Đã
được minh định qua hai yếu-tố quan trọng:
-
KINH DỊCH là
bí-pháp cổ truyền của ĐẠO CAO-ĐÀI (Bài của
Đức Hộ-Pháp)
-
LÝ DỊCH trong ĐẠO
CAO-ĐÀI (Lời giảng của Đức Chí-Tôn)
Riêng
chúng
tôi nhận thấy được Đạo Cao-Đài là một kho
DỊCH-LÝ vô cùng tận, xin được
minh-giải bằng những môn khoa-học như hình học phẳng,
toán học,
vật-lý-học… để khơi bày lý âm dương của Đạo
học.Thế nào là Tam-tài,
Tứ-tượng, Bát-quái, Ngũ-hành cùng sự
biến-hóa của Dịch tác-dụng và
chi-phối trên các phương-diện của lý Đạo trong
các hình-thức: nghi lễ,
văn-thi, cả đến Tân-Luật, Pháp-Chánh-Truyền.
Tóm lại Đạo là Dịch hay
Dịch là Đạo.
Để
khẳng-định
rằng Đạo Cao-Đài xử dụng đến bốn Bát-quái, tức
nhiên ngoài hai Bát-quái
của các tiền Thánh là Phục-Hi, Văn-Vương ra
còn có:
1-
Tiên-thiên Bát-quái là
bí-pháp của Thế-đạo
2-
Hậu-thiên Bát-quái là thể-pháp của
Thế-đạo
(Thế
Đạo)
3-
Bát-quái Đồ-thiên là thể-pháp của
Thiên-đạo
4-
Bát-quái Hư-vô là bí-pháp của
Thiên-đạo
(Thiên-đạo)
Xin
được
trình-bày tất cả những suy-nghĩ ra đây để được
những bậc cao-minh chỉ
giáo thêm cho những tâm-hồn chỉ biết HIẾN-DÂNG
và PHỤNG-SỰ cho
đạo-nghiệp của Đức Chí-Tôn và luôn trau-giồi
học hỏi trong tinh-thần
cầu tiến, làm sáng danh Đạo Trời. Những sự dẫn giải về
Lý Đạo trong tập
sách này là cốt tuỷ của Thánh-Ngôn
Hiệp-Tuyển, Lời Thuyết Đạo của Đức
Hộ-Pháp
Trân-trọng
biết ơn những ý-kiến xây-dựng để được làm
sáng danh nền Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ Toà-Thánh Tây-Ninh. Một
hoài-bão đã từng ấp-ủ 30 năm nay mới
được thành hình.
Xin
cám-ơn những tấm lòng vàng đã giúp
hay cho chúng tôi trong bước khó-khăn ban đầu.
Tây-Thánh, mùa nở
hoa tình-thương Đại-Đồng 1981-2006
Nữ Soạn-giả NGUYÊN-THỦY
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
1- ĐỨC HỘ-PHÁP nói:
Kinh Dịch là bí-pháp
cổ truyền của ĐẠO CAO-ĐÀI
“Ta
thường
nói: Đông Tây không bao giờ gặp nhau.
Câu đó không thể áp dụng được
trong giới triết học tuy có đến hàng trăm đường lối
khác nhau, nhưng
chung qui cũng gồm về một mối.
Lấy
cái thực
học Âu Mỹ để so sánh với thực-học Á-đông
cân nhắc nhau thì phần nhiều
cái học Á-đông bị lu mờ chỉ vì cách
trình bày, luận-lý không rõ
ràng,
còn về phần tinh-thần thì bao trùm được khắp
võ-trụ như: Thiên-văn,
Địa-lý, Dịch-lý mà ông cha ta vẫn cho
là những môn học khó-khăn,
huyền-diệu. Vì những lẽ trên, ta thấy sự khó-khăn,
khúc-chiết mà xếp
đặt cái học-thuyết âý vào hàng
Tâm-truyền hay Bí-truyền.
