Việt nam 越 南 là
nước nhỏ nằm trên bán đảo Hoa Ấn (Indo +
Chine = Indochine hay Đông Dương) nên chịu
ảnh hưởng của hai nền văn hóa của hai nước lớn
là Trung Hoa và Ấn độ.
Không như
các lân bang là Lào
và Campuchia chịu ảnh hưởng rất nhiều với nền
văn hóa Ấn độ qua chữ viết với mẫu tự gốc,
tôn giáo thành quốc đạo, như Nhật
bổn và Triều Tiên phía Đông
Bắc còn mượn chữ Hán, tuy viết
nét đơn giản hơn, nhưng vẫn ảnh hưởng sâu
đậm nền văn hóa Trung quốc. Một nước to lớn nằm
ở phương Bắc lúc nào cũng muốn đồng
hóa Việt nam thành chư hầu. Nguồn gốc
dân tộc Việt Nam phát xuất từ hai tỉnh
Quảng Đông và Quảng Tây, một trong
100 nước Việt hay Bách Việt, duy có một
nước có bản tính dân tộc
riêng phải chạy tị nạn đồng hóa và
tìm đất sống xuống phía Nam nhưng vẫn
mang theo tinh hoa đã có từ thời lập
quốc do hai vị Tổ là Đức Lạc Long Quân
và Mẹ của Nhân Loại là Bà
Âu Cơ, tác giả của cuốn KINH
DỊCH dạy tu luyện thành Tiên,
tác Phật mà lúc chạy đi xuống
phía Nam tìm đất sống trong khi giống
Hán Tộc là những đứa con của Long Vương
và Tiên Nữ đã dạy chúng
mà chúng thành những đứa con bất
hiếu. Bát
Quái lúc tạo Thiên Lập Địa
là sơ đồ Sáng Thế Càn Khôn
là Tiên Thiên Hà Đồ
và Hậu Thiên Lạc Thơ là sơ đồ sanh
hoá mọi loài cũng như lịch sử của
nhân loại không được ghi vào chữ
viết cùng với trống đồng là tác
phẩm siêu đẳng về Tây Kim Luyện đồng
và Mỹ Thuật, kiến trúc với code
là mang tinh trùng đi sanh hóa
nhiều thêm bằng những hình con lăng quăng
(tinh trùng) chỉ nhớ trong trí ma theo
Đức Diêu Trì Kim Mẫu hay Mẹ ất gọi
là TRÙNG QUANG TÂM SỬ hay lịch sử
được ghi vào ký ức của dân tộc Lạc
Việt qua truyền thuyết nguồn gốc dân tộc
và có SỨ
MẠNG tạo hình thể của Vòng Vô
Cực với chữ S phân Lưỡng Nghi, Tứ Tượng
và Bát Quái lúc Đức Thượng
Đế dạy bửu pháp khi lập quốc và đến nay
là lúc cuối Hạ Nguơn mạt kiếp, Đức
Thượng Đế mở Đạo Cao ài tu luyện với bửu
pháp CHIẾT KHẢM ĐIỀN LY để Vạn Thù Qui
Nhứt Bổn hay PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN
là pháp độc nhứt vô nhị chỉ ở
Dân Tộc Việt Nam mới có, thực hành
bửu bối riêng để làm của riêng với
thứ chữ viết tượng hình lúc mới
sáng tác. Như vậy chữ NHO cũng do hai vị
Tổ Lạc Việt dạy chứ không phải do giống
Hán Tàu Phù viết ra, vì
thế Việt nam thời khai quốc đã mang theo Nho
(mà người Tàu gọi là chữ
Hán do họ phát minh vẽ ra) để viết văn
và đọc theo giọng Việt Nam, sau đó
thêm nét để đọc thành âm
tiếng của quốc gia, đó là chữ Nôm.
Thí dụ chữ Nam theo Hán tự 南 có
thêm chữ Khẩu bên trái thì
thành chữ Nôm 喃 đọc theo tiếng Việt. Với
sáng kiến phiên âm theo La-tinh do
cố Giám Mục Bá-Đa-Lộc ( Alexandre de
Rhodes) viết thành Tự Điển Bồ-Việt và
sau đó chư học giả ngôn ngữ học như
ông Petrus Trương Vĩnh Ký và
các nhà nghiên cứ chữ Việt
hoàn chỉnh hoá thành QUỐC NGỮ,
một thứ tiếng có 6 giọng như chim hót
líu lo của tiếng Việt được viết bằng
cáxc mẫu tự A,C,C của La-Mã thành
ra thứ chữ mà sau nầy các dân tộc
trên thế giới phải học, vì dễ viết hơn
chữ Hán, Nhựt, Triều Tiên, Sancrit hay
Á-rạp và sau Đại Chiến Thế Giới Lần Thư
Ba, nhân loại chỉ có một Tôn
Giáo là ĐẠI ĐẠO mà thôi.
