người giác
ngộ
phải rõ lý của trời đất, tình của vạn
vật, nhất là biết bổn
phận hiện hữu trong kiếp vi nhân này. Hãy hướng
về trời nhiều hơn đất.
Của trời :2 lỗ mũi -
2 mắt - 2 tai Của đất
:1 cái miệng - 1 lỗ tiểu - 1 lỗ đại
Chân nhân hiệp giác bội trần,
phàm nhân mê muội bám đất lìa trời,
theo đời
bỏ đạo .
Ta hãy làm người giác ngộ
có bổn phận tìm hiểu cái Đạo nơi lòng,
trong
bản thân ta vừa tri vừa hành theo đúng lẽ mới
đạt Đạo. “Tinh khí thần” tam bửu nơi
mình vô cùng quí báu. Ta cần phải bảo
trọng giữ
gìn không để mất mát tiêu hao. Thân ta
ví như ngọn đèn,
dưới bụng là dầu, trên đầu là lửa, ở
giữa là không khí . Nếu mê muội đắm đuối
ái tình, say sưa dục lạc, làm dầu chảy mãi
nhiên
liệu hao hụt, đèn mất
sáng , rồi đến một lúc nào đó hết dầu,
đèn
tắt. Do đó khi rõ biết điều quan trọng nguy hại
làm hủy hoại chân thân, tiêu hao tam bửu,
người
giác ngộ lý chân phải làm sao để phục
hoàn “ phần
tinh anh” ấy, châm thêm dầu, đủ đầy nhiên liệu
để đèn lòng bừng cháy trở lại, ngỏ hầu
phá tan phần vô minh đen tối.nhờ tu luyện đúng
mức ngọn đèn tâm linh tinh minh rạng rỡ, không
còn
tròn khuyết lưng vơi. Đạt quả vị bất
thối chuyển “ Thiên đăng nhựt diện”. Tất
cả sự vật chân thật đều được
phơi bày dưới ánh sáng chói chan của ngọn
đèn
trời, “ nhãn giới của Thiên Chúa”, tri kiến của
Như Lai, thấy chân biết thật. Đây là đường lối chính
yếu
người công phu, tu luyện
phục hoàn tâm, gầy dựng tánh, trở lại thuở
ban đầu “ Nhiên đăng” của ta đầy đủ
huệ lực, với xâu “ Định hãi châu” . Nhất bá
bát huyền công, pháp mầu tột độ. Một điều
nhân sinh giác ngộ âu lo vào thời hạ ngươn
mạt
pháp này, đạo đức suy vi, nhân tâm bất nhứt,
chuộng đời bỏ đạo. Tất cả họ
đều cuồng lao vào chủ trương đấu
tranh để sống, chống báng lẫn nhau để tồn
tại, gây bao cảnh lầm than tang tóc ,tạo nên một
thời kỳ cùng cực đen tối. Do đó biết
làm thế nào tìm Đạo, hành Đạo, để có
Đạo
đây ! “ Vật cùng tất biến” .-một sự việc
may mắn đến với nhân loại- Thượng đế
bố ban đại hồng ân tái lập “ Chân truyền
pháp đạo” phục hưng chánh pháp, cứu vớt linh
căn ra khỏi khổ hải ái hà. Chính đây
là chiếc
phao cứu cánh...Cái chìa khóa duy nhất để
mở cửa
Thiên đàng, cũng là thang mây đưa
nguyên căn hồi
cựu vị. Nếu nhân sinh nào may
duyên hợp với Đại
thừa vô-vi tâm pháp, hãy mạnh dạn đến tiếp
nhận chân pháp để trở về cùng Đạo, bởi
Đạo chỉ có một, pháp lại chẳng hai, không
dành riêng cho một ai, một tín nguỡng hay bất kỳ
một tôn giáo nào cả, mà lại là nguồn
sống chung
cho nhân lọai. Cái ân lành đó rồi
đây sẽ phát triển
tạo nên một thời kỳ “ Trí tuệ cực thịnh”
sau này ứng dụng cứu khổ ban vui cho đời. Tất
cả cùng nhau hạnh hưởng!. Nguyên căn muốn tiếp nhận “ bảo
vật” ấy phải hội đủ điều kiện
với cấp đạo cao nhứt : “ Trường
trai và tuyệt dục”.
Đến Giáo sư tâm pháp thọ
lãnh sắc thiên trao truyền cho khẩu khuyết để
về công phu tu luyện. Người hành pháp ra sức
hành
trau : Tự tu, tự độ, tự ngộ, tự tri, tự
thành phật đạo, để tự giải thoát lấy;
khác hẳn với đường lối tu hành giả dối,
vô định mơ hồ của các Minh sư triệt
giáo, đạo sĩ bàng môn, dẫn nhân sinh
vào ngỏ mê
tín, tin vào phép lạ linh thiêng,
tuyên truyền inh ỏi, gieo nọc
độc cho người nhẹ dạ, toàn là sắc tướng
âm thinh - cái tâm hữu tướng ấy đã in
sâu khắc đậm
trong đầu óc. Chính nó làm chướng ngại
gây bế
tắt thiên lý đậy lắp linh quang. Lại còn một
số người thích an trú tùy nuơng cho rằng: tu sao
cũng
được, pháp nào cũng pháp, trước sau gì cũng
được Phật rước Chúa ban, thiên đàng lai đáo”
. Ôi quá vô phước và bất hạnh thay. Họ
không thấy
gì cả - Cái màn vô minh che mắt bít
tai, khiến họ đui
mù câm điếc, không để một lời đạo
lý nào lọt vào tai. Chẳng thấy được cửa
ngõ thiên đường dành cho họ, nên không
bao giờ ngộ
phùng “Chơn truyền pháp đạo” .Vậy chỉ có một
đường lối duy nhất, kết Âm Dương hiệp
đặng đạo, tạo ra ánh sáng là “Chân và
thật”,
còn ngoài ra đều sa vào ngoại giáo
bàng môn của vạn
thù sai biệt, cứ mãi mê theo đó đi xa cội,
lìa nguồn,
tuôn vào bể khổ , bị chiếc lưới vạn
thù úp chụp không phương nào tháo gỡ. Đi ra : Vào ngõ rộng, hướng
theo
hữu tướng thế trần
“ Nhứt
bổn ứng vạn thù” Trở
về: Vào ngõ hẹp, hồi hướng vô vi tâm nội
“ Vạn
thù quy nhất bổn”. Đường lối giải thoát của
người chân tu là trở về với vô vi để cải
tạo, giáo hoá và thắng phục tâm mình,
làm chủ đặng
nó là đúng đắn và chân thật. Ở điều này có người chấp
tướng tin tưởng theo lời hành theo sự. Khi nghe
đến pháp “ vô vi tịnh tọa”, công phu nơi
phòng kín,
thiền viện, thất am . . v.v. . Họ ham thích đua
nhau tới gia nhập vào “hội tu”cho rằng mình đi
đúng,
trúng đường thuận lối, với chủ trương
cách ly với đời, xa rời thế tục để
tâm trí rảnh rang dễ bề lo tu sửa, Họ mở
khóa tịnh, nhập thất , nhập bá..v.v..Tự nguyện
giam cầm thân xác trong phòng kín, tịnh
đường thực
hiện việc tu hành. Nhưng thần trí lại phóng ngoại
tứ tung, tới lui vô định, không thể kềm giữ
nổi. Bởi vì họ hành theo phàm pháp ra
công khổ hạnh
ép xác, ngồi chai đít, chai khu, rốt rồi chẳng đem
lại một lợi ích nào cho việc trau tâm, sửa
tánh
và đến khi mãn thời gian tu tịnh, tĩnh tâm ấy,
họ lại sống với lòng phàm và nương theo
tánh
tục như trước, đôi khi còn tệ hại hơn
nữa - bởi vì họ không có một phương cách
nào để
làm chủ được cái tâm. Họ chỉ lo sửa
hình thức ở bên ngoài, nơi ngọn ngành,
còn ở bên
trong nguồn cội nơi lòng lại dung túng não phiền.
chất chứa vô minh, càng tu càng thấy đảo điên
khốn khổ. Thực ra đối với họ thiên đường
đâu chẳng thấy, nhưng hiện tại là địa
ngục tối tăm, thân xác bị giam cầm cũng vì đạo
lý huyền thâm tri tầm chẳng thấu! Đoạn kinh sách ghi lại, lịch sử
Đạo diễn tả cuộc đời của các vị
Giáo chủ, nhân sinh muốn hiểu ,phải quan tâm
chú ý đến
“đời sống tâm linh” biểu tượng một sinh
nhân từ phàm phu tu luyện thành chánh quả.
Phàm nên Thánh,
chúng sanh thành Phật. Thích Ca đắc Như Lai,
Jésus thành
ngôi vị Chirst chỉ rõ sự thật hiển nhiên, tự
con người làm nên tất cả.Người đi trước
trải qua con đường đó đã thấu rõ , diễn
tả lại chỉ dẫn cho kẻ đi sau am tường. Các Ngài dùng thần ngữ
tỏ chỗ
tối mật của pháp linh, nhân sinh nào thông
đạt
pháp ý rồi kiểm chứng lại sự hành đạo,luyện
trau của mình -con đường phải đi từng
chi tiết một, từ thấp đến cao, gian lao hiểm
nghèo, trùng trùng điệp điệp chướng
ngại,hành
giả phải vượt qua trên đường tìm Phật,
thỉnh kinh. đắc tâm kinh Bát nhã. Còn kinh hữu tự chỉ giúp cho
chơn
tu tri tường lý nhiệm bên trong ,rồi ra sức hành
trau chân truyền pháp đạo có được vô tự
chân kinh, hiển hiện nơi lòng, rõ thông cả
thảy, từ
không ra có, cái có đó mới chân
thật và trở thành vật
bất ly thân - tự hữu - hằng hữu; ta đem ra ứng
dụng bất cứ lúc nào khi cần đến, không còn
chướng ngại ,trắc trở nhờ theo diệu
pháp thực hành. Chính con đường đưa ta đến mục tiêu ấy, không phải đơn
giản - dễ dàng. Một cuộc trường kỳ
kháng chiến, giải phá vô minh, tiêu trừ phiền
não diễn
ra trong nội tâm ta không giờ phút nào ngơi
nghỉ . Người tu khi thọ lãnh chơn truyền
: Ngài phán dạy: “ miệng niệm
lòng làm”.
Miệng đọc kinh thông đạt diệu lý và thực
hành trong nội giới vô vi, đường lối ấy
là chân là thật. Thiếu một trong hai lẽ sẽ gặp
trở ngại “ Tri hành” cho đúng mới đem đến
thành quả. Bởi “ Tri”
không “Hành ” chẳng thực
dụng,
còn “ Hành” không “ Tri” , trở nên ngu xuẩn,
không thể nào đạt
đến cứu cánh được. Nay ta
hãy
quan sát việc làm hàng ngày của các
Phật Tử, Tăng
Ni. tụng niệm Lục Tự Di Đà, trong lúc công phu hay
khi thốt ra lời dẫn khởi, không biết có kết
quả chi chăng hay vì lòng mê tánh muội tin
tưởng
vào ngoại lực trợ
CHƯƠNG III XXX DI ĐÀ THẦN
CHÚ Ngoài ra còn có một số
chân
tu phát biểu, tư tưởng chân thật khi thấu đáo
rõ ràng do bí quyết ấy:
Nhứt
cú Di Đà vô biệt niệm.
Bất lao đàn chỉ đáo
Tây phương.
Nam Mô A Di
Đà Phật Nghe sao dễ quá. Chỉ niệm một
câu ấy bằng đường lối “ Vô biệt niệm”
không nhọc công gì cả. Chỉ khảy móng tay
là tới
Tây phương Phật Quốc ngay. Thật nhiệm mầu
và cao thâm quá! Ta hãy đi vào
ngõ vô biệt niệm ấy để
hành đạo khác hẳn với cái hữu niệm của
phàm phu, tu mê hành muội theo sắc tướng âm
thinh cứ
mở miệng ra là Phật Phật, Chúa Chúa nhưng rốt
rồi Phật Chúa chẳng có nơi lòng, toàn
là đen tối
vô minh - Chúa quỉ hiện hình - yêu tinh sai
khiến. Người tu theo tâm pháp, thực
hành chơn
đạo nơi lòng gầy dựng sự sáng - Họ đi
ngay vào tâm, cải tạo giáo hóa tại gốc. niệm
của
họ là giải trừ vô
minh - để sáng lòng thấy
tánh - càng hành càng sáng,
cái sáng được bồi tô thêm đến
chỗ “ minh cùng giác
mãn” tụng
với chơn như, niệm với chơn tánh. Như vậy ! niệm cũng như
không niệm, không niệm mà niệm hơn bao giờ hết,
Cái niệm của họ vào chơn như tự tánh, đây
là phương pháp niệm Phật, cầu Phật, đắc
Phật của người chơn tu, “ Tính chân không vô
niệm”,
thể hiện toàn khắp . Cũng với “ Lục
tự Di Đà”có nhiều người đã
nói đến chỗ mầu nhiệmđủ đầy,
giúp ta rõ việc phải làm khi bước vào đường
tu , hành chánh đạo: mượn giả thân hữu thể,
để thành thánh thể chân thân, quy tam bửu Tinh
khí thần hiệp nhất
thành Ngôi Tam Bảo” Phật thân trọn vóc
nguyên hình. Tự
mình tạo Phật tác tiên hiển Chúa. Cái
khối quang minh
chiếu diệu, một thể
chất tinh anh, ứng dụng tuyệt mỹ thể dụng
tương đồng, ngoài trong như nhứt : phát khởi
vi diệu pháp. Đây là nhiệm vụ thiết thực,
công phu chính yếu của người chân tu gầy dựng
và bảo vệ cái “ chân thể quang minh” ấy, Phật
thân bất hoại. Đường lối vô vi thực thi
đúng mức, ta phải thi hành như thế,không thể
canh cải sai khác máy Trời, thiên cơ mầu nhiệm. Một số tín đồ thường
đọc trong giảng kinh với lời. giải như
sau: “Nam chỉ về tâm phải tịnh
thanh. Mô
không
dục lợi chẳng cầu danh . A trừ dâm dục nuôi tinh đủ Di dứt
lắng lo giữ báu lành Đà ấy
kim thân sanh bất hoại Phật
là xálợi hiệu vô sanh
Đạo
pháp dồi trau sẽ đắc
thành. Đường
lối tỉnh tu nhân sinh phải rõ và niệm như thế
mới đạt đạo, hiển pháp. Đừng tu mê
hành muội theo âm thinh hình tướng rồi phải xa thầy
mình mãi mãi. Ngay trong Pháp Bửu Đàn
Kinh diễn
giải của Đức Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh có
ghi lại : Mô
là chỉ
rõ vật vô hình. A gồm
nhâm thủy an nơi thận. Di giữ
chặt bền ba báu linh. Đà
sáng sắc vàng tròn khắp cả
Diệu vi đắc
ngộ chân truyền đạo. Pháp
nhiệm
thoát trần tự tánh minh. Với khoán thủ của
(1) và (2) của tác giả
Lục Tự vừa gầy dựng vừa ứng dụng
cho đủ lẽ “thể và dụng” hoàn toàn kết hợp
thành lời tựa “ Di Đà Diệu Pháp”. Đường
lối duy nhất đó đưa ta vào cảnh giới giải
thoát ngay trong kiếp vi nhân này. Nay ta lần lượt tìm hiểu từng
chi tiết một của câu Lục Tự Di Đà, giúp ta
tiến hành đạo pháp đặc điểm chủ yếu
không thể thiếu được . Vì đây chỉ rõ
thiên cơ mầu nhiệm, chiếc máy vạn năng - Ta
nhờ nó để tạo tác Bát Nhã, sản sinh
ánh sáng,
không thể để nó nằm ỳ bất động một
chỗ, ,phải biết cách khởi động, chuyển
pháp luân. Tự ta điều khiển lấy chiếc máy của
chính mình. Thật vinh hạnh và sung sướng thay!. Những mấu chốt tất yếu
phải tự phơi bày thông suốt và đem ráp nối
để
đưa vào hoạt động, mỗi chi tiết ta phải
theo dõi một cách cẩn thận ,am tường máy linh của
mình .Với phương tiện duy nhất nầy giúp ta phản
bổn hoàn nguyên sử dụng trên lộ trình, từ Đông
Độ đến Tây Phương
từ đời đến đạo, chuyển mê thành
giác. Hành giả phải đương đầu với
bao chướng ngại, muôn ngàn thử thách, nên
phải
luôn luôn thận trọng, tinh nhạy trong công phu -
sáng suốt
ở hành động, mỗi bước đi vững chắc,
kiên trì vượt qua hết và đến cuối đoạn
đường thử thách - Bởi thành công nào
không có khó
khăn gian khổ thì đâu có rạng rỡ vinh quang,
có đi
có về, hoàn tất công phu tu luyện. Thông thường các phật tử cầu
nguyện trước Phật bàn quy hướng Phật với
lòng thành kính, chắp hai bàn tay
vào ngực họ, dụng hết
tâm thần, đem toàn ý chí cầu Phật chứng tri,
Di Đà
thọ ký. Trong khi đó miệng niệm lục tự Di Đà
và các vị Phật khác với âm thanh trầm bổng,
ngâm
nga, phưởng phất mùi hương thơm ngát trong
khung cảnh trang nghiêm. Việc làm nầy
là hành động tín ngưỡng, cầu vào tha lực
giúp
sức, họ mượn hình thức bên ngoài, để củng
cố đức tin bên trong và làm nền tảng tu thân
suốt
đời của họ. Họ dùng
âm
thanh sắc tướng mong cầu thấy Như Lai nên
không bao giờ thấy được, đó chỉ là hư
vọng ảo tưởng của lòng mê; trước mặt
là hình cây tượng đá, cốt Phật dựng
lên để
tôn kính “bái, lạy” ru hồn họ trong vô minh u
tối, Nương
giả hành giả, kết quả “Phật giả” thành
hình, yêu tinh ngự trị nơi lòng. Còn người
tu vô vi thực hành tâm pháp trở về nội
tâm lo gầy
dựng Đạo, tạo Bát
nhã huệ trí là có Phật thật với ánh
sáng quang minh chiếu
diệu. Họ hiểu rõ “sự “và hành theo “lý”,
nên sự
thờ phương cúng tế chẳng làm chướng
mắt,
khó nhìn vì tất
cả các sự việc đó được họ lý giải
theo Đại thừa tâm pháp. Khi hiểu ra rồi cả
thảy đều có lợi ích cho việc tu hành. Đạo
thị hiện khắp mọi nơi, nơi nào cũng có Đạo,
dưới ánh sáng của tâm minh, Đạo lưu hành
trong
vạn vật. QUỲ Hai
chân quỳ gối thẳng người. Hai chân
là phương
tiện di hành trên đất, bám đất để hoạt
động khắp nơi, trong thời gian nầy phải
dừng lại, trụ một chỗ, cùng quy hướng
trước phật bàn (chỉ rõ đường lối
trở về cõi Phật). Đây là
biểu
tượng lạy nơi hai bàn tay, thường
theo hình thức từ trước đến nay, trải
qua nhiều giai đoạn, phải nhận thức rõ ràng để
tìm hiểu đạo lý ứng dụng. THƯỢNG NGƯƠN Vào
thời Đức Phật Di Đà cách thức lạy như
sau : Chỉ dùng bàn tay trái dựng thẳng để trước
ngực, rồi cúi đầu lạy một tay mà thôi (bàn
tay trái thuộc dương) TRUNG NGƯƠN Thời
Đức Phật Thích Ca Như Lai ra đời. Hai bàn tay
mặt
và trái chấp lại ở ngay chính giữa ngực,(tượng
trưng âm dương hiệp nhứt, tả chi hữu dực
chẳng còn. Người tu phải hành thủ công phu quy
hướng
Phật, thực hiện được âm dương liên
kết, không còn riêng rẽ). Hai bàn tay lật
ngửa hoặc
úp xuống rồi cúi đầu trên hai bàn tay ấy, họ
dụng hết tinh thần và ý chí để thực hiện
quy hướng về Đấng Trọn lành,
đây là đường
hướng
dụng sự để cầu nguyện lạy bái. HẠ NGUƠN Thời
kỳ Hạ Ngươn mạt pháp chân truyền được
tái lập do Đức Thượng Đế bố
ban ân hồng để cứu vớt sanh linh. Người
May duyên ngộ “phương pháp tu”, trong đó hai
bàn tay là phương
tiện để thực hiện việc giao hòa Âm dương.
