
Thái Thượng Cảm Ứng
Thiên - Ps. Tịnh Không - Đọc: Kiều Hạnh
Audio 1 2 3 4 5

THÁI THƯỢNG THIÊN
經 誦 KINH TỤNG
1. 明 義 MINH NGHĨA
太 上 曰: 禍 福 無 門 惟 人 自 召. 善 惡 之 報 如 影 隨 形.
Thái Thượng1 viết: Họa phúc vô môn2 duy
nhân tự triệu.3 Thiện ác chi báo như ảnh tùy
hình.
TỪ NGỮ
1. Thái Thượng 太上: Thái Thượng Lão Quân
太上老君, Thái Thượng Đạo Tổ 太上道祖, Lão Tử 老子.
2. Môn 門: Tức môn lộ 門路 (cửa nẻo). Họa phúc vô
môn 禍福無門: Họa phúc không
có cửa nẻo nhất định, tức là không có sự ấn
định sẵn.
3. Triệu 召: Mời đến, vời đến (chiêu lai 招來, chiêu
trí 招致, chiêu dẫn
招引). Td. Cố ngôn hữu chiêu họa dã 故言有召禍也 [Tuân
Tử 荀子, Khuyến Học 勸學]
(Cho nên lời nói dẫn tai họa đến vậy).
DỊCH ĐIỀU 1
Thái Thượng nói: Họa và phúc không
có cửa nẻo [nhất định] mà do con
người triệu vời đến cho mình. Sự báo ứng của điều thiện
và điều ác [bám
sát lấy con người] như cái bóng đi theo thân
hình.
GIẢI ĐIỀU 1
Điều 1 này là tông chỉ 宗旨 của trọn thiên Cảm
Ứng, những điều còn lại là
minh họa và giải thích thêm điều 1, nên nhan
đề gọi là minh nghĩa 明義
(làm rõ ý nghĩa). Thiện ác báo ứng
là điều tất nhiên: hành thiện thì
thiện báo; hành ác thì ác
báo. Không ai thoát khỏi luật nhân quả thiện
ác báo ứng này. Sự báo ứng bám
sát lấy chúng ta như chiếc bóng không
rời thân mình. Hiểu như vậy thì ta mới sợ mà
răn lòng, không gây ác (ác
ý, ác khẩu, và ác thân).
2. 鑑 察 GIÁM SÁT
是 以, 天 地 有 司 過 之 神, 依 人 所 輕 重 以 奪人 算. 算 減 則 貧 耗, 多 逢 憂 患, 人 皆 惡 之, 刑 禍
隨 之, 吉 慶 避 之, 惡 星 災 之, 算 盡 則 死. 又 有 三 台 北 斗 神君, 在 人 頭 上, 錄 人 罪 惡, 奪 其 紀
算. 又 有 三 尸 神 在 人身 中, 每 到 庚 申 日, 輒 上 詣 天 曹, 言 人 罪 過. 月 晦 之 日, 灶 神 亦 然. 凡
人 有 過, 大 則 奪 紀, 小 則 奪 算. 其 過 大 小 有 數 百事. 欲 求 長 生 者, 先 須 避 之.
Thị dĩ,1 thiên địa hữu Tư 2 Quá chi Thần, y nhân sở
khinh trọng dĩ
đoạt3 nhân toán.4 Toán giảm tắc bần hao,5 đa
phùng ưu hoạn,6 nhân giai
ố 7 chi, hình họa8 tùy chi, cát khánh9 tị10
chi, ác tinh tai chi. Toán
tận tắc tử. Hựu hữu Tam Thai, Bắc Đẩu Thần Quân11 tại nhân
đầu thượng,
lục nhân tội ác, đoạt kỳ kỷ toán.12 Hựu hữu Tam Thi
Thần13 tại nhân
thân trung, mỗi đáo Canh Thân nhật,14 triếp15 thướng
nghệ16 Thiên
Tào,17 ngôn nhân tội quá. Nguyệt hối18 chi
nhật, Táo Thần19 diệc nhiên.
Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt
toán. Kỳ quá đại tiểu
hữu sổ bách sự. Dục cầu trường sinh giả, tiên tu20 tị chi.
TỪ NGỮ
1. Thị dĩ 是以: Vì thế cho nên; đồng nghĩa thị cố 是故, cố 故,
nhân thử 因此, sở dĩ 所以.
2. Tư 司: (1) Nắm giữ, phụ trách về (chủ quản 主管, chưởng quản
掌管). Td.
Mệnh Nam Chính Trọng dĩ tư thiên văn 命南正重以司天文 [Sử
Ký 史記, Thái Sử Công
Tự Tự 太史公自序] (Ra lệnh cho quan Nam Chính tên là
Trọng trông coi về
thiên văn). (2) Tư cũng có nghĩa là quan sát
觀察. Td. Tư nhật nguyệt chi
trường đoản 司日月之長短 [Sơn Hải Kinh 山海經, Đại Hoang Tây Kinh 大荒西經]
(Xem xét
sự dài ngắn của ngày và đêm). Tư quá
司過: Xem xét tội lỗi; Tư mệnh 司命:
Phụ trách về bổn mạng của thế nhân. Tư Mệnh Thần cũng
có thể là Táo
Quân. Từ đời Tấn về sau, Táo Quân được xem là
thần Tư Mệnh xem xét việc
thiện ác của thế gian (Đốc sát nhân gian thiện
ác Tư Mệnh chi thần
督察人間善惡司命之神).
3. Đoạt 奪: Định đoạt 定奪, tước đoạt 削奪, tước trừ 削除.
4. Toán 算: Thời gian 100 ngày của đời người (Nhân
hoạt bách nhật khiếu
nhất toán 人活百日叫一算) [ Chú thích của Hứa Chỉ Tịnh
許止淨 Cảm Ứng Thiên Trực
Giảng 感應篇直講]. Trong Cảm Ứng Thiên có từ kỷ 紀 và
toán 算. Kỷ là 12 năm và
toán là 100 ngày. Các tự điển và từ
điển như Khang Hi, Từ Hải, Học Sinh
Cổ Hán Ngữ Từ Điển, Cổ Hán Ngữ Thường Dụng Tự Tự Điển đều
giải thích kỷ
là đơn vị thời gian bằng 12 năm. Nhưng toán thì
không còn xem là một
đơn vị thời gian nữa. Tuy nhiên Cát Hồng Bão
Phác Tử Nội Thiên đã định
nghĩa kỷ là 300 ngày và toán là 3
ngày (Kỷ giả tam bách nhật dã 紀者三百日也.
Toán giả tam nhật dã 算者三日也). Kỷ toán dùng
chung với nhau hiểu là tuổi
thọ. Trong tiếng Việt ngày nay, không hiểu ai bày
ra từ thập kỷ 十紀 (thí
dụ: thập kỷ 90) với ý là 10 năm. Nói như vậy
là sai vì thập kỷ có nghĩa
là 120 năm. Chỉ cần nói thập niên 十年 là đủ
rồi (thí dụ: thập niên 90,
the 1990s).
5. Bần hao 貧耗: Nghèo khổ, tốn hao, mất mát (bần khổ hao
tán 貧苦耗散).
6. Ưu hoạn 憂患: Ưu là sầu khổ 愁苦, hoạn là họa hoạn 禍患. Ưu
hoạn là sầu
khổ hoạn nạn. Tục ngữ nói: Nhân vô viễn lự, tất hữu
cận ưu 人無遠慮必有近憂
(Người không lo xa thì ắt sầu gần).
7. Ố 惡: Ghét giận (yếm hận 厭恨, thảo yếm 討厭, bất hỉ hoan 不喜歡).
Td. Thiên
bất vị nhân chi ố hàn dã chuyết Đông
天不為人之惡寒也輟冬 [Tuân Tử 荀子, Thiên Luận
天論] (Trời chẳng vì lòng người giận ghét sự lạnh
lẽo mà đình chỉ mùa
Đông). Chữ này cũng đọc là ác, trái
nghĩa với thiện 善.
8. Hình họa 刑禍: Hình phạt 刑罰 và họa hại 禍害.
9. Cát khánh 吉慶: Cát tường hỉ khánh 吉祥喜慶.
Cát là tốt đẹp (thiện hảo
善好). Tục ngữ: Hung đa cát thiểu 凶多吉少 (Lành ít dữ
nhiều). Khánh 慶, ngoài
nghĩa thông thường là chúc mừng (khánh hạ
慶賀, chúc hạ 祝賀), còn có nghĩa
là phúc 福. Td. Sơ tuy lao khổ, tốt hoạch kỳ khánh
初雖勞苦卒獲其慶 [Diêm Thiết
Luận 鹽鐵論, Tru Tần 誅秦] (Lúc nhỏ tuy vất vả lao khổ nhưng đến
lúc chết
cũng được hạnh phúc). Vậy cát khánh bao gồm
các nghĩa tốt đẹp (cát
tường 吉祥) và vui vẻ hạnh phúc (hỉ khánh 喜慶).
10. Tị 避: Lánh mình (đoá khai 躲開), tránh
né (tị miễn 避免). Td. Tị huynh,
ly mẫu, xử ư Ô Lăng 避兄離母處於於陵 [Mạnh Tử 孟子, Đằng Văn Công hạ
滕文公下] (Lánh
anh, xa mẹ, sống nơi Ô Lăng). Tị dùng trong từ ghép
tị nạn 避難 (lánh
nạn), tị húy 避諱 (kiêng húy).
11. Tam Thai 三台 và Bắc Đẩu 北斗 là hai sao thần, Tam Thai
chủ quản tuổi
thọ con người, Bắc Đẩu chủ quản tội lỗi con người [Hứa Chỉ Tịnh
chú].
12. Kỷ toán 紀算: Tuổi thọ con người. Xem chữ toán4 算 giải
ở trên.
13. Tam Thi Thần三尸神: Thần Tam Thi là 3 vị thần cư ngụ nơi
thân thể con
người: Thượng Thi Thanh Cô trừng phạt con mắt người ta, Trung Thi
Bạch
Cô trừng phạt ngũ tạng (tim, gan, lá lách, phổi,
thận), và Hạ Thi Huyết
Cô trừng phạt bao tử (上尸青姑伐人眼中尸白姑伐人五臟下尸伐人胃命).
14. Canh Thân nhật 庚申日: Ngày Canh Thân, là
ngày chư thần phán xét việc thiện ác của
thế nhân.
15. Triếp 輒: Liền tức thì, ngay lập tức (lập tức 立即, tựu 就).
16. Nghệ 詣: Đi đến (vãng đáo 往到), chữ này
dùng khi ta đi đến một bậc
tôn kính. Td. Nghệ tiền thỉnh giáo 詣前請教 (Đến trước
[ngài] và xin lời
dạy bảo). Do thị tiên chủ toại nghệ Lượng, phàm tam
vãng, nãi kiến
由是先主遂詣亮凡三往乃見 [Tam Quốc Chí 三國誌, Gia Cát Lượng Truyện
諸葛亮傳] (Bởi vì tiên
chủ [tức Lưu Bị] bằng lòng đến Chư Cát Lượng, ba lần đến
mới gặp).
17. Thiên Tào 天曹: Hứa Chỉ Tịnh giải tào là
nha môn 衙門, Thiên Tào là chốn nha môn
trên trời.
18. Hối 晦: Nguyên nghĩa là tối tăm hôn ám
(hôn ám 昏暗), nhưng còn có
nghĩa là ngày cuối tháng âm lịch 陰歷每月的最後一天
(âm lịch mỗi nguyệt đ1ch tối
hậu nhất thiên = nguyệt hối chi nhật 月晦之日).
19. Táo Thần 灶神: Tức Ông Táo, Táo Quân
灶君.
20. Tu 須: Phải. Trước hết phải tránh xa tội lỗi, giống như sợ
chết chìm
chết cháy mà xa nước lửa. Còn muốn sống lâu
thì phải lánh xa tội lỗi.
DỊCH ĐIỀU 2
Cho nên trời đất có [đặt ra] các vị thần
trông coi tội lỗi của người
đời. Căn cứ vào tội nặng nhẹ mà giảm bớt tuổi thọ của họ.
Giảm thọ ắt
phải nghèo khổ, hao tổn, thường gặp hoạn nạn, sầu khổ. Rồi mọi
người
đều ghét bỏ kẻ ác. Hình phạt và tai họa đeo
bám theo kẻ ác. Những sự
hạnh phúc vui vẻ đều không xảy đến cho họ. Ác tinh
[sao chủ về điều ác]
gieo tai họa cho họ. Tuổi thọ hết ắt phải chết. Lại có Thần Tam
Thai
[coi về tuổi thọ] và Thần Bắc Đẩu [xem xét tội lỗi người
đời] ở trên
đầu con người và ghi chép tội ác của người đời để
trừ bớt tuổi thọ của
họ. Lại có Thần Tam Thi trong thân thể con người, mỗi khi
đến ngày Canh
Thân tức thì lên thẳng đến Thiên Tào
báo cáo tội lỗi người đời. Đến
ngày cuối tháng âm lịch, Táo Quân cũng
có phận sự giống như vậy. Người
đời tội lớn thì bị giảm thọ 12 năm, lỗi nhỏ thì bị giảm
thọ 100 ngày.
Tội lỗi lớn nhỏ của con người tính ra có đến hàng
mấy trăm. Cho nên
muốn sống lâu thì trước tiên phải tránh xa
tội lỗi.
GIẢI ĐIỀU 2
Người đời thường nghĩ tội lỗi khuất lấp của mình chẳng ai hay
biết.
Thực sự, thần minh biết vì Trời đã ấn định những vị thần
chuyên trách
theo dõi việc thiện ác của con người mà định đoạt
phúc lộc hoặc tuổi
thọ của họ. Thí dụ như Thần Tam Thai và Bắc Đẩu ở
trên trời, Thần Tam
Thi ngay trong thân thể mỗi người, Táo Quân nơi bếp
mỗi nhà.
+ Những hậu quả mà người gây ác phải
gánh chịu thì rất nhiều, như:
Giảm thọ. Tội nặng bị giảm một kỷ (12 năm). Tội nhẹ bị giảm một
toán
(100 ngày). Mà tội lỗi lớn nhỏ của con người tính
ra đến hàng trăm, do
đó tuổi thọ bị bớt dần rồi phải chết non.
Người đời ghê sợ mà xa lánh kẻ ác.
Hình phạt và tai họa xảy đến cho kẻ ác (do luật
pháp thế gian phán xử, và do ác tinh
gây ra).
Về tâm lý, kẻ ác bị dày vò sầu khổ,
không bao giờ vui vẻ hạnh phúc.
+ Cách làm việc của chư thần:
Thần Tam Thai và Bắc Đẩu ghi chép tội lỗi người đời.
Thần Tam Thi (trong thân thể con người) đến ngày Canh
Thân, đợi người
ngủ say thì xuất ra và bay thẳng đến Thiên
Tào mà trình báo.
Ngày cuối mỗi tháng âm lịch, Táo Quân
cũng bay bên trời trình báo tội lỗi con người.
Với hệ thống quản lý chặt chẽ vô hình như thế
con người phải thận
trọng để không phạm tội lỗi. Đó là tu thân
luyện kỷ, điều kiện tiên
quyết của trường sinh bất tử.
