VỊ TRÍ TRÁI ĐẤT TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ
và vị trí của con người trong trời đất nầy.

Con người từ đâu đến đây? Nhìn lại thân mình có giống con bọ đang bò trên màn ảnh nầy không?
Nếu lên phi thuyền không gian bay đi trong Vũ Trụ và nhìn xa hơn nữa thì so trái đất nầy với Vũ Trụ thì có bằng hột cát không?
Tại sao hiện nay nước lớn sanh sản cho đông như Trung Quốc lại đi cướp nước Việt Nam theo vết dầu loang? Chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, rồi
chiếm Miền Trung làm nhà máy Bauxite chế nhôm mang về nước? Mướn hay lấy đất biên giới trồng cây và di dân cho đầy lấn đất và lấy đất luôn?
Ai là Gorbatschev của Thánh Địa Việt Nam? Trong truyện Phật giáo có chuyện một tướng cướp mà giờ chót ăn năn tu nhanh thì thành Phật,
còn vị sư phải tu nữa và luân hồi tu thêm mãi. Năm 2010 theo Thiên cơ do các nhà thần nhãn như Vanga, Nostra Damus, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sấm giảng của Sư Bán Khoai, ông Đạo Khùng, ông Đạo Nhỏ và thánh giáo của Đạo Cao Đài và hình ảnh chụp, nhìn từ không gian của Cơ Quan NASA và nay lệnh cấm phổ biến về UFO có thật đã được "lộ thiên cơ" là người Hỏa Tinh là số nhân loại trái đất có tần số 68 Dương Phan Sơn nầy sau khi bị Luật Tam Giáo Tòa của Thiên Đình phạt vì giới lãnh đạo quá tàn ác, coi dân như loài thú, nên lục địa sụp tức khắc trong đêm bị chết tức khắc, còn chư đạo sĩ đạo đức lái  phi xa chạy bằng cách dùng thần lực của tư tưởng rút năng lực của chất Ether trong không gian làm chạy máy phản lực UFO, dân chúng châu Atlantis xài năng lượng mặt trời bằng quả cầu Pha-lê lớn để chạy máy điện. Những nhà đạo đức của Hỏa Tinh đã đáp UFO nhiều lần xuống trái đất cảnh báo là loài người không được chế bom nguyên tử nữa, dùng bom hăm doạ hay cùng nhau tự hủy là giải pháp vô nhân đạo, sẽ bị luật Thiên Điều phạt như giống dân châu Atlantis đã bị. Có 2 người thuộc Châu Atlantis đầu thai xuống trái đất để hủy bỏ ý thức hệ cộng sản trở về Dân Chủ, nhưng lòng tham còn nhiều nên mới có khủng hoảng tiền tệ, kinh tế và Đại Chiến thứ Ba. Các "Anh Cả" Bộ Lạc Koji cũng đã cảnh cáo một lần tại Đại Hội Tôn Giáo ở Chicago, nhưng các nước không tin và không nghe. Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu đã hóa thân thành MẸ ĐỒNG TRINH MARIA hiện ra tại Fatima năm 1917 nước Bồ Đào Nha đê bảo đứa bé chị cả của 3 em bé chăn cừu viết thư cho Giáo Hoàng thông bào là Giáo Hoàng phải ăn chay trường, ra lệnh cho các hàng Giáo phẩm phải ăn chay trường, bố thí, đọc kinh cầu nguyện, tránh dâm dục để không xảy ra Đại Chiến 1914-1918, 1939-1945 và Đại Chiến 2010, ...1014 bằng nguyên tử.
Một khoa học gia Hoa Kỳ đứng tại Floria nhìn bầu trời, tính về tốc độ, không gian, thời gian và tàm nhìn bằng lủy thừa sau đây, xem xong quì vị đọc trang về Đạo Học để mong thoát khỏi Đại Hồng Thủy do nước đá từ 2 cực trái đất tan ra và do bom nguyên tử của 18 nước nổ tại Thái Bình Dương. để giành vàng đem của Việt nam.
太  平  洋 Pacific Ocean = Đại dương rộng lớn thật, nhưng muốn thái bình phải tu, thương nhau, chia nhau từng miếng ăn, vong kỷ vị tha thì mới có thái bình,
ngược lại thì cùng nhau chết hết thì biển mới lặng, mặt nước mới bình, không còn ai sống sót. Còn loài thú tiến hóa lên làm người theo
chu kỳ Sắc => Không => Không => Sắc .... mãi.

VŨ TRỤ CÓ TỪ HỒI NÀO?
ĐẤNG NÀO TẠO DỰNG? TẠO DỰNG BẰNG CÁCH NÀO?

TÔI LÀ AI? CHÚNG TA LÀ NHỮNG NGƯỜI TỪ ĐÂU ĐẾN ĐÂY? SỐNG ĐỂ LÀM GÌ? CHẾT RỒI HỒN CHÚNG TA ĐI ĐÂU?
HAY LÀ THEO KINH THÁNH CỰU ƯỚC GHI "Cát bụi trở về cát bụi" nghĩa là chết rồi hết ư?
Tại sao có quá nhiều Tôn Giáo? Làm sao thấy cõi vô hình và nói chuyện với người trong cõi vô hình?
VẠN GIÁO NHẤT LÝ LÀ GÌ?