Nhưng
nếu ta
lấy cái học-thuyết hiện tại của Âu Mỹ hoà với
DỊCH-LÝ để giải cho rõ,
ta cảm thấy cái lý học Á-đông đã đến
chỗ tuyệt-đối huy-hoàng.
Hiện
tại biết bao nhà Bác-học Âu-Mỹ tận tụy tìm
kíếm học-thuyết về Dịch-lý của Á-đông như:
•
Bên Y-PHA-NHO ông HARILY có chân trong
Hàn-Lâm-Viện.
•
Bên ĐỨC có
ông RICHARD WILIUM (Uy lê-hiền) sang Trung-Quốc 20 năm học
Dịch về làm
thành sách, được Vua Guillaume II ban cho là
Bác học và còn nhiều nhà
Hiền-triết Âu Mỹ khác đã khảo-cứu KINH DỊCH.
Phương
Đông từ
khi được làn sóng văn minh Âu-Mỹ tràn lan
khắp nơi thì triết-học cổ xưa
như mai một. Ngoài những quyển “CHU DỊCH ĐẠI TOÀN” hay
“DỊCH KINH TẬP
CHÚ” tối cổ xưa kia nhai đi nhai lại những chú giải của
CHU-HI và
TRÌNH-DI.. ta còn thấy mới đây bên NHỰT
có ông KOBAYACHI ICHIRO
(Tiểu-lâm Nhất lang) có làm một pho KINH DỊCH
chú-giải đề là “DỊCH KINH
ĐẠI GIẢNG TOẠ” bằng chữ Nhựt. Lại còn nhiều học-gia Nhật-bản
phiên-dịch
các sách vở TRUNG-HOA như TÔN-TỬ, QUẢN-TỬ,
NHO-GIÁO và đặt vào hàng
giáo-khoa.
Bần-Đạo
cảm
thấy một làn sóng mới trong thời đại nguyên-tử
này có thể giúp chúng ta
không những về khoa-học mà còn về lý-học nữa.
-
Người Âu-tây còn quí DICH-HỌC là như
vậy.
-
Người Nhựt cũng biết quí DỊCH-LÝ như vậy.
Chúng
ta dòng
dõi con Rồng cháu Tiên trên một dãy
đất ngàn năm văn-vật đã hấp thụ
được hai cái văn-hóa Đông Tây không lẽ
lại để cho cái triết-học
Đông-phương một ngày càng tàn-tạ, thật
là “túi mình có ngọc báu mà
không biết lại ngửa tay đi xin người từng hột gạo.”
May
sao, cũng
là tiền duyên Bần-Đạo lại gặp tác-giả DỊCH KINH
TÂN-KHẢO trong lúc nước
biến gia vong, sự tồn vong của nước VIỆT NAM đang như trứng để đầu
giàn. Bần-Đạo cảm thấy Kinh này là cả một
triết-học Á-đông độc nhứt vô
nhị, mà chính là những bí-pháp
cổ-truyền của Đạo CAO-ĐÀI, một Đạo giáo
VIỆT-NAM hoàn-toàn nảy sanh ở cái triết-lý
hoàn-toàn Á-đông mà KINH này
gồm hết những lý thuyết cao siêu mà ông
NGUYỄN-MẠNH-BẢO đã nêu cao
tinh-thần ĐẠI-ĐẠO.
Trong
lúc nhân
tình xáo trộn, đạo-lý suy đồi ai ai cũng
nhìn về danh với lợi, một chân
trời xa thẵm u ám. Sau một cơn ác-mộng ghê hồn,
Bần-Đạo thấy giờ đã
điểm phải phổ-thông nền ĐẠI-ĐẠO, gieo rắc cho khắp cả
nhân-loại một
nhân-chính êm-dịu để tồn-tại nhân-sinh.
Với
một tấm
lòng vàng quí báu ông NGUYỄN MẠNH BẢO
đã khảo-cứu KINH này trong 20 năm
công-phu mới xuất-bản ra đời để cùng đồng-bào
và các đạo-hữu được một
phần nào thấu-triệt được ĐẠI ĐẠO, thì “Đại-Đạo tri
hành thiên hạ vi
công” không còn lâu vậy.