Tín đồ không biết cũng nắm tay bái lạy, còn
môn đồ thấu rõ chỗ dụng nầy : - Bàn tay trái thuộc dương,
ngón cái bấm
vào phía dưới ngón áp út làm
thành một vòng tròn (ấn dương),
ngón cái của bàn tay mặt để vào vòng
tròn đó như
một trụ cốt có thể xoay được và bấm
vào đầu ngón áp
út của
bàn tay mặt (ấn âm). Âm dương
hiệp, ngũ khí giao hoà, “kiết quả” nhờ hành thủ
công phụ, pháp luân vận chuyển, máy linh khởi
động
sản sinh ánh sáng. Đây là một phần trong
công phu - quy
hướng ân trên với thành quả dâng hiến. Giai
đoạn
gầy dựng và bảo vệ quý bửu, thành hình Phật
thân, tô bồi thánh thể. Còn đối với các bậc
đã
tạo tác trong công phu viên mãn cách
quy hướng Đấng
trọn lành lại khác. Hai bàn tay trái
và mặt áp vào nhau,
ngón cái của bàn tay trái để trên
ngón cái của bàn tay mặt
và chấp ở giữa ngực, khi quy hướng đưa
lên phía trên đầu giữa trán và
úp xuống khi cúi đầu
trên 2 bàn tay, đây là giai đoạn ứng dụng,
khi họ tự bạn vui cứu khổ cho chính mình, rồi
ban vui cứu khổ cho mọi người, nguyện hết
tinh thần và ý chí để thực hiện dâng hiến. Người Lãnh Đạo Tối Cao
thay mặt Thượng Đế ban “Thái cực pháp
lành” cho nhân sinh, đầu là thái cực, hai
cánh tay là lưỡng
nghi, ngón cái của
bàn tay trái để
trên ngón cái của bàn tay mặt là tứ
tượng, tám
ngón còn lại là Bát quái, xòe
đưa lên; “Trung tâm điện
năng” ban phát thiên điển, bố thí Trí Tuệ,
soi sáng
cho nhân quần. Như vậy tùy theo sự, Ta thấy rõ
cái dụng của nó để đánh dấu căn tánh
và
nhu cầu của thiên hạ. Phương pháp tu thật sự là trau sửa, quy hướng vào Phật
của chính mình, hiệp nhứt âm dương, giao hòa
ngũ
khí để cầu Phật, đắc Phật nhờ
quy y Phật nơi lòng là
chân
hành khi có được chơn truyền pháp đạo,
chiếc chìa khóa duy nhất tự mở “công tắc”
thiên cơ
chuyển động, pháp luân vận hành, sản sinh
ánh
sáng, tự ta nối nhịp cầu với ơn trên, thông
lưu với bản thể. Một thí dụ dễ hiểu : hai dòng
điện
âm và dương được nối liền với nhau,
ngọn đèn bừng sáng, vô bồng tháp
phát quang rạng
rỡ. Ở đây ta thắp sáng ngọn đèn lòng,
nhà
tâm quang đãng sáng suốt, cảnh giới chân thật
lộ
bày, không còn mù mờ u tối nữa. Sáng
là thiên đường
an vui, tối là địa ngục khổ đau. Tâm ta trong
sáng, trí tuệ quang minh. Chính đây
là việc làm thiết thực
để tu tâm luyện tánh, tự hành, tự đạt,
gieo nhân Bồ đề, rồi sau đó có quả Bồ đề
là lẽ đương nhiên; khác hẳn với người
tu mê muội bái Phật lạy Trơi, cả đời đen
tối, tinh thần kiệt quệ,
đen tối lại càng đen tối thêm. Chân tu phải biết hành trau, đi
vào con đường sáng, tự tạo Phật tác tiên
trong vô vi tâm nội, nhất là có chơn truyền
bí pháp, kim
chỉ nam định hướng, còn lo chi sai nẻo, lạc
đường . Ta phải biết diệu dụng mới
thoát khỏi mọi lưới rào của thế trần,
vượt qua khổ hải ái hà, đến
bến tới bờ một
cách an
toàn vinh quang ! CHƯƠNG IV XXX NAM ẤY NAM PHƯƠNG LỬA
BÍNH ĐINH Nam thuộc về tâm hỏa,
lửa nơi tiểu thiên địa, ở trên đầu
là THẦN. Phàm nhân sống theo đời buông lơi
theo ngoại
cảnh, lục dục thất tình chi phối, trói buộc
không còn tự do thong thả. Lửa dục lửa tình nung
nấu tâm can, làm bứt rứt bực bội, sự đốt
cháy ngấm ngầm bên trong ấy càng ngày
càng bừng dậy,
ầm ĩ thêm. Cái ngọn lửa đó là nguồn
động
lực thúc đẩy con người hành động theo bản
năng thú tánh, để thỏa mãn sự đòi hỏi
ái
ân dục lạc và hy vọng làm dịu bớt hoặc dập
tắt nó đi, nhưng ngược lại nó càng sôi sục,
phát khởi tưng bừng, khiến nhân sinh cùng cực đau
khổ . Thêm vào lòng sân hận đua tranh giựt
giành tình,
tiền, lợi danh sanh ra biết bao điều tai biến
thảm khốc, rốt rồi họ chuốc lấy
toàn
là “phiền não điên
đảo”, cái sức nóng này dục thúc ứng dụng
theo “Tà thần giã trí” bắt họ làm nô
lệ, hành động
theo vô minh tục tánh. Họ tự hủy hoại chân
thân,
làm tiêu tan tam bửu. “Tà hỏa” khiến cho nhân
sinh đọa
lạc, “Lò lửa hồng trần” thiêu đốt họ
không bao giờ dứt. Con người tu tâm pháp biến
Tà Hỏa thành Chân Hỏa, tự họ
làm ra lửa, hành hỏa
công tạo “chân dương thần hỏa” dùng vào việc
nấu cơm Trời, nướng bánh Thánh, ...
có được thức ăn của Như Lai, nên cung cấp
cho Phật thân đủ đầy khang kiện. Đây là
việc làm thiết thực, công phu chánh yếu. Điều
kiện “cần và đủ” để thắp sáng tâm đăng
của ta. Trước tiên phải làm
ra “lửa”. Người tu phải biết lấy lửa
trong vô vi nội giới, khác hẳn với lửa hữu
hình ở bên ngoài. Đây là sức
nóng, lửa điện
trong người của chúng ta. Khi thọ lãnh chơn tryền, thực
hành bí pháp, làm việc nầy chẳng khó
khăn gì, tự họ
tạo chơn hỏa một cách dễ dàng. Chính ngọn lửa
nầy giúp ích đắc lực cho các chơn tu hoàn
thành sứ
mạng giải thoát. Luồng hỏa hầu đưa
ta đến cực lạc
quốc, lai hồi bản nguyên, cũng giống như khi
ta dùng hỏa tiễn, đưa phi thuyền vào không gian,
nếu
ta không “khai hỏa” được, phi thuyền vẫn nằm
ỳ trên mặt đất. Ngọn lửa Trời có vạn năng khối
chơn dương
thần hỏa thiêu đốt
mọi hắc ám khổ đau não phiền trong tâm nội cải
hối lòng phàm. Nơi kinh thánh gọi là “phép
rửa tội”
bằng lửa của Chúa. “Tấn dương hỏa” “Thối
âm phù” Cho nên hỏa công quan trọng vô
cùng, ta phải biết
hữu dụng nó vào mục đích giải thoát, bằng
không nó sẽ gây trở ngại là
“Hỏa diệm sơn”
ngăn đường đón
ngõ , thiêu đốt khách tây du ra tro
bụi. Chính Tà hỏa khiến
các Tục Tăng
làm nô lệ cho dục tình, phút chốc bao
công trình gầy dựng
bấy lâu bị nó đốt cháy hết “Ba năm đốn
củi chỉ thiêu một giờ” Tùy chỗ dụng đúng hay sai. Giải
thoát hay đọa lạc đều do Ta hết thảy. Lửa là yếu tố quan trọng trong
công phu, tu luyện không thể thiếu và nó
có khả năng
vô lượng. Vì vậy người tu
hữu hình chấp sự theo tướng,
nhờ ngọn lửa thiêu thân đốt xác, cầu cho Phật
rước về Tây phương cực lạc quốc hoặc
dùng lửa đốt liều ở trên đầu và cho đó
là đã có chứng đắc đạo quả. Điều quan trọng trong đạo
pháp vô vi là làm thế nào biến Am
thần thành Dương
thần, đổi hẳn tính chất thuần âm lạnh
lẽo. Hành giả phải trau luyện lắm công phu, nhiều
gian khổ mới có được lửa vô vi ấy tam
muội chân hỏa, thăng thượng trên đỉnh đầu. Thần quang hiển lộ đủ đầy
năng lực, một nguồn đạo sung thiệm tràn
đầy nhựa sống đang cuồn cuộn tuôn chảy
trong người. Việc hành hỏa, công phu trau
luyện,người
tu không thể ỷ y khinh thường, mà luôn luôn
quán xét và
phải biết mình ở vào giai đoạn nào “chừng mức
tu chứng” vì có lúc dùng lửa ngọn gọi
là “võ hỏa”,
khi dụng lửa than là “Văn hỏa”, được ta
thực hành chu đáo, trúng chơn cơ, hạp tự
nhiên
mới “Thành tựu viên
mãn” Chính vì chỗ sử dụng “hỏa
công”
năng lực của no. Tà ... Ta
hóa
MA. Chánh giúp Ta về Cực Lạc Hành giả
phải am tường
CHƯƠNG V XXX MÔ LÀ CHỈ RÕ VẬT VÔ HÌNH Cái vật vô hình : Không
Khí
bàng bạc ở khắp mọi nơi trưởng dưỡng
vạn vật. Đây là nguồn cung cấp vô tận giúp
ta thở. Con người ở trong không khí cũng giống
như cá sống trong nước, nó chở che bảo vệ
và cung cấp sự sống. Chính nhờ có Nó để
dưỡng
nuôi tinh thần, chân thân của ta. Cái hơi thở
ra vào nơi
miệng mũi là “hô hấp chi khí” - hơi thở của
phàm nhân - nhị khí âm dương, còn thở
là còn sự sống,
hết thở là chết. Họ chú ý đến cái chết
của xác thân hữu hình, nhưng họ lại ít quan
tâm đến
hơi thở của mình, bởi không khí khỏi mất tiền
mua, chẳng hao công phí sức, người ta vẫn có
nó để
thở. Riêng đối với người tu Đại
thừa, thực hành mật pháp vô vi. Thở chơn tức
bằng “tiên thiên khí” không phải cái
thở ra vào thông thường
bằng miệng mũi. Nếu không biết phương
pháp sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng nên kinh
sách
nói : Tiên thở bằng rún, Chơn nhơn thở đến
gót chân, ám chỉ “chơn tức”. Thật khó quan
niệm nổi,
nếu không có công phu hành pháp
thì coi việc nầy là chuyện
hoang đường tà mỵ bởi vì nó vượt ngoài
ngôn ngữ văn tự, không thể diễn tả được,
chỉ cảm nhận và tiếp thu trực tiếp với
Minh sư khẩu truyền tâm thọ. “Nội bất xuất, ngoại bất
nhập, phi bế khí giã” Cái thở đó
không ở bên trong
ra, không ở bên ngoài vào, cũng không
nín thở vậy. Chúa cũng thường đề cập
đến khi Người thuyết đạo cho các môn đồ.
Lời lẽ chân thật rõ ràng đi ngay vào Mật
pháp. “Ta có một món ăn mà
các ngươi
không biết” cũng như đức Phật dạy Đạo,
giáo pháp của Ngài không ngoài
lý vô vi thuộc tâm linh nội giới,
tô bồi chân thân, dưỡng nuôi thánh thể,
phục hồi
Như Lai của mình. Khi Như Lai muốn ăn : có bốn vị
Thiên Vơng dâng cho 4 bát báu, rồi Như Lai
hiệp lại
thành một bát duy nhất đựng thức ăn cho Như
Lai - nhất là Như Lai không bao giờ dùng tay nhận
thức
ăn. Mầu nhiệm thay ! Quá cao sâu
lý đạo! Phàm nhân không làm
sao hiểu được chỗ tối
thượng pháp môn, nên không bao giờ
có được thức ăn đó, đành phải để
cho Như Lai của mình kiệt quệ đói khát. Nhưng đối
với người tu thực hành “Chơn truyền pháp đạo”
chắc chắn có được thức ăn của Như
Lai, tự mình cung cấp đủ đầy cho Phật
thân trở nên khang kiện, không còn là
điều Thiên nan vạn
nan nữa . Điều này sẽ được chỉ rõ ở
phần Mật pháp. Chính vì muốn tiết lộ chỗ
tối
mật, tối linh của Thiên Cơ, các ngài
dùng thần
ngữ diễn tả nửa kín nửa hở không dễ
duôi tiết lộ ra được. “Thiên cơ bất khả
lậu”. Nói đầu dấu đuôi, nói đuôi dấu đầu,
nên ai biết được sẽ thấu rõ máy linh tự
mình vận chuyển. Nơi Tiểu thiên địa, nhất
khí ẩn tàng trong ngũ tạng, ứng hiện ra ngũ
quan, trở thành ngũ khí. Một cội sinh ra 5 nhánh,
đi
ra để sinh hóa, nhất bổn ứng vạn thù. Người
thực hành Pháp đạo phải biết gom góp đem về,
ngũ khí hiệp nhứt triều ngươn thành “Nhứt
khí Tiên thiên” vạn thù quy nhất, cung cấp
cho Phật
thân Như Lai của mình. Đây là đường lối
công phu, chân tu hành đạo, dưỡng nuôi
đúng thánh thể,
phục hoàn chơn thân trọn vóc nguyên
hình, đến tinh
minh rạng rỡ. Việc làm nầy các vị Giáo
Chủ Đại
đạo hay các
Minh sự đắc pháp lưu lại trong kinh sách, những
nhân sinh hậu học chấp lời theo sự, nên không
thông đạt diệu lý mật nhiệm. Phật Chúa đều
chỉ ngay sự dưỡng nuôi chính yếu. Đựng
bằng “bát báu”, chén của Chúa để có
cơm Trời
bánh Phật, lo cho đời sống tâm linh. Thuộc
vô vi vô tướng, khác hẳn với chén bát
hữu hình để
xin ăn, khất thực của thế gian, nuôi giả
thân hữu thể. Tệ hại
hơn ăn phải chén của Ma quỷ, bát của Nữ
yêu, tiêu tan Tam bửu, đổ máu Chúa, hao huyết
Phật
vì thèm khát nhơn dục, no lòng đỡ dạ. theo
ngõ tối
vô minh yêu tinh hành sử. Thế nên việc tu hành, nếu
nhân sinh
không có được “Chén bát vô vi” để đựng
cơm
trời bánh Phật, chẳng có lợi ích chi cả, bởi
mang tiếng tu mà không ra tu, lại để cho Phật Chúa
đói khát lu bù đến kiệt quệ suy tàn.
Thân xác đang
sống nhưng chân thân chết dần chết mòn theo
năm tháng. Vì vậy người tu phải có “bát
báu” để
cung cấp cho chân thân, tinh thần phục hưng, cái
phần
tinh anh ấy càng ngày càng sung thiệm đến chỗ
viên
dung mới gọi là “tu thân
đích
thực”. CHƯƠNG VI XXX GỒM NHÂM THỦY
AN NƠI
THẬN. Con người ai cũng vậy
đến tuổi trưởng thành tế bào sinh dục
phát triển, sanh sanh hóa hóa, nặng nề trọng
trược,
chất nước sinh dục được tạo ra nơi
hạ bộ gọi là “Tinh” càng có nhiều càng dồi
dào sức
sống, kích thích dục tình, đòi hỏi dục lạc,
thú tính hoành hành mạnh bạo, ham muốn “Nam
nữ “ ái
ân giao hợp, ăn uống phải
chén của ma quỷ, thỏa mãn sự thèm khát.