VẤN & ĐÁP
1) Vũ trụ rộng lớn bao la vô giới hạn hay có giới hạn ?
     Trí óc con người chưa có thể tưởng tượng nỗi sự vô giới hạn là đi mãi đến đâu và còn gì nữa và đi mãi không chấm dứt sao?= vô cực => viết tượng trưng bằng toán học là con số 8 nằm ngang = http://www.spiegel.de/images/image-121398-panoV9free-rbqy.jpg
infinie = Unbegrenz và muốn hiểu thì con người phải học Khoa Huyền Bí Học hay Khoa Học Huyền môn = l´ésotérique ) die Esoterik ) die Grenzwissenschaft tức khoa học mà trí óc con người bị giới hạn, vì không chứng minh bằng máy móc khoa học, được , thuộc cõi vô hình, chiều thứ 4 (4D) tức cõi Trung giới, cõi Thiên đàng (5D) hay cõi của tư tưởng = làn sóng hạ tần, trung tần, cao tần, siêu tần số = làn sóng Radio => làn sóng truyền hình = cõi của cái Vía hay the astral plan = Astralebene (thể tình cảm), của cái trí (the mental plan) hay cõi Hạ Thiên, cõi Thượng Thiên, cõi Bồ Đề, cõi Niết Bàn, cõi Đại Niết Bàn (6D) và cao hơn hết là cõi Tối Đại Niết Bàn. (7D) Đức Phật Thích Ca có lục thông thì nhìn thấy cả nguyên tử khi ngài nói một hạt cát là một Vũ Trụ như Thái Dương Hệ, (vi trùng, vi khuẩn hay một giọt nước có hàng triệu sinh linh), vào năm 1875 một nhà huyền bí học người Nga là bà H.Blavatsky dùng thần nhãn thấy các cõi vô hình và viết bộ sách La doctrine secrète = The secret doctrine = Khoa Huyền Môn giải rõ tất cả các cõi, các loài, những hiện trạng trong Vũ Trụ viết bằng tiếng Anh, dịch ra tiếng Pháp, Đức ( die Geheimslehre)... và tại Madra, Adras, India có Hội Thông Thiên Học Thế Giới có đủ kinh, sách, tài liệu về Khoa Huyền Môn. Chư vị độc giả nào muốn tìm hiểu thì đọc sách Thông Thiên Học Links sau đây:
                                                                   http://www.thongthienhoc.com/trangsach.htm
Các nhà khoa học nghĩ rằng Vũ Trụ là bầu trời hình khối tròn không giới hạn và đi ra mãi thì vẫn còn hoài, nhưng qua viễn vông kính thì thấy những lổ hổng đen ( schwarzes Loch) và khi Vũ Trụ hiện tại xuyên qua lổ hổng đó thì ra sao? Bị hủy diệt và tạioVũ Trụ mới? Theo chu kỳ kín của Vũ Trụ thì qua 4 giai đoạn: Thành, trụ, Hoại và Diệt mà Diệt sẽ trở lại Thành mới liên tục không gián đoạn, do đó trường tồn  ( in Ewigkeit = imortel = mãi mãi = không sanh không diệt liên tục = recycling... vể vật chất ( vật lý = physique = Physik = hữu hình = Hậu Thiên) cũng như vô hình = Tiên Thiên. Sơ đồ Vũ Trụ được thành lập theo Tiên Tri Moses (Mô-se) khi ông viết cuốn thứ nhứt của Kinh Thánh Cựu Ước thì nói Vũ Trụ do Đức Chúa Trời sáng tạo trong 7 ngày, so với Phật giáo thì 7 thời kỳ, so với Huyền Bí Học thì 7 cõi thành lập qua 7 giai đoạn => theo Kinh Dịch là bản đồ của Ông Tổ nhơn loại mà người Việt Nam hay giống Lạc Việt không ghi vào sử sách hay lịch sử dân tộc, nhưng chỉ nhớ trong trí và hậu duệ của Đức Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ không viết ra Kinh Dịch mà chỉ vẽ lên lưng con ngựa có lông xù hay con Long Mã, con cháu của Nhị Tổ làm vua  (là vua Phục Hi) ở vùng phía Bắc thấy con Long Mã có hình những vạch trên lưng và cho các quan giải thích mà viết ra cuốn sách gọi là Kinh Dịch nói về Tiên Thiên Bát Quái; Vua Văn Vương cũng là con cháu của Nhị Tổ Vua Hùng ở vùng Động Đình Hồ thấy con rùa có những điểm chấm và gạch trên lưng và giải nghĩa ra là Hậu Thiên Bát Quái. Dân Hán là con cháu của Nhị Tổ nhơn loại là những đứa cháu bất hiếu, chỉ biết săn bắn, là dân du mục lên phía Bắc sống xưng là  giống Hán và giống Mông Cổ, riêng Nhị Tổ của nhơn loại là hai vị Chiết Thân của Đức Thượng Đế sanh tại Châu Phi, di dân cùng con cháu lên phía Bắc vào thời Lemuria và trái đất bị huỷ diệt, còn sống sót, sanh sản ra thêm và sống trên lục địa Atlantis. Châu Atlantis cũng bị hủy diệt, nền văn minh cao nhứt của thời nầy mà loài người biết sử dụng khí Ether trong không khí làm chạy phi xa hay máy bay mà ngày nay các khoa học gia gọi là UFO chứ chưa biết chế tạo ra chất rắn nhứt là Lithium lấy từ cát  chế ra solat Zellen hay pha để luyện kim. Giống dân Atlanter bay lên Hỏa Tinh và các Hành tinh khác sống tiếp, con cháu giống dân Atlanter là Maya, ở  Trung Mỹ,  Ai cập ở Phi Châu còn sống sót và các Kim Tự Tháp còn sót lại, là nền văn minh về khoa học rất cao  mà họ quên hết, với toán học, lịch học, Vũ Trụ học, Thiên văn học, cách làm mất hấp dẫn của trái đất mà xây Kim Tự Tháp, Angkor Watt. để nâng nhửng tảng đá khổng lồ nhẹ như lông hồng. Nhị Tổ của nhơn loại di dân qua Á Châu là Chiết Thân của Đức Thượng Đế nên rất thông minh (ngài tu hơn 40 triệu năm, biết khoa luyện kim và chế ra trống đồng với chữ và hình vẽ như con lăng quăng, ý  Nhị Tổ Nhơn Loại dạy là phải tu luyện theo Kinh Dịch là Chiết Khảm điền Ly (Đức Khổng Tử san định lại Kinh Dịch cho rõ hơn, nhưng ngài không hiểu hết pháp tu, và ngài phải học với Đức Lão Tử khi vị Thái Thượng ạo Tổ hoá thân làm Hạng Thác hay đứa bé 6 tuổi để dạy pháp tu Tiên cho Đức Khổng Tử),  Đức Lạc Long Quân và bà Âu Cơ vẽ Kinh Dịch để biết cách tu luyện cho có Kim Thân. và lưu truyền cho hậu thế bằng Bùa Bát Quái .Dân Hán sanh sản quá đông và đánh Nhị Tổ cùng Hậu Duệ  là giống Lạc Hồng hay Lạc Việt, đuổi khỏi vùng Quảng Đông, Quảng Tây, phải chạy xuống phía Nam và phía Tây (báo động chạy tị nạn bằng cách đánh trống đồng vang khắp nơi),  về phương Nam thành lập Thánh Địa có hình chữ S để phân chia lục địa thành hình Kinh Dịch: Biển Đông là Thái Âm, đất liền của nước Việt Nam là Thái Dương, đảo Hải Nam của Việt Nam thời trước là Thiếu Dương, biển Hồ Tonlésap tại Nam Vang là Thiếu Âm, Hoàng Sa và Trường Sa, Côn sơn là Khảm, Cấn, Chấn, Vùng ba Biên giới là Dak-Nông mà TT Nguyễn Tấn Dũng đã bán nước cho Tàu là Tây Kim hay Ly; Trận đồ sẽ xảy ra tại Việt nam là Biển Đông với mõ dầu lớn lao dưới lòng đất của Biển Việt Nam đã được Đức Thượng Đế cho Tài
Thần Nam Quôc trấn giữ, và trận đồ Long Hoa Đại Hội ở Biển Đông là Thiên-Đồ, không có nước nào phá nỗi trận đồ nầy. Theo thánh giáo của Đức Thượng Đế trong Tam Nhựt Đàn thì trận đồ nầy kết thúc Nguơn Cuối của nền văn minh vô đạo đức duy vật vô thần nầy (chủ thuyết Cộng sản do Karl Marx đưa ra là chủ trương Duy Vật biện chứng pháp vô thần, Lenine, mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh rất tàn ác, vô nhơn đạo. Nghiệp quả của các dân tộc tàn ác như Trung Quốc, Nhựt bổn, nước Đức, nước Anh,... sẽ trả nghiệp cho xong. Do đó: Nhựt Bản đang bi động đất, sóng Thần, Trung Cộng bị các dân tộc Mãn, Hồi, Mông, Tây Tạng...nổi dậy và Thiên tai đánh sụp cả nước Tàu như ngập lụt, động đất và nếu Trung cộng nổ súng trước ở Biển Đông thì nước Tàu sẽ tan tành ra tro bụi. Trái đất sẽ đổi trục và các nước chỉ còn sống sót 10% mà thôi. Dân Việt Nam có một tôn giáo do chính Đức Thượng Đế mở ra từ năm 1926 là Cao Đài Giáo, có cả Phật Giáo Hoà Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Đạo Thờ Trời bổ túc và hòa đồng tôn giáo và Đức Chúa Giê-su ( Jésus Christ) giáng sanh tại Việt Nam xưng là Đức Di Lạc Thiên Tôn xuất hiện khi Long Hoa Đại Hội kết thúc. Ngài là Long Hoa Giáo Chủ hay Chủ Khảo phán xết lần cuối của Nguơn Hạ và là Minh Vương của nước duy nhứt trên trái đất hay Quả Cầu thứ 68 nầy. Ngôn ngữ là tiếng Việt, (vietnamese language là để thế giới cùng học cho dễ, không dùng chữ Nho của Đức Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ nữa, cũng không dùng chữ Nôm của các Hậu Duệ nước ại Nam nữa) giống dân của trái đất là giống dân Bích Ngọc. Chỉ toàn là người hiền mà thôi. Những kẻ dữ, là giống Hán tàn ác, ăn thịt người, ăn thai nhi, bán độc chất, gạo nylon, bánh bao plastic, DDT, formol. màu pha trong măng tre , trà Trân Châu, ớt tầm phóng xạ, trái cây tẩm chất độc...bán cho Việt Nam, đồ chơi trẻ em với chất chì làm cho sự thông minh của trẻ con trên thế giới bị hư hoại với mộng bá chủ hoàn cầu của Tàu Chệt sẽ tan rã khi nhơn loại tẩy chay hàng hoá made in China, nước Tàu bị trả nghiệp quá nặng. Nước Đức tuy bị quả nghiệp nặng là gây Đệ Nhị Thế Chiến và giết 6.000.000 dân Do Thái, nhưng dó là dân Juda bị Chúa phạt và dân Đ1ưc biết trả nghiệp bằng lòng từ thiện, biết ăn chay trường, có tàu Cap Anamur cứu thuyền nhân và hiện nay cứu cả thế giới, trả tiền cho Nga và liên kết với Gobatschev để thống nhứt nước Đức và một người Việt Nam là Dr. Philip Roesler đang chuẩn bị cai trị nước Đức. Tuy Vũ Trụ vô biên, nhưng khi nhìên lại trái đất thì Tiên Thiên và Hậu Thiên vẫn giống nhau, các luật trong Vũ Trụ tác dụng cho cả Vũ Trụ và con người. Luật Trời ứng dụng cho nhơn loại và dân Việt Nam là CHỦ của nhơn loại sau nầy. Tại Việt Nam sẽ có trường dạy Đại Đạo do Đức Chúa Giê-su hay Đức Di Lạc dạy cho cả nhơn loại. Đứcv Thượng Đế tiên tri:
                                                           "Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc,
                                                            Ngày sau làm CHỦ mới là kỳ!" (xin đọc Thánh Ngôn Hiệpo Tuyển trong Đạo Cao Đài sẽ rõ)
2) Vũ trụ được thành lập như thế nào?
     Đáp  Xin quí độc giả đọc hết cuốn sách Cao Đài Giáo trong Tam JKỳ Phổ Độ sẽ hiểu rõ hon. Những câu hỏi tiếp theo cũng được giải đáp trong cuốn sách nầy:
              http://caodaigiaoly.free.fr/CDGTTKPD.html
 
3) Đấng Sáng Tạo làm cách nào để thành lập Vũ Trụ ?
3) Đức Thượng Đế làm cách nào để tạo lập mọi vật trong thiên nhiên?

4) Tại sao có quá nhiều ngôi sao và dãy ngân hà ?
5) Có bao nhiêu cõi trong Vũ Trụ ?
6) Có bao nhiêu hành tinh trong Thái Dương hệ và trong Vũ Trụ ?
7) Tại sao các hành tinh, định tinh không đụng nhau mà quay trong trật tự và
8) theo định luật nào?
9) Có những Định luật nào trong Vũ Trụ ?
      Luật Nhân quả là gì ?
     Thế nào là cá nghiệp? Con người có chịu trách nhiệm đối với chính mình trong  việc tạo nghiệp quả hay Trời ấn định sẵn số phận của mỗi người  hay tự con người tạo nên số mạng của mình?
     Thế nào là cộng nghiệp? Mỗi dân tộc có cộng nghiệp không? Những nhà văn  cũng như nhà viết truyện phim có chịu trách nhiệm hay chịu chung cộng nghiệp  với người đọc hay người xem phim bắt chước làm theo các vai mà gây tội ác  không?
          Luật Luân Hồi là gì ?
    Luật Hy sinh là gì? Người hy sinh cho kẻ khác luôn luôn bị thiệt thời hay có luật  bù trừ hay được thưởng theo luật công bằng không?
   Trong Đạo Phật thì Đức Thích Ca có dạy rõ về Luật Luân Hồi, tại sao Đúc Giê-su không dạy rõ Luật Luân Hồi và Đức Giaó Hoàng thứ 7 là Constantinoble lại cấm các vị linh mục dạy về luật Luân Hồi?(trong Kinh Thánh dịch là renaissance , Wiedergeburt hay Auferstehung hay người chét ngày sau sống lại - chớ không dịch Reinkarnetion, réincarnation)
 Luật Tiến Hóa là gì ?
10) Từ đâu  đưa đến những thiên tai khủng khiếp như đại hồng thủy, hạn hán gây tang tóc cho nhân loại ?
11) Có phải Đức Thượng Đế gây ra trận Đại Hồng Thủy  để giết những  đứa con bất hiếu gây ra tội Tổ Tông là không nghe lời Chuá dám bất tuân lịnh Chúa là ăn trái cấm không? Tại sao Ngài cho phép ăn trái khác trong vườn Địa Đàng không cho ăn trái cấm ? Ý nghĩa của trái cấm là gì?
12) Có bao nhiêu chủng tộc trên thế giới ? Tại sao màu da của nhiều giống dân như :  đen, vàng, đỏ, trắng khác nhau?
13) Tại sao Đức Thượng Đế tạo ra quá nhiều giống dân và cá tính lại không giống nhau?
14) Các giống dân tiến hóa bằng cách nào ?
     Những câu hỏi của nhân loại về Đức Thượng  Đế :
15) Thượng  Đế Ngài là ai ?
16) Ngài được sanh ra bằng cách nào ? Đấng nào đã sanh ra Ngài ? Trên ngài nữa là ấng nào? Tên gọi làgì?
17) Ngài là  đàn ông hay đàn bà ?
18) Ngài có bao nhiêu  đức tánh? Ngài công bằng hay bất công?
     Những câu hỏi của nhân loại về những vấn  đề của con người
19) Con người là ai ?
20) Con người xuống cõi trần để làm chi ?
 21) Mục đích của đời sống là thế nào?
 22) Con người chết rồi đi về đâu ? Tại sao ít có người tự hỏi hay hỏi người khác về ba câu trên? Tại sao có ít người trả lời được ba câu hỏi nầy hoặc mỗi người trả lời theo một ý riêng ?
23) Con người là một điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế. Tại sao con người không toàn năng toàn thiện như Đức Thượng Đế mà bất toàn?
 24) Tại sao Đức Thượng Đế không sanh ra con người toàn năng như Ngài mà sanh ra bất toàn ?
25) Tại sao con người phải chịu luật thành, trụ, hoại, diệt hay sanh, lão, bịnh, tử mà không sống trong hằng hữu  như Đức Thượng Đế?