3. 積 善 TÍCH THIỆN
是 道 則 進, 非 道 則 退. 不 履 邪 徑. 不 欺 暗 室. 積 德 累 功. 慈 心 於 物. 忠 孝 友 悌. 正 己化 人.
矜 孤 恤 寡.敬 老 懷 幼. 昆 蟲 草 木, 猶 不 可 傷. 宜 憫 人 之 凶. 樂 人 之 善. 濟 人 之 急. 救 人 之
危. 見 人 之 得 如 己 之得. 見 人 之 失 如 己 之 失. 不 彰 人 短, 不 衒 己 長. 遏 惡 揚 善. 推 多 取 少.
受 辱 不 怨. 受 寵 如 驚. 施 恩 不 求 報. 與 人 不 追 悔.
Thị đạo tắc tiến, phi đạo tắc thoái.1 Bất lý tà
kính.2 Bất khi ám
thất.3 Tích đức lũy công.4 Từ tâm ư vật.5 Trung,
hiếu, hữu, đễ.6 Chính
kỷ hóa nhân. Căng cô tuất quả.7 Kính
lão hoài ấu.8 Côn trùng thảo mộc,
do bất khả thương. Nghi 9 mẫn nhân chi hung. Lạc nhân chi
thiện. Tế
nhân chi cấp. Cứu nhân chi nguy. Kiến nhân chi đắc
như kỷ chi đắc. Kiến
nhân chi thất như kỷ chi thất. Bất chương nhân đoản,10 bất
huyện kỷ
trường.11 Át ác dương thiện.12 Thôi13 đa thủ thiểu.
Thụ nhục bất oán.
Thụ sủng14 nhược kinh. Thi ân15 bất cầu báo. Dữ16
nhân bất truy hối.
TỪ NGỮ
1. Thị 是: Đúng. Phi 非: Sai. Thị đạo 是道: Đường đúng. Phi
đạo 非道: Đường sai. Cầu thị 求是: Cầu mong điều đúng đắn,
chính xác.
2. Lý 履: Bước qua, đạp lên (tiễn 踐, đạo tại thượng diện
蹈在上面, tẩu quá
走過.Td. Như lý bạc băng 如履薄冰 [Kinh Thi 經詩, Tiểu Nhã 小雅]
(Như đạp trên
băng mỏng). Từ lý lịch 履歷 là lịch trình một người
đã trải qua, bước qua
trong cuộc đời.
Cần phân biệt các chữ lý 履, tiễn 踐, đạp 踏, đạo 蹈,
thái 踩 (跴), nhiếp (niếp) 躡:
+ Hai chữ lý 履, tiễn 踐 đều có nghĩa là đi
trên một bề mặt gì (hành tẩu tại... thượng 行走在...上).
+ Đạp 踏 là dùng chân đạp lên, đồng nghĩa với
chữ thái 踩 (跴).
+ Đạo 蹈 cũng đồng nghĩa với thái đạp 踩 (跴) 踏, nhưng ngụ ý
mạo hiểm, như đạo hỏa 蹈火 (đạp lên lửa).
+ Nhiếp (niếp) 躡 cũng là đạp, nhưng thường dùng với
ý bước lên địa vị
cao (đăng thướng cao vị 登上高位). Niếp còn nghĩa khác
là truy đuổi. [Giải
thích trên là của Vương Lực 王力, Cổ Hán Ngữ
Thường Dụng Tự Tự Điển
古漢語常用字字典, trang 209].
Kính 徑: Đường nhỏ (tiểu lộ 小路). Td. Hành bất do
kính 行不由徑 [Luận Ngữ 論語,
Ung Dã 雍也] (Không đi từ đường nhỏ). Tà kính
邪徑: Đường nhỏ và sái quấy
(nghĩa bóng). Tiệp kính 捷徑: Đường tắt (shortcut).
3. Ám thất 暗室: Nhà tối. Tại sao chớ khinh nhà tối?
Đừng nghĩ vì nhà tối
không ai thấy mà muốn làm gì thì
làm. Ta biết thần minh giám sát ta
chặt chẽ. Tục ngữ nói: Tọa mật thất như thông cù
坐密室如通衢 (Ngồi nhà kín
như ngồi ngã tư đường). Trăm mắt nhìn vào
nên phải giữ gìn đức hạnh.
4. Tích lũy 積累: Cất trữ từ ít đến nhiều gọi là
tích, từ thấp chồng lên
cao là lũy (從少到多叫做積,從低到高叫做累). Tích đức lũy công=
Tích lũy công đức.
5. Ư 於 là một hư từ, trong câu này ư nghĩa
là đối với, nơi. Từ tâm 慈心:
Lòng yêu thương (từ ái 慈愛). Từ tâm ư vật:
Lòng yêu thương đối với loài
vật.
6. Hữu 友: Nghĩa thông thường là bạn bè (bằng hữu
朋友), nhưng trong cổ
văn còn có nghĩa là tình anh đối với em. Đễ
là tình em đối với anh
(Huynh khứ ái đệ khiếu tố hữu, đệ khứ ái huynh khiếu tố
đễ
兄去愛弟叫做友,弟去愛兄叫做悌) [Hứa Chỉ Tịnh chú thích].
+ Trung 忠: (1) Hết sức tận tâm (tận tâm kiệt lực 盡心竭力,
thành tâm tận
lực 誠心盡力). Td. Vi nhân mưu nhi bất trung hồ? 為人謀而不忠乎 [Luận Ngữ
論語, Học
Nhi 學而] (Mưu tính công việc cho người [thì tự
xét] có thành tâm tận lực
hay không?) (2) Tận tâm hết sức với vua (trung ư quân
chủ 忠於君主). Trong
văn cảnh này là trung quân 忠君. Nhưng để phù
hợp thời nay, tôi dịch theo
nghĩa gốc thành tâm tận lực với người.
+ Hiếu 孝: Hết lòng thương yêu, kính mến, phụng
dưỡng, và phục tùng cha
mẹ (tận tâm kính ái phụng dưỡng phục tùng
phụ mẫu 盡心敬愛奉養服從父母). Lời xưa
nói: Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên 人生百行孝為先
(Hiếu đứng đầu 100 đức
hạnh của con người).
7. Căng 矜: Thương xót (ai lân 哀憐, lân mẫn 憐憫,
lân tích 憐惜). Tuất 恤: Cứu
giúp, giúp đỡ chu toàn, thông cảm thương
xót (chu tế 周濟, cưú tế 救濟, thể
tuất 體恤), cũng viết là 卹 đồng nghĩa với căng 矜 và
lân mẫn 憐憫. Td. Căng
tuất cô luy 矜恤孤羸 [Hậu Hán Thư 後漢書, Chu Trạch Truyện 周澤傳]
(Thương xót
giúp đỡ trẻ mồ côi và người già yếu). (Luy 羸
nghĩa là ốm yếu [sấu nhược
瘦弱], ở đây hiểu là già yếu). Căng cô tuất
quả= Căng tuất cô quả: Thương
xót giúp đỡ trẻ mồ côi và người goá
bụa. Sách khuyến thiện cho rằng có
bốn hạng người cần giứp đỡ: Quan, quả, cô, độc. Quan 鰥: kẻ
góa vợ hoặc
không vợ; quả 寡: kẻ góa chồng; cô 孤: trẻ mồ
côi; độc 獨: người không con.
8. Hoài 懷: (1) Ôm lấy. Td. Ư thị hoài thạch toại tự
trầm Mịch La dĩ tử
於是懷石遂自沉汨羅以死 [Sử Ký 史記, Khuất Nguyên Truyện 屈原傳] (Do
đó bèn ôm đá tự
trầm ở sông Mịch La mà chết) (2) An ủi, vỗ về (an phủ 安撫).
Td. Hoài
địch phụ viễn 懷敵附遠 [Giả Nghị 賈誼, Luận Tích Trữ Sớ 論積貯疏] (An ủi
vỗ về
quân địch để chúng tuy ở xa mà cũng quy thuận).
[Phụ viễn 附遠: Khiến cho
kẻ ở xa quy phụ 使遠方歸附). Hoài ấu 懷幼: An ủi vỗ về trẻ nhỏ.
9. Nghi 宜: Cần phải (ưng cai 應該, ưng đang 應當). Td. Bất nghi như thử
不宜如此 (Không nên như vậy); Bất nghi tháo chi
quá cấp 不宜操之過急 (Không nên
quá vội làm việc ấy); Sự phùng đắc ý nghi
hưu tức, phú quý trường trung
dị bạch đầu 事逢得意宜休息富貴場中易白頭 (Sự đời đã toại ý thỏa
lòng thì nên lui về
nghỉ ngơi, vì trong cảnh phú quý ta dễ bị bạc đầu
lo nghĩ).
10. Chương 彰: Làm lộ rõ ra (minh hiển 明顯). Thành
ngữ: Dục cái di chương
欲蓋彌彰 (Dục vọng che đậy lại càng lộ ra). Bất chương nhân
đoản 不彰人短:
Không rêu rao chỗ kém cỏi của người khác.
11. Huyện 衒: Khoe khoang (tự khoa 自誇). Bất huyện kỷ trường 不衒己長:
Không
khoe khoang mình hay mình giỏi. Nhiều từ điển Hán
Việt phiên âm là
huyễn, Từ Hải phiên là huyễn (穴絹切,音眩) nhưng Khang Hi
phiên là huyện
(黃練切). Tôi theo Hứa Chỉ Tịnh, chữ 衒 đọc là huyện.
12. Át 遏: Cản trở, đình chỉ (trở chỉ 阻止). Td. Nộ bất khả
át 怒不可遏 (Giận
không ngăn nổi). Nhiều bản Cảm Ứng Thiên chép
câu này là Ẩn ác dương
thiện 隱惡揚善 (Che dấu điều ác, biểu dương điều thiện của người).
Tại sao
lại có thái độ bao che điều ác như thế? Tôi
theo bản Cảm Ứng Thiên Trực
Giảng của Hứa Chỉ Tịnh và Trung Hoa Đạo Học Thông Điển,
chấp nhận câu:
Át ác dương thiện 遏惡揚善 (Cản trở điều ác của người,
biểu dương điều
thiện của người). Điều ác phải bị ngăn chận để nó
không hoành hành, kẻ
ác phải chùn tay vì xấu hổ hoặc vì
pháp luật trừng trị. Điều thiện phải
được biểu dương và người thiện trở thành tấm gương cho kẻ
khác bắt
chước, nhờ thế điều thiện được nhân lên.
13. Thôi 推: Nhường phần (thôi nhượng 推讓). Thôi đa thủ
thiểu 推多取少: Khi
chia chác đồ vật với ai thì nhường cho người phần nhiều,
giữ cho mình
phần ít.
14. Sủng 寵: Rất thương yêu (sủng ái 寵愛), yêu một
cách thiên vị (thiên
ái 偏愛), yêu quá mức (quá phận chi ái
過分之愛). Td. Thiếu Khương hữu sủng ư
Tấn Hầu 少姜有寵於晉候 [Tả Truyện 左傳, Chiêu Văn Công Nhị
Niên 昭文公二年] (Thiếu
Khương được Tấn Hầu sủng ái) [Thiếu Khương là phi tử của
Tấn Hầu].
Nhược 若: Giống như là (nhược như 若如). Tại sao thụ sủng 受寵 (được
sủng
ái) phải coi như điều đáng kinh sợ? Điều gì
thái quá thì sẽ trở ngược
(vật cực tắc phản 物極則反). Đã yêu lắm thì có
lúc sẽ cắn nhau đau (Yêu lắm
cắn đau; vồ lắm vập nhiều). Sủng là lòng yêu
thiên lệch, một tình yêu
quá phận, che mờ mọi khiếm khuyết của người được yêu. Cho
nên người
được yêu phải tự xét phận mình mà cố gắng
bồi dưỡng tài đức cho xứng
đáng. Nếu chỉ trông cậy vào sự sủng ái
mà tự tung tự tác thì có ngày
mang họa vào thân.
15. Thi 施: (1) Thi hành 施行, thực hành 實行. (2) Làm
ơn (cấp dữ ân huệ
給予恩惠). Cũng đọc là thí. Thi ân 施恩: Làm ơn.
Thi ân bất cầu báo: Làm ơn,
cứu tế ai mà không mong họ đền đáp. Đó
là thái độ vô tư, vô dục, từ bi
vô lượng của người quân tử. Thực tế, cầu người báo
đáp cũng là hoài
công, vì hai lý do: (a) Thói đời hay bạc
bẽo, nên người ta thường bảo:
cứu vật vật trả ân, cứu nhân nhân trả oán. (b)
Ân càng thâm, họa càng
sâu. Người thụ ân có mặc cảm tự ti, ngoài
miệng nói tri ân mà trong
lòng uất hận. Đòi hỏi họ đền ân đáp nghĩa
là tự chuốc họa vào thân. Nên
không giúp ai thì thôi, mà giúp
rồi thì phải quên việc ấy đi. Đó là
thượng sách vậy.
16. Dữ 與: Cấp cho, tặng cho; đồng nghĩa với cấp 給. Td. Tặng dữ 贈與, tống
dữ 送與, cấp dữ 給與, thụ dữ 授與 (tặng cho, đưa cho, trao cho ). Truy 追:
Truy cứu, xét lại. Td. Dĩ vãng sự vật truy tư 已往事勿追思
(Chuyện đã qua
đừng truy lại mà lo nghĩ). Truy hối 追悔: Xét lại mà
hối tiếc.
DỊCH ĐIỀU 3
Đường đúng thì đi tới, đường sai thì tránh
lui. Không đi đường tắt lối
nhỏ sái quấy. Không được khinh thường nhà tối. Phải
tích lũy công đức.
Phải có lòng từ bi lân mẫn đối với muôn
loài. Phải hết lòng với người,
có hiếu với cha mẹ, anh em thương nhau. Tự sửa mình rồi
hãy dạy người.
Thương xót cứu giúp cô nhi và quả phụ.
Kính trọng người già và an ủi vỗ
về trẻ nhỏ. Không tổn hại côn trùng và
cây cỏ. Phải thương hại kẻ ác
[vì họ u mê]. Phải vui mừng chia sẻ với người hành
thiện. Cứu giúp
người bị nguy cấp. Thấy người được [thì vui] như mình
được. Thấy người
mất mát [thì buồn] như mình mất mát.
Không phô bày sự kém cỏi của
người. Không khoe khoang cái hay của mình. Ngăn
chận người sắp làm điều
ác. Biểu dương người làm điều thiện. Khi phải chia
chác đồ vật, nhường
người phần nhiều và giữ cho mình phần ít. Gặp nhục
không oán. Được sủng
ái phải sợ. Giúp người chớ mong báo đáp.
Cho ai vật gì rồi thì đừng
nghĩ lại mà hối tiếc.
GIẢI ĐIỀU 3
Điều 3 này khuyên ta phải tự
xét và tu sửa bản thân, bao gồm 3 mặt tư tưởng,
tình cảm, và hành vi:
Tư tưởng:
+ Không khinh nhà tối mà làm bậy, nên
nhớ rằng thần minh luôn giám sát chặt chẽ
chúng ta.