Vì
lẽ ấy
Bần-Đạo giới-thiệu với tất cả đồng bào Việt-Nam cũng như tất cả
dân-tộc
hiểu biết và trân trọng hòa-bình quyển KINH
này. Trong đó có tiềm tàng
một cái gì thiêng-liêng của nhân-loại,
của vũ-trụ. Bần-Đạo mong rằng
KINH này sẽ phổ-biến trong khắp thế-giới của loài người.
Tiết lập xuân, tháng chạp
năm Giáp Ngọ, tại Trí-Huệ-Cung Toà-Thánh
Tây-Ninh.
HỘ-PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
Chưởng-Quản Nhị
Hữu-Hình-Đài: Hiệp-Thiên,
Cửu-Trùng-Đài
Kiêm THƯỢNG TÔN QUẢN THẾ.
)
)(
__)_(__
__(_____)__
(((_________)))
) ׀ ( |
(Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển
II trang 62, Đức Chí-Tôn giáng dạy)
“Thầy
đã nói
với các con rằng: Khi chưa có chi trong
Càn-Khôn Thế-Giới thì Khí-Hư-Vô
sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là
Thái-cực. Thầy phân Thái-cực ra
Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến
Bát-quái,
Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra
Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân
tánh Thầy mà phân ra vạn-vật là: Vật-chất,
thảo-mộc, côn-trùng,
thú-cầm, gọi là chúng-sanh.
Các
con đủ hiểu rằng:
Chi
chi
hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt
có Thầy, Thầy
là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng
háo-sanh của Thầy không cùng tận.
Cái
sống của
cả chúng sanh Thầy phân phát khắp
Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như
một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy
nhứt định mới trổ
bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa
ra thêm; nếu như ai bẻ hoa
ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không
cho biến-hóa.
Mỗi
mạng sống
đều hữu căn, hữu kiếp, dầu nguyên-sanh hay hóa-sanh cũng
vậy, đến thế
này lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu
quả báo
không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng
phải là Tiên, Phật bị đọa
luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.
Cái
mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không
phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy”.
Bởi
thế nên Tôn-giáo Cao-Đài ngày nay đứng
về hai phương-diện:
*
Đạo có thể-pháp và bí-pháp của Đạo
tức là Thiên-đạo.
*
Đời có thể-pháp và bí-pháp của Đời
tức là Thế-đạo.
Quan-trọng
nhứt là bí-pháp, vì vậy nên khi Thầy
giao cho ông Bính làm một trái
Càn-Khôn, để làm biểu tượng tín-ngưỡng của
Đạo Cao-Đài, Thầy có dạy rõ:
“Bính,
Thầy giao cho con lo một trái Càn-Khôn; con hiểu
nghĩa gì không? Cười!
“Một
trái như
trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kính
tâm ba thước, ba tấc, nghe con,
lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ
mầu-nhiệm Tạo-hóa trong ấy, mà
sơn màu xanh da trời, cung Bắc-đẩu và tinh-tú vẽ
lên Càn-Khôn ấy. Thầy
kể Tam-Thập-Lục-Thiên, Tứ-Đại-Bộ-Châu ở không
không trên không-khí; tức
là không phải tinh-tú, còn lại
Thất-Thập-Nhị-Địa và Tam-Thiên-Thế-Giới
thì đều là Tinh tú. Tính lại ba ngàn
bảy mươi hai ngôi sao. Con phải
biểu vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách Thiên văn
Tây ra coi mà bắt chước.
Tại ngôi Bắc-Đẩu con phải vẽ hai cái bánh
lái cho đủ và sao Bắc-Đẩu cho
rõ-ràng. Trên vì sao Bắc-Đẩu vẽ con Mắt
Thầy; hiểu chăng? Đáng lẽ trái
ấy phải bằng chai đúc trong một ngọn đèn cho nó
thường sáng; ấy là lời
cầu-nguyện rất quí-báu cho cả nhơn-loại
Càn-Khôn Thế-Giới đó; nhưng mà
làm chẳng kịp, thì con tùy tiện làm thế
nào cho kịp kỳ Đại hội. Nghe à!