26) Tại sao con người không giống nhau mà có kẻ thì giàu,người lại  nghèo, kẻ mạnh khoẻ người lại bịnh hoạn, kẻ thông minh, người  lại đần độn, kẻ làm như chơi mà đạt kết quả,còn  người siêng năng cố gắng mà thất bại?

27) Tại sao con người quên hết dĩ vãng, quên hết những điều đã học trong những kiếp trước?
28) Thiên tài là ai ?
29)Tại sao có quá ít người nhớ lại những khả năng của tiền kiếp mà đa số phải học lại từ đầu ?
30) Con người từ Đức Thượng Đế cho giáng trần. Tại sao con người không nhớ thời vàng son sung sướng trên cõi Niết bàn mà mê trần, quên hết dĩ vãng thánh thiện ?
31) Tại sao con người phải chịu sống cảnh đau khổ ở trần gian?
32) Tại sao người ta sợ chết ?
33) Tại sao người bịnh bịnh nan y hay đau khổ vì già yếu bịnh tật liên miên, muốn chết cho rảnh nợ đời mà khi chết lại sợ ? Tại sao trong các Viện Đưỡng lão tại các nước Tây phương có một số người nguyên là luật sư, Makler, Chánh án Toà của Vùng, Biện lý ...toàn là người giàu có mà khi bịnh phải nằm liệt giường đến 5,7 năm cho đến thối thịt (Dekubitus) mà không chết được ?Họ không chịu ăn để chết và khi cho ống dẫn thức ăn lỏng Magensonder vào bao tử theo lổ mũi hoặc chích ngay bụng thì sống lâu thêm nữa từ năm đến bảy năm trong đau đớn, khổ não vì con cháu ít đến thăm. Có vài người yêu cầu con cháu chở qua Hoà lan, nơi Luật pháp cho phép giúp đỡ chết trong êm ái và như vậy vị bác sĩ phụ trách chích thước ngủ vĩnh viễn cho bịnh nhân yêu cầu có bị luật Nhân quả trừng phạt là tội giết người không?
34) Tại sao đời sống con người quá ngắn, chỉ 70, 80 là cùng, có khi đến 100 tuổi rồi phải bịnh rồi chết? Trăm năm có quá ngắn ngủi không?

35) Tại sao đời sống của mỗi người kéo dài khác nhau?
36) Có số mạng hay không ? Có phải Trời ấn định số mạng cho mỗi người hay do ai định  đoạt thời gian sống ở cõi trần?
37) Có phải số mạng là bất công hay không? Đức Thượng Đế ấn  định số mạng giàu sang và số mạng nghèo hèn không? Trí thông
minh là gì? Sự may mắn là gì?
38) Cuộc đời có đáng yêu hay đáng chán? Những người chán đời tự tử có tội gì không?
39) Linh hồn là gì ? Thiên Thần là gì ? Thần Linh hay Thần minh là những vị nào?
            (Xin quí vị xem các câu hỏi của các khoa học gia Pháp hỏi các vị Thần Minh giáng cơ được ông Allen Kardec (-) ghi lại ztrong cuốn sách le livre des Esprits , do Nhà Xuất Bản VERMET , 10, rue du pière-Lachaise , 5020 Paris, tái bản Décembre 1996).
40) Có bao nhiêu linh hồn hay con người dưới trần thế?
41) Tại sao tổng số người trên trái  đất càng ngày càng  đông?
42) Thế nào là ý nghĩa của huyền thoại Adam và Ê-và ?
43) Thức ăn của loài người theo Kinh Thánh là những thứ nào? Tại sao có nhóm người không ăn máu hay sang máu?
44) Ai sống trong vĩnh cửu ? Nếu con người sống lâu đến ngàn năm thì đời sống có buồn chán không?
45) Tại sao có những người bị mù từ khi mới sanh ? Trẻ con nầy có làm nên tội tình gì mà phải chịu như thế ? Tại sao cha mẹ những đứa trẻ nầy mạnh khoẻ, không bị bịnh di truyền hay ăn nhằm chất độc gì mà sanh con ra như thế ?
     Tại sao cũng là người mà người thì sanh ra đẹp đẽ, người thì xấu xí, người thì tánh tốt, kẻ mang tánh xấu hay độc ác, người sanh trong gia  đình giàu sang còn người sanh ra trong gia đình nghèo đói ? Tại sao người thì sanh ra đàn ông còn người thì sanh ra đàn bà và có phải theo định luật hay do ý muốn của linh hồn? Tại sao có những người bị bịnh đồng tính luyến ái. Họ chỉ yêu và thích sống chung với một người cùng phái ? Đa số thì làm tình trái thiên nhiên nên sanh bịnh SIDA (AIDS) còn một số cặp khác thì chỉ sống chung như bạn hay như hai vợ chồng là bởi nguyên nhân nào?
46) Từ đâu  đưa đến những tai nạn mặc dầu người ta cẩn thận từ chút? Đức Chúa Giê-su giải thích như thế nào về những trường hợp nêu trên ?
47) Đức Chúa Giê-su dạy các Thánh Tông Đồ như thế nào về luật Luân hồi ? Tại sao nhiều người cùng là Đạo Thánh mà kẻ thì cắt nghĩa như thế nầy, người cắt nghĩa như thế khác về truyện Ni-cô-đem hỏi Đức Chúa Giê-su về sự "Sống lại" trong quyển Thánh Giaon Đọan II ?