+ Sửa mình rồi mới dạy người.
+ Đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để
thông cảm họ. Chia sẻ với họ
lúc họ thành bại, được mất. Thói đời, người
hành thiện thường bị dèm
pha hoài nghi, người thành đạt thường bị ganh tị, người
thất bại thì bị
kẻ khác hỉ hả vui mừng. Đó là thói xấu cần
sửa đổi.
Tình cảm:
+ Thương xót cứu tế cô nhi quả phụ.
+ Từ tâm đối với muôn loài.
+ Kính trọng người già, an ủi vỗ về trẻ nhỏ.
+ Tận tâm với người.
+ Hiếu với cha mẹ và thương yêu anh em.
+ Bị lăng nhục không oán.
+ Được sủng ái phải nghĩ xa mà sợ.
Hành vi:
+ Đi đường đúng, tránh đường sai. Ý nói
hành thiện, tránh ác.
+ Tích lũy công đức.
+ Giúp đỡ người gặp nguy khốn.
+ Không phô bày sự kém cỏi của người
mà khoe khoang cái hay của mình.
+ Ngăn chận người sắp gây ác, biểu dương người hành
thiện.
4. 善 報 THIỆN BÁO
所 為 善 人, 人 皆 敬 之, 天 道 佑 之, 福 綠 隨 之, 眾 邪 遠 之, 神 靈 衛 之, 所 作 必 成, 神 仙 可 冀.
欲 求 天 仙 者, 當 立 一 千 三 百 善. 欲 求 地 仙 者, 當 立 三 百 善.
Sở vi thiện nhân, nhân giai kính chi, thiên
đạo hựu1 chi, phúc lộc tùy
chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi, sở tác
tất thành, thần tiên
khả ký.2 Dục cầu thiên tiên giả, đương lập nhất
thiên tam bách thiện.
Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện.
TỪ NGỮ
1. Hựu 佑: Giúp đỡ (幫助 bang trợ). Còn chữ hựu 祐 (viết với
bộ thị 礻) là
bảo hựu 保祐, tức là sự giúp đỡ của thần linh (神 的幫助), ta
hay nói là (chư
thần) phù hộ. Theo ý trong kinh văn, chữ hựu ở đây
viết là 祐 thì hợp lý
hơn.
2. Ký 冀: Hy vọng 希望, mong ước. Td. Ký phục đắc thố 冀復得兔
[Hàn Phi Tử
韓非子, Ngũ Đố 五蠹] (Mong lại có được thỏ nữa) [chữ phục 復 trong
câu này
nghĩa là tái 再: một lần nữa]. Thần tiên khả
ký: Có thể hy vọng trở
thành thần tiên.
DỊCH ĐIỀU 4
Người [được xem là] thiện lương thì ai ai cũng
kính trọng. Trời giúp đỡ
họ. Phúc lộc đi theo bên họ. Mọi tà quái
tránh xa họ, [vì họ được] thần
linh hộ vệ. Mọi việc họ làm đều thành công. Họ
có thể hy vọng trở thành
thần tiên: muốn trở thành thiên tiên
thì phải làm 1300 điều thiện, muốn
trở thành địa tiên thì phải làm 300 điều
thiện.
GIẢI ĐIỀU 4
Điều 4 này nói về kết quả của việc tích chứa điều
thiện. Người thiện về
mặt đời thì được mọi người kính trọng, về mặt
thiêng liêng vô hình thì
được trời phù hộ, do đó hưởng phúc lộc. Thần linh
hộ vệ người thiện nên
tà quái không dám đếùn gần. Kết quả
là họ làm gì cũng thành công. Điều
quan trọng nữa: người thiện là đã tròn nhân
đạo, vì thế có thể hy vọng
trở thành thần tiên. Điều kiện thành thiên
tiên là phải làm 1300 điều
thiện, và điều kiện thành địa tiên là phải
làm 300 điều thiện.
5. 諸 惡 (上) CHƯ ÁC (THƯỢNG)
苟 或 非 義 而 動, 背 理 而 形, 以 惡 為 能, 忍 作 殘 害, 陰 賊 良 善, 暗 侮 君 親, 慢 其 先 生, 叛 其
所 事, 誑 諸 無 識, 謗 諸 同 學, 虛 誣 詐 偽 攻 訐 宗 親, 剛 強 不 仁, 狠 戾 自 用, 是 非 不 當, 向 背
乖 宜. 虐 下 取 功, 諂 上 希 旨, 受 恩 不 感, 念 怨 不 休, 輕 蔑 天 民, 擾 亂 國 政, 賞及 非 義, 刑 及
無 辜, 殺 人 取 財, 傾 人 取 位, 誅 降 戮 服, 貶 正 排 賢, 陵 孤 逼 寡, 棄 法 取 賂, 以 直 為 曲, 以 曲
為 直, 入 輕 為 重, 見 殺 加 怒, 知 過 不 改, 知 善 不 為, 自 罪 引 他, 壅 塞 方 術, 訕 謗 聖 賢, 侵 陵
道 德, 射 飛 逐 走, 發 蟄 驚 棲, 填 穴 覆 巢, 傷 胎 破 卵, 願 人 有 失, 毀 人 成 功, 危 人 自 安, 減 人
自 益, 以 惡 易 好, 以 私 廢 公, 竊 人 之 能, 蔽 人 之 善, 形 人 之 醜, 訐 人 之 私, 耗 人 貨 財, 離 人
骨 肉, 侵 人 所 愛, 助 人 為 非, 逞 志 作 威, 辱 人 求 勝, 敗 人 苗 稼, 破 人 婚 姻, 苟 富 而 驕, 苟 免
無 恥, 認 恩 推 過, 嫁 禍 賣 惡, 沽 買 虛 譽, 包 貯 險 心, 挫 人 所 長, 護 己 所 短, 乘 威 迫 脅, 縱 暴
殺 傷, 無 故 剪 裁, 非 禮 烹 宰, 散 棄 五 穀, 勞 擾 眾 生, 破 人 之 家 取 其 財 寶, 決 水 放 火 以 害 民
居, 紊 亂 規 模 以 敗 人 功, 損 人 器 物 以 窮 人 用, 見 他 榮 貴 願 他 流 貶, 見 他 富 有 願 他 破 散,
見 他 色 美 起 心 私 之, 負 他 財 貨 願 他 身 死, 干 求 不 遂 便 生 咒 恨, 見 他 失 便 便 說 他 過, 見 他
體 相 不 具 而 笑 之, 見 他 才 能 可 稱 而 抑 之,...
Cẩu hoặc phi nghĩa nhi động, bối lý nhi hành,1 dĩ
ác vi năng, nhẫn tác
tàn hại, âm tặc2 lương thiện, ám vũ3 quân
thân, mạn4 kỳ tiên sinh, bạn
kỳ sở sự, cuống5 chư vô thức, báng chư đồng học, hư vu
trá ngụy6 công
yết7 tông thân, cương cường bất nhân, ngận lệ8 tự
dụng, thị phi bất
đang,9 hướng bối quai nghi,10 ngược11 hạ thủ công, siểm12 thượng
hy
chỉ, thụ ân bất cảm, niệm oán bất hưu, khinh miệt
thiên dân, nhiễu loạn
quốc chính, thưởng cập phi nghĩa, hình cập vô
cô,13 sát nhân thủ tài,
khuynh nhân thủ vị, tru hàng lục phục,14 biếm chính
bài hiền, lăng cô
bức quả, khí pháp thụ lộ,15 dĩ trực vi khúc, dĩ
khúc vi trực, nhập
khinh vi trọng, kiến sát gia nộ, tri quá bất cải, tri
thiện bất vi, tự
tội dẫn tha, ung tắc16 phương thuật, sán báng17
thánh hiền, xâm lăng
đạo đức, xạ phi trục tẩu,18 phát trập kinh thê,19 điền
huyệt phúc
sào,20 thương thai phá noãn, nguyện nhân hữu
thất, hủy nhân thành công,
nguy nhân tự an, giảm nhân tự ích, dĩ ác dịch
hảo, dĩ tư phế công,
thiết21 nhân chi năng, tế22 nhân chi thiện, hình
nhân chi xú,23 yết24
nhân chi tư, hao nhân hoá tài, ly nhân
cốt nhục, xâm nhân sở ái, trợ
nhân vi phi, sính25 chí tác uy, nhục
nhân cầu thắng, bại nhân miêu
giá,26 phá nhân hôn nhân, cẩu
phú27 nhi kiêu, cẩu miễn28 vô sỉ, nhận ân
thôi quá, giá29 họa mại ác, cô
mãi30 hư dự, bao trữ31 hiểm tâm, tỏa32
nhân sở trường, hộ kỷ sở đoản, thừa uy bức hiếp, túng bạo
sát thương,
vô cố33 tiễn tài, phi lễ phanh tể,34 tán35
khí ngũ cốc, lao nhiễu chúng
sinh, phá nhân chi gia thủ kỳ tài bảo, quyết36 thủy
phóng hỏa dĩ hại
dân cư, văn loạn qui mô dĩ bại nhân công, tổn
nhân khí vật dĩ cùng nhân
dụng, kiến tha vinh quý nguyện tha lưu biếm,38 kiến tha
phú hữu nguyện
tha phá tán, kiến tha sắc mỹ khởi tâm tư chi,39 phụ
tha hóa tài nguyện
tha thân tử, can cầu bất toại tiện sinh chú40 hận, kiến
tha thất tiện
tiện thuyết tha quá, kiến tha thể tướng bất cụ nhi tiếu chi,
kiến tha
tài năng khả xưng41 nhi ức chi,...
TỪ NGỮ
1. Cẩu hoặc 苟或: Cẩu là liên từ chỉ điều kiện hay giả sử,
dịch là «nếu
như» (đồng nghĩa giả như 假如, như quả 如果, cẩu nhược 苟若, giả thiết
假設).
Hoặc là đại từ bất định, dịch là "một người nào
đó", tương đương bạch
thoại là hữu đích nhân 有的人 (someone). Td. Hoặc viết
或曰: có người nói
rằng. Hoặc vấn 或問: có người hỏi rằng. Cẩu hoặc: nếu như
có kẻ nào mà...
* Nghĩa 義: Đạo lý, hành vi, hoặc đạo đức hợp nghi
(合宜的道德行為或道理). Tức là
sự việc đáng phải làm. Td. Đa hành bất nghĩa tất
tự tễ 多行不義必自斃 [Tả
Truyện 左傳, Ẩn Công Nguyên Niên 隱公元年] (Làm
nhiều chuyện bất nghĩa ắt có
ngày phải chết).
* Bối 背: Bội phản, ngược lại (違反 vi phản, 違背 vi bối, 背反 bối phản). Td.
Bối ước 背約: bội phản với lời hẹn ước, bối minh 背盟: ngược với lời nguyện
thề. Bối lý 背理: Trái đạo lý. Cấu trúc cụm
từ này là cài răng lược: hành
động những điều phi nghĩa và trái đạo lý.
Theo cấu trúc câu điều kiện, ta thấy điều kiện ở đây
chính là chư ác
được liệt kê tách ra làm hai là chư
ác thượng (điều 5) và chư ác hạ
(điều 6). Kết quả, đúng ra là hậu quả, được kể trong
Ác báo ở điều 7 kế
tiếp. Đây là một câu điều kiện phức tạp và
quá dài nên bị dàn trải
thành 3 điều 5, 6, và 7. Ta khái quát cấu
trúc này như sau: Nếu có ai
làm những việc ác (tức là hành động những
điều phi nghĩa và trái đạo lý
được liệt kê ở điều 5 và 6), thì sẽ gặp ác
báo (được liệt kê ở điều 7).
2. Tặc 賊: Hại 害, sát hại 殺害, ăn cướp (強盜 cường đạo). Âm 陰:
Trong bóng
tối (暗中 ám trung). Td. Yên Vương hôn loạn, kỳ
thái tử Đan nãi âm lịnh
Kinh Kha vi tặc 燕王昏亂其太子丹乃陰令荊軻為賊 [Sử Ký 史記, Tần Thuỷ Hoàng
Bản Kỷ 秦始皇本紀]
(Vua nước Yên hôn loạn, nên thái tử Đan
âm thầm sai Kinh Kha làm kẻ
thích khách). Âm tặc: Âm thầm làm hại
hay sát hại ai.
3. Vũ 侮: Khinh khi (輕慢 khinh mạn, 怠慢 đãi mạn). Vũ nhục 侮辱: Khinh
khi
lừa dối (欺負 khi phụ). Td. Hình đang tội tắc uy, bất đang tội tắc
vũ
刑當罪則威不當罪則侮 [Tuân Tử 荀子, Quân Tử 君子] (Hình phạt
đúng tội thì có uy
nghiêm, không đúng tội thì bị khinh nhờn).
Ám vũ quân thân: Thầm khinh
vua và cha mẹ (tức là bất trung bất hiếu).
4. Mạn 慢: Khinh người (驕慢 kiêu mạn, 傲慢 ngạo mạn, 不敬 bất
kính). Tiên
sinh 先生: Thầy dạy. Câu Ám vũ quân thân mạn kỳ
tiên sinh chỉ rõ tội lỗi
đối với quân, sư, phụ.
5. Cuống 誑: Lừa bịp, mê hoặc, dối trá (欺騙 khi biển, 瞞哄 man
hống, 哄騙
hống biển, 迷惑 mê hoặc). Td. Thiết trá cuống Yên
quân 設詐誑燕軍 [Sử Ký 史記,
Lạc Nghị Liệt Truyện 樂毅列傳] (Đặt ra những điều hư ngụy để lừa quân
sĩ
nước Yên). Vô thức 無識: Người không học thức.
6. Vu 誣: Nói điều không có thực. Td. Vu cáo
誣告, vu khống 誣控. Trá 詐: Lừa
dối. Cổ Hán ngữ dùng chữ trá 詐 để diễn ý
nghĩa lừa gạt, chứ không dùng
chữ biển 騙 như Hán ngữ hiện đại (Chú thích của
Vương Lực, Sđd. trang
366). Td. Đại vương dĩ trá phá chi 大王以詐破之 [Chiến Quốc
Sách 戰國策, Tần
Sách Nhất 秦策一] (Đại vương dùng lời không có
thực để phá tan quân giặc).
Ngụy 偽: Quỷ trá 詭詐, không thành thực 不誠實. Td.
Nghiêm hình phạt, sức
chính giáo, gian ngụy vô sở dung 嚴刑罰飭政教奸偽無所容
[Diêm Thiết Luận 鹽鐵論, Phi
Ưởng 非鞅] (Nghiêm khắc hình phạt đồng thời chỉnh đốn
chính trị và tôn
giáo thì bọn gian ngụy không còn chốn để
dung thân).
7. Công yết 攻訐: Công kích 攻擊. Chữ 訐 cũng đọc
là kiết. Hư vu trá ngụy
công yết tông thân: Giả dối, lừa bịp, xoi mói,
công kích tộc họ thân
thích. Câu này nhấn mạnh tính chất quan
trọng của huyết thống, buộc con
người phải có cách cư xử chân thành.