Còn
chư Phật, chư Tiên, Thánh, Thần, đã lên cốt,
thì để dài theo dưới, hiểu không con?” (TNI/45)
Đối
với Trời đất thì bao-la, mà sự hiểu biết của người
thì hữu hạn, do đó phải học, phải hỏi:
Đây
là lời của Đức Hộ-Pháp cầu hỏi Thầy:
“Bần-Đạo
xin nhắc lại ngày giờ khi mới khai đàn tại Cần-Thơ,
có mấy vị Đồ Nho hầu đàn, xin bạch với Thầy như vầy:
“Bạch
Thầy,
xin Thầy từ-bi giải cho chúng con rõ hình-thức của
càn-khôn vũ-trụ ra
sao, mà các con thường nghe mấy vị Đồ Nho bàn cải
với nhau, mỗi mỗi
không in một lý. Người thì nói Trời lớn,
người thì nói Phật lớn. Trong
sách Tam-Tự kinh chú-giải thì Đức Thánh
nói “Tam-Thập-Lục-Thiên” còn
trong kinh Thầy thì nói “Thượng chưởng
Tam-Thập-Lục-Thiên" nên phần
nhiều bình luận phân phân bất nhứt. Các con
không hiểu thế nào là đúng,
xin Thầy từ-bi xá lỗi.”
Thầy
giảng dạy:
“Các
con có học rộng, nhưng cái rộng còn khuyết điểm
muôn phần.
Nơi
thế-giới
hữu-hình hiện-tượng trước mặt mà còn chưa hiểu
đặng, huống hồ gì
thấu-đáo sự vô-hình. Vì huyền-diệu
thiêng-liêng mà người không học Đạo
dễ gì hiểu đặng. Những bậc Thánh trước Hiền xưa ra
công tham-khảo, cùng
đời mãn kiếp còn chưa vén nỗi cái
màn bí-mật của Đấng Tạo-hoá đón ngăn,
huống chi người thường-nhơn luận-bàn sao cho suốt lý.
“Kể
từ khi
Thầy sai Bàn-Cổ xuống thế mở mang điạ-cầu này, nhơn-loại
thuở đó còn
hình tượng thiêng-liêng, chưa biết mặc áo
quần, còn ở nơi hang hố, chưa
có nhà cửa, văn-tự.
“Từ
đó về sau
cách mấy muôn năm, đến đời Ngũ Đế, Phục-Hy, họ thường hết
tâm theo
“Quái điểu-tích” (tầm dấu chân chim, thú)
chế ra Văn-tự để ghi nhớ. Từ
đó về sau mới có lịch-sử. Nên lúc có
văn-tự bất quá nghe truyền, nghe
độ chừng rồi chép bướng, hỏi vậy lấy đâu làm bằng
cớ? Ấy là nói sự tích
ở thế-gian này mà còn chưa rõ, còn
luận qua thế-giới khác như nhắm mắt
mò kim nơi đáy biển hay bầy kiến tìm đường
lên núi Tu-Di, thì đó là học
thuyết của con người mài kiếm dưới bóng trăng, ếch nằm
đáy giếng. Cũng
có lắm người gọi mình là hay giỏi, dẫn người lạc
bước sai đường; thân
mình mù-quáng mà chưa hay, còn
làm tài khôn dắt thêm kẻ tối đui thì
làm
sao khỏi lọt vào đám gai chông cùng sa hầm
hố.
“Vậy
trước khi
chưa phân Trời đất, KHÍ-HƯ-VÔ bao-quát
càn-khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ.