Nhưng lại
càng khát khao thêm nữa. Thế nên bao
nhiêu chất nước
quý báu ấy, họ đều đem ra phung phí vui say dục
lạc. Hạt giống chúng sanh của cha gieo vào lòng
đất
mẹ kết tụ phàm thai đúng ngày sinh ra phàm
tử. Cái nhân quả nầy cứ lưu truyền
mãi nơi thế gian do si mê nhân dục. Ngoài ra phàm nhân hay
tục tăng dù không ân
ái, chẳng giao hợp nam nữ, cứ để như thế
chất nước từ trên nguồn tuôn xuống dư
thừa, bị tức nước
vỡ bờ, tràn trề đổ tháo, mặc dầu không
tiêu xài, rồi cũng mất hết khác nào như
công dã
tràng, bởi vì họ không có một phương
cách nào giữ
gìn nó được. Từ chỗ “Tư lự chi thần”
tâm thần xao xuyến thấy bóng sắc mến ưa - giữa
nam nữ gần gũi với nhau, lòng dục phát khởi,
tâm khí dấy động, lại bị hô hấp chi khí
âm
phong thổi tới, mây mù bao phủ, mây biến
thành mưa.
Chất nước sinh dục tạo ra là “Giao cảm chi
tinh” hay Tà tinh giao cảm, kích thích dữ dội,
thú tánh biểu
lộ. Hành động ái ân, nam nữ giao hợp, kết quả
sinh ra con đời. Chúa gọi họ mắc phải tội
tà dâm, càng ngày càng làm đổ
“huyết báu” trên cây thập
tự. - Âm dương hòa hiệp theo phàm pháp -
ánh sáng
tiêu tan. Tự giết Chúa mình hủy hoại Phật
thân, lại
không hay biết, ... Thế mà nhân sinh lại vui
thích, say sưa
với dục tình đến nỗi không bao giờ thỏa
mãn sự đòi hỏi đó, nên họ đau khổ triền
miên, trầm mình trong ao tù nhân dục. Họ
thích như thế,
và luôn miệng chúc nhau đắc thành sở nguyện,
hưởng
lạc thú “hạnh phúc ở đời”. Người chân tu hiểu rõ nguồn gốc
nguyên nhân tác động do tâm, nhờ vào
bí pháp, thực hành
công phu, dứt aí ân nam nữ, giữ đại giới “tuyệt
dục” để dành dầu đốt đèn, tâm đăng
của chính mình, trở nên sáng
tỏ, rạng rỡ, khi đó tinh không còn đổ
tháo hao hớt nữa. Chất nước ấy được
đun nóng đúng cách đủ độ bốc hơi ngịch
chuyển về nguồn. “Nước ngược” gọi
là Cất rượu tiên, tạo
ra rượu thánh “huỳnh tương tiên tửu” uống
vào sẽ đoạn dứt dâm căn, không còn
khát khao nhơn
dục, nhờ cái nguồn mạch, dòng nước này dẫn
đền sự sống đời đời. “Tinh quy thần”
đời sống Tinh Thần minh bạch thiện lành, bởi
họ biết chỗ dụng đúng, trúng chơn cơ. Hữu
hườn vô, đọa thành siêu, càng hành
càng dồi dào
sung thiệm, thần quang tỏ rạng, tâm đăng chiếu
diệu. Cũng như tượng thờ Quan Thế Âm Bồ
Tát, tay cầm Tịnh bình đựng nước Nam Hải,
đây là chất nước hồi sinh đem đến sự sống,
Nam thuộc hỏa, nước
có sức nóng “Dương liễu thủy” người tu
phải luyện có nước “cam lồ” nầy. Giờ đây ta đã rõ “Tam
bửu” “Tinh
khí thần” nơi mình vô cùng quý
báu và phải có bổn phận
giữ gìn cái gia sản đó, không để cho hao hụt
mất mát, càng ngày càng phát triển
khang kiện thêm lên. Nếu
trước vì mê muội không biết bảo trì phung
phí tiêu
hao, nay tỉnh ngộ, lo gầy dựng tích trữ phục
hoàn đầy đủ trở lại, hành động nầy
là “Tu” tô bồi chỗ khuyết, sửa chữa chỗ hư,
tạo Phật tác Tiên không ngoài “Cái sẵn
có nơi mình - tiểu
vũ trụ của ta”. Đó là ta biết phục đạo
và
bảo Đạo cho mình, cố sức thực hành công phu
chính chắn, gieo nhân rồi đến hồi gặt quả
là chơn công quả. Nhiệm vụ cung phụng Phật
thân, dựng gầy đạo quả. Đường hướng
tu thân đích thực lo cho đời sống trường
tồn của mình đúng theo yêu cầu đắc thành sở
nguyện, tất cả đều do ta đảm nhiệm
và thực hiện. CHƯƠNG VII XXX DI GIỮ CHẶT BỀN BA
BÁU LINH Người
chân tu phải hiểu rõ việc làm chính yếu của
mình,
giữ gìn tam bửu “Tinh khí thần” không để cho hao
hụt
mất mát và cố lo tô bồi, gầy dựng thêm cho đủ
đầy khang kiện. Công phu thiết thực nầy đạt
được mới “Tu hành đúng nghĩa, còn bằng ngược
lại tự mình phá hoại giết hại mầm sinh, hao
huyết Phật, mất máu Chúa, tiêu tan quý bửu.
Mang tiếng
“tu” nhưng thực sự không có tu gì cả, bởi vì
gầy
dựng cũng không, tô bồi chẳng có. Họ tốn
công phí sức cực thân, mất hết thời gian rốt
rồi như công dã tràng. Bởi hành pháp
đi sai đàng lạc
lối, “Tu hành làm mất đạo” tạo dựng vô minh
- Thật vô phước và bất hạnh thay! Ta phải rõ nguyên nhân
gây ra hậu quả
để kịp thời ngăn chận, không để mất
báu vật Phật ban để làm lẽ sống, tạo dựng
“Hạnh phúc chân thật” của mình. Từ đó ta ra
công nỗ
lực thực hành đời sống trường tồn
vĩnh
cửu,
cố lo tô bồi đắp xây, giữ gìn “tam bửu”, một
việc làm chính yếu công phu tu luyện của người
giác ngộ biết tự độ và bảo
đạo hộ pháp cho
mình “Kho báu linh đó” biến
chúng nó thành “Pháp bữu hữu hiệu”
không tan biến theo
thời gian, hằng hữu, hằng thường, trở
thành vật bất ly thân, thật một việc làm khó
khăn!
Vì vậy người tu phải luôn luôn cảnh giác,
gìn
trong rồi lại giữ ngoài “gầy dựng bảo vệ,”
nhiệm vụ thiết yếu làm chủ trọn vẹn
kho tàng báu vật không để “Thần hao - khí
tán - tinh lậu”. Tất cả đều do đâu? có được
sự thành quả ấy cũng là nhờ vào giáp sắt
tường
đồng, Đạo y kiên cố, bảo vệ cà sa của
Phật. Ao lễ của Chúa được
khoác vào không còn lo sợ, chẳng e ngại
ngoại lực
tha nhân xâm nhập và cưỡng đoạt của báu. Với chân truyền bí pháp
có “Bát báu” nuôi
thân, “y vô vi” che chở, đủ y, đủ bát, thực
hiện việc gầy dựng tô bồi, càng ngày đời
sống tâm linh thêm tinh minh rạng rỡ. Điều này
khác với y bát hữu hình của kẻ khất thực thế
gian, thân xác no lòng, nhưng chân thân
hao mòn làm cho Như Lai của
mình ốm đói. Bởi họ tu theo “Sắc tướng
âm thinh” tướng hão quang minh, hạnh đức bên
ngoài
chỉ tu áo đắp y, chứ không
biết tu tâm
dưỡng tánh. Nhưng sinh nhân nào
giác ngộ biết rõ lý đạo ẩn tàng ở nơi
hình tướng, hồi hướng vô vi mật pháp, áp
dụng
cho sự hành đạo của mình đem đến lợi
ích thiết thực cho việc tu thân. Vậy người tu phải có “đạo
y” “Pháp y” để che chở giữ gìn phật thân, ngôi
tam bảo của mình. Ba báu linh “Tinh khí thần”
kết
thành vóc Phật. Tự ta phải
thực hành Quy y phật
Thần thành “ngươn thần” Quy y pháp
khí
thành “ngươn khí” Quy y tăng
Tinh thành “ngươn tinh” Ngươn
thần, ngươn khí với ngươn tinh, Ráp lại
lâu lâu nó tượng hình, Phá cửa
linh đài vào bái Phật. Ngũ hành hiệp
nhứt rất mầu linh Người hành pháp công phu
gom góp tam bửu
trở về nguồn cội ban đầu. Tinh khí thần
hiệp nhứt “Quy tam bử u” kết thành thánh thể, tự
Ta tạo Phật, tác Tiên, nên Thánh đều do ta
thực
hành đúng chơn truyền . Y bí pháp
không ngoài Tiểu vũ trụ nầy,
một kho tàng bảo
vật, vạn bửu nang của Phật ban cho. “Vườn
nho” của Chúa dành sẵn, đủ đầy phương
tiện giúp ta thực hiện đường lối tiến
tu, phản hồi cựu vi, trở về nguyên bản. Phàm nhân sống theo ngoại cảnh,
tâm
phan duyên không ổn định, thần trí nương theo
các cửa đi ra hồng trần theo ngõ rộng rơi nơi
khổ hải, ái hà, trầm mình trong ao tù
dâm dục. “Con đường
đi ra là “ “Sa và đọa” khiến cho thần hao, càng
ngày càng kiệt quệ mất sáng “Tự lự
chi
thần” Mắt thấy
sắc cái đẹp cái xinh
quyến rũ Tai nghe thinh lời
ngon tiếng ngọt mến ưa Mũi ngửi
mùi hương, thơm tho kích
thích Lưỡi
nếm vị đời ham muốn. Thân dựa kề
da mát thịt mềm Ôi ! biết bao nhiều điều
hấp dẫn lôi cuốn khiến con người mất hết
tự chủ phóng ngoại thế trần, càng ham muốn
càng đau khổ, chất chồng thêm mãi. “Hô hấp
chi khí”
cái thở của phàm phu, ra vô nơi miệng mũi, Ngọn
gió thổi vào lửa dục bừng cháy, tham, sâm,
si nổi
dậy nung nấu tâm can. Họ không phương dập tắt
hoặc chế ngự được “tà thần”, hỏa
diệm sơn thiêu đốt chân thân, mất đi sự
sống, Người đời
phải đầu hàng xuôi tay đón nhận sự diệt
vong, cứ lao mình vào biển lửa . Lửa dục, lửa
tình vô minh hành sử dâm tình
kích động để thỏa
mãn sự thèm khát. “Dâm thủy” sinh ra “chất
nước
phàm phu”.”Giao cảm chi tinh” hạt giống chúng sanh
thành hình
sẵn sàng để gieo vào mảnh đất tình làm đổ
tháo, tiêu hao. Ngọn đèn bị lũng đáy, chảy
hết
dầu “Tinh khí thần” kiệt quệ . Hành động đó
là tự giết mình không hay biết, lại cứ lo tận
hưởng dục lạc ái ân. Đóng đinh Chúa
trên thập
tự giá, âm dương hòa hợp theo tà pháp
làm đổ
huyết báu mắc tội tà dâm, đồng tình với lũ
quỷ ma. Vì vậy người tu công phu như thế
nào để giữ bền báu linh - không hụt chẳng
hao, lại càng tăng trưởng dồi dào, Tinh đầy
Khí đủ. Thần quang tỏ rạng, muốn thế
phải đổi hướng thay chiều , đối ngịch
lại. Không phóng ngoại quay về nội tâm, đi
vào ngõ
hẹp hữu vi - hữu tướng, hồi tướng
vô tướng vô vi, gom về là “Quy và hiệp”
các cửa
không còn bỏ ngỏ, mở rộng nữa. Cũng chẳng
phải đóng kín mà nay lại được khép lại
theo chiều hướng về bên trong, đúng “tâm pháp
bí
truyền” mắt nhìn vào trong,
tai nghe vào trong, lưỡi nếm vào trong, thở chơn
tức - tứ tổ quy gia. Bốn phương quy hợp
một nhà cũng là “Tứ Thiên Vương” dâng bốn
bát
báu để Phật làm thành một bát duy nhất đựng
thức ăn của Như Lai - cung phụng cho Tam bảo “Tinh
khí thần của mình”. Đây là tô bồi
chân thân, phục
hoàn thánh thể. Bởi - Đi ra là đọa lạc Trở về là siêu thăng Chơn thần, nương Chơn
khí, dẫn đến gặp Chơn
tinh. Lửa thiêu đáy chảo. Nước sôi động
không còn trạng thái nguội lạnh - Thuần âm -
Cái chất
nước ấy nay nóng đúng độ, bốc hơi
bay bổng biến thành “Chơn khí dương tinh”, dầu
được bơm lên “ Mang song” đủ sức gặp
lửa cháy bừng. Ngọn đèn tâm linh của
mình nay được
phục hoàn cháy sáng, cái thể vóc
tinh anh ấy phải giữ
gìn không để cho hao hụt, càng ngày
càng sung thiệm tràn
đầy sức sống gọi là “Phục đạo” từ
chỗ chết trở về cảnh sống. Người
tu phải thực hiện cho bằng được cái
công phu chính yếu nầy mới khỏi hao công phí
sức
vô ích và hành đúng nghĩa của chữ tu,
thoát cảnh tối
tăm mê muội. Chính Chúa cũng khẳng định
trong
khi dạy đạo, tỏ rõ máy linh, công việc phải
thực hiện đối với người chân tu giải
thoát. “Quả thật quả thật-Ai ăn
thịt Ta và uống huyết Ta mới vào nước thiên đường” Đây là chân lý
hoàn toàn, vạn cổ bất
dịch không thay đổi bởi pháp ý của Ngài chỉ
rõ máy linh, điều kiện tất yếu để tạo
tác
ánh sáng, phục hoàn chân
thân không còn bị thối chuyển lu mờ. Ở điểm
nầy người nào chấp vào văn tự khó nhận
ra diệu ý rồi nghi ngờ chỗ tối mật
bí yếu
của Đạo
pháp, nên họ không lãnh hội được gì cả
và lại
nặng mang lắm điều nghi vấn trong lòng. “Thịt Chúa đâu mà ăn ?
“Huyết
Chúa” đâu mà uống ?” như vậy họ đành cam đọa
lạc sống trong cảnh địa ngục tối tăm
mãi sao ? Nhất là Chúa đã sống cách
đây gần 2000 năm
làm sao gặp Ngài để chia thịt, lấy huyết. Thật
khó hiểu đối với họ ! Những người hành tâm pháp
rõ thấu
máy linh nơi mình. Thịt Chúa là lửa. Huyết
Chúa là dầu.
Ngọn đèn tâm linh, có lửa có dầu bừng
cháy sáng,
không bao giờ tắt “Sáng tỏ muôn trùng”
có cuộc sống
đời đời là như thế ấy ! Chính ngọn
lửa thiêng đó phá tan đen tối, cảnh giới
quang minh hiện ra. “Sáng là thiên đàng. Tối
là địa
ngục” Ngọn đèn lòng đủ đầy huệ lực chiếu minh
rạng rỡ tinh thần
vững mạnh
sung thiệm. Lời Chúa ta phải thực hành cho bằng được,
mới tham dự Thiên đàng tâm, tận hưởng Cực
lạc quốc của chính mình. Khi phó truyền “Y - bát” cho
Lục-tổ
Huệ-năng Ngũ tổ “Huỳnh Mai” kệ rằng:
Hữu
tình lai hạ chủng
Nhơn địa
quả hườn sanh
Vô tình diệt
vô chủng
Vô tánh diệt
vô sanh Đây là đoạn kệ
quan trọng nhất đủ đầy lẽ tất yếu.
Chỉ vỏn vẹn có bấy nhiêu đó, Huệ Năng
hành đúng chơn truyền trở thành vị tổ thứ
sáu sau khi thông đạt pháp ý vi diệu ẩn
tàng do thầy
chỉ dạy, Ngài ra sức hành trau. Tự tu, tự luyện,
tự chứng đắc. Biết rõ việc làm đi ngay
vào nguồn cội trong tâm nội. Lấy vô vi làm
nền tảng
căn bản để hiểu đạo và hành đạo.
Ngài quả quyết đừng nên phóng ngoại kiếm tìm
đạo, khác nào mong cầu lông rùa, sừng thỏ,
không
bao giờ có. Hãy trở về với ta, tìm đường
lối trong ta. Tất cả sẵn có nơi tiểu vũ
trụ nầy. Muốn tu đúng đường, hành đúng
lối. Ta nên noi gương Lục Tổ. Từ không ra có.
Cái có đó mới chân thật, ngu dốt nhưng
không ngu dốt
gì cả, đúng đạo lý vô vi, không
bám trụ ở một
vị trí nào. Hữu lẫn vô trên một vòng
pháp luân, thiên cơ
vận chuyển nên rất linh hoạt. Ta hãy tìm đạo nơi
lòng, hành cho đúng lẽ vô vi tâm
truyền “Bí pháp” Đạo
thị hiện. Phật tiên thần thánh trong
hình phàm phu Từ
phàm nên Thánh, chúng sanh thành
Phật, biến khổ đau phiền
não thành ra an vui phúc huệ,
giải
thoát trong một kiếp vi nhân này ... Có tình : Tự ta gầy dựng một
cuộc gặp gỡ giữa “âm dương” liên kết
chúng nó lại trong ta, cuộc hội ngộ giao hòa nầy
gọi là Tình Đạo. Tiên Đồng - Ngọc Nữ yến
ẩm với nhau say sưa nồng thắm. Đây cũng
là đám cưới của Chúa gọi là âm
dương
hòa hiệp, theo chánh pháp chơn dương chơn
âm hiệp
nhứt. Chính người hành pháp
trau đạo
phải thực hiện cho được sự liên kết
đó. bắt nhịp cầu thông hiệp - có gạch
nối liền đó là làm nên đại sự, gây
giống
Thánh, cấy Bồ Đề Chủng, biến hạt giống
chúng sinh trở thành hạt giống thánh, gieo
vào miếng
tâm điền, đất lòng của ta “Thánh thai kết tụ,
vóc thánh thành hình, đúng theo chơn
cơ tạo hóa sẽ
sinh con Trời, đẻ con Tiên, hiện Phật tử. Rồi
ngày qua đêm lại bánh phép chuyển xoay lớn
dần
theo năm tháng. Người tu phải thường xuyên
theo dõi và biết cách dưỡng nuôi Nó. Để lý giải chỗ tối mật
bí yếu của máy linh “tạo hóa chi cơ”, mượn
chỗ dễ thấy biết để tỏ rõ chỗ chưa
thấy
biết,
giúp cho người tầm tu dễ cảm nhận. Nhất
là đừng nên thần thánh hóa sự việc rồi đi
vào mê tín dị đoan, xa rời trung đạo. Ta ra sức thực hành công phu gầy
dựng
lửa, tạo hỏa công, lửa điện trong ta. Khối chơn dương thần hỏa,
chính nó là động
lực xây bánh phép, chuyển pháp luân
làm máy chạy. Trước
thì nước lửa cách xa, âm dương chia lìa, lửa
dầu
không gặp, một cặp âm dương, đôi ngả đôi
đường. Thiên đàng địa ngục cách xa ngàn
trùng - Lửa ở trên đầu, Dầu ở dưới
bụng, cứ tuôn chảy mãi , bởi lẽ thượng
hạ bất thông, chồng vợ chia lìa sống trong cảnh
cô đơn. Trong Tây du truyện, nói mắc
phải bịnh”song
điểu thất quần” hai chim trống mái lạc bầy
âu sầu thảm thiết -
Làm sao hòa, thế nào hiệp đây, để vui vầy
cộng
lạc? Thật là thiên nan vạn nan, đối với phàm
nhân không thể thực hiện được. Những người hành pháp
đúng chơn
truyền có được “chìa khóa duy nhất” chiếc cầu
thông hiệp - nhứt khí tiên thiên - “Kim -
Chảo” làm môi giới
giữa nước - lửa, tinh thần, nay biết dùng lửa
thiêu đáy chảo, nước nóng sôi động, bay bổng.