8. Ngận 狠: Hung ác, tàn nhẫn. Lệ 戾: Tội lỗi (罪過 tội
quá, 罪戾 tội lệ).
Chữ lệ ghép chữ khuyển 犬 (chó) với chữ hộ 戶 (cửa), tức
là chó dữ giữ
cửa, ngụ ý hung hăng dữ tợn. Ngận lệ: Tính tình
oái oăm độc ác (乖戾 quai
lệ). Ngận lệ tự dụng: Tự bản thân sử dụng những thủ đoạn
tàn nhẫn, độc
ác.
9. Đang 當: Phán xét. Td. Đang Cao tội tử 當高罪死 [Sử
ký史記, Mông Điềm Liệt
Truyện 蒙恬列傳] (Phán xét tội Triệu Cao phải chết). Thị phi
bất đang:
Không xem xét đếm xỉa đến điều phải, điều quấy.
10. Quai 乖: Trở ngược (違背 vi bối), không hài hoà
不和諧, không thuận 不順.
Td. Nội ngoại quai giả, khả vong dã 內外乖者可亡也 [Hàn Phi Tử
韓非子, Vong Trưng
亡徵] (Những trật tự trong và ngoài cung đình
mà đảo ngược, thì đó là
điềm mất nước vậy). Chữ quai trong Cổ Hán ngữ không
có nghĩa là ngoan
ngoãn như trong Hán ngữ hiện đại. Td. Ngày nay
nói 這孩子真乖 nghĩa là: Đứa
bé ngoan quá. Nghi 宜: Thích hợp 合適, thích
nghi 適宜. Quai nghi: Lúc
nghịch lúc thuận. Hướng bối 向背: Đi tới rồi trở lui. Hướng bối
quai nghi
ám chỉ sự tráo trở bất nhất.
11. Ngược 虐: Trong thể chữ triện của chữ này, ở trên
là bộ hô (con
cọp), dưới là một người bị vuốt cọp bấu vào nhưng giản
lược còn thấy
móng vuốt; vậy nghĩa gốc của chữ này là cọp vồ
người; ý nói tàn bạo 殘暴,
bạo ngược 暴虐. Ngược hạ thủ công: Lập công trạng bằng
cách ngược đãi kẻ
dưới quyền.
12. Siểm 諂: Nịnh bợ (諂媚 siểm mị). Td. Bất kiêu bất siểm 不驕不諂:
Không
kiêu căng cũng không nịnh bợ. Hy 希: Hiếm hoi (希罕 hy
hãn). Td. Vật dĩ hy
vi quý 物以希為貴: Vật chất lấy sự hiếm hoi làm điều
quý (Vật quý là do hiếm
hoi). Nhưng chữ hy ở đây nghĩa là mong đợi đón bắt
(揣合 sủy hợp, 迎合
nghinh hợp). Chỉ 旨: Ý chỉ mục đích. Siểm thượng hy chỉ:
Nịnh bợ kẻ trên
để đón bắt ý muốn hay mục đích của họ (nhằm cầu
cạnh sự sủng ái hoặc
trục lợi).
13. Cô 辜: Tội. Td. Dân chi vô cô 民之無辜 [Thi Kinh
詩經, Tiểu Nhã 小雅, Chính
Nguyệt 正月] (Dân đen vô tội). Thành ngữ: Tử hữu dư
cô 死有余辜: Tử hình cũng
còn nhẹ so với tội ác quá lớn của hắn. Hình
phạt vô cô: Hình phạt người
vô tội.
14. Tru 誅: Giết chết tội nhân. Lục 戮 đồng nghĩa với sát 殺
(giết),
thường nói sát lục 殺戮 hoặc tru lục 誅戮. Hàng 降: Đầu
hàng 投降, quy thuận
歸順, hàng phục 降伏. Td. Ninh tử bất hàng 寧死不降 (Thà
chết chứ không quy
hàng). Chữ 降 này còn đọc là giáng
(phản nghĩa của thăng 升). Tru hàng
lục phục tức là tru lục hàng phục (giết chết kẻ quy
hàng).
15. Lộ 賂: Hối lộ 賄賂. Theo Vương Lực, Sđd. tr. 188, thượng cổ chữ lộ
không có nghĩa là hối lộ mà nghĩa là
tặng cho (贈送 tặng tống). Để chỉ sự
hối lộ, thượng cổ dùng chữ cầu 賕. Về sau này chữ lộ mới
mang ý nghĩa là
«đút lót, hối lộ». Td. Lại tọa thụ cầu uổng
pháp 吏坐受賕枉法 [Hán Thư 漢書,
Hình Pháp Chí 刑法志] (Bọn nha lại ngồi ăn của
đút làm cong vẹo pháp
luật). Khí 棄: Vất bỏ, xả bỏ (舍去 xả khứ, 拋棄 phao khí, 舍棄
xả khí, 扔掉
nhưng điệu). Td. Khí quyền 棄權 (Vất bỏ quyền chức); Khí
trí bất cố 棄置不顧
(Vất bỏ chẳng màng). Khí pháp thụ lộ: Bỏ qua
pháp luật mà nhận của hối
lộ.
16. Ung tắc 壅塞: Cản trở làm bế tắc, lấp chận lại (阻塞 trở tắc).
Td. Thủy
đạo ung tắc 水道壅塞 (Đường nước chảy bị chập lấp). Thả gian nhân tại
thượng tắc ung át hiền giả nhi bất tiến dã 且奸人在上必壅遏賢者而不進也
[Quản Tử 管子,
Lập Chính Cửu Bại Giải 立政九敗解] (Kẻ gian tà ở địa vị cao ắt
sẽ lấn át và
cản trở không cho người hiền tiến lên). Chữ 塞 còn
đọc là tái (biên ải).
Phương thuật: Hứa Chỉ Tịnh chú rằng đây là
nói chung các nghề như y
(thầy thuốc), bốc (bói toán), tinh (chiêm tinh),
tướng (xem tướng),
v.v. Thật sự ta phải đặt nội dung câu này vào
xã hội Trung Quốc cổ đại.
Thời tiên Tần lưỡng Hán, đã có rất nhiều
người theo vu giáo (một dạng
tôn giáo nguyên thủy) gọi là phương sĩ rất
tinh thông y bốc tinh tướng
v.v. Ngày nay, chỉ có y (Đông y) của phương thuật
là còn được xã hội
nhìn nhận. Cho nên câu ung tắc phương thuật
có thể dịch thoát là “cản
trở tài năng khéo léo của người khác”.
17. Sán 訕: Bài bác, phê bình,
chê bai, chỉ trích, công khai vạch lỗi
người khác 公開指責別人的過失. Báng 謗: Ác ý
công kích người khác 惡意攻擊別人. Sán
báng đồng nghĩa với bài báng 排謗, hủy báng
毀謗, để hủy 詆毀. Td. Văn học
năng ngôn nhi bất năng hành, cư hạ nhi sán thượng
文學能言而不能行居下而訕上 [Diêm
Thiết Luận 鹽鐵論, Địa Quảng 地廣] (Bọn văn nhân học giả chỉ biết
nói chứ
không biết làm, ở bên dưới mà chê bai
chỉ trích người trên). Tín năng
kiến nghi, trung nhi bị báng 信能見疑忠而被謗 [Sử Ký 史記, Khuất
Nguyên Truyện
屈原傳] (Thành tín mà bị nghi ngờ, hết lòng
mà bị chê trách).
18. Xạ 射: Bắn. Trục 逐: Rượt đuổi. Phi 飛: Bay, ở đây ám chỉ
loài chim. Tẩu 走: Chạy, ở đây ám chỉ loài
thú.
19. Trập 蟄: Loài vật làm tổ, ẩn sâu và ngủ
yên cho qua mùa đông giá
動物冬眠藏起來不食不動. Td. Trập trùng thủy tác 蟄蟲始作 [trang Tử 莊子,
Thiên Vận 天運]
(Loài côn trùng ngủ sâu trong đất nay bắt đầu
thức dậy). Phát trập 發蟄:
Nói rộng ra là phát quang hay phá hư ổ hang
của loài vật và côn trùng
trong đất, gò đất, v.v. Thê 棲: Chim đậu trên
cây. Kinh thê: Làm kinh
động nơi chim đậu. Thê nghĩa rộng là cư trú, lưu
ngụ. Td. Thê thân chi
xứ 棲身之處 (Chỗ cư ngụ). Ngô tương an thê 吾將安棲? [Lý
Bạch 李白, Vạn Phẫn Từ
Đầu Ngụy Lang Trung 萬憤詞投魏郎中] (Ta sẽ cư ngụ nơi nào?). [An 安
là hư từ
chỉ nơi chốn: nơi nào?].
20. Điền 填: Lấp đầy chỗ trống. Điền huyệt 填穴: Lấp lỗ hang. Phúc
覆: Lật
úp. Phúc sào 覆巢: Lật úp tổ chim. Lỗ hang
dưới đất gọi là huyệt, tổ chim
trên cây gọi là sào, nghĩa bóng
sào huyệt 巢穴 là nơi ẩn núp của bọn bất
hảo. Nghĩa bóng của phúc sào là tiêu
diệt sào huyệt bọn trộm cướp. Td.
Bất sổ nguyệt tất phúc tặc sào 不數月必覆賊巢 [Tân Đường
Thư 新唐書, Đỗ Mục
Truyện 杜牧傳] (Không quá vài tháng ắt
tiêu diệt được hang ổ của bọn cướp).
21. Thiết 竊: Ăn trộm (偷 thâu), một cách lén
lút (偷偷地 thâu thâu địa, 暗中 ám trung).
22. Tế 蔽: Che đậy (遮 già, 遮蔽 già tế, 掩蔽 yểm tế).
23. Xú 醜: Tướng mạo khó coi (相貌難看 tướng mạo nan
khán), xấu ác (不好 bất
hảo, 惡 ác). Xú chuyển nghĩa thành sỉ nhục 恥辱, tăng
ố 憎惡 (ghét). Td.
Chung thân chi xú 終身之醜 [trang Tử 莊子, Ngoại Vật 外物] (Sự
nhục nhã đáng hổ
thẹn vào cuối đời). Ngã thậm xú chi 我甚醜之 (Ta thật
ghét nó). Lưu xú vạn
niên 流醜萬年 (Để lại tai tiếng đời đời). Xú danh 醜名 (tai
tiếng). Hình 形 ở
đây là động từ, nghĩa là biểu hiện 表現. Td. Hỷ nộ
bất hình ư sắc 喜怒不形于色
(Vui và giận không thể hiện ra sắc mặt). Hình
nhân chi xú: Nêu tướng
xấu hoặc điều xấu của người khác ra.
24. Yết 訐: Công kích 攻擊, xoi bói. Cũng đọc
là kiết. Yết nhân chi tư: Xoi bói chuyện
riêng tư của người khác 揭發別人的陰私.
25. Sính 逞: (1) Hiển xuất 顯出, biểu hiện 表現. Td. Sính năng
逞能 (biểu lộ
khả năng), sính cường 逞強 (biểu lộ sức mạnh). (2) Vừa lòng
hả dạ (xứng
ý). Td. Dâm hình dĩ sính, thùy tắc
vô tội? 淫刑以逞誰則無罪 [Tả Truyện 左傳, Hy
Công Nhị Thập Tam Niên 僖公二十三年] (Lạm dụng hình phạt
để vừa lòng hả dạ,
ai sẽ là người vô tội đây?). [Dâm: Lạm dụng
thái quá]. Sính chí tác uy:
Phô trương uy quyền cho hả dạ phỉ chí.
26. Miêu 苗: Mạ lúa, mầm non thực vật 初生的植物. Td. Mạch
miêu 麥苗 (mầm lúa
mạch), thanh miêu 青苗 (mạ non), đậu miêu 豆苗 (mầm đậu).
Giá 稼: (1) Làm
ruộng cấy lúa (種田 chủng điền). (2) Ngũ cốc 五谷 (莊稼 trang
giá). Td. Chủng
trang giá 種莊稼 (trồng ngũ cốc), giá sắc 稼穡 (làm
việc đồng áng). Thập
nguyệt nạp hoà giá 十月納禾稼 [Thi Kinh 詩經, Thất Nguyệt 七月]
(Tháng 10 thu
hoạch lúa và ngũ cốc). Miêu giá 苗稼: Mạ
lúa và ngũ cốc, nói chung là
việc trồng trọt ruộng rẫy (農事 nông sự).
27. Cẩu phú 苟富: Mới giàu lên chút đỉnh. Cẩu
phú nhi kiêu: Mới giàu lên
chút đỉnh mà kiêu căng phách lối. Cẩu: (1)
Nếu (xem lại chú thích 1,
cẩu hoặc). (2) Sơ sài, tạm bợ (苟且 cẩu thả). Td. Nhất nhật chi
cẩu an,
sổ bách niên chi đại hoạn dã 一日之苟安數百年之大患也 [trần
Lượng 陳亮, Thượng Hiếu
Tông Hoàng Đế Đệ Nhất Thư 上孝宗皇帝第一書] (Tạm yên một
ngày nhưng sẽ là mối
lo lớn cho mấy trăm năm sau).
28. Cẩu miễn 苟免: Trốn tránh cho khỏi bị hình phạt, tử
vong, v.v. Miễn
免: Thoát khỏi 脫. Sỉ 恥: Nhục, sỉ nhục, xấu hổ (羞愧 tu quý).
Td. Việt
Vương khổ Cối Kê chi sỉ 越王苦會稽之恥 [Lã Thị Xuân Thu
呂氏春秋, Thuận Dân 順民]
(Việt Vương Câu Tiễn đau khổ vì cái nhục ở Cối
Kê). Cẩu miễn vô sỉ:
Tránh né hình phạt mà không biết xấu
hổ. Vương Lực phân biệt 3 chữ: tu
羞, sỉ 恥, nhục 辱:
* Tu 羞 là xấu hổ (羞愧 tu quý) nhưng không chú
trọng đến mức độ sự xấu
hổ. Hại tu 害羞: Mắc cỡ. Tu đắc kiểm thông hồng 羞得臉通紅 (mắc cỡ đỏ
mặt).
* 恥 và nhục 辱 dùng như danh từ thì đồng nghĩa
nhau: sự việc đáng xấu
hổ. Nhưng khi dùng như động từ thì chúng
không đồng nghĩa. Td. Sỉ chi
恥之 (làm cho nó phải xấu hổ), nhục chi 辱之 (làm nhục
nó). Công xúc tu sỉ
公觸羞恥 (làm cho mọi người nơi công cộng phải xấu hổ mắc cỡ).
29. Giá 嫁: Lấy chồng là giá 嫁, lấy vợ là
thú 娶. Xuất giá 出嫁 (Lấy chồng
và về nhà chồng). Thú thê 娶妻 (Lấy vợ).
Giá thú 嫁娶 (Lấy chồng lấy vợ).
Giá cũng có nghĩa là gả con gái cho ai. Td.