48) Tại sao Đức Chúa Giê-su không giải thích rõ ràng cho Ni-cô-đem về luật luân hồi ? Tại sao Chúa không dạy như trong Đạo Phật ,như Đức Thích Ca đã dạy các đệ tử ? Có phải Kinh Thánh có sự thiếu sót không?
49) Có phải Kinh Thánh do Ý Chúa mặc khải qua chư Tiên Tri viết ra không? Đức Chúa Giê-su giảng và chư Thánh Tông Đồ viết ra Tân Ước, như vậy những lời viết có đúng trăm phần trăm không? Những vị nầy hiểu hết nghĩa bóng không?
50) Tại sao có quá nhiều Tôn giáo, nhiều Chi Phái trên thế giới ?
51) Đức Thượng Đế giáo dục con cái của Ngài qua bao nhiêu thời kỳ ?
     Thế nào là Nhứt Kỳ Phổ Độ ?
     Thế nào là Nhị Kỳ Phổ Độ ?
     Thế nào là Tam Kỳ Phổ Độ ?
52) Các lời dạy của chư Giáo Tổ trong các Tôn giáo giống nhau hay khác nhau ?
53) Có phải chư Giáo Tổ đều do  Đức Thượng Đế cho giáng trần để độ nhân loại không?
54) Các nhà Thần học, các Nhân Chứng Giê-hô-va, những người nghiên cứu Kinh Thánh... có hiểu hết ý nghĩa trong Kinh Thánh không ?
55)Mỗi con người nên học một Tôn giáo của mình hay cần học các Tôn giáo khác để hiểu Chân Lý ?
56) Có bao nhiêu loại đức tin ?
     Thế nào là cuồng tín ?
     Thế nào là đức tin mê tín dị đoan ?
     Người vô thần tin tưởng khoa học và không tin gì cả những gì họ không thấy. Tại sao ?
     Thế nào là đức tin Tôn giáo ?
      Thế nào là đức tin triết học ?
     Thế nào là đức tin minh triết ?
57) Có phải vạn giáo nhất lý không ? Tại sao người của Tôn giáo nầy đả kích phê bình, chê Tôn giáo khác ?
58) Tại sao cũng là cùng một lời dạy của Chúa Giê-su mà có quá nhiều Phái Tin Lành và các Phái khác ?
59) Tại sao cũng một Kinh Thánh mà mỗi người hiểu khác nhau và chưa có ai hiểu hết những lời dạy trong Kinh Thánh?
60) Tại sao sự giải thích Kinh Thánh của mỗi người khác nhau ?
61) Ai là Satan ? Satan có những tánh xấu gì ?
62) Tại sao Satan không bị Chúa trừng phạt mà để cho nó tự do tung hoành, mê hoặc hai người trong vườn Địa Đàng ?
63) Có phải Satan tượng trưng cho dục vọng của mỗi người không?
64) Tại sao đa số nhân loại bị chết vì trận Đại Hồng Thủy mà có 8 người sống sót ?
65) Tại sao Adam và Ê-va coi các loài thú như bạn. Khi xảy ra trận Đại Hồng Thủy thì con cháu gia đình Noah nuôi thú rồi lại ăn
thú nhà  ? Tại sao họ không thương loài thú như Tổ Tiên họ ?
66) Tại sao ngày nay có số người ăn thịt bò, gà, heo mà không ăn thịt chó, mèo? Có phải là sự bất công không?
67) Tại sao Chúa Giê-su nhịn ăn trong 40 ngày ? Cho biết mục đích ?
68) Tại sao những người theo Đạo Hồi không ăn thịt heo ?
69) Chúa Giê-su là bậc Thánh, là Đấng Thiêng Liêng Con Một Thiên Chúa. Tại sao Ngài còn phải  được Tông Đồ Gioan rửa tội cho ?
Cho biết ý nghĩa việc rửa tội ? Khi rửa tội phải hụp xuống nước hay chỉ được vị Linh mục nhểu vài giọt nước Thánh trên trán ? Tại sao có sự khác nhau ? Cách nào đúng? Cho biết ý nghĩa ?
70) Tại sao đa số những người tu thiền ăn chay? Cho biết ý nghĩa của sự ăn chay ? Ăn chay kém sức khoẻ hay có sức khoẻ ? Ăn chay có thiếu dinh dưỡng, thiếu chất đạm không ? Cho biết cách ăn chay  đúng theo khoa học ?
71) Tại sao trên thế giới có quá nhiều Tôn giáo ?Cho biết ý nghĩa của huyền thoại về tháp Ba-bên ?
72)Tại sao cá lớn nuốt cá bé ? Đó có phải là sự bất công không ?
73) Tại sao ông A-Đam và bà Ê-va sống trên 800 năm ? Số 80 đúng hay số 800 đúng ? Có phải là Kinh bị in sai hay thợ in sắp  thêm số zéro không ?
74) Tại sao đời sống hiện nay quá ngắn ?
75) Làm thế nào để được sống lâu ? Làm sao để tránh bịnh tật đau khổ ?
76) Làm sao để  bảo vệ sức khoẻ ? Làm sao để chuẩn bị cho tuổi già để chết an nhàn, khỏi bịnh hoạn đau khổ ?
77) Làm sao  để tránh ô nhiểm ?
78) Thân Tứ Đại là gì ? Thế nào là ý nghĩa của danh từ Tiểu Thiên Địa ?
79) Con người có bao nhiêu xác thân ? Thế nào là Kim Thân bất hoại ? Làm thế nào để có Kim Thân mà lên cõi Niết bàn?
80) Làm thế nào để Người hiệp nhứt cùng Trời hay Thiên Nhơn hiệp nhứt ?
81) Có bao nhiêu phương pháp thiền ? Tại sao chư Thiêng Liêng khuyên tu? (Ngài  Đức Minh Chơn Tiên tu giải thoát giáng cơ
khuyên)
82) Từ đâu có chiến tranh ? Tại sao Đức Thượng Đế không ngăn cản loài người gây chiến tranh mà  để loài người tàn hại nhau? Chiến tranh do Đức Thượng Đế hay do con người gây ra?
83) Thế nào là Ngày Phán Xét cuối cùng? Thế nào là Đại Hội Long Hoa? Tai sao Kinh Thánh, Sấm Giảng  đều nói đến Ngày Tận Thế nầy ? Đức Giáo Hoàng làm gì để chuẩn bị đến ngày  đó ? Chư vị giáo sĩ, chư tăng làm gì để chuẩn bị cho ngày nầy ? Chúng ta làm gì ?
     Ngày tận thế như thế nào? Chừng nào xảy ra? Tại sao sấm giảng của chư Tiên Tri như Nostradamus và Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm...không nói trắng ra mà tiết lộ bí mật có một phần?
     Một số câu hỏi khác của một số người đặt ra thêm vào đây :
84.Huyền bí học là gì ? Tại sao khoa học kỹ thuật tiến bộ cao tột như ngày nay mà không biết những định luật và các cõi vô hình
nên phải đi vào khoa Esoterik để nghiên cứu ? Khoa học thiên nhiên bị giới hạn đến ranh giới nào và khi nào họ mở ra chân Trời mới để biết khoa huyền môn và Đạo học?
85. Khoa Chiêm tinh, bói bài, bói Dịch, Độn, xin keo, xin xâm, khoa Địa lý huyền bí như long mạch, xây nhà theo hướng, cúng sao, đi xa cử ngày mùng 5,14,23 ....có tác dụng thiết thực không? Có phải là mê tín dị đoan? Theo huyền sử vua Phục Hi (4477-4363) thấy hình vẽ trên con Long Mã trên sông Hoàng hà rồi ngài phỏng theo đó mà vạch ra Tiên Thiên bát Quái và vua Vũ Nhà Hạ là Đại Vũ (2205-1766) thấy
trên lưng con rùa xuất hiện trên sông Hoàng Hà, ngài dựa theo đó mà vạch ra Hậu Thiên bát Quái  (thoán từ hay hào từ). Như vậy những vị nào đã vẽ hai hình đồ trên lưng hai con vật linh ở Trung Hoa để phổ biến Thiên cơ huyền bí và tạo lập Vũ Trụ ? Tại sao chư vị đã vễ đó đấu tên hay không muốn ai biết tên mình? Tại sao hai vị Vua không giải thích trực tiếp mà để đến đời sau là con của Vua Văn Vương là Chu Công Đán nghiên cứu kỹ hơn và đến đời Khổng Tử (551-479) mới giải thích cặn kẻ hơn?
     * Tại sao có vài vị Tiên tri thấy cuốn phim akasha của Vũ trụ viết ra Sấm ký như Nostradamus và Trạng Trình và không nói rõ mà chỉ dùng những danh từ khó hiểu cho người đời không biết được ? Tại sao ông Edagar Cayce cũng có nói tương lai rất rõ ràng không có nói thời gian chính xác thí dụ như trong Readings ông có nói về hai người thuộc Châu Atlantis : một người đầu thai vào nước Tàu sẽ thay đổi chế độ tuy hơi chậm từ cộng sản sang dân chủ (sau nầy người ta hiểu là Đặng Tiểu Bình) và người kia đầu thai vào nước Liên bang Sô Viết và làm thay đổi chế độ nầy để chiến tranh lạnh chấm dứt (sau nầy người ta hiểu là Gorbartchev). Tại sao các chư Thiêng Liêng giáng cơ cũng không nói Thiên cơ ? Muốn hiểu Đại Đạo, người ta phải học để hiểu thế nào là Vạn Giáo Nhất Lý?Phải làm sao để hòa đồng Tôn Giáo và tránh tình trạng như Thánh Chiến ở Âu Châu hằng trăm năm và nhu ở Bắc Ái Nhỉ Lan hằng mấy chục năm?
         Muốn trả lời những câu hỏi trên, người ta phải sử dụng các khoa học về tinh thần như Tôn  giáo học, Triết học, siêu hình học, Thần học, huyền bí học...để chứng minh, nhưng lại gặp sự bất khả tri. sau nầy nhờ có cơ bút mà một dân tộc nhỏ bé, một nước nhỏ nhoi trong bốn bể được học trực tiếp với Cha Trời, Mẹ Đất, với chư Giáo Tổ, chư Phật, chư Thánh, chư Thần..., nhờ thế mà những đệ tử của ông Thầy Trời mới được thỏa mãn các thắc mắc trrước đây, để an tâm, tin tưởng nơi Ông Thầy Trời lo tu tánh, luyện mạng tìm đường giải thoát khỏi Luân Hồi sanh tử trong một kiếp nầy.
        Giáo lý của Đức Chí Tôn Thượng Đế trong giai đoạn hiện tại và trong tương lai là sự tóm lược của Ngài để qui về ba nền chánh giáo tại Á Châu là Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo. Đức Chí Tôn Cha Chung Nhân loại cùng với Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn, chư Phật, chư Giáo Tổ các Tôn Giáo đã có, chư Tiên, chư Thánh , chư Thần và cả chư vị tu theo vô vi đắc quả giáng cơ theo phương pháp áp dụng điển linh thiêng như tần số của tư tưởng hay Thánh Ý Ơn Trên chuyển vào từ lực của đồng tử như phương pháp thông linh trong các Hội Thần Linh Học trên thế giới mà Đức Chí Tôn báo trước và tập lần cho các nhà khoa học làm quen với sự truyền thông huyền diệu nầy và trong Đạo Cao Đài ở Việt nam, qua Thánh Giáo cơ bút,chính  Đức Chí Tôn Thưượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đã mở Đạo trong thời kỳ ân xá thứ ba nầy để cứu độ con cái Ngài trên quả cầu thứ số 68 nầy. Giáo lý Đạo Cao Đài là bài ôn tập các giáo lý đã có vì nhân loại có quá nhiều căn trí, trình độ, khuynh hướng, sở thích, tín ngưỡng khác nhau để Ngài qui nguyên Tam Giáo và hiệp nhứt Ngũ Chi Đại Đạo
để nhân loại cùng học một bài học chung bởi hiện nay nhân loại đã tiến hóa khá cao về mọi mặt nên có thể hiểu được lời Ngài. Các Tôn giáo như những lớp học gồm :
          1. Các Tôn giáo thuộc Nhơn Đạo lấy sự công bình, bình đẳng giữa huynh đệ đại đồng như Đạo Khổng ở Trung Quốc.Tu
theo con đường tiệm tiến là Tu Thân, Tề gia, trị quốc để bình Thiên hạ.
            2. Các Tôn Giáo thuộc Thần Đạo ở Trung Hoa và ở Nhựt Bổn cũng từ Nhơn Đạo làm căn bản và sau cùng mới lo việc
nước là Trung quân, ái quốc.
          3. Các Tôn giáo thuộc Nhơn Đạo ở bậc cao hơn là Thánh Đạo như Khổng Giáo ở Trung Hoa và Thiên Chúa Giáo ở Do Thái lấy đức bác ái đói xử với tha nhân: Thương người như mình vậy.
            4. Tôn giáo của chư Tiên hay Tiên Đạo hayLão Giáo ở Trung Hoa là an bần lạc Đạo cầu tu giải thoát về
Tiên cảnh.
          5. Tôn giáo của chư Phật như Ấn Độ giáo vào Nhứt Kỳ Phổ Độ ở thời Thượng Cổ và Phật Giáo vào Nhị Kỳ Phổ Độ ở thời Trung Cổ là tin tưởng nơi luật công bằng là luân hồi, nhân quả và giáo lý rất khoa học của Đức Phật Thích Ca (Tín) để tập tánh cho tốt hơn (Hạnh) và ước vọng (Nguyện)  là làm như Phật đã làm là lấy lòng Từ Bi mà đối với chúng sanh kể cả loài vật nhỏ có sự sống, là căn bản để tu theo Tiệm Tiến của Bát Chánh Đạo và con đường chót là Thiền định để mở trí huệ để tự giải thoát (Tự giác). Đó là cỗ xe lớn (Đại Thừa) mà giúp người khác cùng lên xe về Bến Giác (Giác tha).
         Đức Thượng Đế giáo dục con cái của Ngài bằng cách gởi Chơn Linh của Ngài xuống thế có sứ mạng như những Tiên Tri, chư Giáo Chủ mở Đạo để giáo dân vi thiện trong ba thời kỳ tiến hóa của nhân loại :
          1- Thời Thượng Cổ :
             Ngài gởi các Tiên Tri như Mô-se và các Tiên Tri khác viết Cựu Ước dạy Thánh Đạo ở Vùng Trung Đông, có mười điều răn để dạy dân an hiền ở lành, bên Trung Hoa Ngài cho chư Tam Hoàng và Ngũ Đế dạy đạo đức cho dân Trung Hoa, ở Ấn Dộ Ngài cho Đức A-Di-Đà-Phật dạy Phật Đạo hay Ấn-Độ Giáo cho dân Ấn-Độ.
          2-Thời Trung Cổ :
             Chánh Đạo bị thất truyền nên Ngài gởi chư Giáo Tổ xuống thế chỉnh đốn lại giáo lý:
             - Ở Ấn Độ Ngài gởi Chơn Linh của Ngài mang xác phàm là Thái Tử Sĩ-đạt-ta tu luyện   đắc quả Phật, làm cuộc cách mạng xóa bỏ sự phân chia 4 giai cấp ở Ấn-Độ,Ngài dạy về Ngũ Giới Cấm để dạy dân lo tu tâm sửa tánh,  dạy triết lý giải thoát với Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và bửu pháp  thiền định.
             - Ở Trung Hoa Ngài gởi Chơn Linh của Ngài xuống thế mang xác phàm là Đức Khổng Tử, Đức Lão Tử và Đức Khương Tử Nha để mở Đạo dạy cho dân Trung Hoa ở ba cấp bực là Thần với Thần Đạo, Thánh với Khổng Nho và Tiên với Lão giáo.
             - Ở Trung Đông Ngài cho Chơn Linh của Ngài là Ngôi hai giáng thế là Đức Chúa Giê-su Ki-tô mở Thánh Đạo dạy dân Do Thái biết thương người khác như mình vậy (sau nầy Ngài có giáng cơ nhiều lần trong Đạo Cao Đài), Ngài còn gởi Đức
Mohammed , Đấng Tiên Tri sau cùng xuống thế để viết Kinh Coran dạy Thánh Đạo cho dân Á-Rạp là Hồi Giáo.
          3-Thời Hiện Đại :
         Đức Thượng Đế không gởi Chơn Linh của Ngài xuống thế trong thời kỳ thứ ba nầy vì Ngài biết nhân loại sẽ giết con Ngài như Đức Chúa Giê-su nữa, nên chính Ngài chuẩn bị trước ở khắp nơi là tập cho các nhà khoa học làm quen với phương tiện thông linh là xây bàn, dùng đồng từ viết cơ bút.. ở các Hội Thần Linh Học trên thế giới  như Ông Victor Hugo, Allen Kardec, Flammarion, Đạo Hinomoto và Oomoto ở núi Phú-sĩ bên Nhật, các Hội Thần Linh Học vv... và đến năm 1926, Ngài cho chư vị Tiền Khai tập xây bàn và Thất Nương Diêu Trì Cung tập cách cầu cơ cho những đệ tử Cao Đài đầu tiên ở Việt Nam, để sau đó chư vị nầy nhận Thánh Giáo là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật, Pháp
Chánh Truyền... để mở nền Đạo tại thế là Đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
             Giáo lý Đạo Cao-Đài là Vạn Giáo Nhất lý, là Thánh giáo của Đức Thượng Đế mà Ngài đã cho chư Tiên Tri, Giáo
Tổ mang xuống thế dạy nhân loại qua hai thời kỳ trước, nay được Ngài hay Cha Chung Nhân Loại, Đức Diêu Trì Kim Mẫu hay Mẹ Chung các loài, chư Giáo Tổ, chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, chư liệt vị Anh Hùng, chư vị đệ tử của Đức Cao Đài tu đắc quả, chư vị Tiền Khai Đại Đạo... giáng cơ tóm lược lại như để ôn bài, nhắc lại cho tín đồ của các Tôn giáo khác nhau hiểu chơn lý trong vạn giáo là nhất lý để không tranh chấp, kỳ thị nhau nữa, biết nguồn cội , lo tu mà trở về ngôi vị  thiêng liêng của mình..
         Mục đích mở Đạo Cao Đài là để Đức Thượng vớt những kẻ tánh đức lên cõi nhàn là quả cầu  67 và dạy pháp cho những nguyên căn lo tu để có kim thân mà về ngôi vị cũ ở Niết bàn hay Bạch Ngọc Kinh.
         Hiện nay nhân loại đang ở vào thời Mạt Pháp và là thời kỳ ân xá lần thứ ba, nên những người dưới cõi âm u gọi là địa ngục được Ơn Trên thả ra đầu thai lên cõi trần đoái công chuộc tội, dự thi chung với những người hiền, nên trên thế giới có nhiều tội ác vì bản tánh xưa của những người ác chưa hoàn thiện được, cùng nhau khảo đảo, thi chung khóa cuối chu kỳ tiến hóa.
             Giáo lý của các Tôn giáo là bài học chung cho mọi người ở mọi trình độ tiến hóa, ai thích Đạo nào thì theo Đạo đó, nếu qui nguyên nguồn cội để hành đúng chánh giáo thì  dự Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng cũng được.Kỳ Phán Xét nầy còn gọi là đổi đời hay chuyển thế. Xã hội sẽ có xáo trộn và thế giới sẽ gặp Thiên tai khổ nạn rất lớn người chết rất nhiều chớ không phải tận thế.
    Nhờ kỹ thuật tiến bộ, ngôn ngữ có nhiều Translators, có đủ từ... có Internet... nên mọi người trên thế giới có thể ngồi trước máy PC đọc, nghiên cứu mọi sự trên thế giới, nhất là giáo lý của vạn giáo.
         Hễ có bao nhiêu tỷ người là có bao nhiêu Tôn giáo riêng cho cá nhân từng người. Ai có duyên nào thì gặp đường đó. Đường nào cũng về Đại Đạo.
         Nhân loại tiến hóa từ vô minh đến nơi sáng suốt. Vì vô minh nên mới gây nghiệp ác và vì nghiệp ác nên mới trả quả hay học bài học đau khổ và bài học khó là sự luân hồi hay nhồi lớp để học bài cũ. khi có tiến bộ linh hồn mới được lên cao hơn. linh hồn giống như cuốn  băng Vidéo và thân xác của đứa bé khi chấp nhận luân hồi giống như máy Video-recorder. Vì có nhiều tần số hay trình độ khác nhau nên máy Video-recorder không thích hợp tần số  với PAL-SECAM hay NTSC... nên màn ảnh truyền hình không chính xác, không đủ màu...Vì lý do nầy mà con người quên những kiến thức trong kiếp trưốc mặc dù tiền kiếp đã học tới Tiến sĩ. Linh hồn phải học lại từ đầu, chỉ nhanh hơn ngưồi chưa học : đó là sự thông minh.
         Theo luật Nhân Quả và sự công bằng trong Vũ Trụ, sự quên những gì đã học ở kiếp trước rất cần thiết, vì những người có thù hận với nhau gặp nhau lại trong một gia đình mà nhớ những ân oán trong kiếp trước thì sẽ trả thù ngay và gia đình se gặp thảm trạng nhồi quả khôn lường.Quên thù hận cũ để trả từ từ như trường hợp con bất hiếu, con là nợ, vợ là oan gia nên người trả quả phải rán chịu đựng mà trả cho xong trong một kiếp.
         Vì vô minh nên mới xảy ra thảm trạng gia đình. Nếu biết Đạo thì vui lòng trả nghiệp cũ, lấy tình thương cha con chồng vợ mà xoá bỏ ân oán kiếp trước.
         Muốn phá màn vô minh, con ngưồi phải cách vật trí tri ...nghĩa là học khoa học, triết học, Thần học, Tôn giáo học, huyền bí học, Thông Thiên học và sau cùng muốn cho hiểu  toàn diện và hòa đồng Tôn giáo, không chia rẽ Phái nầy, Đạo nọ thì người ta phải học Thánh giáo Đạo Cao Đài. Nếu là người trong Đạo Cao Đài mà còn chia Chi rẽ Phái thì họ chưa hiẻu chánh lý trong Thánh Giáo. Họ sẽ phải học lại trong kiếp sau.... và hiện nay người học Thánh giáo Đạo Cao Đài mà chưa hành được Ngũ giới cấm và Tứ Đại Điều Qui thì chưa phải là người Cao Đài mặc dù đã nhập môn từ lâu. Việc chánh kỷ là tiên quyết. Chưa chánh kỷ mà hóa nhơn thì làm mất đức tin người mới vô Đạo vì chưa làm gương tốt cho người được,còn chia Chi rẻ Phái, làm cản trở cơ Đạo: Ơn Trên sẽ theo luật Thiên Điều mà trừng trị vì cản bánh xe của Thiên cơ : Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong.
     Ba câu hỏi do Đức Chí Tôn Thượng Đế hỏi các đệ tử Cao Đài là :
     các con biết các con từ đâu đến đây ? Các con làm gì ở đây và chết rồi các con đi đâu ? cùng những câu hỏi khác của nhân loại đặt ra, sẽ được lần lượt giải đáp tại đây sau khi tôi tham khảo các Thánh giáo và những câu trả lời của các vị Thần Minh trích trong cuốn "Những Tiết Lộ của Thần Minh = Le livre des Esprits của Allan Kardec, Édition Veremet,
     ISBN 2865140202 (xin xem trong Cao Đài Giáo Lý print )