Đó là một cái Trung-Tâm-điểm tức là
ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra
Thái-cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại
thành ngôi
Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn
là một khối, đúng mấy
muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ
khúc, thì đã có
Thầy ngự trong ngôi THÁI-CỰC; rồi có một tầng
ÂM và một tầng DƯƠNG gát
chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn
cánh gọi là LƯỠNG-NGHI sanh ra
TỨ TƯỢNG. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như
chong-chóng,
lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế-giới, chữ thập ấy
dưới có bốn
cánh bông kêu là TỨ ÂM, TỨ DƯƠNG
tác thành Bát-quái là: Càn,
Khảm, Cấn,
Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Bát-quái
mới
biến-hóa vô cùng, phân định Ngũ-hành,
càn-khôn muôn vật. Thái-cực sanh
Lưỡng-nghi tức Tam-thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba
ngôi ấy có
Tam-Thập-Lục-Thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi
trên là ba
mươi sáu từng trời, nên gọi là
Tam-Thập-Lục-Thiên. Trong mỗi từng Thầy
chia chơn-linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản.
Chỗ
Thầy ngự
gọi là Bạch-Ngọc-Kinh, là kinh toàn ngọc trắng,
rộng cao vòi-vọi, ngoài
có Huỳnh-Kim Khuyết là cửa ngõ bằng vàng
ròng cực kỳ mỹ-lệ.
Dưới
ba mươi
sáu từng Trời còn có một từng nữa là nhứt
mạch đẳng tinh-vi gọi là cảnh
Niết Bàn. Chín từng nữa gọi là Cửu-Thiên
Khai-Hóa tức là chín phương
Trời cộng với Niết-Bàn là mười, gọi là Thập phương
Chư Phật. Gọi “chín
phương Trời, mười phương Phật” là do đó.
Cõi
Niết-Bàn
là chư Phật ngự, Phật-Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan-Âm
ngự nơi hướng Nam,
mỗi từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương
bát hướng, liên đài hằng-hà
sa-số Phật.
Còn
Như-Lai là
cảnh Phật chớ không phải danh Phật, nên trong kinh
có câu “Bổn giác vị
kim giác Như lai.” Bồ-Đề là chỗ Phật ngự, Phạm-môn
là cửa Phật, Bĩ ngạn
là đất Phật.
Huỳnh-Kim
bố
điạ là vàng ròng đầy đất. Còn chỗ Nam-Hải
Ngạn thượng là Quan-Âm ngự,
gần bờ biển nơi hướng Nam cảnh Phật, chớ không phải hướng Nam nơi
cảnh
phàm. Đó là còn ở Thượng tầng
không-khí hay là VÔ-VI CHI-KHÍ.
Rồi
kế đó là
Đại Thiên thế-giái, kế là Thượng phương
thế-giái là chỗ Đức Tây-Vương
Mẫu ngự nơi Cung Diêu-Trì, gần đó có vườn
Ngạn Uyển Bàn-Đào, Ngũ nhạc
Bồng-lai Nhược-thủy.
Các
Đấng
Thiêng-Liêng Nam Nữ hằng-hà sa số lâu
đài cung điện toàn bằng ngọc-ngà
châu báu, hỗ-phách san-hô, Điện đài
lãng phương trong cảnh Nhị châu
chơn võ. Nơi linh-thiêng Tiêu-điện là chỗ
Tiên nhóm hội, có Ngọc-Vệ
Kim-nương, gia lê quả táo, toàn là
Tiên-dược nhẹ-nhàng cũng như đơn kim
để Hồ huỳnh-tương trường-sanh chi tửu, là rượu trường sanh
dùng đặng
sống không chết. Kế đó là Trung-phương
Thế-giái cũng là nơi Cung điện
của Thần-Tiên, Nhơn-Tiên, Quỉ-Tiên, các bậc
quần Tiên.
Rồi
tới
Hạ-Tầng-Thế-giái, Tam-Thiên-Thế-Giái, Ba
ngàn quả tinh-cầu phân làm
Tứ-Đại-Bộ-Châu rồi nối theo Thất-Thập-Nhị-Điạ, tức là Đệ
nhứt cầu cho
đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.
Từ
hồi có
địa-cầu này cho đến nay là mười hai muôn
chín ngàn sáu trăm năm
(129.600). Dưới các con, còn có bốn địa-cầu nữa.