Tích Tần Bá giá kỳ nữ ư Tấn
công tử 昔秦伯嫁其女於晉公子 [Hàn Phi Tử 韓非子, Ngoại Trừ Thuyết Tả
Thượng 外儲說左上]
(Ngày xưa Tần Bá gả con gái cho Tấn công
tử). Từ đó nhân duyên chồng vợ
gọi là duyên Tần Tấn. Chữ thú 娶 gồm chữ thủ 取 (giữ
lấy) hợp với chữ nữ
女, ý nói người đàn ông giữ lấy người con
gái. Chữ giá 嫁 gồm chữ nữ 女
hợp với chữ gia 家, ngụ ý là gái về nhà
chồng. Gái hư về nhà chồng thì
gây tai hoạ cho nhà chồng. Vì thế chữ giá
chuyển nghĩa là gây điều xấu
cho người như nói vu oan giá hoạ 誣冤嫁禍 (vu khống điều oan
ức cho người,
gieo tai hoạ cho người).Td. Hàn thị sở dĩ bất nhập ư Tần giả,
dục giá
kỳ họa ư Triệu dã 韓氏不入於秦者欲嫁其禍於趙也 [Sử Ký 史記, Triệu Thế Gia
趙世家] (Lý do
mà họ Hàn không vào đất Tần là muốn
gieo họa cho Triệu). Chú ý: Sở dĩ
trong Cổ Hán ngữ để chỉ nguyên do, nhưng trong Hán
ngữ hiện đại thì chỉ
kết quả. Mại 賣: Bán. Mãi 買: Mua. Mại ác:
Bán (gán) điều ác cho ai.
30. Cô 沽: (1) Mua (= mãi 買). Td. thành ngữ Cô
danh điếu dự 沽名釣譽 (Mua
danh câu tiếng: to fish for fame and compliments). (2) Bán
(= mại 賣).
Td. thành ngữ Đãi giá nhi cô 待價而沽 (Đợi được
giá cao mới bán ra: to wait
for the highest offer; nghĩa bóng ám chỉ những kẻ sĩ đợi
người cầu
thỉnh và hậu đãi mới chịu cộng tác). Hữu mỹ ngọc ư
tư, uẩn độc nhi tàng
chư: cầu thiện giá nhi cô chư? 有美玉於斯韞匵而藏諸求善賈而沽諸 [Luận Ngữ
論語, Tử Hãn
子罕] (Có ngọc đẹp ở đây, nên cất trữ trong hộp hay
là mong cầu được giá
cao mà bán đi?). Chữ cô mãi trong bài
đồng nghĩa với mại mãi (bán và
mua). Cô mãi hư dự: Bán và mua cái
danh tiếng hão huyền.
31. Bao 包: Bao che, bọc gói. Trữ 貯: Tích trữ, chất chứa.
Bao trữ hiểm tâm: Chất chứa lòng dạ sâu hiểm
ác độc.
32. Toả 挫: (1) Bẻ gãy, làm cho ai hao tổn và thất
bại (挫折 toả chiết, 折損
chiết tổn). Td. Nhuệ nhi bất toả 銳而不挫 [Hoài Nam Tử 淮南子, Thời Tắc
時則]
(Tinh nhuệ và không bị đánh bại). (2) Áp chế
壓制: đè nén. Td. Bật vi
chính, đặc toả ức cường hào 弼為政特挫抑強豪 [Hậu Hán Thư
後漢書, Sử Bật Truyện
史弼傳] (Sử Bật làm chính trị, chuyên trấn áp
bọn cường hào). Toả nhân sở
trường: Cản trở hoặc áp chế tài năng của người
khác.
33. Cố 故: Lý do (緣故 duyên cố, 原因 nguyên nhân).
Td. thành ngữ Vô duyên
vô cố 無緣無故 (Chẳng có lý do gì). Tiển 剪:
Cây kéo, cắt bỏ, diệt trừ. Td.
Tiển thảo trừ căn 剪草除根 (Diệt cỏ tận gốc). Tài 裁: Cắt xén,
triệt bỏ (裁撤
tài triệt). Td. Tiển tiệt phù từ vị chi tài
剪截浮詞謂之裁 [Lưu Hiệp 劉勰, Văn
Tâm Điêu Long 文心雕龍] (Cắt bỏ hết những lời sáo rỗng
gọi là tài). Tiển
tài: Cắt xén bỏ đi.Vô cố tiển tài: Cắt
xén chặt bỏ (cây cối) mà chẳng
có lý do.
34. Phanh 烹: (1) Nấu nướng (煮 chử, 燒煮 sao chử). (2) Giết chết,
tiêu
diệt. Td. Phanh diệt cường bạo 烹滅強暴 [Sử Ký 史記, Tần Thuỷ
Hoàng Bản Kỷ
秦始皇本紀] (Tiêu diệt bọn cường bạo). Tể 宰: Giết súc vật (= đồ
屠). Td. Tể
trư 宰豬 (giết heo). Đồ tể 屠宰 (kẻ chuyên giết súc vật; đồ
và tể đồng
nghĩa với nhau). Td. Phanh dương tể ngưu thả vi lạc 烹羊宰牛且為樂 [Lý
Bạch
李白, Tương Tiến Tửu 將進酒] (Giết dê mổ bò lấy làm
vui). Phi lễ phanh tể:
Không nhằm ngày lễ lạc mà giết mổ súc vật.
Để hiểu ý này ta cần hình
dung một xã hội Trung Quốc cổ đại mà việc ăn thịt
là một thói xa xỉ.
Chỉ phanh tể súc vật khi có lý do chính
đáng, thí dụ như cúng tế. Người
ta cúng tế thần linh bằng tam sinh 三牲 (ngưu 牛, dương 羊, trư 豬).
Về sau,
có lẽ để đỡ tốn kém, người Trung Quốc thay bằng trư 豬,
kê 雞, ngư 魚
(người Việt Nam thay bằng một miếng thịt heo luộc, một quả trứng
và một
con tôm). Cũng như nông thôn miền Bắc của ta
ngày xưa, quanh năm chỉ có
tương cà, mỗi khi có lễ hội cúng tế mới ngả
trâu bò hay lợn và chia
thịt với nhau. Như vậy ý câu này răn đe rằng:
không có lý do chính đáng
mà giết mổ súc vật là có tội hoang
phí xa xỉ (đặc biệt là trâu bò rất
cần cho cày ruộng).
35. Tán 散: Vãi ra, vung ra. Khí 棄: Vất bỏ.
Tán khí ngũ cốc: Vung vãi
vất bỏ ngũ cốc. Đây cũng là một tội vì hoang
phí lương thực mà nhà nông
trải bao khó nhọc mới thu hoạch được.
36. Quyết 決: (1) Bờ đê, bờ sông bị nước xói
mòn 堤岸被水沖開口子. Nghĩa gốc của
quyết là bài trừ những vật chướng ngại để thông
đường nước 排除阻塞物疏通水道.
Quyết thủy 決水 (Xoi bờ cho nước tràn). Td. Vũ quyết giang sơ
hà 禹決江疏河
[Giả Tư Hiệp 賈思勰, Tế Dân Yêu Cầu 濟民要求] (Vua Vũ dẹp chướng
ngại vật để
thông giòng chảy của sông). (2) Nước xói
mòn đê điều 水把堤防沖開. Td. Hà
thủy quyết Bộc Dương phiếm thập lục quận 河水決濮陽泛十六郡 [Hán Thư 漢書,
Vũ Đế
Kỷ 武帝紀] (Nước sông xói mòn đê điều ở Bộc
Dương tràn ngập 16 quận).
36. Vặn 紊: Loạn, rối ren. Vặn loạn là hai chữ đồng nghĩa
ghép lại thành
một từ. Td. Chính hình trì vặn 政刑弛紊 [Nam Sử 南史,
Lương Vũ Đế Kỷ 梁武帝紀]
(Chính trị và hình pháp buông lỏng
rối ren). Qui mô 規模: Pháp độ, qui
phạm, phép tắc. Vặn loạn qui mô: Làm rối loạn
phép tắc (khiến công
trình của người khác bị thất bại).
38. Lưu 流: Lưu đày, lưu phóng 流放 (đầy ải đi xa). Td. Lưu
Cộng Công ư U
Châu phóng Hoan Đâu ư Sùng Sơn 流共工於幽州放驩兜於崇山
[Thượng Thư 尚書, Thuấn Điển
舜典] (Lưu đày Cộng Công nơi U Châu và lưu
đày Hoan Đâu nơi Sùng Sơn).
Biếm 貶: Giáng chức 降職. Lưu biếm: Bị lưu đày và
giáng chức.
39. Tư 私: (1) Riêng tư. (2) Quan hệ tính dục nam nữ bất
chính
男女不正當的性關係. Td. Kỳ thê tư nhân 其妻私人 [Chiến Quốc Sách
戰國策, Yên Sách Nhất
燕策一] (Vợ hắn thông gian với người khác). Kiến tha sắc mỹ
khởi tâm tư
chi: Thấy ai xinh đẹp thì sinh lòng tà dâm
muốn thông gian. Có bản Kinh
Cảm Ứng chép thành chữ tư 思 (tư tưởng, nghĩ đến). Khởi
tâm đã là tư 思
rồi. Sở dĩ người ta chép lầm như vậy vì không ngờ
chữ tư 私 cổ đại có
nghĩa là thông gian, gian dâm. Trong Hán ngữ
hiện đại, chữ tư 私 đã mất
ý nghĩa là thông gian này.
40. Can cầu 干求: Truy cầu 追求 (ám chỉ mong cầu chức vị, bổng lộc).
Can
lộc 干綠: Cầu bổng lộc. Toại 遂: Theo ý muốn (如意 như ý). Td.
Toại tâm 遂心,
toại nguyện 遂願. Chú 咒: Chưởi bới, nguyền rủa (咒罵 chú mạ).
Can cầu bất
toại tiện sinh chú hận: Truy cầu mà không thỏa
lòng thì chưởi bới mắng
nhiếc.
41. Xưng 稱: Tán dương 贊揚. Td. Thử tứ vương giả, vạn thế chi sở
xưng dã,
dĩ vi thánh vương, nhiên kỳ đạo do bất năng thủ dụng ư hậu
此四王者萬世之所稱也以為聖王然其道猶不能取用於後 [Thương Quân Thư 商君書, Lai Dân 徠民]
(Bốn ông vua
Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ ấy được vạn đời tán dương khen
ngợi là thánh
vương, nhưng đường lối của họ không được hậu thế dùng
đến). Kiến tha
tài năng khả xưng nhi ức chi: Thấy người tài giỏi,
ngoài miệng thì tán
dương nhưng lại tìm cách đè nén họ.
DỊCH ĐIỀU 5
Nếu như ai mà hành động những điều phi nghĩa trái
đạo lý (như sau đây)...
(1) Lấy thủ đoạn độc ác làm tài năng của
mình, (2) Nhẫn tâm làm điều
tàn ác độc hại, (3) Lén hại người lương thiện, (4)
Thầm khinh cha mẹ,
(5) Khinh khi thầy dạy, (6) Phản bội nơi mình phục vụ,
làm việc, (7)
Lừa bịp người không hiểu biết, (8 ) Chê bai bạn học, (9)
Dối trá lật
lọng, công kích họ hàng thân tộc, (10) Hung
bạo không thương người,
(11) Tự có những thủ đoạn độc ác, (12) Chẳng cần biết
đúng sai phải
quấy, (13) Tráo trở ngược xuôi, (14) Bạo ngược đối với kẻ
dưới để lập
công, (15) Nịnh bợ cấp trên, đón ý để trục
lợi, (16) Nhận ơn ai, chẳng
biết cảm động, (17) Luôn ôm lòng oán hận
không dứt, (18) Khinh bỉ Trời
và dân chúng, (19) Gây rối loạn chính
trị trong nước, (20) Khen thưởng
kẻ phi nghĩa, (21) Trừng phạt kẻ vô tội, (22) Giết người cướp
của, (23)
Lật đổ người khác để chiếm địa vị của họ, (24) Giết kẻ đầu
hàng, (25)
Giáng chức người ngay, bài trừ người hiền, (26) Lăng nhục
cô nhi, bức
hại goá phụ, (27) Bỏ qua pháp luật để ăn hối lộ, (28) Lấy
thẳng làm
cong, lấy cong làm thẳng, (29) Tội người nhẹ mà
làm cho nặng thêm, (30)
Thấy người khác bị tội chết mà còn oán
giận, (31) Biết lỗi mà không
sửa, (32) Biết điều thiện mà không làm, (33)
Mình có tội, làm liên lụy
kẻ khác, (34) Cản trở tài năng người khác, (35)
Chê bai báng bổ thánh
hiền, (36) Phá hỏng đạo đức, (37) Săn bắt chim thú, (38)
Phá lỗ hang
loài vật, làm kinh động chỗ chim đậu, (39) Lấp lỗ hang
và lật úp tổ
chim, (40) Phá thai hại trứng, (41) Mong cho người khác
thất bại, (42)
Hủy bỏ sự thành công của người khác, (43)
Làm người khác lâm nguy để
cho mình yên ổn, (44) Làm người khác hao tốn
để cho mình ích lợi, (45)
Xem điều ác là điều tốt, (46) Vì việc riêng
tư mà phế bỏ việc công,
(47) Trộm cắp tài năng của người khác, (48) Che lấp việc
tốt của người
khác, (49) Phố bày tướng xấu và điều xấu của người
khác, (50) Xoi bói
chuyện riêng của người khác, (51) Làm cho người
khác hao tốn tài vật,
(52) Chia rẽ tình cốt nhục của người khác, (53) Xâm
phạm tình yêu của
người khác, (54) Giúp người khác làm điều
quấy, (55) Phô trương uy
quyền cho phỉ lòng, (56) Lăng nhục người khác để
giành phần thắng, (57)
Làm thất bại việc cày cấy của người khác, (58)
Phá hoại hôn nhân của
người khác, (59) Mới giàu có chút đỉnh
đã kiêu căng, (60) Chạy tội,
không biết xấu hổ, (61) Mạo nhận ân huệ, chối biến tội lỗi,
(62) Gieo
họa cho người khác, (63) Mua bán danh hão, (64)
Chất chứa lòng dạ sâu
hiểm, (65) Ém tài và cản trở tài năng người
khác, (66) Bảo vệ chỗ non
kém của mình, (67) Cậy quyền thế bức hiếp người
khác, (68) Dung túng kẻ
bạo ngược để giết hoặc gây thương tích người khác,
(69) Không có lý do
chính đáng mà cắt xén tỉa bỏ vật gì,
(70) Không có lễ lạc mà giết mổ
súc vật, (71) Vung vãi bỏ đi ngũ cốc, (72) Làm
chúng sinh lao nhọc,
phiền nhiễu, (73) Phá hoại gia cang người khác, (74) Giữ
lấy tài vật
quý báu của người khác, (75) Phá đê
điều và đốt nhà làm hại dân cư,
(76) Làm loạn phép tắc để cộng người khác bị thất
bại, (77) Phá hư dụng
cụ, đồ nghề của người khác khiến họ không còn
gì để dùng, (78) Thấy
người vinh hiển phú quý thì mong cho họ bị
giáng chức và lưu đày, (79)
Thấy người giàu có thì mong cho họ hao tán
của cải, (80) Thấy vợ hay
con gái người ta xinh đẹp thì nảy lòng muốn tư
thông, (81) Thiếu nợ
người tiền bạc của cải thì mong cho họ chết, (82) Mong cầu địa
vị bổng
lộc mà không toại nguyện thì sinh lòng
oán hận chưởi rủa, (83) Thấy
người thất lợi thì rêu rao lỗi lầm của họ, (84) Thấy người
khác hình
hài tướng tá không toàn vẹn thì
chê cười, (85) Thấy người tài giỏi, bề
ngoài thì tán dương nhưng trong lòng
thì tìm cách đè nén họ,...