Nước có độ ấm nóng, nước lửa giao
hòa, “Tinh thần giao hợp - không còn lạnh lẽo
cô đơn
. Khi đến lúc bốc hơi gặp lửa điện
biến thành ánh sáng .“Tinh quy thần” hạt giống
chúng
sanh nay trở thành hạt giống thánh, bồ đề chơn
chủng và được gieo trồng đúng cách, chăm
sóc chu đáo phát triển tốt tươi rồi sinh hoa kết
quả, khổ cực gieo trồng đến hồi gặt
quả “Chơn công quả”. Quả bồ đề của
người trau đạo cái sáng được tô bồi
trọn vóc nguyên hình - trước sau gì cũng
có. Ta không nên
làm trái tự nhiên sai máy tạo, không
hợp với chơn
cơ. Vì muốn mau thành chóng đạt, tất nhiên
lãnh lấy
thất bại hư hoại gọi là “Sẩy thai” người
hành pháp không được thái quá hoặc
bất cập chẳng
đúng lẽ trung dung của đạo pháp. Còn đối với người tu không
trúng chơn truyền, chẳng có được “y bát”
báu,
không sao kết hợp âm dương, nào có đạo
tình
chan chứa “Vô tình đạo” tinh thần riêng rẽ, lửa
dầu không gặp, đèn không cháy, máy
không chạy, chết
nằm một chỗ, dù muôn đời cũng không có kết
quả gì. Cô âm bất sanh, độc dương bất trưởng.
Ở trường hợp nầy trong tư tưởng “Lão
Trang có đề cập tới” lũ gà mái không chịu
trống
cũng đẻ trứng, cứ ấp ủ mãi, chẳng
sanh nở gì cả, chỉ làm mồi cho bợm nhậu chè
chén say sưa. Do đó nếu không gây được sự
liên kết âm dương của chính mình để tạo
ra ánh sáng, việc tu hành sẽ không có
kết quả. “Không tánh cũng không
sanh” càng tu càng hao
hụt,
mất mát tiêu tan - sự sống chẳng còn, Chúa
dạy rõ
: “Ai có ta cho thêm, ai không có ta lấy
cái có của nó” như thế
tu hành mù quáng, đã từ bỏ đời, mến đạo,
nhưng rồi tự họ xa đạo và mất đạo,
tốn công phí sức, cực thân, nhưng chẳng sanh
ánh
sáng trí huệ chi cả. Đèn lòng của họ cạn
dầu,
nhiên liệu hết, leo lét sắp tắt báo hiệu cảnh
nguy vong trước mắt. Dù biết rõ như thế nhưng
họ đành bó tay, bởi họ không có một phương
cách nào phục hoàn, tái sinh lại được phần
quang minh ấy “đèn tắt lửa” vô minh ngập tràn. Để giải rõ hơn phàm nhơn hoặc
người tu không đúng chơn pháp do cơ đọa lạc
“thần khí tinh” thuận chiều đi xuống, trút nước
đổ tháo, càng sanh càng hao hụt, cái
dòng suối ấy
lâu ngày khô cạn, lại thêm lửa lò
thiêu đốt. Lửa
dục, lửa tình nung nấu “tam bửu” trở thành tam độc
giết hại mầm sinh, hủy diệt sự sống
làm mất đạo. Nếu họ đang chơi với may
duyên gặp chân truyền, ngộ phùng chánh
pháp khác nào người
sắp chết đuối giữa biển khơi vớ được
chiếc phao, nương đó để vào bờ, nhưng
phải tận lực, gắng sức lái vượt biển. Người tu nhờ có bí pháp
chân truyền
luyện trau, hiệp âm dương, xây bánh pháp,
đúng theo
chơn cơ tạo hóa để sanh thành trí huệ. Bộ
ba “tinh khí thần” quy kết. Tam huê
tụ
đảnh ứng dụng đúng phép “Di lư
hoán đảnh” thay lò đổi chảo.
Chảo khí nay lò khí
Nước tinh chảo thần Ta đem chơn hỏa “thần” gầy
dựng được thiêu đáy “chảo kim” khí, Tinh: nước
sôi động mất ngay tánh chất thuần âm lạnh lẽo
của tinh giao cảm trở nên đầm ấm độ
nóng tăng dần. Nước bốc hơi chơn khí dương
tinh nhẹ nhàng bay bổng, siêu thăng thưởng giới
trên đỉnh đầu. Chỗ non tiên núi thánh gọi
là
Tu Di, Hy Mã lạp sơn, Si Nai ... v.v... sẽ gặp Phật
chúa. “Khối lửa điện” hơi dầu lên “Măng
sông” có lửa bừng sáng, hào quang rực rỡ,
biểu tượng
hai con thần long đâu đầu sanh trái châu ở giữa
lưỡng long tranh châu - “Long hoa”, hiển hiện pháp
thân”
Chúa hóa hình trong kinh thánh”.
Hình ảnh Chúa Phật có vầng
hào quang trên đầu - ngọn đèn trời chiếu minh
rạng rỡ. CHƯƠNG VIII XXX ĐÀ -
SÁNG SẮC VÀNG
TRÒN KHẮP CẢ Người tu thực hành chánh
pháp đúng
chơn truyền, y pháp đạo, gom góp quý bửu. “Tinh
khí
thần” của mình không để cho hao hụt mất mát.
Tự họ cố lo gầy dựng chân thân, phục hoàn
thánh thể, nhờ y bát bảo vệ dưỡng nuôi đúng
lẽ đạo, hạp tự nhiên trở nên khang kiện
sung mãn. Tinh đầy khí đủ “Thần minh” tự mình
chứng ngộ “đèn lòng - tâm đăng” phục hồi
trở lại gọi là “tái sinh phục đạo”, tạo
tác Bát Nhã kết quả viên thành tinh
khí thần hiệp nhất
trên thượng đảnh sanh quang, ngôi tam bảo vững
vàng, hào quang rạng rỡ, nhà tâm sáng
tỏ cảnh giới
quang minh, không còn đen tối nữa. Công phu nầy phải thực hiện
cho bằng được mới gọi rằng “tu”, nếu
không là phá hoại, giết Chúa hại Phật, của
mình
tam bửu mất tinh khí thần kiệt quệ. Bởi lẽ có đèn ắt sáng -
không đèn
ắt tối. Sáng là Thiên đường, tối
là Địa
ngục. Vậy ta phải làm cho ngọn đèn sáng tỏ
trở thành huệ đăng - Từ chỗ mờ lu u tối
đến cháy sáng rạng rỡ. Tự mình gầy dựng
trí huệ, tạo thuyền bát nhã, gieo giống
thánh, cây giống
bồ đề là ở chỗ nầy. Tuy dùng nhiều từ
ngữ khác nhau để diễn tả, nhưng thực
hành chỉ có một “Tạo tác ánh sáng”
tuy sáng, nhưng còn
tùy theo cường độ của nó, như cái sáng của
“sao” trên trời trùng trùng điệp điệp, ban
đêm
tượng trưng cho “thấy biết của chúng sanh,
nhãn giới của thế tục” “Kẻ ngu thấy biết làm nhiều”*
cái sáng của mặt trăng, tri kiến của Bồ tát
soi tỏ về đêm, khi tròn lúc khuyết không
rõ nét bị
thối chuyển. Nhưng khi bình minh đến, nhật
diện lộ hình “thái dương minh chiếu” ánh
sáng rực rỡ, một khối lửa tròn đầy
không khuyết, không vơi, hằng tròn mãi
mãi, đạt quả
vị bất thối chuyển, thấy biết của Như
Lai. Nhãn giới của Thiên chúa - “kẻ trí thấy
biết
làm một”. Nhựt Nguyệt tinh sinh ra ánh sáng
là Quang với
bí pháp luyện tinh hóa khí, luyện
khí hóa thần. Khối lửa
điện ấy phát ra ánh sáng rực rỡ thể hiện
con đường hành đạo, công phu của người
tu. Càng ngày ngọn
đèn đêm
tâm linh chiếu minh thông suốt. Chính nhờ
có sáng ta mới
thấy biết và khi đạt tới thật trí của “trí
huệ” -. Thấy biết tất cả và có tất cả.-
Đạo thị hiện rõ ràng, không còn là
điều ảo
vọng, nay trở thành sự thật hiển nhiên. Người
tu chứng ngộ và đắc đạt, một việc
làm ngoài khả năng của phàm nhân.
Thành quả ấy
không phải một sớm một chiều có được.
Ta phải dày công tu luyện, gian khổ hành trau,
không do ngoại
lực tha nhân ban bố. tất cả đều do ta đảm
nhiệm thực hiện. Khi giảng đạo chỉ chỗ mật
pháp cho môn đồ. Đức
Phật ngày xưa cũng không dấu, mượn lời
bày lý dùng những cái hiện hữu dễ hiểu, dễ
biết, đễ dẫn dắt họ vào “mật pháp vô
vi” nghĩa là đi từ tướng trở về tánh. Nếu các nhân sinh nào
giác ngộ thấy được
“cái vô” nằm trong “cái hữu” biết rõ
và thực hành đúng
pháp ý. Đây là phần thưởng xứng đáng
cho họ
nương “hữu tìm vô” lấy hư hiểu thật, mượn
giả hành chân, chính là đường lối
giáo nhân hồi
bổn của Ngài. Còn những nhân sinh nào
mê muội chấp
hữu bỏ vô, bám hư lìa thật sẽ bị vật
chất đậy lấp tâm linh , chỉ thấy biết
hửu, ngoại giềng dẫn dắt họ sa vào
bàng môn, rớt nơi tả đạo
trở thành mê tín - dị đoan, xa rời trung đạo
- Bởi “hữu tướng tâm” che lấp đắp lên
khiến “vô tướng tánh” không thể bộc phát
nào thấy
biết chân thật được. Một sự
kiện quan trọng diễn ra ngay trong Phật kinh có nói đến
chỗ năm anh em “Kiều - Trần - Như “ trong việc
hành đạo của Như Lai - Phật thật nơi ta.
Chúa Thánh của mình trong cái tiểu vũ trụ
nầy. Đồ
chúng bạch Phật tại sao trống pháp khởi đầu
tiên “năm anh em” nầy được hóa độ trước. Phật dạy
rằng : Năm người nầy lúc trước đã
nhờ huyết ta để sống
nên trống pháp khởi đầu tiên, năm người
của họ được cứu độ trước. Ta nên nhận
rõ chỗ lý “đạo ẩn tàng”, đứng chấp vào
lời, “kinh hữu tướng” tưởng tượng
rằng có năm người danh xưng như thế kia -
rồi hiểu theo sự, bị kinh chuyển xa rời
chân lý đạo. Kiều - cầu Trần - trần
gian thế sự Như - Chơn
như tự tánh mình- Đây là biểu tượng 5 giác
quan của
ta trong xác thân nầy. Nếu người
sống theo đời phóng ngoại buông lung - Cây cầu nầy
có chiều “Từ chơn Như ra hồng Trần” xa cội
ly nguồn. Nhứt bổn ra vạn thù, đem của báu,
máu của Phật tiêu hao phung phí - ngũ khí
kiệt quệ
- ngũ quan không còn linh hoạt. Tự mình làm
mất sinh lực
hủy hoại sức sống. Người tu lại sợ các
cửa
không kềm chế nổi,
xem đây là năm kẻ phá hoại gây nguy hại “ngũ
quỷ dấy động”. Rồi họ dùng tà pháp khổ
hạnh, bịt tai, nhắm mắt, khép miệng, tịnh
khẩu, đứng một chân để chịu đựng,
nhịn ăn nhịn, khát để cho kiệt sức mất
hết năng lực để dễ kềm chế và sai
khiến nó. Thế mà phần đông các người tu hữu
tướng đều áp dụng như thế để
hành đạo tu thân, tưởng rằng đây là đường
chánh nẻo chân, giúp họ làm chủ thân
tâm. Thực
ra việc làm nầy gây nguy hại không lường được,
thân xác tiêu sơ, tinh thần lụn bại, bởi vì
họ
theo đường lối “khổ hạnh” mất hết
nguồn sinh, tiêu tan sự sống, chết dần chết
mòn theo năm tháng. Họ không điều nhiếp các
giác
quan, chẳng đủ năng lực chế ngự “tự bế ngũ
quan” càng nguy hại hơn,
trái lẽ đạo, chẳng hợp tự nhiên , xa Phật,
cận kề lũ quỷ, đen tối ngập tràn cưu
mang nan y tật bịnh - Mù đui câm điếc bại xụi
cùi phong “tâm trần bịnh” việc làm nầy tiêu
tan báu vật,
mất đạo từ đây. Người tu hành tâm pháp
biết dụng
“ngũ quan ấy, tất cả đều do đó làm nên,
bằng cách từ hồng Trần, quy hướng Như
Lai của mình. Từ vạn thù quy nhất bổn. Hữu
vi hữu tướng hồi hướng vô tướng vô
vi, gom góp phục quy gầy dựng đạo, tạo ra
ánh sáng kết thành những cầy cầu bắt từ “hồng
Trần liên lạc với chân Như”, theo
chiều
đối nghịch
lúc trước, để tích trữ của báu, tăng
thêm dồi dào, huệ lực phục hồi, phát huy
đúng
mức ngũ quan trở nên thông suốt thành “Năm vị
A LA HÁN”, giúp ích đắc lực cho Như Lai làm
tôi hiền
trò ngoan trong việc cứu độ giải khổ chúng
sinh nơi lòng, khác nào ngũ hổ tướng chống giặc
ngăn thù, giữ yên bờ cõi cho đấng Quân vương
ngự trị sơn hà xã tắc được thái bình an
lạc. Với tâm pháp vô vi người
tu điều
nhiếp được các giác quan - không còn lo sợ,
cấm
chế ngăn chận như trước nữa, nay được
thánh hóa từ phàm nên thánh.
Yêu tinh thành phật A LA HÁN kết
tụ quy nguyên “một khối sáng tinh anh” rạng rỡ “Như
Lai” tánh thể hiện toàn khắp, soi thông cả thảy,
thấy biết chân thật, nan y bệnh tật chẳng
còn. Đây là công phu trau luyện của người
chân tu,
thực hành tâm pháp,
hồi
quang phản chiếu vào nội tâm để tạo tác Bát
Nhã. Ngũ khí ẩn tàng trong ngũ tạng, ứng hiện
ra ngũ quan và ra ngoài là ngũ thức. Nhãn
thức mắt
thấy, nhĩ thức tai nghe, tỷ thức mũi ngửi
- Thiệt thức lưỡi nếm. Thân thức tiếp
xúc đụng chạm. Nay nhờ dùng mật pháp vô vi
“Quy và
Hiệp” mắt nhìn vào trong, tai nghe vào trong, lưỡi
nếm
vào trong, thở chơn tức gom nhóm làm một. Tứ tổ
quy gia “Nhứt khí tiên thiên” dưỡng nuôi
thánh thể, Như
Lai của mình. Tứ Thiên Vương dâng cho 4 bát
báu, Như
Lai hiệp lại thành một bát “đựng thức ăn”
không dùng tay nhận thức ăn ấy - lời nói quá
mầu
nhiệm cao siêu. Phàm nhơn không sao có được đành
để Như Lai của
mình đói khát cho đến kiệt quệ. Chính nhờ có Mật pháp
chơn truyền
tu hành đúng trúng chơn cơ là có tất cả-.
Bát nhã gia tăng - Ánh sáng
phục hồi Chuyển Thức Thành Trí không còn
là khó khăn,
tự người tu hành và chứng đắc rõ ràng. Ngũ thức, cái thấy biết của
năm giác quan, nay hóan cải thành ra Sở
Thành Tác Trí, cơ
sở tạo tác đắc thành trí huệ. Khi ta tu luyện,
chuyển pháp luân, đắc quả vô lậu, không
còn vướng
bận do sắc tướng bên ngoài
nữa. Tâm kinh
thể hiện, mắt thấy
cũng như không thấy, tai nghe cũng như không nghe, biết
cũng như không biết, giao hòa với chân như bản
thể, năm mối câu vào nhau hiệp với cội nguồn.