Thần Học Cao Đài là thánh
giáo chung cho loài người khi còn
sống sót qua cuộc sàng sảy LONG HOA ĐẠI
HỘI do Thiên Nhiên trừng phạt như động
đất, Sóng Thần, ô nhiễm, dầu lửa nổ tung
lên vì hơi CO2 và Methan
quá mạnh ở Vịnh Mễ Tây Cơ do Mỹ khoan dầu
mà gây tai nạn không ngờ vì
ống dầu quá mỏng, bệnh dịch và
chính phóng xạ do loài người tự
diệt khi sử dụng bom nguyên tử tàn
sát nhau lúc thập bát chư bang (
18 nước giành Mõ Vàng Đen của
Việt Nam) đánh nhau bằng tàu chiến,
tiêm thủy đỉnh, hàng không mẫu hạm,
giàn chắn hỏa tiên và phi cơ
không người lái, máy bay vô
hình RADAR không phát hiện
được....
Về tín ngưỡng
thì người Việt chịu ảnh hưởng ba tôn
giáo lớn ở châu Á là Phật
từ Ấn độ truyền sanh Việt Nam vì Trung Hoa được
truyền từ Ấn độ, khi sang Việt Nam thì
có Phái Đại Thừa tu thiền định đi bằng
ngã Ấn Độ qua Trung Hoa và xuống Việt
Nam, có con đường truyền giáo ở phương
Nam theo đường biển và qua các nước
phía nam là Tiểu Thừa; Lão
và Khổng từ Trung Hoa, nhưng người Việt nam
có thứ đạo riêng là Đạo Thờ
Cúng Ông Bà và tín
ngưỡng tự nhiên là thờ Trời với
Bàn Thờ giữa sân là Bàn
Ông Thiên. Tại Việt Nam tuy theo Tiểu Thừa
Phật giáo nhưng không đọc bằng tiếng Pali
như các nước Miên, Lào và
Thái lan, mà đọc Kinh theo âm dịch
trại từ Phạn ra chữ Nho âm theo giọng Nôm.
Về văn hoá và chính trị
thì Việt nam luôn luôn có sự
đối kháng để khỏi bị đồng hóa. Dân
tộc Việt nam xuất phát từ lòng đất hai
tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây tức
nước Lạc Việt đã có lãnh thổ từ
nơi đó, đã phải bỏ chạy về hướng Nam để
tự tồn (vì Hán sanh đẻ quá
đông), do đó tinh hoa văn hóa
mà giống Lạc Việt mang theo được, thu
góp từ Ấn Độ là Phật Giáo
và tam Giáo từ quê hương nơi xuất
phát nhưng đã tự biến hóa ra
thành thứ văn hóa riêng mà
lịch sử nằm trong huyền thoại Lạc Long Quân từ
Động Đình Hồ với Tiên Nữ trên
núi là Bà Âu Cơ đẻ ra trăm
trứng để làm nguồn gốc của nền văn hoá
tự lập ở phương Nam với trống đồng Ngọc Lũ tự tay khắc
vẽ tinh vi được coi là nền văn minh Đông
Sơn vùng Hòa Bình ở khu vực đồng
bằng hai con sông lớn là Hồng Hà
và Thái Bình. Nhờ thấm nhuần Đạo
Nho với Tứ Thư và Ngũ Kinh nên người Việt
nam biết tu thân, sửa mình, tập năm đức
tính : Nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín
hay Ngũ Đức hòa với Ngũ Khí trong Trời
Đất, hài hoà cùng Vũ Trụ, biết ơn
người giúp mình mà sau có
thêm Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, có
nhân, có nghĩa, kính trên
nhường dưới, nhất là có lòng
tín ngưỡng Trời, Phật, cho nên Đức Thượng
Đế Cha Trời hay ông THẦY TRỜI mới thương
dân tộc nhỏ nhen nầy mà khai mở Đạo của
chính ngài chiết thân ra là
Đức Ngô Minh Chiêu học và
hành bửu pháp CHIẾU MINH trước
tiên để sau đó chư hành giả hậu
duệ đi khắp năm châu truyền bá cho
nhân loại. Người Việt nam có tính
hiếu khách và thích học những
gì hay của tinh hoa nước khác, nhưng
không theo khuôn rập mà chế biến
thành thứ riêng của mình. Người
quân tử thì học ở Cửa Khổng Sân
Trình có lòng NHƠN, biết điều
nhân NGHĨA, có lễ độ với người
trên, nhường nhịn kẻ dưới, cho nên về
nhân xưng đại danh từ có rất nhiều để gọi
và xưng hô mà ngôn ngữ
các nước khác không có
được. Đó là tôn ti trật tự trong
cái lễ hay xã giao giữa người với người,
trong thân tộc cũng như với người ngoài.