GIẢI ĐIỀU 5
Cả điều 5 và 6 đều liệt kê những thủ đoạn độc ác
và lòng dạ sâu hiểm
của con người. Mở đầu điều 5 là câu điều kiện: Nếu
làm những điều ác và
trái đạo lý [như liệt kê trong điều 5 và 6]
thì sẽ bị ác báo [đề cập ở
điều 7].
Ta thấy điều 3 và 4 rồi các điều 5, 6, 7 minh hoạ cụ thể
cho luật nhân
quả: Nhân nào quả đó. Điều 3 [Tích thiện]
nói đến nhân tốt, điều 4
[Thiện báo] nói đến quả tốt. Điều 5 và 6 [Chư
ác] nói đến nhân xáu,
điều 7 [Ác báo] nói đến quả báo xấu.
6. 諸 惡 (下) CHƯ ÁC (HẠ)
埋 蠱 厭 人, 用 藥 殺 樹, 恚 怒 師 傅, 抵 觸 父 兄, 強 取 強 求, 好 侵 好 奪, 擄 掠 致 富, 巧 詐 求 遷,
賞 罰 不 平, 逸 樂 過 節, 荷 虐 其 下, 恐 嚇 於 他, 怨 天 尤 人, 呵 風 罵 雨, 鬥 合 爭 訟, 妄 逐 朋 黨,
用 妻 妾 語 違 父 母訓, 得 新 忘 故, 口 是 心 非, 貪 冒 於 財, 欺 罔 其 上, 造 作 惡 語, 讒 毀 平 人, 毀
人 稱 直, 罵 神 稱 正, 棄 順 效 逆, 背 親 向 疏, 指 天 地 以 證 鄙 懷, 引 神 明 而 鑑 猥 事, 施 與 後
悔, 假 借 不 還, 分 外 營 求, 力 上 施 設, 淫 欲 過 度, 心 毒 貌 慈, 穢 食 餧 人, 左 道 惑 眾, 短 尺 狹
度, 輕 秤 小 升, 以 偽 雜 真, 採 取 姦 利, 壓 良 為 賤, 謾 驀 愚 人, 貪 婪 無 厭, 咒 詛 求 直, 嗜 酒 悖
亂, 骨 肉 忿 爭, 男 不 忠 良, 女 不 柔 順, 不 知 其 室, 不 敬 其 夫, 每 好 矜 誇, 常 行 妒 忌, 無 行 於
妻 子, 失 禮 於 舅 姑, 輕 慢 先 靈, 違 逆 上 命, 作 為 無 益, 懷 挾 外 心, 自 咒 咒 他, 偏 憎 偏 愛, 越
井 越 灶, 跳 食 跳 人, 損 子 墮 胎, 行 多 隱 僻, 晦 臘 歌 舞, 朔 旦 號 怒, 對 北 涕 唾 及 溺, 對 灶 吟
詠 及 哭, 又 以 灶 火 燒 香, 穢 柴 作 食, 夜 起 裸 露, 八 節 行 刑, 唾 流 星 指 紅 霓, 輒 指 三 光, 久
視 日 月, 春 月 燎 臘, 對 北 惡 罵, 無 故 殺 龜 打 蛇.
Mai cổ yếm nhân,1 dụng dược sát thụ, nhuế nộ sư
phó,2 để xúc phụ
huynh,3 cưỡng thủ cường cầu, háo xâm háo đoạt, lỗ
lược trí phú,4 xảo
trá cầu thiên,5 thưởng phạt bất bình, dật lạc
quá tiết,6 hà ngược kỳ
hạ, khủng hách7 ư tha, oán thiên vưu8 nhân,
ha9 phong mạ vũ, đấu hiệp
tranh tụng, vọng trục bằng đảng, dụng thê thiếp ngữ vi phụ mẫu
huấn,
đắc tân vong cố, khẩu thị tâm phi, tham mạo ư tài,
khi võng10 kỳ
thượng, tạo tác ác ngữ, sàm hủy bình
nhân, hủy nhân xưng trực, mạ thần
xưng chính, khí thuận hiệu nghịch,11 bối thân hướng
sơ, chỉ thiên địa
dĩ chứng bỉ hoài,12 dẫn thần minh nhi giám ôi sự,13
thí dữ hậu hối, giả
tá bất hoàn, phận ngoại doanh cầu,14 lực thượng thi
thiết,15 dâm dục
quá độ, tâm độc mạo từ, uế thực ủy nhân,16 tả đạo
hoặc chúng, đoản xích
hiệp độ,17 khinh xứng tiểu thăng, dĩ ngụy tạp chân, thái
thủ gian
lợi,18 áp lương vi tiện, mạn mạch19 ngu nhân, tham lam
vô yếm,20 chú
thư cầu trực,21 thị tửu bột loạn,23 cốt nhục phẫn tranh, nam bất trung
lương, nữ bất nhu thuận, bất tri kỳ thất, bất kính kỳ phu, mỗi
háo căng
khoa, thuờng hành đố kỵ, vô hạnh ư thê tử, thất lễ ư
cữu cô, khinh mạn
tiên linh, vi nghịch thượng mệnh, tác vi vô
ích, hoài hiệp ngoại tâm,23
tự chú chú tha, thiên tăng thiên ái,
việt tỉnh việt táo,24 khiêu thực
khiêu nhân, tổn tử đọa thai,25 hành đa ẩn tịch, hối
lạp ca vũ,26 sóc
đán hiệu nộ,27 đối bắc thế thóa cập niệu (nịch),28 đối
táo ngâm vịnh
cập khốc, hựu dĩ táo hỏa thiêu hương, uế sài
tác thực, dạ khởi lõa lộ,
bát tiết hành hình,29 thóa lưu tinh,30 chỉ
hồng nghê,31 triếp chỉ tam
quang,32 cửu thị nhật nguyệt, xuân nguyệt liệu lạp,33 đối bắc
ác mạ, vô
cố sát qui đả xà.
TỪ NGỮ
1. Mai 埋: Chôn giấu. Td. Mai danh ẩn tích /ẩn tích
mai danh 隱跡埋名 (giấu
tên và tung tích). Mai một 埋沒: chôn mất đi.
Td. Bất khả mai một nhân
tài 不可埋沒人才 (không thể chôn mất nhân
tài). Cổ 蠱 [xem chú 13 của điều 2]:
Một loại độc trùng. Thời xưa dùng độc trùng để
làm bùa ếm người, nên có
từ vu cổ 巫蠱 (nghĩa là dùng vu thuật độc hại người). Td.
Tấu ngôn thượng
tật sùng tại vu cổ 奏言上疾崇在巫蠱 [Hán thư 漢書, Giang Sung
truyện 江充傳] (Trình
tấu rằng bề trên có thói sùng thượng
bùa phép ếm hại người). Nghĩa
rộng, cổ là mê hoặc, lừa dối. Cổ thế 蠱世: dối đời.
Yếm 厭: Ghét chán (thảo yếm 討厭). Theo Vương Lực [sđd, tr.
329], ngày xưa
chữ yếm dùng thông với chữ áp 壓 (nghĩa là
áp chế đè nén: áp ức 壓抑, áp
chế 壓制). Td. Đông yếm chư hầu chi quyền 東厭諸侯之權 [Hán thư
漢書, Dực Phụng
truyện 翼奉傳] (Ở phía đông thì áp chế quyền
lực của chư hầu). Ngoài ra,
còn có nghĩa là trấn áp yêu tà
鎮壓夭邪. Td. Tần Thuỷ Hoàng Đế thường viết
đông nam hữu yêu khí. Ư thị, nhân đông
du dĩ yếm chi
秦始皇帝常曰東南有夭氣於是因東游以厭之 [Sử Ký 史記, Tần Thuỷ Hoàng bản kỷ
秦始皇本紀] (Tần Thuỷ
Hoàng Đế nói phía đông nam có
yêu khí, nên nhân tiện đi hướng đông
mà
trấn yểm luôn). Mai cổ yếm nhân: Chôn bùa ếm
hại người khác.
2. Nhuế 恚: Giận hờn, oán hận, nổi giận (=nộ 怒, hận 恨). Td. Qui
dĩ cáo
Mông mẫu, mẫu nhuế, dục phạt chi 歸以告蒙母母恚欲罰之 [Tam Quốc Chí
三國誌, Ngô thư
吳書, Lã Mông truyện 呂蒙傳] (Trở về bảo với mẹ của Lã
Mông, bà ta giận lắm
và muốn trừng phạt Lã Mông). Phó 傅: Dạy dỗ
dẫn dắt người khác (giáo đạo
教導). Sư phó là người thầy dạy học (教導人的人). Ngày
nay sư phó là tiếng tôn
xưng chỉ giáo viên dạy nghề hoặc công nhân
giỏi có kinh nghiệm thực
tiễn (傳授技藝的老師和對有實踐經驗工人的尊稱). Nhuế nộ sư phó: Oán giận thầy
dạy (chữ cũng
như nghề).
3. Để 抵: Chống chọi lại (để kháng 抵抗). Để xúc 抵觸:
Phát sinh xung đột 發生沖突. Để xúc phụ huynh: Xung đột với
cha và anh.
4. Lỗ 擄: Sang đoạt. Lược 掠: Đoạt lấy, cướp lấy. Trí 致: Đạt tới
(đắc đáo
得到, thủ đắc 取得). Td. Trung ngôn phất ư nhĩ, nhi minh chủ
thính chi, tri
kỳ khả dĩ trí công dã 忠言拂於耳而明主聽之知其可以致功也 [Hàn
Phi Tử 韓非子, Ngoại trừ
thuyết tả thượng 外儲說左上] (Lời nói trung thực thì
không thuận tai, nhưng
minh chủ đã nghe cho, thì đủ biết sẽ có thể đạt
được công trạng rồi).
Lỗ lược trí phú: Cướp giật để trở nên giầu
có.
5. Thiên 遷: Nghĩa gốc là dời chuyển (thiên di 遷移),
nghĩa rộng là điều
động quan chức 調動官職 hay thăng quan 升官. Td. Hiếu Văn Đế duyệt chi,
siêu
thiên, nhất tuế trung chí thái trung đại phu
孝文帝說之超遷一歲中至太中大夫 [Sử Ký 史記,
Giả Nghị truyện 賈誼傳] (Hiếu Văn Đế thích Giả Nghị nên cho
thăng quan
vượt cấp, trong vòng một năm đã lên chức
thái trung đại phu) [Chữ
thuyết 說 (đọc) dùng thông với duyệt 悅 (vui thích)].
Xảo trá cầu thiên:
Xảo trá cầu thăng quan tiến chức.
6. Dật 逸: (1) Chạy (= đào bào 逃跑) Td. Mã dật bất
năng chỉ 馬逸不能止 (Ngựa
chạy không dừng được), (2) Ẩn dật 隱逸, (3) Phóng
thích tội nhân 釋放, (4)
An nhàn 安閑, an dật 安逸, (5) Nghĩa trong bài là
phóng đãng 放蕩, phóng túng
放縱 như dâm dật (phóng đãng quá mức). Td.
Chuyên dâm dật xỉ mỹ, bất cố
quốc chính 專淫逸侈靡不顧國政 [Chiến Quốc Sách 戰國策, Sở sách
tứ 楚策四] (Chỉ chuyên
dâm dật xa xỉ, chẳng ngó ngàng việc nước). Dật lạc
quá tiết: Dâm dật và
hưởng lạc không tiết độ.
7. Hách 嚇: Đe dọa =đỗng hách 恫嚇, khủng hách 恐嚇.
8. Vưu 尤: Nghĩa gốc là tội lỗi (quá thất, tội
quá), nghĩa rộng là oán
trách, đổ tội cho ai. Td. Oán thiên vưu nhân
怨天尤人 (oán trời, hận người).
9. Ha 呵: Mắng chưởi (= mạ 罵).
10. Võng 罔: Che đậy bưng bít (= mông tế 蒙蔽).
11. Hiệu 效: Bắt chước (mô phỏng 模仿, hiệu pháp 效法),
dùng như chữ 傚. Td.
Hiệu vưu, họa dã 效尤禍也 [Tả Truyện 左傳, Văn Công nguyên
niên 文公元年] (Bắt
chước điều quấy, ắt bị họa vậy). Khí thuận hiệu nghịch: Bỏ điều
đúng,
bắt chước điều quấy. (Thuận: thuận đạo lý; nghịch: nghịch đạo
lý).
12. Bỉ 鄙: Tầm thường, thấp hèn (dung tục 庸俗, thiển lậu 淺陋).
Hoài 懷: Tâm
tình 心情, tâm ý 心意. Td. Khẳng khái thương
hoài khấp sổ hàng hạ 慷慨傷懷泣數行下
[Sử Ký 史記, Cao Tổ bản kỷ 高祖本紀] (Khẳng khái đau
lòng, mấy giòng lệ
tuôn). Bỉ hoài: Lòng dạ xấu xa đen tối.
13. Ôi (ổi) 猥: Bỉ lậu 鄙陋, hạ lưu 下流. Ôi tiết 猥褻 (tục tĩu)
[tiết 褻: áo
lót phụ nữ], ôi tiết ngữ 猥褻語 (lời nói dâm
tục), ôi tiết hành vi 猥褻行為
(hành vi dâm tục). Ôi sự: Sự việc đê tiện
dâm tục.
14. Doanh 營: Mưu cầu 謀求. Td. Vô doanh vô dục 無營無欲
(không mong cầu,
không ham muốn). Phận 分: Thân phận 身分. Phận ngoại doanh
cầu: Mưu cầu
vọng tưởng những điều vượt quá phận mình (trái
nghĩa: An phận thủ
thường).
15. Lực 力: Tận lực 盡力. Td. Cứ lý lực tranh 據理力爭 (Theo lý
mà tranh cãi
hết mình). Lực chiến 力戰 (Tận lực chiến đấu). Thi 施: Thi thiết
施設, thiết
trí 設置 (xếp đặt, bố trí 布置). Td. Lập pháp thiết
độ, chỉnh lý nhung lữ
立法施度整理戎旅 [Tam Quốc Chí 三國誌, Thục Thư 蜀書, Gia Cát Lượng
truyện 諸葛亮傳]
(Lập pháp, xếp đặt có chừng mực và chỉnh lý
quân đội ). Lực thượng thi
thiết: Gắng sức mưu cầu phú quý. Hứa Chỉ Tịnh chú:
Người đời có cái
bệnh lớn nhất là cả đời mưu đồ phú quý, vì
con cháu mà nai lưng trâu
ngựa để làm lụng lo cho chúng thụ hưởng. Rốt cuộc sức
tàn gân mỏi [lực
tận cân bì 力盡筋疲]. Xét cho cùng cũng
là vô ích, đôi khi mang họa vào
thân. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
16. Uế 穢: Dơ bẩn (khảng tảng 骯髒, ô uế 污穢). Uỷ 餧: Đưa thức ăn cho
ai ăn, đút ăn, mời ăn 把食物送進人嘴里.