   Đạo Cao Đài, một Tôn Giáo mới do chính Đức Thượng Đế mở ra vào năm 1926 tại Việt nam, là triết lý chung cho mọi Tôn giáo

                             Tóm lược về Đạo Cao Đài : Tôn Giáo của
                                              Đức Thượng Đế

     1.  Nguồn gốc các Tôn giáo: Nhân loại ở thời Thượng cổ sống đời Thượng nguơn Thánh Đức, ngây thơ, vô tội. Người và thú coi nhau như bạn, thương nhau. Người và người không ghét nhau và giết hại nhau. Đức Chúa Trời dạy trực tiếp cho loài ngưòi mọi việc.
     Sau biến cố đổi thay của các lục địa nên có đại hồng thủy, loài người phải mưu sanh thoát  hiểm để tồn tại. Sau những trận cháy rừng, loài người tìm thấy xác thú bị cháy nướng, ăn thử thấy ngon rồi ăn mãi thành thói quen. Về sau loài người mới chăn nuôi để thú nhà sanh sản thêm mà giết để ăn. Loài người sanh sản ngày càng đông, giành nhau miếng ăn, giết hại nhau bằng chiến tranh. Đức Chúa Trời sai chư Tiên Tri giáng thế viết Cựu Ước với 10 điều răn và cấm giết người để dạy dỗ (ở Trung Đông). Ngài cho Đức Nhiên Đăng Cổ Phật giáng thế ở Ấn Độ mở Phật Đạo dạy dân, đồng thời Ngài cũng cho chư Thánh giáng trần ở Trung Hoa mà cai trị dạy dân cho hiền lương.Đó là Nhứt Kỳ Phổ Độ.
     Nhân loại dữ nhiều lành ít, chánh giáo bị sai lạc đi và thất truyền, nên Đức Chúa Trời sai chư Giáo Tổ giáng thế mở Đạo, chỉnh đốn lại các Tôn giáo có từ trước. Đó là Nhị Kỳ Phổ Độ.
     1.  Hai Kỳ Phổ Độ trước : do chư Tiên Tri và chư Giáo Chủ thay mặt Đức Thượng Đế mở Đạo dạy dân tại từng vùng:
             1 . Nhứt Kỳ Phổ Độ vào thời Thượng Cổ :
     -Trung Hoa : có Đức Thái Thượng Đạo Tổ mở Tiên Đạo, Đức Văn Xương Đế Quân mở Thánh Đạo và Vua Phục Hi mở Nhơn Đạo.