Kinh thường nói đến chỗ Ngũ khí triều ngươn,
phục hoàn tâm, gầy dựng tánh Phật chỉ rành
cho biết
đường lối vận hành máy linh “Không tức thị
sắc, sắc tức thị không” đi từ chân vô ứng
hiện ra diệu hữu. Không ra có, nếu ta “chấp có”
chỉ được nửa vòng pháp luân; nghịch hành
tâm
pháp phải biết thấy “có đó như không”
thêm nửa
vòng, đủ đầy tròn vòng đạo. Đạo ra pháp, Pháp trở về đạo,
luân hành chẳng bám trụ - Xoay cũng như không
xoay nên
nói không mà có, có mà
không, thông hiểu chỗ bí ẩn của
máy linh thiên cơ mật nhiệm. Khi đó người tu
không còn đắn đo nương pháp, rõ đạo sự
thật trước mắt lộ bày, Nhờ ngũ quan
thông suốt. Một điều quan trọng ở bên
trong, trụ cốt vận hành là “ý thức” nên hư
gì cũng
do nó cả. Chính đây làm chủ mọi hoạt động,
khi tiếp xúc với bên ngoài, nếu ứng dụng sai
tác
hại vô cùng. Việc làm do nó gây ra
là phá hoại tiêu tan mất
mát, còn dụng đúng lại tạo tác đắc
thành nhờ
bí pháp người tu trau luyện, cải tạo giáo
hóa và
thắng phục được Chúa yêu, toàn thể tiểu
yêu phải quy hàng. Từ phàm nên thánh,
chúng sanh thành Phật -
Vô minh sanh trí huệ. Bát nhã càng
ngày càng được tô bồi
thêm. Ngộ Không
dụng phép phân thân sanh ra không biết bao
nhiêu Tề Thiên Đại
Thánh, thế nên người tu khi điều nhiếp được
“Ý” khiến nó quy phục là nên việc cả
và dùng vi diệu
pháp có ứng dụng cũng như không ứng dụng,
chẳng rời trụ cốt chân như. Không chấp có,
chẳng chấp không “không có có không”
làm thành một
vòng đạo hằng xoay vận chuyển, chẳng có trước
chẳng có sau, một màu mật nhiệm. Thấy biết
cả thảy không còn vướng bận gọi là “Diệu
quan sát trí” Từ đó xuất nhập ứng dụng,
có ra có vào cái thấy biết ấy là “Truyền
tống
thức” Cũng nhờ thành quả
công phu tu
luyện đắc quả vô lậu,
không phô lộ, có xuất cũng như không xuất,
có nhập
cũng như không nhập, chẳng bị ngoại cảnh
chi phối, nghiêng chinh chi cả, không ảnh hưởng bởi
ngoại lực tha nhân cái dụng của nó đến chỗ
bình đẳng, trang bằng xuất sinh “Bình đẳng
tánh trí”. Cái thấy biết của chơn như tự
tánh hằng sáng hằng soi, hợp lẽ tự nhiên. Chính chỗ ra vào có xuất
có nhập,
cái kho chứa đựng tích lũy cái biết ấy là tàng
thức, phải thánh hóa hoàn toàn,
không còn một phần đen
tối nào cả, nghĩa là trong sáng thông suốt
chẳng bợn
nhơ, không vẩn đục, có chứa cũng như
không chứa, không chứa mà chứa, tất cả đúng
đạo
lý vô vi. Chính từ chỗ không không ấy
xuất sinh diện
hữu, thanh tịnh trí huệ, cảnh giới chân thật
lộ bày, thấy biết tất cả, đạt tới
thật trí của trí huệ, cái khối sáng
chân thuần
ấy minh chiếu tận tường soi thông cả thảy,
chẳng có vật thể nào ngăn che, toàn giác
toàn minh thể
hiện “Đại viên cảnh trí” Tiếp thông với
nguồn giác, liên lạc với nguồn sinh, hoàn cảnh
nào cũng giác tỉnh tinh minh, đi đứng nằm ngồi
gì cũng thiền đến chỗ thấy một rốt
ráo, pháp đạo hoàn nguyên, thể dụng
tương đồng,
ngoài trong như nhứt, càng hành càng
sáng, cái sáng đến tột
bực “Vô thượng trí giác” Ngọn đèn bất
tận, chiếu minh nơi nội giới tâm linh của
ta, tức thì hiểu, tức thì biết, trực thức,
trực nhận do “Trực giác tinh minh” tự ta sẵn có
pháp bửu hữu hiệu bên mình đemra ứng dụng bất
cứ lúc nào khi cần đến không còn vay mượn
bên
ngoài, trở thành vật bất ly thân “Tự hữu hằng
hữu” khác nào Nhiên đăng cổ Phật, trong tay
sẵn có xâu Định Hải Châu. Tràng hạt
bát nhã 108 hột,
nhứt bá bát huyền công, có quyền năng tột
độ,
oai linh đủ đầy chính đây là phương tiện
duy nhất “Bát nhã thoàn” đưa ta qua bờ giác
- Đại
trí huệ đăng bĩ ngạn. CHƯƠNG IX XXX PHẬT HAY THANH TỊNH
Ở NƠI MÌNH Người tu chơn, hành pháp nhận
thức
rõ ràng việc chính yếu cần phải làm để thực
hiện việc đầu tư quan trọng của đời
mình - tạo tác trí huệ không ngoài
bản thân ta, một tiểu
vũ trụ có đầy đủ tất cả. Ta phải có bổn phận trở về
nơi mình để tìm đạo, hiểu đạo, rồi
hành đạo và đắc đạo. Người tu phải
hăng hái, quyết tâm hành trau đến thành
công trọn vẹn
để khỏi phải phí uổng một kiếp nhân
sinh quí báu. Đường lối tu thân thiết thực
trở về nơi mình để tô bồi chỗ khuyết,
sữa chữa chỗ hư, giải trừ ô nhiễm để
có được cõi lòng thanh
sạch
thiện lương. Điều này Đức lục tổ
Huệ Năng đã hằng chỉ rõ, tìm đạo ngoài
lòng như cầu lông rùa sừng thỏ
không bao
giờ có. Đó chỉ là ảo
giác của lòng mê.
“ Bồ
đề chi hướng tầm mịch
Hà lao hướng ngoại
cầu
huyền” Ta cần phải tìm hiểu nơi mình,
bởi vì ta có hiểu nơi mình , biết nơi mình,
thấu
triệt tâm tư nguyện vọng của chính mình, để
rồi sữa chữa mới tu tiến được. Ta
có hiểu biết nơi mình, mới hiểu được
thế gian và vạn vật; còn bằng ta không hiểu biết
nơi mình, ta không hiểu biết gì ráo. Do
đó ta biết
một là biết tất cả, hiểu một là hiểu
tất cả,tất cả là ta, ta là tất
cả. Tất cả
là cái
đạo nơi ta, ta phải thực hành để đạt
đạo, phát triển thành sự sống và sự sáng,
tự
do ta đảm nhiệm và hoàn thành một cách vinh
quang. Đây là con đường sáng dẫn
đến
sự sống, chuá đã chỉ rõ: “ hãy vào
ngõ hẹp vì ngõ
rộng dãn đến sự hư mất, kẻ vào đó
thì nhiều, ta bảo các ngươi hãy vào
ngõ hẹp dẫn
đến sự sống đời đời” pháp ý tỏ
rõ đường vào tâm nội để tô bồi, tích
lũy
theo vô vi lý đạo - vạn thù qui thất bổn là
tâm
pháp thực hiện để làm chủ cái ta, ngự trị
bản tâm mình. Vì vậy người ta phải trở
về nội tâm, điều nhiếp các giác quan, qui hồi,
không còn vọng ngoại buông lung theo ngõ rộng
hồng trần
làm tiêu hao của báu. Nhờ tâm pháp hành trau,
ta đắc đạt
tâm kinh, trở về bản thể thanh tịnh của tự
tâm. Vì vậy khi nói đến tham thiền tịnh tọa,
người có tâm hữu tướng chấp
nhứt trụvật
cho
rằng tịnh là ngồi yên thinh thít, chẳng cử động
chi cả, cố giữ cho tâm thanh tịnh gọi là tịnh
hư vô; họ ngồi bất động theo tư thế
kiết già chấp vào chỗ ưng tịnh; khác nào
như
bàn ghế bất động, vô tri vô giác, chẳng
có thực
dụng, không sinh hoá chi cả. Trụ ở “vô ký
không” họ
hành không có kết quả, trong khi thân
xác hao mòn, suy nhược,
mang lấy bệnh tật vào thân, chân
yếu đi
đứng không vững; còn về mặt
tinh thần đi đến
chỗ khánh tận: thần hao, khí tán, tinh lậu mất hết
sức sống. Việc tọa thiền này các vị
hành
trau mong trấn áp cái tâm, gò bó
cái trí, không cho nó dấy động
để được thanh tịnh, nhưng không có đáp
ứng lòng mong muốn ấy,
trái lại tâm vẫn loạn động, thần trí theo
các cửa phóng ngoại tứ
tung, khiến họ đành bó tay bất lực, không
đủ sức điều
khiển. Lại có một số vị muốn tách khỏi
đời xa rời cõi tục tìm đến nơi thanh vắng
để nhập thất, nhập bá trong am cốc, tịnh
đường, lo thiền tâm, quán tưởng chỗ tịnh.
Họ hành thân ép xác trong thời gian ấn định
của
việc nhập thất, nhập bá. Việc làm này trái với tự
nhiên,
không hợp với lẽ đạo, ngược hẳn với
máy trời họ lại
càng đau khổ thêm; bởi
vì họ tự biết rõ không có kết quả nào
với đường
lối tu tịnh này. Thiên đàng đâu? Đạo quả
đâu ? Họ chẳng thấy
, trong khi hiện tại thân xác bị giam cầm chốn tịnh
thất thiền đường, nhất là mãn thời gian
tu tịnh, họ lại tiếp
giáp với đời vẫn còn lòng phàm tính
tục y như
trước, tâm trí u mê, phiền não, khiến họ đảo
điên không dứt. Một số vị thấy hành thiền
như thế này chẳng tịnh tâm định trí được
, nên tìm vào sách kinh
lưư
truyền để thực hiện việc thiền tâm bằng
đường lối “Quán thân bất tịnh” chú tâm
vào chỗ
động . Họ không rõ được chỗ
“Quán
thân bất tịnh”lại ứng dụng với lòng phàm để
đo lường ý thánh, làm sao kham chẳng hiểu gì hết.
Họ cứ chấp vào
chỗ động của phàm phu, khiến cho cả thân tâm
điên đảo, kích động liên hồi, vận dụng
nơi bụng đến nỗi
phải ói mữa, thật rất nguy hiểm cho việc
quán bất tịnh này, họ
ngán ngẩm khi nói
đến
việc xem kinh đại thừa để tìm chân pháp. Đây là đường lối tìm đạo
trong sách vở nên không bao giờ có được đạo. Những điều như trên cho ta thấy
việc tham thiền chấp vào chỗ tịnh hay động
điều nằm ở lưỡng biên tương đối,
không hợp lẽ đạo, trái vói tự
nhiên,nào đúng
với chỏn cỏ máy tạo nên không sanh hoá chi cả
.
“ Cô âm bất
sanh
Độc
dương bất trưởng” Đây là trường hợp các vị
tu bị vướng mắc ở tâm hưữ tướng
che lấp không cho vô tướng tánh bộc phát .Do
đó họ
không thể nào hiểu đuợc chỗ tối linh tối
diệu cuả thiên cỏ mật pháp. Nhất là họ chẳng có chân
truyền
dể khởi động máy linh, nên họ không thể nào
quan niệm nổi “quán bất động là như thế
nào ?Họ đành mò mẩm như người mù xem
voi,chỉ
biết một khiá cạnh của vấn đề ,chẳng rỏ
thấu cái toàn chu nguyên thể
,cỏ động tịnh của
thiên cỏ mật pháp chuyển xoay ,âm dương hiệp
nhứt, động tịnh giao hòa , pháp luân khơỉ
động,không
còn nằm yên một chỗ, phàm nhân không
thể nào tri thấu
bơỉ thiên cơ bất khả lậu. Ở điểm này có một thiện
trí thức hỏi tôi : Động cũng như không động
,tịnh cũng như không tịnh, ý nghiã ra làm
sao ? nhờ
thầy dạy rỏ? Người hỏi câu này tuy đến
trình độ học được chơn truyền pháp đạo
nhưng còn mù mờ chưa hiểu rỏ được sự
vận hành chơn cơ tạo hóa. sự luân chuyển của
máy trời không thay đổi sanh sanh hoá hoá.
Để giải
rõ điều nghi vấn nầy ta hãy nhìn thế gian quan
sát
cơ động tịnh của đất trời , ngày
qua đêm lại hết tối
rồi sáng, vạn vật sinh sôi nẫy nỡ, đẹp
đẹp xinh xinh thật là nhiệm mầu! Đây chính là vấn đề ta
cần
phải tìm hiểu để thấu rỏ chỗ mấu
chốt tối mật bí yếu rồi lần lần mở
khai hết nhờ vào cái dể thấy dể biết để
đo lường cái không thể thấy , không thể biết tức
là cái vô cùng vô tận , bất
lượng bất trí , không thể dùng ngôn từ diễn
tả đặng động và tịnh của trời đất
như thế nào ? Để lý giải cơ động tịnh
một cách thiết thực , ta hãy chú ý
trái đất đang
vận hành . Nó đang xoay quanh mặt trời mà
ta thấy
dường như không xoay , đứng yên một chỗ
rất vững vàng .Nếu ta thấy trái đất có xoay
, có động thì rõ ràng với gía tốc
đó sẽ bắn
tung chúng ta ra ngoài không gian, còn bằng
ngược lại trái đất này, đứng yên tịnh
một
chỗ nó sẽ rơi vào
vũ trụ bao la. Như vậy ta nhận thấy trái đất
có động có xoay mà
dường
như không xoay không động. Động mà tịnh, tịnh
mà động, phù hợp với tự nhiên không thể sai
lệch một chút nào cả, chậm hay mau cũng không được,
đúng độ và đồng bộ. Khi luân chuyễn như
thế, không trắc trở, chẳng chướng ngại,
thuận hợp với chơn
cơ tạo hoá, trong động có tịnh, trong tịnh có
động. Thêm một thí dụ để hiểu nữa
: nơi thân xác của con người, ai ai cũng rõ biết
cả, quả tim của ta đấy, bộ máy tuần
hoàn
vận hành
liên tục.Nếu ta nghe có động bình bịch trong
lòng
ngực một cách rõ ràng , làm ảnh hưởng đến
châu thân, ta cảm thấy khó chịu vô
cùng, trường hợp
này ta đã mắc phải bệnh tim. Ở tình trạng
tim đập bình thường ta cảm thấy
êm ru
không động đậy chi cả,
nhưng ta vẫn biết rằng tim mình có đập
hoạt
động của cơ quan tuần hoàn; bởi
nó không động thật sự, ngưng nghỉ hoàn toàn,
yên ở một vị trí, máu huyết không lưu
thông, tất
ta phải chết. Như vậy tim của ta có động
cũng như không động , không động mà động,
hợp với cơ tuần
hoàn nơi thân xác của ta đúng độ của
nó vận
hành, không có trắc
trở chi để
đem máu đến các bộ
phận tạo sự sống
cho con người. Theo dõi cơ động tịnh của
thế gian bên ngoài đến
cơ động tịnh nơi thân xác của
ta thấy
không sai khác, phù hợp
với quy luật tự nhiên
mà ta đã biết. Việc tu hành của con người phải
phù hợp với chơn cơ
tạo hoá gồm có động và tịnh
sẽ được
chỉ dẫn ở phẩm chơn truyền để
bồi dưỡng thân tâm với
đầy đủ ý nghĩa của chữ tu . “ Quán thân bất tịnh” là
“ chơn động” “ Quán thân bất động” là
“ chơn
tịnh” Chơn động là sự hoạt động
của thân xác này phù hợp với máy
linh, đúng độ
và đồng bộ để bồi dưỡng , tích
lũy sức
sống cho con người
. Việc làm này cũng là chuyễn pháp
luân, khởi động bộ máy trong
ta không còn yên một
chỗ. Tự mình ráp nối các bộ phận
nơi thân
xác đúng vị trí của
nó , ăn khớp với nhau , khởi động lên xuống
luân chuyễn , nhịp nhàng trong thời gian ấn định
của công phu. Đây cũng là việc nấu cơm trời
, nướng bánh phật, tạo ra thức ăn cho
Như Lai để cung cấp
phật thân của mình. Đông tác hành công
ở vào giai đoạn sơ cơ phải
dùng sức để
quay máy mới chạy, sau lâu
ngày tiến bộ
chỉ cần
bật “ công tắc” âm dương
hiệp máy tự động luân chuyễn. Trong lúc hành
công động
tác các giác quan quy hồi hướng nội, mắt
nhìn vào
trong , tai nghe vào trong, lưỡi nếm vào trong, mũi thở
chơn tức hấp hô đúng cách, không còn
phóng ngại
buông lung, công phu lâu qua một thời gian tâm
an trí định
chẳng để ý đến ngoại cảnh . Như vậy thân động - tâm tịnh.
Đến lúc thực hành chơn tịnh là tạo tác sự
yên tỉnh cho cơ thể theo tư thế nhất
định đúng vị
trí , giúp cho sự lưu
thông khí huyết phù hợp với công phu tu dưỡng
chân
thân, phục sinh thánh thể , để
trưởng dưởng tinh thần của ta. Khi thực
hành chơn tịnh nằm hay ngồi tùy
theo cấp
bậc đạo để dẫn lưu sinh khí đến
não bộ, tạo tác trí huệ, khối sáng trong ta
phát quang
rạng rỡ. “ Nước hồ phải quậy tưng
bừng” Tịnh yên lắng động
cặn
ngưng thanh phù. Người hành pháp tự chứng ngộ
chỗ thành đạt trau luyện
của mình, khi thân an tịnh
lóng nghe trong đầu óc tiếng re re như ve kêu,
đây
là lúc dương khí chuyễn hoá thần quang , mỡ
khai
não bộ, huệ tâm phát, trực
giác khai, giải bày tường tận những điều
thắc mắc, những cái không thể biết, không thể
đo lường được thị hiện một
cách rõ ràng . Nhờ có tuệ tính khởi sinh nghe được tiếng
nói vô thinh từ Đài
cao xuất
phát , chơn sư chỉ dạy
đủ điều , nhưng
thực ra chính ta nói với
ta đấy! tự ta dời phật thật ngự trị
nơi lòng, không cầu chẵng mong ta cùng Ngài
hiệp một. Ta nhận thấy lúc thân tịnh ,
Tâm động
để phát huy tinh thần, thần quang hiển lộ,
thanh tịnh sáng soi, thanh tịnh trí huệ. Một điều
đáng quan tâm khi hành công
luyện
pháp có người theo tư ý của mình chấp động
hay tịnh riêng rẽ sẽ
không thành công đắc quã gì cả :
Động
mà không tịnh Họ cố ra sức cực
thân gầy dựng lữa,
nấu cơm trời, nướng bánh phật, tạo
thức ăn
cho như
lai, nhưng họ không được ăn, nên phật
thân ốm đói, tinh thần lụn bại, thật tai hại
vô cùng.