17. Hiệp 狹: Hẹp. Td. Hiệp trách 狹窄 (hẹp hòi). Hiệp lộ
tương phùng 狹路相逢
(Hai kẻ cừu địch gặp nhau chỗ đường hẹp). Đoản xích 短尺: Thước
ngắn
thước non.
18. Thái 採: Tuyển chọn (thái thủ 採取, thái dụng
採用). Gian lợi 姦利: Cái lợi gian trá.
19. Mạn 謾: Khinh mạn 輕慢, lừa gạt (khi biển 欺騙, mông tế 蒙蔽). Mạch
驀:
Bước qua (việt quá 越過). Mạn mạch: Khinh gạt, lấn lướt.
20. Vô yếm 無厭: Không biết chán.
21. Chú thư 咒詛: Tố cáo tội trạng lẫn nhau hay thề thốt
trước mặt thần linh.
22. Thị 嗜: Ưa thích (thị hiếu 嗜好, thị dục 嗜欲), thích cụ
thể thứ gì. Td.
Thị tửu háo lạp 嗜酒好獵 [Sử Ký 史記, Tề Thái Công
thế gia 齊太公世家] (Thích
rượu, ưa săn bắn). Bột 悖: Hỗn loạn 混亂, xung đột 沖突.
23. Hoài hiệp 懷挾: Âm thầm, ám tàng 暗藏. Ngoại
tâm: Sinh lòng khác. Hứa
Chỉ Tịnh chú: Quần thần có ngoại tâm thì
khinh gạt vua, con có ngoại
tâm thì dối lừa cha mẹ, chồng vợ có ngoại tâm
thì thông gian với người
khác, huynh đệ có ngoại tâm thì phản bội
nhau.
24. Việt 越: Bước qua. Tỉnh 井: Giếng. Táo 灶: Bếp lò.
25. Tổn 損: Làm hư hao bớt đi, tổn hại 損害, tổn thất 損失. Đọa 墮:
Đọa lạc
墮落, làm rớt xuống, hủy hoại 毀壞. Đọa thai 墮胎: Phá thai.
26. Hối 晦: Ngày cuối tháng âm lịch 夏歷每月的末一天. Lạp 臘:
Tháng chạp âm lịch.
Theo cấu trúc câu này, ta hiểu hối là
ngày cuối tháng âm lịch, lạp là
ngày cuối năm âm lịch. Hối lạp ca vũ: Ca hát
múa may vào ngày cuối
tháng và cuối năm âm lịch. Nhưng Hứa Chỉ Tịnh
chú: Hối là cuối tháng
(nguyệt để). Lạp thì có 5 loại: (1) Nguyên
đán (ngày đầu năm), (2) Đoan
ngọ (ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch), (3) Thất tịch
(đêm mồng 7 tháng 7 âm
lịch, Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau, có mưa ngâu), (4) Thập
nguyệt sóc
(mồng một tháng 10 âm lịch), (5) Cuối năm (Tuế để).
Đó là những ngày
thiên thần giám sát tội lỗi người đời. 晦是月底. 臘有五.
元旦, 端午, 七夕, 十月朔, 歲底.
都是天神察人善惡之日.
27. Sóc 朔: Mồng một âm lịch. Rằm (15 âm lịch) gọi
là vọng 望. Bấy giờ
địa cầu di chuyển đến vị trí giữa mặt trời và mặt trăng.
Vì mặt trời
mặt trăng một lên một xuống, một đông một tây
nên xa xôi mong ngóng
nhau, gọi là vọng, hoặc vọng nhật (每月十五日《有時是十六日, 偶爾是十七日》叫做望.
這時地球運行到月亮和太陽的中間. 由于太陽和月亮此升彼落, 一東一西, 遙遙相望, 所以叫望). Đán 旦:
Nguyên nghĩa là
sáng sớm (thanh thần 清晨, tảo thần 早晨), phản nghĩa với mộ 暮
(chiều tối).
Td. Đán từ gia nương khứ, mộ túc Hoàng Hà
biên 旦辭爺娘去暮宿黃河邊 [Mộc Lan thi
木蘭詩] (Sáng sớm từ biệt cha mẹ ra đi, chiều tối tá
túc bên sông Hoàng
Hà). Nghĩa rộng của đán là ngày, như
nguyên đán 元旦 (ngày đầu năm, mồng
một tết âm lịch). Theo cấu trúc câu này,
sóc đán là ngày đầu tháng và
đầu năm (ứng với câu trên, hối lạp là ngày
cuối tháng và cuối năm).
Hiệu 號: Tiếng gào la do oán hận. Td. Bi hiệu tuyệt trung
trường 悲號絕中腸
[Lý Bạch 李白, Bắc thượng hành 北上行] (Đau đớn gào
lên đứt ruột) [tuyệt
trung trường: đoạn trường 斷腸].
28. Thế 涕: Nước mũi. Tỵ thế 鼻涕 (hỉ mũi. Thoá 唾: Nước miếng, phun
nước
miếng. Thoá mạ 唾罵 (chưởi mắng và nhổ nước bọt vào
mặt ai). Niệu 溺: Chữ
này nguyên nghĩa là nịch (chìm đắm). Nịch tử
溺死 (chết chìm), nịch ái 溺愛
(yêu say đắm), nịch tín 溺信 (tin tưởng mù
quáng). Sắc bất ba đào dị nịch
nhân 色不波濤易溺人 (Sắc đẹp đàn bà tuy không
có sóng mà dễ làm nam nhi phải
đắm chìm). Nhưng 溺 còn đọc là niệu, đồng nghĩa với
niệu 尿 (nước tiểu,
tiểu tiện). Đối bắc thế thóa cập niệu: Day về hướng bắc
mà hỉ mũi, khạc
nhổ, và tiểu tiện. Cổ nhân xem hướng bắc là nơi cư
trú của Ngọc Thần
Lão Quân 玉晨老君, nên ta không day về hướng
đó làm chuyện uế tạp (Chú
thích của Trung Hoa Đạo Học Thông Điển).
29. Bát tiết: Theo Hứa Chỉ Tịnh chú, bát tiết
là bốn lập, hai phân, và
hai chí. Đó là những ngày mà chư
thần tra lục tội lỗi thế nhân
四立,二分.二至叫八節.這是諸神錄人罪過之日. Trung Hoa Đạo Học Thông Điển chú:
bát tiết là
lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu,
thu phân, lập đông, đông
chí. Cổ nhân bảo những ngày ấy phải trai giới,
làm chuyện phước thiện.
Như vậy, đó là 8 tiết (tiết khí) trong 24 tiết
khí của một năm. Bát
tiết hành hình: Thi hành hình phạt
vào những ngày bát tiết (nhằm các
ngày dương lịch là 5/2, 20/3, 5/5, 21/6, 7/8, 23/9, 7/11,
và 21/12).
30. Lưu tinh 流星: Sao băng, sao xẹt 從空中落下來的星球.
31. Hồng 虹: Cầu vồng có 7 màu: đỏ 紅, cam 橙, vàng
黃, lục 綠, lam 藍, chàm
靛, tím 紫 xuất hiện sau cơn mưa. Có hai loại: Chính
hồng 正虹 (màu đỏ
ngoài, màu tím trong) và phó hồng 副虹
(màu tím ngoài, màu đỏ trong). Phó
hồng cũng gọi là nghê 霓.
32. Triếp 輒: Thường thường. Tam quang 三光: Nhật, nguyệt, tinh. Cửu thị
久視: Nhìn lâu.
33. Liệu 燎: Phóng hỏa đốt rừng 放燒草木. Lạp 獵: Săn bắn.
DỊCH ĐIỀU 6
(86) Chôn bùa ếm hại người, (87) Dùng thuốc để hại
cây cối, (88) Oán
giận thầy dạy chữ và dạy nghề, (89) Xung đột với cha và
anh, (90) Lấy
ngang cướp đoạt của ai, (91) Thích xâm lấn chiếm đoạt của
ai, (92) Cướp
bóc để trở nên giàu có, (93) Xảo trá
cầu thăng quan tiến chức, (94)
Thưởng phạt không công bằng, (95) Dâm dật hưởng lạc
không kiềm chế,
(96) Hà khắc ngược đãi thuộc hạ, (97) Đe dọa ai
làm cho họ phải sợ,
(98) Oán trời hận người, (99) Mắng gió chưởi mưa, (100)
Tranh đấu kiện
tụng, (101) Kéo bè kết đảng để làm điều quấy,
(102) Nghe lời vợ mà
không nghe lời dạy của cha mẹ, (103) Có mới nới cũ, (104)
Miệng nói
phải, lòng nói trái, (105) Tham lam mạo nhận tiền
của, (106) Khinh
thường, khuất lấp đối với bề trên, (107) Nói lời ác
độc, (108) Gièm
siểm người khác, (109) Hại người, tự cho mình ngay thẳng,
(110) Chưởi
rủa thần thánh, tự xưng mình ngay thẳng, (111) Bỏ thuận
theo nghịch,
(112) Phản bội thân thuộc, đi theo người ngoài, (113) Chỉ
trời chỉ đất
để làm chứng cho lòng dạ xấu xa, (114) Gọi thần minh
chứng giám cho
việc quấy, (115) Trước tặng cho người, sau hối tiếc, (116) Mượn vay
không trả, (117) Cầu mong quá phận mình, (118) Cố
hết sức mưu cầu phú
quý, (119) Dâm dục quá mức, (120) Lòng dạ
sâu hiểm nhưng bề ngoài ra vẻ
hiền lành, (121) Đưa thức ăn dơ cho người ăn, (122) Dùng
bàng môn tả
đạo để bịp đời, (123) Dùng thước non thước thiếu để đo đạc cho
người,
(124) Cân nhẹ, thăng non, (125) Lấy sự gian trá làm
hỗn loạn chân lý,
(126) Tuyển chọn gian lợi, (127) Đè nén người lương thiện
để họ nghèo
mạt, (128) Khinh khi gạt gẫm kẻ khờ khạo, (129) Tham lam khống biết
chán, (130) Trước thần linh thề láo cho mình
là ngay thẳng, (131) Ham
nhậu nhẹt quậy phá, (132) Anh em ruột thịt giận nhau tranh
giành nhau,
(133) Trai không trung lương, (134) Gái không nhu
thuận, (135) Chồng bỏ
bê nhà cửa, (136) Vợ không biết trọng chồng, (137)
Thích kiêu căng
khoác lác, (138) Thường ganh ghét đố kỵ, (139)
Chồng không đức hạnh đối
với vợ con, (140) Vợ không lễ phép với cha mẹ chồng, (141)
Khinh thường
tổ tiên đã khuất, (142) Vi phạm mệnh lệnh của bề
trên, (143) Làm chuyên
tầm phào vô ích, (144) Âm thầm sinh
lòng khác, (145) Rủa mình, rủa
người, (146) Ghét yêu thiên vị, (147) Bước qua giếng
và bếp lò, (148)
Nhảy qua thức ăn, nhảy qua thân mình người khác,
(149) Tổn hại con cái,
phá thai, (150) Hành vi ám muội, (151) Ngày
cuối tháng, cuối năm ca
múa, (152) Ngày đầu tháng đầu năm khóc la
giận hờn, (153) Day về hướng
bắc khóc, hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện, (154) Trước ông
Táo ngâm vịnh,
khóc lóc, hoặc đốt nhang trong bếp lò, (155) Củi
dơ nấu ăn, (156) Đêm
tối loã lồ, (157) Ngày bát tiết thi hành
hình phạt, (158) Khạc nhổ về
phía sao băng, (159) Tay chỉ cầu vồng, (160) Thường chỉ trỏ nhật
nguyệt
tinh, (161) Nhìn lâu mặt trời mặt trăng, (162) Mùa
xuân đốt rừng săn
bắn, (163) Day về hướng bắc chưởi rủa độc địa, (164) Không
có lý do mà
đánh giết rắn rùa.
GIẢI ĐIỀU 6
Điều 6 hợp với điều 5 có tổng cộng 164 việc ác tiêu
biểu mà con người
thường phạm phải. Thật sự việc ác trên đời có
thiên hình vạn trạng nào
phải chỉ có 164 việc được nêu ở đây. Tuy việc
ác như thế nào, hậu quả
của nó vẫn là ác báo được nêu ở điều
7 kế tiếp. Mở đầu điều 5 và 6 có
chữ Cẩu hoặc 苟或 (nếu như có người...), và mở đầu điều 7
có chữ Như thị
đẳng tội 如是等罪 (Nếu như có những tội ấy thì...) để lập lại
ý chính ở
điều 5 và 6. Phân tích như vậy ta mới nhìn
ra sự liền lạc giữa các
điều. Đọc đến đây ta ắt hẳn phải giật mình vì tự
xét thấy mình bấy lâu
đã phạm tội ít nhiều. Để tránh những ác
báo, ta cần sám hối ăn năn và
tự sửa chữa. Biết lỗi mà không sửa chữa (tri quá
bất cải 知過不改) cũng là
một lỗi vậy.
7. 惡 報 ÁC BÁO
如 是 等 罪, 司 命 隨 其 輕 重, 奪 其 紀 算. 算 盡 則 死. 死 有 餘 責, 乃 殃 及 子 孫. 又 諸 橫 取 人 財
者, 乃 計 其 妻 子 家 口當 之, 漸 至 死 喪, 若 不 死 喪 則 有 水火 盜 賊, 遺 忘 器 物, 疾 病 口 舌 諸 事,
以 當 妄 取 之 直. 又 枉 殺 人 者, 是 易 刀 兵 而 相 殺也. 取 非 義 之 財 者, 譬 如 漏 脯 救 饑, 鴆 酒 止
渴, 非 不 暫 飽 死 亦 及之.
Như thị đẳng tội,1 Tư Mệnh2 tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ kỷ
toán. Toán
tận tắc tử. Tử hữu dư trách,3 nãi ương4 cập tử tôn.
Hựu chư hoạnh5 thủ
nhân tài giả, nãi kế6 kỳ thê tử gia khẩu đang
chi, tiệm chí tử tang,
nhược bất tử tang, tắc hữu thuỷ hỏa đạo tặc, di vong khí vật,7
tật bệnh
khẩu thiệt chư sự, dĩ đang vọng thủ chi trực. 8 Hựu uổng sát9
nhân giả,
thị dịch đao binh nhi tương sát dã.10 Thủ phi nghĩa chi
tài giả, thí
như lậu phụ cứu cơ,11 trấm tửu12 chỉ khát, phi bất tạm
bão, tử diệc cập
chi.
TỪ NGỮ
1. Như thị 如是: Như thử 如此 (như vậy, như thế). Như thị đẳng tội:
Các tội như thế (nêu ở điều 5 và 6).
2. Tư Mệnh 司命: Ông Táo, Táo quân.
3. Trách 責: Trách phạt 責罰, trừng phạt 懲罰.
4. Ương 殃: Tai ương 災殃 họa hại 禍害. Thành ngữ: Họa quốc ương
dân 禍國殃民 (Quốc gia và nhân dân bị tai ương họa
hại).