     Ấn Độ : có Đức Nhiên Đăng Cổ Phật mở Phật Đạo.
     Ở Trung Đông có Đức Mose mở Thánh Đạo.
             2. Nhị Kỳ Phổ Độ vào thời Trung Cổ, các Đấng phục sinh lại, mở Đạo lần thứ hai :
         *Ở Ấn Độ : có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mở Phật Đạo,
         *Ở Trung Hoa : có Đức Lão Tử mở Tiên Đạo, và Đức Khổng Tử mở Thánh Đạo, Đức  Khương Tử Nha mở Thần Đạo, truyền sang Nhựt Bổn là Shintoism ( Shintoismus, Shintoisme).
        *Ở Do Thái có Đức Giê-su mở Thánh Đạo. Tiếp theo sau đó có Đức Mohammed mở Đạo Hồi cũng ở Trung Đông, là  Đấng Tiên Tri sau cùng trong Thánh Đạo.

           3.  Tam Kỳ Phổ Độ : do chính Đức Chí Tôn Thượng Đế mở cơ tận độ cho nhơn loại bằng huyền diệu cơ bút chớ không giao cho tay phàm như trước.
     2.  Đấng Giáo Chủ Đạo Cao Đài : do chính Đức Thượng Đế khai mở Đạo Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ.

   3.  Nơi khai mở Đạo Cao Đài : Thánh Địa Việt Nam - vào năm 1926 - Tổ Đình tại Tòa Thánh Tây Ninh. Dân tộc Việt Nam là giống dân được Đức Thượng Đế chọn mà đạy trước tiên vì dân tộc và đất nước nhỏ nhoi trong bốn biển mà biết tin tưởng Trời Phật .
     4.  Phương tiện truyền thông qua ba thời kỳ :

   Thời Thượng cổ : Chư Tiên Tri mặc khải viết ra Thánh Giáo :
                                                                                  Chấp bút.
     Thời Trung cổ : Chư Giáo Chủ dạy trực tiếp các đệ tử và các  đệ tử hoặc Thánh Tông Đồ viết Tam tạng Kinh hoặc Kinh Thánh.

     Thời hiện đại: Cơ bút với đồng tử như máy Telefax vậy.
     Đức Thượng Đế truyền thông điển quang của Ngài cho loài người qua đồng tử  trong trạng thái mê như một máy Fax và ngòi bút viết ra chữ là Cơ Bút hay Thần Cơ , Diệu Bút chớ không qua trung gian Đấng Tiên Tri chấp bút trong trạng thái tỉnh có chen phàm ý mà viết Thánh giáo như xưa hoặc không giao cho Đấng Giáo Chủ mang xác phàm dạy trực tiếp cho đệ tử hay Tông Đồ như hai lần Phổ Độ trước.
 

5. Tôn Chỉ và Mục đích của Đạo Cao Đài :
     Thứ nhứt : Vì lòng đại từ, đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà Đức Thượng Đế dựng mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để :
     Thứ  nhứt :Vớt những kẻ hữu phần vào địa vị cao thượng để tránh khỏi số mạng luân hồi
     ( Đức Thượng Đế dạy bửu pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu hành để trở về cựu vị. Đức Ngô Minh Chiêu truyền lại cho những người sau, tu cầu giải thoát luân hồi sanh tử)
     Thứ hai : Nâng những kẻ có tánh đức bước vào cõi nhàn cao hơn phảm hèn khó ở nơi trần thế nầy (Mọi người có thể tu từ dễ đến khó, hành Tân pháp Cao Đài để khi thoát xác lên quả cầu 67, người ở giai cấp thấp nhứt mà sung sướng hơn bực đế vương của cõi trần hay quả cầu thứ 68 nầy).
        6. Tôn chỉ của Đạo Cao Đài : Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi phục nhứt :
     Tam Giáo Qui Nguyên: Tam Giáo gồm Thánh giáo (Nho), Tiên giáo (Lão) và Phật giáo ở Đông phương. Ba Tôn giáo lớn ở Á
Châu tiêu biểu cho vạn giáo trên hoàn cầu.
     Qui nguyên : Trở về nguồn gốc là Đạo hay Hư Vô chi Khí, hay Nhân tính, Thiên lương, qui Tâm, hay trở về Phật tại tâm hay Chúa tại Tâm hay từ hữu hình sang hư vô, vì Vạn Giáo đồng nguyên hay Vạn Giáo Nhất Lý.
     Ngũ Chi Phục Nhứt : Ngũ Chi gồm 5 cấp bực tu học do Đức Thượng Đế lập ra trong Tam Kỳ Phổ Độ vì nhơn loại căn trí, trình độ tiến hoá khác nhau. Họ có thể dễ dàng đi từng bước từ thấp lên cao:
     Nhơn Đạo và Thần Đạo : Nhơn Đạo thì Tùng khổ    (luyện Tam Cang, Ngũ Thường)  còn  Thần Đạo thì Thắng khổ ( Tam cang , Ngũ Thường) và cách tu tiệm tiến là Tu Thân, Tề Gia, trị Quốc và bình thiên hạ.
     Thánh Đạo : Thọ Khổ ( bác ái, tha thứ, khoan dung) : hy sinh vì người khác như Đức Giê-su chịu nạn, chịu chết mà cứu chuộc cho nhân loại.
     Tiên Đạo : Thoát khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, luyện Kim Đơn): Tránh cảnh phồn hoa, vinh sang phú quí,an bần lạc Đạo.
     Phật Đạo : Giải Khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, thiền định) : Từ bi với sinh linh, trả nghiệp cũ, khử trược lưu  thanh bằng cách ăn chay, thiền định để mở trí huệ.
     Đặc điểm của triết lý ( Giáo lý) Đạo Cao Đài :

   1.  Cách lập giáo : Tôn giáo Cao Đài được truyền bá ở thế gian do một Đấng Giáo Chủ Vô Hình. Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn
Giác, Hằng Hữu và thanh quang điển lành của Ngài chiếu phóng khắp nơi trong Vũ Trụ.  Tôn Giáo Cao Đài hay Đạo Cao Đài là một Tôn Giáo chớ không phải một Giáo Phái (Secte) như mt số người nước ngoài hay những người Việt nam chưa hiểu Đạo Cao Đài đã dùng sai danh từ trong sách hay trong Internet. Sự hiểu lầm nầy là một sự vô minh tai hại, vô lễ với  Đấng Cha Lành.
     2.  Cách truyền giáo : Ngài là Đấng Hóa Công hay Đấng Sáng Tạo Vũ Trụ Vạn Vật hay Cha Trời hay Thiên Chúa hay Thượng
Đế...trực tiếp mở Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ một cách thần diệu và nhanh chóng phi thường đó là ‘Thiên Linh Điển’. Ngài trực tiếp giáng cơ dạy Đạo, lập Hiến Pháp nền Đạo, tổ chức Tôn giáo Cao Đài thuộc hữu hình chớ không do Đấng Giáo Chủ mang xác phàm mở Đạo như hai lần Phổ Độ trước. Chư vị Tiền Khai Đại  Đạo là chư vị từ trên do Ngài cho đầu thai làm người để tiếp tay với Ngài tổ chức nền Đạo ở cõi trần.