Tịnh
mà không động Họ không nấu cơm trời,
nhưng họ lại đòi ăn, điềunày trái thực
tế, không hợp với tự nhiên. Chân thân thánh
thể bị hao mòn không được
cung cấp thức ăn. Họ chỉ chấp phần âm,
không có dương nên không sanh hoá.Họ
muốn đốt đèn
nhưng chẳng có lửa khiến cho nhà tâm u tối,
yêu
tinh ngự trị nơi lòng cũng
bởi tu mê hành muội. Đến đây ta nhận rõ công
phu tu
luyện gồm đủ: động và tịnh đúng
với máy
trời. Trong động có tịnh, trọng tịnh
có động. Động tịnh liên hoà mới có kết
quả. Khi ta hành pháp cho đến khi nào không
còn thấy động,
thấy tịnh làm hai, chỗ tương đối
tâm trở về với tuyệt
đối tánh, nhờ quán nhất, quy nhất, đắc
nhất mà thành đạo. Việc công phu tu hành
không phải một
sớm một chiều mà có được thành quả, nhưng
do nhiều năm công phu - Đây là cả một công
trình vĩ
đại, lắm khó khăn, nhiều gian khổ, đổ
mồ hôi, rơi nước mắt trùng trùng nạn tai thử
thách đến vớingười tu trên đường
tìm phật thỉnh kinh. Bởi thành công nào
không có khó khăn thì đâu
có rạng rỡ vinh quang. Con đường tu của ta đi là
thế ấy!
XXX DIỆU VI ĐẮC NGỘ CHƠN
TRUYỀN
ĐẠO Qua nhiều thời kỳ biến
cải, chân truyền không còn nguyên vẹn, con
người
làm sai lệch máy linh, chẳng thuận lẽ đạo,
khiến cho việc tu hành không còn kết quả nữa. Chẳng
những họ không có tô bồi, lại còn làm
cho hao hụt
- tu hành lại mất đạo, xa rời sự sống,
đánh mất linh quang, thế nên nhân sinh đắm
chìm
trong bể khổ, họ không còn phương cách nào
thoát
ra, cứ mãi mê trong vòng tứ khổ: danh, lợi,
tình, ràng
buộc - đó chính là khổn tiên thằng - sợi
dây buộc
trói ông Tiên vị Phật của mình. Nhất
là thời hạ
ngươn mạt pháp, mỗi việc mỗi khổ cho
nên chư Phật bảo rằng: cỏi đời là bể
khổ. Nhờ hồng ân của Tạo Hoá bố
ban, chân truyền được tái lập để cứu
vớt linh căn thoát khổ trở về cựu vị.
Chính đây là chìa khoá duy nhất mở
cửa thiên đường,
cũng là thang mây đưa khách tục hồi tiên cảnh. Đạo có một, pháp lại
không hai,
không dành riêng cho một ai, hay một tín
ngưỡng nào, nhưnng
lại là của chung cho mọi người, cũng như
bầu không khí tất cả sinh nhân được quyền
thở vậy. Ai có nhân duyên
phúc đức mới ngộ
chân truyền, pháp lành cứu cánh, giúp
cho con người tô bồi
thân tâm trọn vẹn. Người mang pháp đạo vô vi
là Đức Ngô Minh Chiêu, giáo chủ Cao
Đài của cơ
đạo kỳ 3. Vào thời hạ ngươn, nhân
tâm bất
nhất, chiến tranh tận diệt đưa nhân loại
đến chỗ cùng khổ, do đó cần phải có phương
tiện giải khổ ban vui cho đời, tạo dựng
một thời kỳ tốt đẹp sau nầy, gồm
những thánh thiện nhân hữu căn đa phúc. Ngài khai đạo ban truyền chơn
lý
của Cơ Đạo kỳ 3 cứu vớt sinh linh biết
đường lối tu hành phù hợp với thời đại
mới. Ta hãy tìm đạo lý biểu tượng nơi
Ngài Đức Ngô Minh Chiêu - Ngô: ngô
thân bất
độ hà thân độ. Cái thân này không
độ còn độ cái
thân nào nữa, đây là việc cần phải
làm, đường
lối chính yếu của người tu tâm pháp. Hãy trở
về với cái ta để tìm đạo, học đạo,
hành đạo và đắc đạo của giai đoạn
tự độ tự giác, làm chủ cái ta. Từ phàm
nên
thánh, chúng sanh thành Phật, biến cái giả
ngã phàm phu thành
chơn ngã quang minh. Đây là cả một cuộc trường
kỳ kháng chiến không mệt
mỏi để thắng giặc vô minh nơi lòng, chuyển
hoá mọi hắc ám khổ đau trở thành an vui
phúc huệ,
thật trọng đại vô cùng! - Minh: Đã được chỉ
rõ gồm có Nhật nguyệt kết hợp lại cũng
là âm dương giao hòa. Càn khôn hiệp
nhất, làm cho máy
thiên chuyển động. Điều này thật khó khăn,
nhân sinh khó mong thực hiện được để nối
liền âm dương không còn riêng rẽ cách
xa. Cũng chính
là nhịp cầu thông hiệp nối liền hữu vô, nước
lửa, tinh thần nơi ta. Khi có được cái chìa
khoá duy nhất kết âm dương, hiệp đặng đạo,
máy linh chuyển động là làm nên việc cả. - Chiêu: là gom
góp hồi hướng,
tích lũy, cũng là đường hướng tu hành,
không được phóng ngoại bông lung, làm
tiêu mất bảo
vật. Đây là công việc đầu tư thiết thực
về kinh tế bản thân, sức khoẻ và tinh thần
của con người. Tự mình làm, tự mình
hưởng, làm
nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm
không hưởng là lẽ đuơng nhiên. Người tu khi thọ nhận chân truyền
phải ra công nổ lực, hạ thủ công phu, gầy dựng
tích lũy, quý bửu của chính mình: Tinh
khí thần không
còn hao hụt, nhờ kết âm dương chuyển pháp
luân để quy hồi trở thành ngôi Tam Bảo, Phật
thân hiển lộ, vóc sáng tròn đầy. Khi thực
hiện
công phu gom góp, chiêu mộ những hạt cát
vàng rãi rác trong
châu thân hình thành “Kim thân bất
hoại” nên Ngài có pháp danh Minh
Chiếu. Tự chiếu tự minh cho chính
mình,
không còn vay mượn nơi ngoại lực tha nhân, có
đèn
ắt sáng, sáng là thiên đường, nhà
tâm rạng rỡ
với ngọn đèn trời. Vô bồng tháp có Xá
lợi
viên minh chói chan rạng rỡ. Tự soi sáng cho
chính mình, một
cá thể chưa đủ, cần phải soi sáng cho mọi
người mới thực dụng của giai đoạn
giác tha, độ tha. Cuộc hoằng dương chánh pháp cứu
độ kỳ 3 để chiếu minh thiên hạ đem
an vui đến cho đời mới hoàn thành sứ mạng. A. Phái Chiếu
Minh
Thành Hình. - Chiếu: ứng
dụng một cách vi diệu sáng suốt để chuyển
pháp luân đúng theo đường lối vô vi,
có hoằng
pháp cũng như không có hoằng pháp, có
độ đời
như không có độ đời, nhưng lại độ
đời hơn bao giờ hết, chuyển hoá nguy thành
an, bỉ thành thới, loạn thành trị, mê thành
giác, chúng
sanh thành phật, tôn giáo trở về với Đại Đạo,
tam giáo quy nguyên, Phật Thánh Tiên
hợp nhất, đem
đến cõi đời an lạc sau này. Gồm những
thánh thiện nhơn hữu căn đa phúc. Muốn được như thế mọi
sinh nhân phải thực hiện trau sửa cho phù hợp với
thời đại mới, về cả thân và tâm, sức
khoẻ và tinh thần mới sống vui và sống khoẻ,
tận hưởng những gì tạo hoá đã ban cho họ
trên thế gian này. Đây là con đường sáng dẫn
đến
chân hạnh phúc, con người cần phải có một
thân thể khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt mới
thực hiện đời sống an vui. Với đường lối cứu khổ
ban vui của cơ Đạo Kỳ 3 phổ hoá tận độ,
chân truyền không còn che giấu bí mật nữa,
cần phải
được truyền bá rộng rãi cho nhân sinh tiếp nhận
để tu thân. Họ tự tu, tự độ, tự
ngộ, tự tri, tự thành phật đạo để
tự giải thoát lấy. Phát khỏi nguồn sáng, triển
khai đạo
pháp cho nhân sinh tiếp nhận chân truyền, các
vị hướng
dẫn, Giáo Sư tâm pháp phải có tình
thương bao rộng,
như không gian bao trùm tinh tú, như đại dương
chứa chỗ năm châu và ứng dụng vi diệu - dạy
người mà người không biết, dẫn dắt họ
vào đường lối tu thân mà họ không hay, mới
đảm
đương việc truyền pháp được. Như vậy chân truyền pháp đạo
chỉ có một, tâm ấn bất di, không sai không
khác, sinh
nhân hữu phước duyên thọ nhận chân truyền phải
hết tâm cung kỉnh hành trau. Vì đây là
đường lối
duy nhất tạo tác ánh sáng, khởi sanh trí
huệ, phục
hưng kinh tế bản thân sức khoẻ và tinh thần.
Thật là một bảo vật vô giá! Muốn tiếp nhận chân truyền,
sinh nhân phải hội đủ điều kiện, phương
tiện sẵn có để bắt tay vào việc hành trau.
Chơn truyền có 3 cấp, tuy một mà 3, tuy ba mà một,
tuỳ theo khả năng căn duyên của từng người
để chọn lựa mức độ hành trau. Thấp
hoặc cao rồi dần dần thăng tiến lên nữa. Người thực hiện phương
pháp bồi dưỡng cấp 1 phải hội đủ điều
kiện: - Dùng đạm thực vật 10 ngày
trong một tháng - Được sinh hoạt vợ chồng 2. Bồi dưỡng cấp 2 Người
thực hiện phương pháp bồi dưỡng cấp
2 phải hội đủ điều kiện: - Dùng thường xuyên toàn
thức ăn
đạm thực vật - Được sinh hoạt vợ chồng 3. Bồi dưỡng cấp 3 Người thực hiện phương
pháp bồi dưỡng cấp 3 phải hội đủ điều
kiện: - Dùng thường xuyên thức ăn đạm
thực vật - Không được sinh hoạt vợ
chồng “nhiên liệu” này được dùng trong việc đầu
tư trí huệ, tạo tác ánh sáng đi đến chỗ
viên thuần. Con người ai cũng vậy, gồm
có một “thân xác” và một cái
trí theo quan điểm Đông
Phương, đó là một bộ máy gồm “nhị thể
là xác” và “hồn” ta phải biết hữu dụng nó
vào mục
đích cao cả đầu tư vào phát triển bản
thân “sức khoẻ và tinh thần” mới có lợi, bằng
không ngày tháng trôi mau thân thể
tiêu hao, tinh thần kiệt
quệ sẽ mất tất cả, kho báu linh chẳng còn
do mình vô minh phá hoại. Thân ta gồm Ngũ quan và tay
chân nguyên vẹn,
đầy đủ yếu tố vận hành là một bộ
máy hoàn hão. Một số người không may mắn bị
thiếu sót một vài bộ phận như mắt kém, mũi
hư, tai điếc, cụt tay hoặc cụt chân hay mang
tật nguyền từ nhỏ quyết chí hành trau vẫn
có kết quả nhất định, tuy không hoàn mỹ lắm
nhưng có còn hơn không. Vì vậy ta phải nương vào phương
tiện sẵn có nơi mình để khởi động
cái máy đang nằm yên một chỗ. Thêm vào
đó nhiên liệu
cung cấp rất cần thiết, tuỳ theo cấp bậc
hành trau từ thấp đến cao, đạm thực vật
nhẹ nhàng tinh ba “máy” chạy điều hòa mau,
máy tốt
cần có nhiên liệu thật tốt là lẽ đương
nhiên. Vì vậy người thực hành sẽ
đạt kết qủa theo yêu cầu ý nguyện của
mình. Phần kế tiếp là “tinh thần” phải không
điên
loạn mới tiếp thu được sự chỉ dẫn,
để thực hiện phương pháp “bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần”. Tất cả hai phương tiện
trên mặc dù nó có tiêu hao và
yếu chăng nữa sau khi thực
hiện việc trau sửa sẽ được hồi phục
trở lại, lâu hay mau là tùy theo sự gia công
tu sửa và
sự trì chí của mình ít hay nhiều. B. Phương Tiện Phụ
Trợ Thực
Hành: 1/ Một cái
áo choàng màu trắng, tượng trưng cho sự thanh bạch
gồm 4m vải nối với nhau thành hình vuông, ở ngay
chính giữa xẽ chử thập (+) để choàng vào cổ,
công dụng của cái áo choàng này
là giữ hơi ấm, ngăn
không cho gió xâm nhập vào khi hành
công vận khí, mồ hôi tiết
ra lỗ chân lông rất nhiều. Ngoài ra cái
áo choàng này dể
cử động thoải mái, không cho ai bên ngoài
thấy động
tác trong khi thực hành cơ động tịnh. 2/ Một tấm
nệm nhỏ 5 tấc vuông để ngồi cho êm bàn toạ
và giữ hơi ấm ở phía dưới hạ chi, khi vận
hành khỏi bị trở ngại, người thực hành
cũng cảm thấy dễ chịu hơn. 3/ Một cây
đèn nhỏ, khi thực hành ta vặn ngọn đèn hơi
xuống, để cho vừa tầm mắt, chính là ta mượn
đốm lửa này để “gom thần” “quy hướng
nội tâm” mượn giả hành chơn “chơn hoả” tạo
ra hơi ấm đợm nhuần. 4/ Một lư
hương; khi hành công vận khí nên đốt
lên một
nén hương để cho mùi thơm phảng phất gom
thần an trụ nơi đỉnh đầu, không còn
phóng ngoại buông lung nữa. 5/ Một đồng
hồ để biết thời giờ khi vận hành khởi
động “máy linh” phải đúng giờ ấn định,
không được chểnh mãng giờ giấc, hoặc bỏ
sót, bởi thời gian là thước đo kiên trì,
chịu
đựng để rèn tâm luyện trí, thân tâm
quen dần,
sau đó sẽ tự động đúng thời gian ấn
định. 6/ Một cái
ghế: người hành trau tốt nhất nên ngồi trên
ghế cho vững vàng. động tác thoải mái không
đụng
chạm vật xung quanh, như vậy tâm không bị chi phối,
chân tay cử động lên xuống “ra vào” một cách
nhịp
nhàng đồng bộ với nhau. Những phương
tiện trên đây ít tốn kém, người thực
hành có đủ
để thực hiện đúng phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần mới đạt kết quả
khả quan. C.
Thời Điểm Thực Hành: Ta phải dành sẵn cho mình
thời gian nghỉ ngơi trong một ngày và phải biết
lợi dụng để bồi dưỡng lại cái hao
hụt năng lượng do hoạt động gây ra, nhờ
dưỡng khí nuôi các tế bào đầy đủ sức
sống và thải trược chất ra ngoài. Khi sức khoẻ phục hồi, tinh thần
thư thái, con người cảm thấy thoải mái mới
đạt hiệu năng lao động cao. Thời gian ấn định tập luyện
tuỳ theo cấp đạo: trong
khoảng - Sáng từ : 4 giờ đến 6 giờ - Trưa từ : 11 giờ đến 13 giờ -
Chiều từ : 17 giờ đến 19 giờ - Tối từ : 23 giờ đến 1 giờ Đây là giờ nghỉ ngơi nên
mọi
người thực hành phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ không gặp trở ngại cho công việc
làm hằng ngày. Với quyết tâm cao để phục vụ
lợi ích cho bản thân về sức khoẻ và tinh thần,
ta cần phải cố tâm thực hành, mới ban đầu
phải giữ cho đúng giờ ấn định, qua một
thời gian trở thành thói quen tự động tới giờ
ta biết thực hành một cách mau lẹ đúng đắn.