Lúc giao tế thì lấy cái
TRÍ mà phân biệt chánh,
tà, luôn luôn giữ chữ TÍN
khi đã hứa với ai điều gì, kể cà
lúc nhập môn cầu Đạo thì dù
có thề nặng cũng cố giữ cả đời lòng
tín ngưỡng, do đó Đức Thượng Đế Cao
Đài mới cho câu thệ nguyện rất nặng khi
mới vào Đạo và khi tu cầu giải
thoát. Người thuộc phái nữ thì
siêng năng, cần kiêm lo việc nội trợ
dày CÔNG lo lắng, khi nói
thì dịu dàng, tướng mạo khoan DUNG điềm
đạm,, NGÔN từ đẹp vừa lòng người nghe.
Đó là cái HẠNH của con người khi
đối xử với ông bà cha mẹ thì
thêm lòng HIẾU thảo. Lúc trẻ
thì lo việc gia đình, xã hội theo
Nho phong, lúc già thì tìm
sự thanh tịnh tu tâm dưỡng tánh theo
Tiên Đạo, khi va chạm thì biết luật
luân hồi và nhân quả mà
làm lành, lánh dữ theo lời Phật
dạy. Nước Việt nam nằm trên đường giao lưu quốc
tế có bờ biển dài 2.200 cây số
là nơi thu hút lòng tham của
các nước mạnh, vì thế mà hết
những cuộc xâm lăng từ phương Bắc thì
có người Pháp từ Âu châu đến
chiếm làm thuộc Địa và Bảo Hộ, nhưng
tinh thần bất khuất của người Việt nam đã lấy
đạo nghĩa để thắng hung tàn như lời của vị
công thần Nguyễn Trãi ở đời nhà
Lê là:
Lấy Đại nghĩa để thắng
hung tàn,
Lấy Chí
Nhân mà thay cường bạo.
Khi người Pháp đã vơ
vét tài nguyên của Việt Nam mang về
Tây thì những cuộc kháng chiến của
toàn dân Việt Nam đã cho thế giới
thấy rằng chí khí anh hùng của
dân tộc Việt Nam đã bao lần thắng ngoại
xâm khi quân Mông Cổ đánh chiếm
gần cả Á và Âu châu mà
lúc đến Việt nam phải thua chiến thuật
sáng tạo của Đức Trần Hưng Đạo, được xem như
nhà chiến lược thế giới, được in vào
Bách Khoa Từ Đìẻn của Anh quốc ở London.
Nền văn hoá đạo đức của Việt nam không chỉ
lo dùng vũ lực mà chống xâm lăng
mà còn thu nhập tinh hoa văn hóa
nước khác nữa, vì vậy mà khi chữ
La-tinh được nhà truyền giáo Alexandre
Rhodes dùng âm ra khi giảng đạo Thiên
Chúa thì học giả Việt nam lầy đó
mà tạo ra thứ chữ riêng cho dân tộc.
Đó là quốc ngữ của dân tộc Việt Nam.