     3.  Phương tiện truyền thông mới và huyền diệu được Đức Thượng Đế chuẩn bị trước từ lâu:  Đức Phật Thích Ca đã thông báo trước là  ‘Phật tương lai là một vị Bồ Tát’ và trong Đạo Cao Đài Đức Thượng Đế hạ mình mang danh hiệu là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát . Đức và  Đức Di Lạc Bồ Tát sẽ là Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật, là Long Hoa Giáo Chủ và thời Mạt Pháp để chuẩn bị Thời Thượng Nguơn Thánh Đức ( Ngày nay trên nóc Tòa Thánh có tượng Đức Di Lạc và tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện hay Chùa Di Lạc ở Vĩnh Long có thờ tượng Phật Di Lạc và vào ngày mùng 8 tháng 10 năm Giáp Dần  (21.11.1974) tại Vĩnh Long có cuộc Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai Diễn, sau đó đến 30.4.1975 là có xảy ra cuộc sàng sảy thật sự để đổi đời, khảo đảo).
     Đức Chúa Giê-su thông báo là trong tương lai sẽ có Đấng Thánh Linh dạy Đạo ( Trong Kinh Thánh  Đức Chúa Giê- su có nói cơ duyên chuyển Đạo Kỳ Ba là Thánh Linh Giáo hay một Tộn giáo mượn phương tiện cơ bút như trong Khoa Thần Linh Học:’Nếu các người thương Ta thì các người hãy nhớ lời Ta dạy bảo, rồi ta sẽ xin Cha Ta sai Thần Cứu Khổ khác xuống đây ở luôn với các người. Đó là Thần Chơn Lý mà người ở thế gian không thể nào rước được, vì không thấy được, vì bởi Thần ấy sẽ ở với các người...Nhưng Đấng an ủi tức là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy cho chúng con mọi sự và sẽ nhắc lại cho chúng con tất cả những điều Thầy đã nói với chúng con’ -A. Elchinger et J. Dheilly, Tìm hiểu Kinh Thánh, quyển I, Tân Ước, Sách Thánh Gioan, do Trần Ngọc Thụ, Lê Trung Thịnh, dịch ra Việt Ngữ, Nhà Xuất Bản Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo Comitium, Sài Gòn,1960,  trang 126).
     Đức Thượng Đế cho Đức Victor Hugo, Đại Văn Hào Pháp mở đầu phương pháp truyền thông giữa cõi vô hình và hữu hình bằng cách xây bàn.
        Đức Thượng Đế còn cho Bác sĩ Allen Kardec , nhà Thiên văn học Flammarion ở Pháp và các Hội Thần Linh Học bên Anh
quốc sử dụng cơ bút để chư Thần Minh giáng cơ dạy cho các nhà khoa học.
     Bên Nhựt Bổn có Đạo Oomoto và Hinomoto sử dụng cơ bút mà viết Thánh giáo và trong cơ bút Đức Thượng Đế có cho vị Chưởng Quản của Đạo nầy liên lạc với Tòa Thánh Tây Ninh.
       Sự chuẩn bị cho thế giới còn tiếp diễn thêm cho người các dân tộc khác tin vào phương tiện thông linh nầy : Ở Thánh Thiền Đường bên Đài Loan cũng có cơ bút và có đồng tử xuất thần viếng các cõi thiêng liêng và viếng cả Địa ngục, viết ra Thánh giáo răn đời.
     Hình dáng cơ bút giống hình Chòm sao Bánh Lái hay hay Đại Hùng Tinh và Tiểu Hùng Tinh tức chòm sao con gấu lớn và con gấu nhỏ hay Thất Tinh. Ngòi bút là mõ chim Loan, ngay tại địa điểm của sao Bắc Đẩu, nơi Đức Thượng Đế ngự, cũng là trục của quả cầu 68 mà loài người nhìn lên Trời vào lúc ban đêm sẽ thấy.
     4.  Luật Đạo và Nghi Lễ : Luật Đạo giống như Hiến Pháp của nền Đạo do chính Đức Thượng Đế ban Sắc cho Đức Giáo Tông,
cũng là Vô Vi tức Đức Kim Tinh Lý Thái Bạch, viết dự luật . Đức Cao Đài chuẩn y để ban hành mà tổ chức nền Đạo ( Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ) . Nghi Lễ như cách thờ phượng, cách lạy, Thánh Tượng, Lễ vật... do chính Đức Thượng Đế giáng cơ dạy và giải thích rõ ràng, chớ
không do người phàm hay chức sắc trong Giáo Hội trong các Tôn giáo đã có đặt ra theo phong tục địa phương hay ý riêng như hai thời kỳ Phổ Độ trước. Nghi Lễ và Lễ Vật mang một ý nghĩa huyền nhiệm về Huyền Môn Học như : Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tam tài, Ngũ Khí, Bát Quái, cách bắt Ấn ở bàn tay theo vị trí của Cơ sanh Hóa  của Tiên Thiên và Hậu Thiên trong Càn Khôn Vũ Trụ ( Tý và Dần trong bàn tay). Thánh tượng không là tượng của Đấng Giáo Chủ hay Thập Tự Giá như xưa mà là Thiên Nhãn, tượng trưng cho Chúa Tể Càn Khôn .
    Người tín đồ Cao Đài Giáo thờ Thánh Tượng Thiên Nhãn trên bàn thờ :
    vì Đức Thượng Đế dạy:
    Nhãn thị chủ Tâm,
                                                   Lưỡng quang chủ tể
                                                   Quang thị Thần
                                                   Thần thị Thiên
                                                   Thiên ngã giả Ngã.
   5.  Thiên bàn : là cái bản đồ của Càn Khôn Thế giới : Vị trí của Thánh Tượng, đèn, hương, hoa, trà, quả, lư hương, ly rượu, tách trà... là tượng trưng của Càn Khôn Vũ Trụ và Tiểu Thiên Địa trong xác thân Tứ Đại.Đây là cái bản đồ cho chư vị tu thiền nhìn mà hành cho đúng:
                                   Thiên bàn là cái bản đồ
                                    Lấy đó mà điểm tô trong mình.
   6.  Mục đích và Tôn Chỉ của Đạo Cao Đài : mang tính chất quyết định, nhất thiết và kịp lúc trên con đường giải thoát hay hợp nhứt với Thượng Đế hoặc tiến hoá nhanh trên con đường phản bổn hoàn nguyên :
   Cứu chư vị linh căn xuống thế độ trần mà quên đường về, tự tu kỷ và thiền định mà trở về ngôi vị cũ.
     Giúp những linh hồn đang tiến hóa tiến nhanh hơn, tự tu kỷ, học thiền và hành thiền theo Pháp Môn Tam Công trong Cơ Phổ Độ để có tánh đức mà tiến nhanh kịp lúc khi quả cầu 68 nầy đến ngày tàn, lên quả cầu 67 sống trong cõi nhàn tiếp tục tu hành trên con đường phản bổn hoàn nguyên.
   7.  Các bài Kinh chứa nội dung huyền nhiệm : Không như các Tôn giáo có trước các bài Kinh là sự tán tụng Đấng Thiên Chúa hay Mantra ( chơn ngôn) hay lời Phật dạy không thôi , mà lời Kinh trong Đạo Cao Đài mang đủ các tính chất : vừa tán tụng công đức Đấng Sáng Tạo, chư Giáo Tổ mà còn giải thích lịch sử Đấng Giáo Tổ , tóm tắt lời dạy Đạo, mỗi danh từ là một ý nghĩa sâu xa. Người hành Đạo đọc Kinh để cầu lý, lần lần sẽ hiểu thêm ra, hiểu cách hành thiền để tự giải thoát. Các bài Kinh đều có dạy về các nguyên lý Vũ Trụ và cách vận chuyển Đạo hay Nguơn Khí hay Hư Vô chi khí  khi thiền.
   8.  Đức Thượng Đế và Đức Lão Tử dạy thiền trực tiếp : Đấng Cha Lành là Đức Cao Đài truyền pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu để Ngài tu luyện Đạo và truyền bửu pháp tiếp cho chư đệ sau . Đức Lão Tử cũng như Đức Ngô Minh Chiêu và chư vị tu theo Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi đã qui liễu giáng cơ dạy trực tiếp cho các hành giả tại thế . Điều kiện thọ pháp rất gắt gao ( trường chay, tuyệt dục, nhập môn,xin vị hôn phối cho phép tu và coi như huynh muội, xin Thầy bằng keo) nhưng cũng dễ dàng ( ai quyết chí cũng được Thầy Thượng Đế ban ơn).  Để giữ chân truyền, người hành trước được phép chỉ cách hành (chỉ kiểu) cho người sau khi được THẦY  Thượng Đế cho phép và không được khinh thường muốn chỉ ai là chỉ để tránh thất truyền như hai lần Phổ Độ trước.
   9.  Các Pháp Môn được Ơn Trên dạy cho mọi trình độ tiến hóa. Tùy theo cơ duyên mà thọ pháp hoặc hành theo tịnh tiến ( từ dễ và thấp đến cao) hoặc luyện Đạo theo cơ giải thoát ( trường chay, tuyết dục,xin keo, được Thầy Thượng Đế cho keo thì hành cơ giải thoát khi qui liễu).
 10.  Giáo lý Đại Đạo là cơ tận độ  cho toàn nhân loại chớ không riêng cho dân tộc Việt nam.
 11.  Thánh giáo Đạo Cao Đài là lời dạy của chính Đức Thượng Đế, Đức Diêu Trì Kim Mẫu, chư Phật, chư Giáo Tổ, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần  , chư vị liễu đạo đắc quả, chư vị Anh Hùng, chư Hiền, chư Chơn Nhơn... chớ không do một Đấng Tiên Tri mặc khải chấp bút viết ra hay do Đấng Giáo Chủ giảng cho đệ tử hay Tông Đồ và chư vị nầy viết lại sau khi chư vị Giáo Tổ đắc đạo như hai thời kỳ Phổ Độ trước nữa.
12.  Giáo lý Đạo Cao Đài do các Đấng nào dạy   ?
     Do chính Đức Thượng Đế, do Đức Diêu Trì Kim Mẫu, chư Giáo Tổ trong hai thời Kỳ trước giáng cơ nhắc lại lời dạy khi xưa, do chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, chư vị tu đắc quả...giáng cơ dạy chi tiết từng li từng tí rất khoa học và thực tế. Giáo lý Đạo Cao Đài không phải là giáo lý vay mượn hay sự tổng hợp của các giáo lý Tôn giáo khác mà là bài học ôn tập trong kỳ thi cuối khoá trong cuộc tuần huờn tiến hoá.
 13.  Giáo lý Đạo Cao Đài là những tóm lược hay sự ôn bài của chư vị Thầy để học sinh dự kỳ thi cuối khóa hay Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng    ( chớ không phải giáo lý tổng hợp, góp nhặt, vay mượn từ các Tôn giáo khác có trước... như nhiều học giả Tây phương lầm tưởng mà đặt ra danh từ syncrétisme như các sách đã in).