Thực ra lúc đó “máy linh” của ta khởi động,
ta phải hành công để đáp ứng sự đòi hỏibồi
dưỡng nhiên liệu dưỡng khí, là thức ăn
chính yếu cũng giống như con trẻ khát sữa đòi
ăn.Vì vậy người thực hành cung cấp đầy
đủ được sự thoải mái và sảng
khoái. Khi có một vài trường hợp bỏ sót, ta
cảm
thấy bứt rứt khó chịu vô cùng. Thời gian lâu hay mau tùy theo
cấp bậc
cao hay thấp của người thực hành. D. Động Tác Thực Hành : Vào đúng thời điểm
ấn định trong ngày, ta phải mang áo choàng thực
hành trau luyện, phải ngồi thẳng người trên
ghế có nệm và tâm giữ thanh
tịnh đoạn khỏi
sự ráp nối các bộ
phận cho ăn khớp với nhau, đúng vị trí không
sai lệch, từ chân tay đến đầu, dưới
lên trên, nghịch chuyển về
nguồn. 1/ Động
tác chân: Chân phải
thuộc âm ta kéo vào cách bụng 5 phân,
chân trái thuộc dương
đặt trên chân phải ở vùng mắt cá đúng
vị
trí khu cảm giác kích thích bộ phận sinh
dục theo hình
chử W. Động tác ở chân theo theo phương pháp bồi
dưỡng này có tác dụng “phục tinh” . Động
tác
phục tinh khác hẳn các động tác nhơn dục
làm
hao tinh, rơi rớt ra ngoài. Khi tinh bị hao hụt chỉ
cần hành công tinh lực phục hồi. Đây là động
tác ở hạ chi để luyện tinh. 2/ Động
tác ở tay: Kế
tiếp đến hai tay, bàn tay
trái (thuộc dương) ngón cái ấn vào
phía dướicùng
của ngón áp út làm thành hình
vòng tròn. Đoạn ngón cái của
bàn tay phải để vào vòng tròn đó như
một trụ
cốt có thể xoay được, những ngón của
bàn tay phải nắm gọn những ngón của bàn tay
trái
còn lại. Thực hiện
“giao hòa ngũ khí” hiệp nhất âm dương gọi là
“kiết
qủa”. Đoạn các gu của bàn tay trái để vào
chấn
thủy giữ cố định, không được áp
sát cũng không được đưa ra ngoài, xong rồi
nhịp động tác đôi tay “ra vô” để luyện
khí, ngũ khí ra vào xuất nhập đồng bộ, hấp
hô đúng cách khác hẳn với cái thở
bằng miệng
mũi bình thường. Đường
hơi từ dưới rún rút lên “hấp” từ dưới
bao tử đưa lên cuống họng âm vang nghe “rè
rè” như
tiếng ngáy, hô nuốt hơi tưởng như xuống
bao tử sao cho tròn vòng đều đặn, hết hơi
này đến hơi khác một cách thong thả trong thời
gian động tác. Với khoa học ngày nay có thể
áp dụng
cho việc dạy này, nhờ máy ghi tiếng thấy hình
cùng một lúc, khi thực hành đạt “đường hơi
hấp hô” kết qủa. Chính đó là cái
chìa khoá nối liền
tinh thần, chiếc cầu thông hiệp “kết âm dương”
tóm thâu về một mối. Đây còn
là “thức
ăn” chủ yếu bồi dưỡng sức khỏe và
tinh thần. Dưỡng khí phải được huân chưng
hâm nóng đúng cách để cung cấp mới
tiêu hoá dễ
dàng, không nên hấp tấp vội vàng hơi chưa
nóng như
cơm chưa chín ăn vào sẽ no hơi sình bụng
không
tiêu. 3. Đầu: Đến phần trên mặt người
thực hành ngậm miệng lại, lưỡi hơi cong
lên trên vòm họng, cắn chặt hai hàm răng lại,
lần
lượt đến hai mắt không được mở
rộng, cũng không được nhắm lại, khép mắt
nữa hở nữa kín, hơi sụp rèm, tưởng ngọn
“đèn” xuống phái dưới rốn rồi đem ánh
sáng soi rọi bên trong. Giờ đây tất cả mấu chốt
của “cái máy” đã được ráp nối đúng
nơi
đúng chỗ, bắt đầu khởi động hai
chân nhịp đều lên xuống, kích thích khu cảm
giác tạo
tác sinh tinh, tinh lực dồi dào, sức sống gia tăng,
chất nước lạnh lẽo trước kia, do tà
tinh giao cảm, nay đã được huân chưng ấm
áp, trong nước có sức nóng (thủy hỏa ký tế). Người ốm yếu trước đây
vì mê muội phung phí của báu, nay đến
lúc kiệt
tinh, lão nhược, nhờ phương pháp bồi dưỡng
này luyện tập phục hồi trở lại sức
khoẻ tiến tăng “phản lão hoàn đồng” dương
tinh phát khởi, nguồn sống hồi sinh. Một điều
đáng chú ý là nhịp động của người lớn
tuổi phải phù hợp với sức lực của mình,
không được thái quá hoặc bất cập, có như
thế mới cảm thấy sảng khoái, thoải mái được. Còn trẻ còn nhiên liệu
nhiều hơn,
cần phải có động tác mạnh, đúng độ
nóng nước bốc hơi bay lên, tự động biến
hoá khinh thanh thượng đỉnh nghịch chuyển về
nguồn. Chính “nhịp động” hạ chi đều hoà
tinh này, thiếu thì được phục hồi, dư tự
biến hoá, không hao chẳng hụt tràn đầy nhựa
sống khiến con người cảm thấy lâng lâng hưng
phấn, yêu đời hơn. Hai tay ở vị trí ấn định,
động tác ra vô, hấp hô đúng cách, xuất
nhập đồng
bộ với nhau. Ngũ khí giao hoà lưu thông khắp
châu
thân đến các bộ phận nuôi dưỡng các tế
bào, kinh mạch khai mở không còn bế tắc ngăn trệ
nữa. Chính nhờ khí lực dồi dào, sức khoẻ
hàm dưỡng trong người làm cho các bộ phận
trong châu thân hoạt động mạnh mẽ, khoẻ khoắn
chịu đựng dẻo dai. Nhờ có sự cung cấp đầy
đủ dưỡng khí, máu đỏ gia tăng, sắc
mặt hồng hào, da thịt tươi mát. Đối với
não bộ, khí về óc sinh minh, khởi sinh trí
tuệ, người
thực hành không còn bị bứt rứt, nhức đầu
vì thiếu dưỡng khí. Đến bộ phận đầu não,
trung tâm điều khiển mọi hoạt động
trong châu thân, hành công “gom thần” rất quan
trọng không thể
thờ ơ hoặc chễnh mãng, bởi đây là sự việc
chủ yếu để thắp sáng ngọn đèn tinh thần
của ta. Người thực hành phải khéo léo và
cẩn
thận giống như người đốt đèn “ai da”
khi bơm dầu đúng mức qui định rồi, ta
hãy nhẹ tay mở khoá để hơi dầu bay lên gặp
lửa đốt đỏ man-xông không còn đen nữa,
chừng đó ngọn đèn bừng sáng. Trong đầu
ta cũng vậy, phải giữ cho an tịnh, không có một
niệm đen tối, các giác quan hướng nội, soi rọi
vào trong để “gom thần” tạo lửa điện, mắt
nhìn vào trong, tai nghe vào trong, lưởi nếm
vào trong, bốn
giác quan tiếp nhận dưỡng khí, thần khí giao
hoà,
âm dương hiệp hội, đèn lòng bừng sáng, thần
quang tỏ rạng, trí lực dồi dào, huệ tâm
phát, trực
giác khai, cái sáng càng ngày
càng được bồi tô thêm mãi
phát huy đến cao độ, soi thông cả thảy, thấy
rõ chân thật. Trong phương pháp bồi dưỡng
sức khoẻ và tinh thần này vận hành các bộ
phận
phân ra ba giai đoạn “luyện tinh, luyện khí, luyện
thần”, nhưng xảy ra cùng một lúc đúng bộ và
đồng
bộ không sớm cũng không muộn mới hữu dụng. Trên đây là các
động tác của các
bộ phận thân thể giống như “cái máy” đang vận
hành. Mỗi phần đều quan trọng không thể thiếu
được, lên xuống đều hoà ăn khớp với
nhau, nhiên liệu đầy đủ thì “máy chạy” thoải
mái không trở ngại chi cả, sẽ khởi ra diệu
dụng thật không ngờ. 4. Động tác xoa tán bụng: Sau khi hành công động
tác “phục
tinh, vận khí” “gom thần” khoản 15 phút (hiệp 1) ta vẫn
ở tư thế củ rồi lấy tay phải ra đặt
ở bụng dưới, phiá bên trái, xoa theo chiều kim đồng
hồ 36 vòng, lấy cái rún làm trung
tâm, vòng cuối cùng ngưng
ở phiá dưới phiá bên
phải,
từ đấy xoa ngược
chiều kim đồng hồ 24 vòng, vòng cuối ngưng ở
vị trí đầu tiên nơi bụng dưới bên trái. 5. Động tác xoa vuốt mặt. Xong rồi đến động tác xoa
vuốt mặt, cái mặt phân ra làm 3 phần: ngang miệng,
ngang mũi, ngang mắt. Ta bắt đầu xoa từ dưới
lên trên, hai bàn tay chà thật nóng,
vuốt 2 bên miệng 6 cái,
sau đó chà thật nóng lại áp hai bên
mũi vuốt hai
bên 6 cái, sau cùng chà thật nóng
áp vào mắt vuốt hai bên
trán 6 cái, xong để chân trái gác
lên chân phải, tay trái trên
tay phải nghỉ 2 phút. E. Giai Đoạn An Tịnh Để Trưởng
Dưỡng Tinh Thần Giai đoạn này gồm 3 cấp tư
thế: Ta nằm nghiêng về phiá tay phải,
chân trái cong lên, để trên chân phải
ngay vùng mắt cá,
ngón tay cái trái ấn ấn vào ngón tay
út, áp vào bàn tay phải,
đoạn áp sát vào vành tai bên phải,
mắt lim dim hướng
về ánh đèn để gom thần 5 phút (cấp 1) Động
tác 2 hiệp tán bụng và mặt, an tịnh trưởng dưỡng
tinh thần 10 phút là hoàn tất
thời gian
trau luyện của phương pháp bồi
dưỡng cấp 2. Đối với cấp 3 thời gian
trau luyện lâu hơn sẽ do Giáo sư tâm pháp
hướng
dẫn sau. *** Người thực hành phương pháp
bồi dưỡng sức khoẻ và tinh thần, trải
qua một thời gian trau luyện sẽ thấy rõ sự
thay đổi nơi mình, từ thể xác đến tinh
thần, khác hẳn trước kia. Với lối sống
cũ, các năng lực ở bên trong cơ thể một
kho tàng báu vật, chưa biết tận dụng đúng mức,
nay phải nhờ đến và thực hiện việc “đầu
tư” thêm năng lực bản thân để sức khoẻ
và tinh thần gia tăng. Ở vào giai đoạn đầu, trau
luyện pháp động tác còn vụng về ngượng
nghịu, tay chân không ở vị trí ấn định, ít ăn
khớp với nhau, rời ra tuột xuống, quên cái này lại
nhớ cái kia, không đồng nhất. Người thực
hành phải hết sức kiên trì chịu đựng vất
vả và để khắc phục những nhược điểm
trên, cơ thể bị bãi hoải, đau nhức từng
thớ thịt, gân cốt rêm hết. Họ cảm thấy
dường như chịu đựng không nỗi. Vạn
sự khởi đầu nan, thật lắm công phu, nhiều
gian khổ, nhưng vẫn phải cố gắng vượt
qua mọi khó khăn của giai đoạn ban đầu.
Rồi một thời gian trôi qua ta thực hành chu đáo,
đúng
theo phương pháp chỉ dẫn, tự ta thấy rõ sự
thăng tiến, cơ thể quen dần, chân tay mềm mại,
gân cốt dẽo dai không còn cứng đơ như trước
nữa, các bộ phận chân và tay ráp nối
đúng vị
trí ăn khớp với nhau, động tác nhuần nhuyễn
lên xuống, ra vô đúng độ và đồng bộ, vận
chuyển đều hoà, khỏi cần quan tâm để ý
tới nữa, tự động vận hành giống như
các bộ phận của chiếc máy đang hoạt động
trơn tru. Các động tác bên
ngoài tuy khó nhưng dễ
học, nhìn thấy ta có thể tập dợt một thời
gian sẽ trở nên thuần thục, không còn là điều
khó khăn nữa. Bởi “hữu vi hữu tác” dễ thấy
dễ biết nên dễ thực hiện. Nhưng có một
vấn đề tối ư quan trọng là đường
hấp hô, hơi thở này thuộc vô vi, vô ảnh
không thể
sờ mó, chẳng có nơi sách vở, nhờ đến chỉ
dẫn của thầy mới thông suốt. Lúc đầu ta cảm thấy khó khăn
không thể thực hành đường hơi như thế
nào cho đúng, không tìm ra mối, hơi thở chưa
thông,
tức ngực, ngặt mình, khô cổ họng. Nhưng với
sự kiên trì luyện tập bền tâm thực hành đúng
y như phuơng pháp khí huyết
sẽ lưu thông kinh mạch khai mở, đường hơi
không còn bế tắc như trước nữa, ta có thể
thực hiện một cách dễ dàng và cảm thấy thoải
mái, mỗi thời tập luyện đều gặt hái kết
quả khả quan. Đây chính là kinh nghiệm quý
báu với
biết bao công trình gian khổ tập luyện nghiên cứu
mới đúc kết nên. Người thực hành lâu, mỗi
khi tập luyện rất thích thú và sảng khoái
lạ thường.
Một đôi khi đến giờ hành công vận khí
không
thể thực hiện được, họ cảm thấy
dường như thiếu sót một cái gì, trong người
bứt rứt, bực bội, ngặt mình uể oải.
Thật ra ngay từ thời điểm này, mỗi tế
bào trong châu thân cần một lượng dưỡng khí
nhất định, do thiếu lại không cung cấp kịp
thời nên mới có tình trạng trên. Qua một thời
gian tập luyện chu đáo, siêng năng bồi dưỡng
cơ thể thay đổi tinh lực dồi dào, khí lực
mạnh mẽ, sức khoẻ gia tăng, lên cân, da thịt
hồng hào, mịn màng tươi mát, trong người
tràn đầy
nhựa sông ta cảm thấy hoan lạc yêu đời. Thể
xác thay đổi tốt đẹp, tinh thần từ đó
cũng thay đổi. Tinh thần minh mẫn trong một cơ
thể cường tráng. Do “bảo tinh” đúng phương pháp
ta
biến nhiên liệu này, thăng thượng thành ánh
sáng,
thần tinh giao hoà, phát huy tỏ rạng. Ngọn đèn
tinh thần soi tỏ nhà tâm, cải tạo giáo hoá
một Xã
Hội băng hoại nơi lòng thành ra thiện lương
trong lành, vơi hết ác tâm, từ tâm chất chứa,
chuyển
mê thành giác, lòng trong tánh
sáng, thần quang rực rỡ, không
còn mờ lu u tối nữa. Tinh thần vững mạnh,
thần lực sung thiệm, ta cảm thấy an nhiên điềm
đạm, vui vẽ lạ thường không còn bứt rứt,
bực bội não phiền nơi tâm, có thể coi đây
là
liều thuốc “giải sầu” đem đến cỏi
lòng hưng phấn yêu đời. Tinh thần cởi mở
thể hiện tình thương yêu mọi người một
cách chân thật. Đèn tinh thần minh chiếu đạt
tới thật trí của trí tuệ, thấy biết tất
cả và có tất cả. Đây là sự sống và sự
sáng nơi ta, ta sẵn có trí tuệ ứng dụng bất
cứ lúc nào, khi ta cần đến, thể dụng tương
đồng, ngoài trong như nhất, có đèn ắt sáng,
không đèn ắt tối, sáng là an vui, tối
là đau khổ. Có được như vậy là nhờ
ngọn đèn tinh thần của ta bừng sáng, phát huy đến
cao độ và được bồi dưỡng đúng
mức, chiếu minh cho mình và cho mọi người. Tự
hành tự đạt, gieo nhân đến hồi gặt qủa,
tự ta ra công chuyển động chiếc máy, tạo tác
trí tuệ, giúp ích cho nhân loại. Con đường sáng dẫn mọi người
đến hạnh phúc chân thật, thành qủa này tưởng
thưởng cho những ai hữu phúc, gắng công thực
hiện, tự trau sữa mình thành “con người tân tiến,
trí tuệ” của thời đại bước vào kỷ
nguyên mới gồm cả văn minh vật chất và tinh
thần. Muốn có được thành quả như
trên, người thực hành phải nhất tâm tin tưởng
và hành đúng phương pháp đã chỉ dẫn,
nhất
là không canh cải, hành sai trái
nguyên tắc sẽ gây trở ngại. Lợi
ích của phương pháp là bồi dưỡng sức khoẻ
và tinh thần rất thiết thực cho con người.
Nhất là hiện nay, môi trường bị ô nhiễm nặng,
gây nên nhiều bệnh tật mà các loại thuốc chữa
trị còn hạn chế. Phương pháp bồi dưỡng
này còn góp phần giải
trừ độc chất do thức ăn
uống trong cơ thể chúng ta, làm cơ thể thích ứng
với môi trường sống, tạo ra sức đề
kháng, chống lại bệnh tật, nhờ có sức khoẻ
dồi dào, chịu đựng dẻo dai làm việc với
năng suất lao động cao. Người làm việc nặng
nhọc chỉ cần vận hành trong một thời gian
nhất định sức khoẻ hồi phục lại
ngay, các nhà doanh thương chính trị, kinh tế gia,
trước
hằng khối công việc, bận tâm rối trí, nhờ
có phương pháp bồi dưỡng này họ giải quyết
mọi vấn đề một cách lẹ làng sáng suốt
hữu hiệu. Với các bậc cha mẹ trẻ thực
hành phương pháp bồi dưỡng (cấp I và II) sức
khoẻ dồi dào hơn, tinh thần minh mẫn, tâm trí bao
rộng, sẽ tạo ra những người con ưu tú đầy
thông minh, tiếp thu mọi sáng kiến mới dễ dàng
phù hợp với trào lưu tiến bộ khoa học. Con người tân tiến đầy đủ
trí tuệ mới xây dựng xã hội tốt đẹp
sau na XXX PHÁP NHIỆM
THOÁT TRẦN
TỰ TÁNH MINH Thế nhân thường quan
niệm đời là khổ, thế gian là chỗ bùn nhơ,
làm lấm lem con người, tâm trí bị nhiễm trước
ô trược, mất đi cái tinh anh trinh bạch, không
còn
thuần lương thiện mỹ, do đó họ sợ
cảnh trần này lắm. Họ oán ghét cõi đời cho
là bể
khổ, chỗ ngục tù, lửa lò thiêu đốt, khiến
họ oằn oại đau thương “ Khổ hải vạn trùng ba” từ lượn
sóng này đến lượn sóng khác dồn dập, măc
tình thế nhân rên la thảm thiết, một số người
không chịu đựng nổi phải hủy bỏ sự
sống để lìa đời Họ trách cứ đấng hóa công
cho rằng
ông quá độc ác. Bởi ông có đủ quyền
năng
tạo ra con người, tại sao ông lại không thể
ban cho họ một đời sống an vui ? Thế nhân quá đau khổ vì
hấp lực
tình, tiền, danh, lợi, lôi cuốn khiến họ lao vào
dòng đời trôi nổi trên bể ái nguồn ân,
họ
không có mục tiêu, chẳng có định hướng cho
cuộc
sống, họ đành phó mặc cho định mệnh rủi
may đưa đẩy, nhất là thời hạ ngươn
mạt pháp này, đạo đức suy vi, nhân tâm bất
nhất,
con người phải đua chen theo vật chất, đánh
mất linh quang, càng văn minh lại càng đau khổ. Họ
dùng thế gian chi pháp đối xử với nhau vay trả,
trả vay liền liền - nhân tranh đấu họ nhận
lãnh quả đấu tranh, tạo ra oan nghiệp, hận
thù chồng chất, Văn minh vật chất,chiến
tranh tận diệt Họ giết hại lẫn nhau đưa
nhân loại đến chỗ diệt vong, trong khi đó họ
lại bất lực trước hoàn cảnh, chẳng còn
tin vào khả năng sẳn có nơi mình, nên họ chỉ
ao ước nguyện cầu: vào Trời Phật hoặc
ngoại lực tha nhân đến giải trừ khổ nạn
do họ gây ra. Những việc làm này không
thiết thực,
chẳng đem đến kết quả chi, do đó họ
càng đau khổ thêm. Người giác ngộ hiểu rõ chốn
trần gian là bể khổ, chỗ tốt nhất, môi trường
thuận lợi giúp cho họ phát triển tâm linh, thực
hành chơn đạo. Họ chấp nhận cõi đời, chịu
đựng thử thách, đương đầu gian nguy. Họ coi đây là nguồn cung cấp
dưỡng
nuôi, vô phân tưới nước không thể thiếu được,
để giúp cho cây Bồ đề mau lớn cội, đâm
nhành, đơm hoa, kết quả, đắc thành pháp đạo,
tinh thần sáng suốt, trí lực dồi dào.