Khi học thì học đến cùng và khi học
Đạo thì học chân lý để hoà
đồng chứ không đối kháng kịch liệt một
cách toàn diện. Việc dối kháng
lúc đầu do vua chúa ban hành như
cấm đạo và giết đạo và tàn
sát Đạo vì Đạo là sức mạnh
phá tan mọi xiềng xích nên chủ nghĩa
Mác-Lê vô thần đã nhồi sọ Chủ
Tịch Đảng Cộng Sản Việt Nam ra lệnh tàn
sát Đạo Cao Đài ở Quảng Ngãi, đồng
thời Đệ Tam Quốc Tế cũng nhồi sọ cho Pon-Pot tàn
sát Quốc Đạo và trí thức ở
Cam-pu-chea. Riêng dân Việt Nam thì
từ bi, hỉ, xả và biết hòa đồng, chịu đựng
đau khổ cho qua lúc Triệt Giáo quá
bạo tàn và chấp nhận dễ dàng lời
nói chân, thiện, mỹ từ Tây Phương qua
Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo,
nên Đạo Thiên Chúa đã
vào nước Việt nam như một hòa điệu
âm thầm và người Việt nam tri, hành
hợp nhứt, chuyển hoán từ ngoại thành nội
cho mình, nên về tín ngưỡng
thì vừa có Tam Giáo Đồng
Nguyên, lại thêm Thiên Chúa
giáo cộng hòa trong nếp sống đại đồng,
điều mà Đức Thưọng Đế đã quyết định chọn
Việt Nam làm Thánh Địa để khai mở
tôn giáo của ngài, Dân tộc
Việt nam tin rằng vì tổ tiên đã đổ
máu đào mở mang bờ cõi, đã
gây cộng nghiệp (tiêu diệt hai dân tộc
Chiêm Thành và Thủy Chân lạp),
nên phải chịu trả quả trong chiến tranh dai dẳng.
Tổ Tiên đã
đổ máu đào,
Cũng vì Hồng
Lạc sa vào hố sâu
(Thánh giáo do Ơn
Trên dạy tại Trước Lâm Thánh Đức
Thiền Điện, Hội Thánh Di Lạc Vĩnh Long, Hội
Thánh sau cùng sau Đại Hội Long Hoa khai
diễn) và đối với hiện tại vào năm 1974
cũng có hai câu như Ơn Trên cảnh
cáo:
Thương công chú Cộng
chan dầm, (1)
Vào sanh,
ra tử lại lầm kế ai.
(Thánh giáo Ơn Trên dạy tại Hội
Thánh Di Lạc Vĩnh Long)
(1) Ơn Trên tội
nghiệp cho những kẻ vô minh, bị nhồi sọ do Đảng
CS Liên-Xô và Trung Quốc để
chiếm hết Châu Á làm Đệ Tam Quốc
Tế, mượn danh dân tộc chống thực dân
xâm lăng, nhưng thật ra là mang hồng
quân vào Việt nam giải quyết nạn
nhân mãn, tính thành tiền
nhân mạng và tính từng cây
súng, viên đạn, thêm tiền lời cho
vay, nếu trả không nỗi thì cắt đất
tính thành tiền, chiếm đất lấn đất, di
dân, sanh đẻ thành dân Hán
và lấy luôn Quốc Gia như Tây tạng
bị mất, Việt Nam sẽ bị như vậy. Nhưng Đức Thượng Đế
không cho phép bọn con cháu bất
hiếu tàu Chệt đó đâu! Xin đọc lời
tiên tri ở cuối trang sẽ thấy rõ.
Tuy nhiên, có tội
thì trừng, có công thì được
Ơn Trên thưởng cho nên Đức Thượng Đế cho
dân tộc Việt Nam những bài học đau khổ để
trả cho xong nghiệp quả chung, hết thiên tai bảo
lụt thì đến sàng sảy vì sự học
đòi chủ nghĩa ngoại lai xoá bỏ tín
ngưỡng, chà đạp tôn giáo, cuồng
tín lý thuyết ý thức hệ của Đức
và Nga, sau cùng những gì sai
trái thì được sửa lại cho đúng con
đường đạo đức, văn hóa nhân bản, dân
tộc và khai phóng mà nền Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ là một sự ân thưởng vô
cùng lớn lao cho dân tộc Việt nam. Những kẻ
được lên ngôi vị lãnh đạo sẽ hưởng do
kiếp trước tạo ra phúc đức, nhưng khi hưởng hết,
sẽ mang nợ và phải trả, trư1ơc khi trả nợ phải
đền trước là lo xây cất các cơ sở
Văn Hóa tốt như xưa, cầu, chùa, tượng
Phật,...phải xây lại, đúc tượng lại cho
đẹp,...với phàm ý là "quốc doanh
hóa" các chức sắc và các cơ
sở tôn giáo thành của Đảng
Viên của Đảng và Nhà Nước thì
trái với Luật Thiên Điều, vì xưa nay
Đạo Đức phải ở trên Phàm Ý,
còn quốc doanh hoá (như ở Trung Quốc, Việt
nam, Miến Điện, Đức Quốc thời Hitler,...) hay quốc đạo
hóa (như các nước Trung Đông)
thì sẽ bị Ơn Trên phạt sau nầy phải bị
tiêu diệt.