 14.  Cách xưng hô của Đấng Giáo Chủ rất thân mật trong tình Cha con trong Đại Gia Đình Càn Khôn Vũ Trụ , tình Thầy trò trong Trường Đời trần gian hay trong gia đình theo phong tục và đại danh xưng của người Việt miền Bắc. Đức Thượng Đế xưng là THẦY. Ngài không dùng danh từ của ngôn ngữ địa phương do loài người đặt ra để gọi Ngài như trước ( Thí dụ như Giê-hô-va , JHWH, Allah ...) mà Ngài mượn danh từ  không mang tên hay vô danh có ý nghĩa tượng trưng trong ngôn ngữ Việt Nam là Cao-Đài .
                                                ‘Cao Đài là cái đài cao,
                                          Vượt trên tất cả cách rào ngăn che
                                                                                (Đức Quảng Đức Chơn Tiên)
   cũng là nê huờn cung, trên đỉnh đầu của con người. Người đời thường gọi ‘Chín Trời, mười Phật tức là cửu khiếu hay 9 cửa để hồn xuất ra khi chết mà lên không gian là 2 mắt, 2 tai, 2 mũi, miệng, hậu môn, lổ tiểu còn con đường thứ 10 là nê huờn cung. Người luyện Đạo  khi chết hồn lên đỉnh đầu  mới về cõi Niết Bàn  được.
   15.  Giáo lý Đạo Cao Đài mang tính cách khoa học và hiện đại và là nền tảng cho các ngành khoa học trong tương lai.
   Giáo lý Đạo Cao Đài khai mở trí người tín đồ khi đọc kinh mà hiểu nghĩa lý sâu xa trong các danh từ trong lời kinh.
   16.  Giáo lý Đạo Cao Đài duy trì Ngũ Giới Cấm trong Đạo Phật nhưng được chính Đức Thượng Đế giải thích rất rõ ràng nguyên do tại sao cấm, nhờ đó nhân loại hiểu rõ nguồn gốc của tội lỗi mà tránh vấp phải hoặc lần lần giảm tội lỗi, hoàn thiện hơn cũng là điều kiện cần thiết để tu và hành pháp môn trong Đại Đạo.
   17.  Các danh từ  trong Thánh Giáo Đạo Cao Đài là những từ căn bản, phong phú lấy từ chữ Hán Việt, chữ Nôm, chữ Pháp có dấu ngoặc và các Thánh giáo sau nầy trong Thánh Giáo Sưu tập được chư Thiên Liêng dùng rất khoa học, chính xác đúng theo trình độ tiến hoá của nhân loại trong giai đoạn khoa học kỹ thuật cao tột nầy ( Thí dụ như các danh từ do Đức Di Lạc Thiên Tôn gọi Ngọn đèn từ huệ và Ngài cho mở dấu ngoặc transistor ( TGST ) hay Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy về thiền...(TGST ) hay Đức Thượng Đế dẫn thí dụ như kỹ sư....(TGST ).
   18.  Giáo lý Đạo Cao Đài dạy về Thiên Nhơn Hiệp Nhứt : Các Tôn giáo xưa dạyrằng :  Đức Chúa Trời  (Tây phương)  hay Brama(Ấn độ) là Đấng toàn năng, toàn thiện và con người là con cái của Ngài, nhưng không có dạy con người bửu pháp tu tánh luyện mạng để hợp nhất cùng Cha Trời làm một. Lấy thí dụ : Tại sao người cha trong gia đình là Tiến sĩ thì muốn con mình cũng Tiến sĩ như mình mà trong các Tôn giáo xưa không nói rõ nên con người do Cha Trời tạo ra và ở địa vị luôn luôn nhỏ thấp chớ không bao giờ bằng Ngài được. Thí dụ Adam và E-và muốn biết điều thiện và điều ác như Chúa thì bị Chúa phạt đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng, còn phếp luyện Đạo trong Đạo Cao Đài là bửu pháp để Thiên và Nhơn hiệp nhất làm một và Ngài nói "THẦY là các con, các con là THẦY".
   19.  Thánh giáo của Đức Cao Đài là sự bình đẳng giữa Thiên và Nhơn : Đức Cao Đài dạy :’các con là chư Phật, chư Phật là các con.
     Có Thầy mới có các con. Có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên , Phật’ (TNHT trg.43).
     20.  Người tín đồ Đạo Cao Đài là con và là đệ tử của Đức Chí Tôn hay Đấng Cha Trời.
     21.  Người tín đồ Đạo Cao Đài đãnh lễ Đức Chí Tôn và Đức Diêu Trì Kim Mẫu  hằng này trong tứ thời như người con hiếu thảo viếng cha mẹ tại nơi Thiên bàn ở nhà mình, trực tiếp hành lễ, cúng, đọc kinh, dâng lễ ( Tam bửu là Tinh, Khí, Thần tượng trưng bằng hoa, trà, rượu) lên Đức Chí Tôn chớ không qua trung gian của linh mục, tăng sĩ hay thầy lễ như trong các Tôn giáo có trước đây.
     22.  Thiên Nhãn có tác dụng như điểm tựa hay antenne để cho người tu luyện nhận điển lành của Đức Thượng Đế. Trong lúc luyện Đạo mượn đó để Đức Chí Tôn tiếp sức (trợ lực) cho hành giả chuyển Đạo lên nê huờn cung mà Thiên Nhơn hiệp nhứt trên đỉnh đầu, nơi Đức Cao Đài ngự ở Tiểu Thiên Địa.
     23.  Các cựu pháp bị thất truyền và biến ra nhiều pháp (tám vạn bốn ngàn pháp môn), nhiều người hành mà không đắc quả duy có một vị mà thôi. Đến năm Dậu (1919) chính Đức Cao Đài truyền chánh pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu và Đức Ngô Minh
Chiêu truyền tiếp cho chư đệ tử. Các Đàn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi lập đàn cơ để Đức Thượng Đế Cao Đài giáng cơ dạy cách vận chuyển Đạo, lý thuyết căn bản về Đạo Pháp, chỉnh đốn, sửa cách hành cho đúng để hành giả công phu đạt kết quả trên đường giải thoát khỏi luân hồi sanh tử trong một kiếp nầy và Đạo Pháp của Thầy Thượng Đế là độc nhất vô nhị.
     24.  Đức Đông Phương Lão Tổ cũng giáng cơ truyền dạy từ chút Tân Pháp Cao Đài cho những ai chưa có cơ duyên hành pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thì hành Đạo Pháp theo tịnh tiến để tiến hoá, tu kỷ tập cho có tánh đức và công phu thiền
định để thăng hoa, khi già (nếu nam trước 64 tuổi và nữ trước 56 tuổi quyết chí hành thì là cơ duyên may), nếu vị hôn phu chưa cho phép thì hành Tân Pháp tiếp để khi chết lên cõi nhàn hơn là quả cầu 67, là người dân thường còn sung sướng hơn bậc vua chúa tại cõi trần nầy.
     25.  Gíao lý Đạo Cao Đài là một siêu triết lý để nhân loại thực hành, hầu tạo một nền hòa bình trên thế giới và một Thiên Đàng tại thế, trở lại đời Thượng Nguơn Thánh Đức.
     26.  Giáo lý Đạo Cao Đài đưa nhân loại một nhân sinh quan và một Vũ Trụ quan siêu việt để nhân loại sống cho đúng với Đạo,
trung dung và hòa điệu giữa người với người, người và loài vật, giữa Tiểu Thiên Địa và Đại Thiên Địa. Giáo lý Đạo Cao Đài mang tính chất đại chúng vì thích ứng với mọi trình độ của con người ở mọi trình độ tiến hóa từ thấp đến cao.
     Tóm lược triết lý như sau : Đầu tiên trong Vũ Trụ chỉ có Khí Hư Vô hằng có. Khí Hư Vô do pháp giới duyên khởi hay đúng ngày giờ mà có trận nổ mà khoa học gọi là Big bang. Từ đó Đức Thượng Đế, Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ hay Đấng Sáng Tạo hay Ngôi Thái Cực được sanh ra. Ngài tòan năng, toàn thiện. Ngài phân tánh Ngài ra hai phần Âm và Dương hay Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi mới phân ra Tứ Tượng và Tứ Tượng sanh ra Bát Quái, 16, 32, 64...quái và muôn loài vạn vật. Từ các loài tinh chất hay những nguyên tử khác mà có thêm những nguyên tử mới, những nguyên sinh chất, tế bào... rồi qua hằng triệu năm tạo thành cây cỏ, thảo mộc, các sinh vật nhỏ rồi thú, cầm. Thú cầm tiến hóa hằng triệu năm để thành con người. Sự tiến hóa rất dài. Mỗi phần tử của sự sống hay linh hồn phải tiến hóa hằng triệu năm và sống qua nhiều bầu hành tinh khác nhau với các khí các nhau, từ vật chất đến thanh khí. Loài người trước đây là loài thú trên bầu Nguyệt tinh. Khi tiến hóa qua bầu trái đất nầy là quả cầu thứ 68. Sau đó sẽ tiến hóa lên bầu hành tinh thứ 67, rồi 66, 65... cho đến khi lên đến đệ nhứt cầu. Sự tiến hóa lên thêm để lên đến tam thiên thế giới rồi Tứ Đại Bộ Châu và sau cùng sẽ về Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn, nơi Đức Thượng Đế ngự.
     Sự xuống trần học hỏi là sự nhập thế hay từ Nhứt Bổn tán vạn thù hay từ Nhứt Nguyên phân tán ra thành Nhị Nguyên. Trong Nhị Nguyên linh hồn phải gánh mọi nặng trược, các đau khổ của trạng thái vật lý, luân hồi mãi theo chu kỳ thành , trụ hoại, diệt trong chu kỳ kín mà khó thoát ra khỏi vòng tròn của bánh xe tiến hóa. Trong Nhị Nguyên các loài cắn xé, sống trên xác chết của loài nhỏ hơn, mạnh được yếu thua. Khi đến con người thì vẫn còn đấu tranh, ích kỷ. Nhưng khi có sự tiến hóa cao thì con người hướng thượng hơn, vong kỷ, vị tha và luật hy sinh hay sự công quả để tạo tánh đức mà tiến lên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Khi lên đến phẩm Phật, linh hồn còn phải tiến hóa thêm là hy sinh, hạ mình xuống thế mang sứ mạng của hàng bồ tát mà độ đời tiếp, nhờ thế mà công đày , quả mãn thì mới hợp cùng Đức Thượng Đế hay Thiên Nhơn hiệp Nhứt làm một được. Đó là con đường phản bổn hoàn nguyên.
     27.  Giáo lý Đạo Cao Đài đem lại sự hòa đồng Tôn giáo, tránh ghét nhau, khoan dung , tha thứ, phát triển tình huynh đệ đại đồng, tạo tình thương đến những kẻ ghét mình , nhằm xây dựng một xã hội Thánh Đức, thanh bình và hạnh phúc dựa trên căn bản ‘Công bình, Bác ái, Từ bi’ , giúp cho nhân loại thương yêu, giúp đỡ nhau với tinh thần thuần chơn , vô ngã, và là cửa ngõ để vào Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn.

     28.  Thánh giáo Đạo Cao Đài thể hiện đức háo sanh và lòng bác ái vô biên của Đức Chí Tôn Thượng Đế, Đức Diêu Trì Kim Mẫu và của chư Thiêng Liêng, là sự hội tụ tất cả các giáo lý đã có từ trước đến nay và là sự thống nhất các triết lý Đạo trong tinh thần ‘Vạn Giáo Nhất Lý.
     29.  Thánh giáo Đạo Cao Đài là Khoa Học Huyền Môn nhằm nghiên cứu và thực hành các định luật trong Vũ Trụ là :
     Luật Âm Dương (Đối lập nhưng hòa hợp và sinh hóa)
     Luật Nhân quả , Luật công bằng, thăng bằng, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
     Luật Luân Hồi (Tác dụng của luật Nhân quả qua nhiều kiếp)
     Luật hy sinh
     Luật Tiến Hoá.

             Muốn hiểu chúng ta là ai? chúng ta nên đọc sách Thông Thiên học.
             Muốn hiểu Tôn Giáo, Đạo và Đạo Học chúng ta nên đọc hết những cuốn sách trong Thư Viện Cao Đài Đại Đạo.
             Muốn hiểu sự tương quan của Khoa Học và Tôn Giáo chúng ta nên đọc trang: Khoa học, Y học, Y Đạo, Tôn giáo học.
             Niêm - Tịnh - Quán - Định - Thiền - Luyện là 6 pháp phải công phu chung một lượt như thế nào mới co Kim Thân để về Niết Bàn?
             Xem Video về phương pháp tự biết mình, bộ óc mình, xác thân mình là Tiểu Thiên Địa liên hệ với Đại Thiên Địa thế nào?

Autor, Herausgeber & Webmaster : Hà Phước Thảo
Trang chánh: Thư Viện Cao Đài Đại Đạo

Thực hiện bằng chương trình photo Slide download từ :
  Flash Slideshow Maker