Cội phiền não trổ bông cực lạc, Nguồn thất tình bồ tát hiện
thân Một điều nhân sinh thắc mắc
hiện nay, làm thế nào để giải khổ đây ? Ta đi ngay vào nguồn cội của
cái khổ để giải quyết vấn đề
thông suốt, minh bạch, rồi tìm ra phương cách chữa
trị hữu hiệu. Đây là liều thuốc giải khổ
cho nhân loại, đem an vui đến cho đời, con người
tự gây đau khổ nên chỉ có con người tự
giải khổ đấy thôi! Tự ta gây khổ, tự ta giải khổ
là nhiệm vụ thiết thực nhất trong sứ mạng
tự cứu khổ ban vui cho chính mình. Nguồn gốc của đau khổ là
tham vọng. Con người đối diện với đời,
trước hấp lực của muôn ngàn cảnh sắc,
họ động lòng ham muốn dẫn tới hành động
để thỏa mãn tham vọng, khiến tâm khí phát
khởi,
biển lòng dấy động, nội tâm không còn
yên tịnh
nữa, dù họ cố sức trấn áp cách mấy cũng
không có hiệu quả. Nếu muốn được trạng
thái bình thản, như nhiên, ta phải biết phép
ngừng
gió, uống định phong đơn vào, sóng lặn ngay,
biển lòng trang bằng phẳng lặng trở về bản
thể thanh tịnh của tự tâm. Nhân sinh phải cần nhờ đến
thần phương cứu khổ : “Phương pháp bồi dưỡng sức khỏe và tinh thần” Với phương pháp này con người
tự tạo cho mình một thân thể khỏe mạnh, sức
sống tràn đầy, chịu đựng dẻo dai, có sức
đề kháng cao, chống lại bệnh tật gây ra do
khí hậu bất hòa, âm dương không cân
đối, môi
trường bị ô nhiễm. Với chân khí tiềm tàng
trong cơ thể, sức khỏe gia tăng, da thịt
hồng hào, nhờ bồi dưỡng và bảo vệ cơ
thể đúng mức, mới sống trường thọ
và hạnh phúc trên thế gian. Về mặt tinh thần thế nhân bị
ngoại cảnh chi phối, tâm thần không ổn định,
thất tình buộc ràng, lục dục cưu mang làm mất
hết điển quang, đời sống tâm linh u tối
khiến họ cực kỳ đau khổ. Nhờ phương pháp này họ trau sửa
phục tinh, dưỡng khí, tồn thần, ngọn đèn
tâm đủ đầy nhiên liệu phát quang rạng rở,
chuyển mê thành giác, thấy biết chân thật,
giải
quyết mọi vấn đề một cách thông suốt,
thuận hợp thích nghi trong cuộc sống. Nhất là họ làm chủ được
cái tâm, thắng phục được cái trí không
để
vật chất phủ lấp tâm linh, thú tánh sai khiến
mình. Tất cả được chuyển hóa không còn trở
ngại làm nguy hại đến chơn thân thánh thể.
Có
được như vậy đời sống càng văn
minh, đủ đầy vật chất con người
tân tiến với tâm minh điều khiển, sử dụng
thuận lợi đời sống hạnh phúc thêm lên. Chính đây là con đường
sáng đưa
nhân loại tìm đến hạnh phúc chân thật,
không còn
là điều ước mơ nay trở thành hiện thực. May mắn thay tạo hóa đã
dành sẳn
cho nhân loại đủ đầy vật chất, cảnh
đời hoa mỹ để cho họ tận hưởng
an vui, không còn sự khổ, có như thế đời đáng
yêu và đáng sống. Sự an vui của con người không
phải tự nhiên có sẳn hoặc cầu khẩn van xin
mà phải do họ thực hiện việc trau sửa từ
mỗi người đến mọi người. Tự
giải khổ ban vui cho chính mình mới biến thế gian
là niết bàn và thiên đàng dành
cho các nhân sinh hữu căn đa
phúc. Với đường lối đem an
vui cho đời, thế gian không còn là bể khổ, để
thực hiện một cõi đời an lạc trong lành,
nhân sinh trường thọ , tận hưởng những
gì tạo hóa đã ban cho, người chủ xướng
là đức Di Lạc cũng còn gọi là Đương
Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật. Long hoa giáo chủ, Chưởng
Giáo Thiên Tôn, thánh kinh cho biết là
Đấng An Ủi. Trong cõi đời này, hiện
có một
vị Giáo Chủ thực hiện ban vui cứu khổ cho đời,
nhưng ngài không lộ diện, chẳng một ai thấu
rõ tông, tích bởi vì ngài tu
không để người ta biết
mình tu mới thật là tu. Thành đạo cũng không
cho người
ta biết mình thành đạo mới thật là thành
đạo
. Ngài hòa nhập với đời để
độ đời mà đời không hay biết thì sự
cứu độ đó mới thành công trọn vẹn. Với
đường lối đưa đạo vào đời
một cách vi diệu, trong đời có đạo, đạo
đời hiệp nhất, nhân loại này mới hết
khổ đau. Tất cả kinh sách đều nói đến
vị Giáo chủ này nhưng thế nhân chỉ biết qua
hình tượng tôn thờ. Ta hãy tìm đạo lý
ẩn tàng
trong hình tướng, biểu tượng của đạo
thì việc tôn thờ mới có giá trị, thấm nhuần
lợi ích, còn chấp tướng, trụ vật lại
sa vào đường mê tín, dị đoan, khó nhận ra
diệu
lý. Quan sát tượng hình Đức Di Lạc
ta thấy Ngài sức khỏe dồi dào, tinh thần vui vẻ,
nơi Ngài thanh thoát an
bình. Ngài không còn bị
ràng buộc trong hình thức tu
hành, chẳng cần đến
vẽ oai nghi chẫm chệ trong phong cách ngồi thiền,
nhưng lại độ dẫn quần sanh thiết thực,
áo của Ngài mặc không mang màu sắc của
tôn giáo, nhưng
lại là đạo y kiên cố, che chở cho Phật thân. Chân mặt
thuộc âm: tượng trưng cho đời, phải kéo
vào đó là tư thế hành pháp, tay mặt
nắm chặt đạo
y, điều này cho biết đời sống hằng ngày
muốn đạt được sự an vui cần phải
hành pháp, không rời đạo y, giữ gìn
chân thân của
mình chẳng phung phí hết tam bửu, nhưng lại lo gầy
dựng kinh tế bản thân, sức khỏe dồi dào,
không bị ốm đau mới sống vui sống khỏe
nơi thế trần. Chân trái thuộc dương: tượng
trưng cho đạo, chống lên ở tư thế khỏi
động, tay trái nắm chặt tràng hạt mâu ni, tượng
trưng đời sống tâm linh, tự hữu hằng hữu
trí huệ phát khởi, thấy chân biết thật soi
sáng cả
thảy. Thân tâm sung mãn đầy sức
sống
nhờ trau luyện và thành đạt. Phần bụng và ngực. Con người luôn luôn che đậy giấu
diếm cõi lòng của mình, kín trong rồi lại
kín ngoài, thế
mà Ngài lại cởi trần phô lộ ra cho mọi người
chiêm ngưỡng đường hướng, phương
cách có được tinh đầy khí đủ. Vì vậy
thời hạ nguơn mạt pháp chân truyền bí pháp
không
còn che giấu bí mật nữa, cần phải được
phô trương bày tỏ cho nhân sinh hiểu rõ để
thực
hiện việc tu hành cho có kết quả. Đúng theo lẻ
công bằng, ra công bao nhiêu hưởng quả bấy
nhiêu. Điều này nói lên đường
lối
thiết thực, tu thân chơn chính, không còn nằm
ở
khuôn khổ, qui ước từ trước đến
nay. Tu không còn thấy là tu mới thật là tu,
tự hành tự
đạt, thành tựu đúng như yêu cầu sở nguyện
của mình. Đến phần bát nhã. Biểu tượng Di Lạc từ mắt,
tai, mũi, miệng, đều mang hạnh đức của
Di Lạc. Mắt hiền từ phát quang. Tai dài trường thọ. Mũi to sức sống dồi dào Miệng với nụ cười tượng
trưng người đã không còn khổ, Ngài biến cảnh
khổ thành an vui, đó là thần phương diệt khổ.
Tự cứu khổ ban vui cho chính mình, dời chơn thường
lạc vào tâm, lúc nào cũng an
vui thư thái,
thể hiện xuân tâm bất tận. Tự cứu khổ ban vui cho chính
mình chưa
đủ, cần phải cứu khổ ban vui cho mọi
người thực hiện sứ mệnh. Di Lạc cho đời, Chiếu Minh
thiên hạ. Đây là tông chỉ, đường lối
của “cơ đạo kỳ ba” cứu độ chúng
sinh,
chuyển hóa Hạ nguơn
“mạt pháp” sang Thượng nguơn thánh đức.
Đạo cứu đời, đời
có đạo sáng soi, thế gian không còn sự khổ Thay Lời Kết Nhân sinh giác ngộ thấy
rõ đường
lối tu thân chân chính là trở về thân
tâm để lo
gầy dựng, tô bồi là điều
thiết thực nhất, nhờ thấu triệt chỗ hữu,
tri tường chỗ vô, thông đạt cả hữu vô
là rõ thông cả thảy. Đạo lý thị hiện
không
còn che giấu, tất cả cái không thể biết,
không để
đo lường, tức cái vô cùng vô tận, ta cũng
có
thể cảm nhận một cách rõ ràng. Giờ nay Lục tự Di Đà tỏ
rõ cái máy linh mầu nhiệm giúp cho
nhân sinh tầm tri học
hiểu chỗ tối diệu tối linh, đó là tự
tri nhưng rồi phải tự hành để tự thành đạt
lấy mới có giá trị thực dụng. Còn học hiểu
để đi truyền bá khoe khoang, tỏ cho mình là người
kiến văn rộng rãi, nhưng không chịu thực hành
thì chẳng có lợi ích chi, trở nên vô
dụng. Ngoài ra hành không tri
thì thật là nguy
hiểm,
không biết được việc làm của mình như thế
nào? thành quả ra sao? phó mặc cho định mệnh rủi
may, đưa đẩy, khác nào kẻ mù không biết mục
tiêu, chẳng định hướng được cứ
lầm lủi tiến bước sẽ rơi hầm sụp
hố còn đâu mạng sống!. Vì vậy điều quan
trọng là tri phải hiểu cho thấu đáo rồi bắt
tay vào việc làm là hành. Trong hành
có tri, trong tri có hành, hành
tri
sẽ dẫn đến thành tựu tốt đẹp. Ta có định hướng rõ ràng
sáng suốt,
phương tiện hữu hiệu, mới thực hiện
cuộc hành trình từ mê đến giác, chúng
sanh thành Phật,
tự niệm Phật, cầu
phật đắc Phật do ta hoàn thành, cũng là niệm
Di Đà diệu pháp chánh chơn, rất thực tế
không
còn nằm trong ảo tưởng . Tự tu, tự độ, tự ngộ,
tự tri, tự thành phật đạo để tự
giải thoát lấy, từ mỗi người đến
mọi người trong nhiệm vụ giải khổ. Tự cứu khổ ban vui cho chính
mình chưa
đủ phải cứu khổ ban vui cho mọi người,
hoàn thành sứ mạng : Di Lạc cho
đời, Chiếu Minh thiên hạ Kiến tạo
con người mới gồm đủ hữu vô sức
khỏe dồi dào, tinh thần sáng suốt, thực hiện
đời sống an vui nơi thế trần, phù hợp với
thời đại mới : Văn Minh, vật
chất lẫn tinh thần. MỤC LỤC LỜI
TỰA CHƯƠNG I LỜI KINH DẪN NHẬP A. Đời người 1/ Mê: Đọa lạc 2/ Giác: Giải thoát B. Cầu nguyện 1/ Pháp tụng: Kinh hửu tự 2/ Tâm pháp: Kinh vô tự C. Cơ tạo 1/ Đi ra: Đọa lạc 2/ Trở về: Siêu thăng D. Thần chú nhiệm mầu CHƯƠNG II PHƯƠNG TIỆN TIẾN HÀNH ĐẠO PHÁP A. Con người 1/ Thân xác 2/ Linh hồn B. Tiểu vũ trụ: Báu kính 1/ Thiên địa nhân 2/ Địa: Đất a) Một cái miệng b) Một lỗ tiểu c) Một lỗ đại 3/ Thiên: Trời a) Một lỗ mũi: Hai lỗ thở b) Hhai mắt c) Hai tai C. Tri và hành CHƯƠNG III DI ĐÀ THẦN CHÚ A. Hữu niệm B. Vô niệm C. Tâm pháp 1/ Di đà giảng kinh 2/ Di đà Diệu pháp D. Quỳ lạy 1/ Thượng ngươn 2/ Trung ngươn 3/ Hạ ngươn CHƯƠNG IV NAM
ẤY NAM PHƯƠNG LỬA BÍNH ĐINH A. Lửa 1/ Tà hỏa 2/ Chơn hỏa B. Cái dụng của chơn hỏa CHƯƠNG V MÔ LÀ CHỈ RỎ VẬT VÔ
HÌNH A. Khí 1/ Tà khí 2/ Chơn khí B. Cái dụng của chơn khí: Cơm
trời CHƯƠNG VI A. GỒM NHÂM THỦY AN
NƠI THẬN A. Tinh 1/ Tà tinh: Nước nhân dục 2/ Chơn tinh: Rượu thánh - Cam lồ thủy B. Cái dụng của chơn tinh CHƯƠNG VII DI GIỮ CHẶT BỀN BA
BÁU LINH A. Tinh khí thần 1/ Phàm nhân: Tiêu hao 2/ Chân nhân: Phục hồi B. Giữ gìn - Dưỡng nuôi 1/ Bát báu: Nuôi dưỡng 2/ Pháp y: Bảo vệ C. Phương cách gìn giữ 1/ Chúa: An thịt Chúa
Uống huyết Chúa 2/ Phật: Tứ kệ của Ngủ Tổ D. Ưng dụng hành trao CHƯƠNG VIII ĐÀ
SÁNG SẮC VÀNG TRÒN KHẮP CẢ A. Thần quang 1/ Tri kiến chúng sinh 2/ Tri kiến Bồ tát 3/ Tri kiến Như Lai B. Ngủ quang thông suốt 1/ Năm anh em Kiều Trần Như 2/ Năm vị A Là Hán C. Chuyển thức về trí CHƯƠNG IX
PHẬT HAY THANH TỊNH Ở NƠI MÌNH
A. Tiểu vũ trụ 1/ Thanh lọc 2/ Tô bồi B. Thanh tịnh 1/ Vô ký không 2/ Thanh tịnh thực tướng 3/ Cơ động tịnh a) Đại vũ trụ b) Tiểu vũ trụ C. Tu thân 1/ Quán thân bất tịnh: Chơn động 2/ Quán thân bất động: Chơn tịnh D. Chơn động tịnh: Máy thiên CHƯƠNG X CHỊU VI
ĐẮC NGỘ CHƠN TRUYỀN ĐẠO Cơ đạo kỳ 3 Đức Ngô Minh Chiêu Chơn truyền A. Thực hành 1/ Bồi dưỡng cấp 1 2/ Bồi dưỡng cấp 2 3/ Bồi dưỡng cấp 3 B. Phương tiện phụ trợ thực hành 1/ 1 cái áo choàng 2/ 1 tấm nệm 3/ 1 cây đèn 4/ 1 lư hương 5/ 1 đồng hồ 6/ 1 cái ghế C. Thời điểm thực hành D. Động tác thực hành 1/ Động tác ở chân 2/ Động tác ở tay 3/ Đầu 4/ Động tác xoa tán bụng 5/ Động tác xoa vuốt mặt E. Giai đoạn an tịnh để trưởng dưỡng tinh thần CHƯƠNG XI PHÁP NHIỆM THOÁT TRẦN
TỰ TÁNH MINH A. Cảnh trần 1/ Mê: Bị đọa lạc 2/ Giác: Tìm giải khát 3/ Môi trường rèn luyện B. Nguồn gốc đau khổ 1/ Tham vọng 2/ Liều thuốc giải khổ C. Đường hướng cứu khổ Đức Di Lạc THAY LỜI KẾT Địa chỉ liên lạc: Cao Đài Đại Đạo-Chiếu Minh Giáo Toà- Vô
Vi Tam Thanh- Đại
Thừa Tam Phap Địa chỉ : Số
1907-Tổ 53, ấp Đông Bình A, xã Đông
Bình, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh
Long. Hop
Tho: 66 Bưu Điện Bình Minh - Vĩnh
Long Đien
Thoai ban: (84) 070 – 3890450 Email: chieuminhgiaotoabm@yahoo.com/ Website: http//www.chieuminhgiaotoa.org/ Trình bày: Đạo Trưởng
Minh Liên Đưa vào Internet tại CMGT lúc đàm đạo với HH Bùi Trí Dũng, gắn Mạng, trang bị máy PC Server tại Văn Phòng CMGT tại Bình Minh, Vĩnh Long : GSTP Hà Phước Thảo HH Bùi Trí Dũng nhờ thông dịch dùm ra tiếng Đức khi Phái Đoàn qua Zuerich (Suisse) hoằng hóa pháp tu. |
Tu theo Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh dù ở Đàn cũ, ở Chiếu Minh Giáo Tòa, khi qui liễu cũng có Ấn Chứng cả, nếu công phu đúng, tứ thời.
VÌ SAO THƯỢNG-ĐẾ MỞ ĐẠO TẠI VIỆT-NAM | ||
Một Trang Web bất Vụ Lợi ,
Không Quyên góp. Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn
Phí
|
Thư Viện 1 2 3 4 5 |
|