Những dân tộc sống trong sự phồn thịnh về vật chất
của các nước văn minh về kỹ nghệ thì đi xa
lần nền đạo đức cổ truyền, văn hoá đạo đức, ham
mê vật chất, tham nhũng, nô lệ và cắt
lãnh thổ hiến cho ngoại bang, trẻ con thì
quên truyền thống tứ ân hiếu nghĩa,
không hướng nội để tu tâm dưỡng tánh
mà hướng ngoại theo dục lạc tận hưởng những
thú vui đời mới, chế ra nhiều kiểu tóc,
mang khoen, nhạc loạn múa may điên dại
và giới thanh niên không còn
đi nhà thờ lạy Chúa nữa, bỏ Đạo ham đời.
Đây là tình trạng xuống dốc về văn
hóa đạo đức. cả giới trẻ trong giai đoạn
nghèo khổ thì còn đạo đức của nền
giáo dục xưa để lại, khi được xoá bỏ bao
vây kinh tế thì phát triển lên
về mãi lực, giới trẻ coi tiền bạc cần hơn đạo
đức, nhưng qua kinh nghiệm đau thương vì vô
minh, đa số trở lại con đường hồi tâm hướng thiện,
lo học để xây dựng tương lai khi xuất ngoại du
học. Khi đạo đức và tín ngưỡng xa rời cuộc
sống thì đời trở nên rối loạn, người ta mới
tìm lại nền đạo đức cổ truyền, Hiên nay
các tôn giáo bị chính phủ chỉ
huy nên còn trong giai đoạn chờ đợi một
ngày mai tươi sáng hơn. Văn hoá ,
sách báo tại quốc nội thì bị ảnh
hưởng của duy vật chủ nghĩa đang bị đào thải
âm thầm. Những cuốn sách viết về tôn
giáo từ hải ngoại sẽ đem lại nền văn hoá
đạo đức cổ truyền cho dân tộc Việt nam trong tương
lai.
Tình trạng xuống dốc của nền đạo đức do sự
lôi cuốn vào duy vật chủ nghĩa là
bài học kinh nghiệm đau thương khi con người chưa
có tín ngưỡng. Nhưng sư đau khổ là
nguyên nhân đưa con người từ bóng tối
vô minh ra ánh sáng minh triết.
Những hiện tượng đồng bóng mà người ta gọi
là "ngoại cảm" cũng là phương tiện do Ơn
Trên tác động những kẻ vô thần
có tín ngưỡng trở lại và khi ăn năn
tu tỉnh thì sẽ được Ơn Trên tha tội nếu tu
gấp, tiền của lo công quả giúp đời như trả
nghiệp cũ, biết đọc sách đạo đức, tôn
giáo, lo ăn chay... và những bệnh như Ung
Thư, dịch heo, gà... sẽ hết như một sự huyền
diệu.
Hiện nay nhân loại ở vào thời kỳ Hạ Nguơn
Mạt kiếp nên những nền văn hoá hay, đẹp bị
thay thế bằng nền văn hoá điên loạn với
chiến tranh tận diệt, với bịnh tật mới chưa có
thuốc chữa. Khi người ta ăn năn tự hối thì họ sẽ
gặp con đường đi đến chân lý với nền
giáo dục đạo đức mà người ta tin tưởng cả
mấy ngàn năm nay không còn
chánh giáo và thánh thiện sẽ
được tìm lại được băng nền văn hoá mới
thánh đức của Tôn giáo do ông
Trời mở ra là Đạo Cao Đài, chỉ có
dân tộc Việt nam mới được hưởng nhận trước
mà làm chủ cho các chủng tộc
khác, khi thế giới sẽ đổ xô về Thánh
Địa Việt Nam học giáo lý của Đức Thượng Đế
mà lời Tiên tri của ngài trong
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển sẽ được nhân
loại thấy sự ứng hiện trong hai câu:
Một nước nhỏ nhoi
trong vạn quốc,
Ngày
sau
làm chủ mới là kỳ !
(
Thánh ngôn Hiệp Tuyển)
Hà Phước Thảo |