Còn U-Minh kêu bằng
U-Minh-Giới chưa có loài người.
Thế-giới
địa-cầu khác nhau là do không-khí nặng nhẹ
khác nhau, tùy theo công-quả
của mỗi tinh-cầu, cách nhau từ một cho đến mười muôn dặm,
luôn luôn xây
tròn giáp một vòng ba trăm sáu mươi
ngày gọi là một năm.
Nơi
địa-cầu
cũng có sơn xuyên hà-hải như
Thái-Bình-dương, Đại-Tây-dương, Bắc-hải,
Hắc-hải, chỗ trắng, chỗ đen, chỗ xanh, chỗ đỏ; bề sâu có
chỗ tới tám
ngàn thước, có chỗ ba ngàn thước, có chỗ
hai ngàn thước, không đều
nhau.
Còn
núi Tu-Di
cao phỏng độ tám ngàn thước. Núi nhiều nên
chỗ thấp, chỗ cao không
đồng, phong-thủy mùa tiết nóng-nực không đồng,
mùa nắng tại đây, chỗ
khác lại mưa; xứ nóng-nực, xứ lạnh-lùng,
ngày đêm trong cực-địa hai
mươi bốn giờ, còn ở Bắc-Băng-dương sáu tháng tối,
sáu tháng sáng, quanh
năm nước đặc như giá, chỗ chua, chỗ mặn, chỗ ngọt, không
đều.
Màu
da mỗi
người: nào là da trắng, da đen, da vàng, da đỏ.
Nước thì lớn, cao
đồ-sộ, nước thì lùn, thấp, nhỏ con; dân-số
trên toàn cầu phỏng định hai
ngàn ba trăm triệu, sanh sanh tử tử không ngừng.
Loài
điểu thú,
côn-trùng, cũng đều khác lạ, như chim
đại-bàng rất lớn, lần lần nhỏ như
chim cắc, chim sâu...Loài cá như cá
ông, cá mập, cá xà, rồi nhỏ lần là
cá bạc má, cá trắng.
Loài
thú như
tượng, voi, rồi tới những loài nhím như chuột, bọ... Tới
loài cỏ cây,
cầm thú, suốt đời ta còn chưa hiểu hết, lựa là đến
việc cao siêu, nếu
ta không học hỏi với các Đấng vô-hình
thì ta phải chịu tối-tăm mù-mịt
không mong gì đạt thấu huyền-vi mà
siêu-phàm nhập Thánh, hễ ta học
nhiều chừng nào, ta sẽ thấy dốt nhiều chừng ấy.”
Kết-luận
của Đức Hộ-Pháp Giáo-chủ Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:
“Vậy
chư
Hiền-huynh, Hiền-Tỷ, phải gia tăng sưu-tầm cho hoạt-bát, nếu ỷ
lại sự
hiểu biết của mình gọi là đủ, thì dạ thảo
bích châu dường muôn dặm,
bóng xế chiều không ráng bước, ắt là phải
trễ.
Có
một ngày
kia, Bần-Đạo hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn rằng: Phàm hễ
làm Cha là Cha,
còn Thầy là Thầy, chớ sao Đại-Từ-Phụ lại xưng là
Thầy, rất nên khó hiểu.
Ngài
trả lời như vầy:
Người
cũng vốn CHA, THẦY luôn một,
Cả Chơn-linh, hài cốt tay Người.
Nuôi hình dùng vật tốt-tươi,
Tạo hồn lấy pháp tột vời Chí-linh.
Nơi Người vốn quang-minh cách-trí,
Tấn-hóa hồn phép quí không ngừng,
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật, Tiên.
Luật Thương-yêu, quyền là Công-chánh.
Gần thiện-lương, xa lánh phàm tâm,
Làm cha nuôi-nấng ân-cần,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Thiên.
Với
một tấm lòng vàng quí báu ông NGUYỄN
MẠNH BẢO đã khảo-cứu KINH này trong 20 năm.

►Xem tiếp CHƯƠNG I: >>>>>