5. Hoạnh 橫: Cậy thế lực mà làm ngang, áp bức người
khác (uy thế bức thủ
威勢逼取); Hung bạo không đếm xỉa đạo lý (hung bạo bất giảng
lý 凶暴不講理).
Đồng nghĩa với man 蠻, nên hay nói man hoạnh 蠻橫 (ngang
ngược man rợ).
Chữ này cũng đọc là hoành (ngang), phản nghĩa của
tung 縱 (dọc).
6. Kế 計: Tính toán cho, đăng ký cho. Kế kỳ
thê tử gia khẩu dĩ đang chi:
Tính toán cho vợ con và người trong gia
đình phải gánh chịu.
7. Di 遺: Rơi mất (di thất 遺失). Td. Tề Hoàn Công ẩm tửu
túy di kỳ quán
齊桓公飲酒醉遺其冠 [Hàn Phi Tử 翰非子, Nan tam 難三] (Tề Hoàn
Công uống rượu say rơi
mất mũ).
8. Trực 直: (1) Ngay thẳng. (2) Giá trị 價值. Td. Thang tử, gia sản
trực
bất quá ngũ 湯死家產直不過無百金 [Sử Ký 史記, Trương Thang truyện
張湯傳] (Thang chết,
gia sản trị giá không quá 500 tiền vàng).
Vọng thủ 妄取: Hoạnh thủ 橫取
(cướp đoạt ngang ngược). Dĩ đang vọng thủ chi trực: Để làm
cái giá phải
trả cho sự cướp đoạt ngang ngược.
9. Uổng 枉: (1) Cong vẹo (loan khúc 彎曲, phản nghĩa của trực).(2)
Oan
uổng 冤枉, oan khuất 冤屈. Uổng sát 枉殺 (giết oan). Td. Nhữ hưu uổng
sát nam
phi hồng 汝休枉殺南飛鴻 [Đỗ Phủ 杜甫, Tuế Án hành 歲晏行] (Ngươi đừng
giết oan con
hồng nhạn đang bay về phương nam).
10. Dịch 易: Đồng nghĩa với hoán 換 là trao đổi. Theo Vương
Lực [sđd. tr.
340], ngày xưa không có chữ hoán, ý
nghĩa chữ hoán (trao đổi) của ngày
nay thì ngày xưa đều nói là dịch (上古沒有換字,
現代換的意義上古都說易). Td. Dĩ vật dịch
vật 以物易物 (lấy hàng đổi hàng: barter). Dịch tử nhi thực
易子而食 [Tả Truyện,
Ai Công bát niên 哀公八年] (Đổi con cho nhau mà
ăn thịt). [trung Quốc cổ
đại đông dân mà nghèo đói, người ta
đành đổi con cho nhau mà ăn thịt].
Thị dịch đao binh nhi tương sát dã: Chính
là trao đổi đao binh với nhau
mà giết nhau vậy.
11. Thí như 譬如: Ví dụ như. Lậu 漏: Rò rỉ, dột.
Cùng lư lậu ốc 窮閭漏屋 (ngõ
cụt, nhà dột). Phụ 脯 (cũng đọc là phổ, bô): Thịt
khô (lộc phụ 鹿脯: khô
nai), mứt trái cây (quả phụ 果脯). Phụ cũng giống như lạp
nhục 臘肉 (thịt
ướp muối phơi khô để dành ăn vào tháng chạp
hoặc mùa đông 臘月或冬天醃制的肉).
Lậu phụ: Thịt khô để nơi nhà dột, ngấm nước nên rất
độc (脯是肉干被漏屋水浸了便有毒).
12. Trấm 鴆: Theo truyền thuyết, có một loài chim độc
thích ăn thịt rắn,
lông nó màu xanh tía. Khi rượu bị
nhúng lông chim trấm vào, sẽ thành
rượu độc (trấm tửu) có thể giết người. Theo Sơn Hải Kinh 山海經
[phần
Trung tây kinh 中西經], trên núi Nữ Kỷ 女幾 có
nhiều ngọc, dưới núi có nhiều
vàng, ngoài ra còn có chim trĩ và
chim trấm. Trấm có nghĩa rộng là dùng
rượu đầu độc người 用毒酒害人. Td. Sử y trấm chi 使醫鴆之 [Quốc Ngữ 國語, Lỗ ngữ
thượng 魯語上] (Sai thầy lang dùng rượu đầu độc hắn). Lã Bất
Vi tự độ sảo
xâm, khủng tru, nãi ẩm trấm nhi tử 呂不韋自度稍侵恐誅乃飲鴆而死 [Sử
Ký 史記, Lã Bất Vi
liệt truyện 呂不韋列傳] (Lã Bất Vi biết rồi đây sẽ bị hại dần,
sợ bị giết,
bèn uống rượu độc mà chết).
DỊCH ĐIỀU 7
Như những tội ấy, thần Tư Mệnh tùy theo nặng nhẹ mà bớt
tuổi thọ của kẻ
gây tội. Tuổi thọ hết thì chết, nhưng nếu chết mà
chưa hết tội thì con
cháu sẽ gánh chịu tai ương. Lại như có kẻ cướp
giật ngang ngược tiền
tài của người khác thì vợ con và
toàn gia đình hắn cũng gánh chịu, dần
dần cho đến chết; nếu không chết thì cũng bị tai họa nước
lửa hoặc trộm
cướp, mất mát đồ vật, tật bệnh, mắc lời ăn tiếng nói,
v.v. coi như là
cái giá phải trả cho thói cướp giật ngang ngược.
Lại có kẻ giết oan
người khác rồi đây cũng bị giết trở lại giống như đổi gươm
giáo mà giết
nhau. Còn kẻ ôm giữ tiền của phi nghĩa, giống như
dùng thịt độc và rượu
độc để khỏi đói khát, chẳng no lòng tí
nào mà cái chết thì cận kề vậy.
GIẢI ĐIỀU 7
Điều 7 diễn giải sự ác báo, là hậu quả của những
việc ác đã nêu ở điều
5 và 6. Ở đây ác báo không chỉ ảnh
hưởng đến kẻ gây ác mà còn ảnh hưởng
đến vợ con và người thân trong gia đình nữa.
Có lẽ chúng ta cho rằng sự
trả giá đó thật là quá bất công.
Nhưng ta nên hiểu rằng tất cả những ai
có liên hệ với nhau (quen biết hoặc cùng huyết
thống) đều bị ràng buộc
chằng chịt trong mối duyên nghiệp vay trả bao đời. Người đời hay
nói
không oan gia thì không gặp nhau. Gặp để trả nợ lẫn
nhau trong kiếp này
hay trong tiền kiếp. Do đó, một sự cố xảy ra với người
này, tất nhiên
sẽ tác động ít nhiều đến nhiều người khác.
Cái ác thì thiên hình vạn
trạng, bình thường khi làm một điều gì, ta
không nghĩ đó là ác nên mới
ra tay. Khi hiểu ra, có ăn năn thì sự đã rồi. Tuy
nhiên, có một cách
thức để nhìn ra một điều ác. Đó là
câu nói của Khổng Tử: Kỷ sở bất dục
vật thi ư nhân (Điều gì mình không muốn người
ta làm cho mình thì mình
đừng làm cho họ). Nghĩa là phải đặt mình
vào hoàn cảnh của người tiếp
nhận hành vi thì mới phán đoán được
hành vi đó là thiện hay ác.
8. 指微 CHỈ VI 1
夫 心 起 於 善, 善 雖 未 為 而 吉 神 已 隨 之. 或 心 起 於 惡, 惡 雖 未 為 而 凶 神已 隨 之.
Phù2 tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi3 nhi cát
thần4 dĩ tùy chi. Hoặc
tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi nhi hung thần dĩ
tùy chi.
TỪ NGỮ
1. Chỉ vi: Hai chữ này khác biệt trong các bản
kinh. Bản của Cao Đài
Chiếu Minh dịch là «Ấy là điều thứ 8», bản
của Thánh Thất Tân Định «Là
điều thứ tám sửa mình thiện lương». Hiểu như vậy
chữ Hán tương ứng là
只為 (Chỉ vi: chỉ là). Tuy nhiên đó không phải
là nhan đề thích hợp, so
với các điều còn lại. Bản của Lý Lạc Cầu 李樂俅
(Tiên Học Diệu Tuyển 仙學妙選)
dùng chữ Chỉ vi 指微 (chỉ ra cho thấy điều tế vi), thiết nghĩ
đây mới là
nhan đề thích hợp của điều 8. Điều tế vi được nêu ra
đây là gì? Ta sẽ
thấy trong phần dịch và giải dưới đây.
2. Phù 夫: Là một ngữ khí từ, đặt đầu câu,
báo hiệu sắp nghị luận điều
gì; nếu đặt cuối câu, báo hiệu cảm thán. Td.
Phù chiến dũng khí dã
夫戰勇氣也 [Tả Truyện 左傳, Trang Công thập niên 庄公十年]
(Phàm đánh nhau là có
dũng khí vậy). Bi phù! 悲夫 (Buồn thay!). Phù đặt
đầu câu thường được
dịch ra tiếng việt là: «phàm»,
«nói chung là» hoặc không cần dịch
gì cả.
3. Vi 為: Làm. Mạnh Thường Quân vi tướng sổ thập niên
孟嘗君為相數十年 [Chiến
Quốc Sách 戰國策, Tề sách 齊策] (Mạnh Thường Quân
làm tướng vài chục năm).
4. Cát thần 吉神: Thiện thần 善神 (thần thiện), trái với hung
thần 凶神 hay ác thần 惡神 (thần ác).
DỊCH ĐIỀU 8
Hễ tâm dấy khởi một điều thiện (thiện niệm) thì tuy điều
thiện chưa làm
nhưng thiện thần đã đi theo mình rồi. Hoặc tâm dấy
khởi một điều ác (ác
niệm) thì tuy điều ác chưa làm nhưng ác
thần đã đi theo mình rồi.
GIẢI ĐIỀU 8
Ở đây nói rất rõ về luật cảm ứng, nếu có cảm
tất có ứng. Tất cả tội lỗi
chúng ta qui về ba loại: thân- khẩu -ý. Trong ba
loại này, tội lỗi do ý
nghĩ là quan trọng nhất. Tư tưởng dẫn đến ngôn ngữ
và hành động. Vọng
tưởng khởi, sinh vọng ngữ hoặc/và vọng động. Vì thế, một
niệm của ta
nảy sinh, thì thần thiện hoặc ác đã ở sát
bên ta, sẵn sàng ra tay.
Người tu do đó cần kiểm soát lấy bản thân ngay từ
trong tư tưởng: Không
nghĩ điều quấy (tư vô tà 思無邪). Trong nhà tối vắng
cũng không dễ khinh
nhờn (bất khi ám thất 不欺暗室). Ngồi giữa nhà khép
kín cũng thể ngồi giữa
ngã tư đường có người qua kẻ lại (tọa mật thất như
thông cù 坐密室如通衢).
9. 悔 過 HỐI QUÁ
其 有 曾 行 惡 事, 後 自 改 悔, 諸 惡 莫 作, 眾 善 奉 行, 久 久 必 獲 吉 慶, 所 謂 轉 禍 為 福 也.
Kỳ hữu tằng hành ác, hậu tự cải hối,1 chư ác mạc2
tác, chúng thiện
phụng hành,3 cửu cửu tất hoạch cát khánh,4 sở vị
chuyển họa vi phúc dã.
TỪ NGỮ
1. Hối 悔: Ăn năn về việc đã làm (hối hận 悔恨, áo
hối 懊悔, hối quá 悔過).
Td. Hối chi dĩ vãn 悔之已晚 (hối hận thì đã muộn). Hối
còn một nghĩa cổ
xưa, là tai họa (trái nghĩa với cát 吉). Cải hối:
Hối hận và sửa chữa.
2. Mạc 莫: Chớ, đừng (tương đương 不要 và 不能 trong Hán ngữ
hiện đại). Mạc tác: Chớ làm, đừng làm.
3. Chúng 眾: Tất cả, mọi thứ 一般的. Chúng thiện: Tất cả
những việc thiện.
Phụng 奉: Tuân theo (tuân thủ 遵守). Td. Cẩn phụng pháp
lệnh 謹奉法令 [Sử Ký
史記, Lý Tư liệt truyện 李斯列傳] (Cẩn thận tuân theo
pháp lệnh). Phụng hành:
Tuân theo luật lệ mà hành động.
4. Hoạch 獲: Có được, thu hoạch. Cát khánh 吉慶: Sự
tốt đẹp.
DỊCH ĐIỀU 9
Đã từng làm ác mà sau đó tự hối cải,
không làm mọi điều ác nữa, (tuân
theo luật nhân quả) làm mọi điều thiện. Được thế,
lâu ngày ắt có sự tốt
lành. Đó gọi là chuyển họa thành
phúc vậy.
GIẢI ĐIỀU 9
Điều 9 nhấn mạnh tác dụng của ăn năn sám hối. Biết
mình tội lỗi và sửa
chữa là một phương cách đổi hoạ thành phúc.
Còn như biết tội lỗi mà cứ
cố tiếp tục, không biết sửa đổi (tri quá bất cải 知過不改)
thì đó cũng là
một tội, và như thế tội lỗi càng ngày càng
chồng chất và ác báo tất
nhiên càng thêm nhiều.
10. 律 定 LUẬT ĐỊNH
故 吉 人 語 善, 視 善, 行 善, 一 日 有 三 善, 三 年 天 必 降 之 福. 凶 人 語 惡, 視 惡, 行 惡, 一 日 行
三 惡, 三 年 天 必 降 之 禍. 胡 不 勉 而 行 之.
Cố,1 cát nhân2 ngứ thiện,3 thị thiện, hành thiện,
nhất nhật hữu tam
thiện, tam niên thiên tất giáng chi phúc.
Hung nhân ngứ ác, thị ác,
hành ác, nhất nhật hành tam ác, tam
niên thiên tất giáng chi họa. Hồ 4
bất miễn5 nhi hành chi?
TỪ NGỮ
1. Cố 故: Vậy nên, do đó (thị dĩ 是以, thị cố 是故, nhân
thử 因此, sở dĩ 所以).
2. Cát nhân 吉人: Thiện nhân, trái với hung
nhân (ác nhân).
3. Ngứ 語: Nói. Chữ này danh từ đọc là ngữ (ngữ
ngôn), động từ đọc là
ngứ. Trong mạch văn, thi và hành là động từ, do
cấu trúc song song
(parallelism), chữ 語 phải đọc là ngứ. Td. Thực bất ngứ, tẩm bất
ngôn
食不語寢不言 [Luận ngữ 論語, Hương đảng 鄉党] (Khi ăn và khi ngủ đều
không nói).
Ngứ thiện: Nói điều thiện.
4. Hồ 胡: Tại sao 為什麼. Td. Điền viên tương vu hồ bất qui 田園將蕪胡不歸
[Đào
Tiềm 陶潛, Qui khứ lai từ 歸去來辭] (Ruộng vườn sắp hoang vu, tại sao
không
trở về đi?).
5. Miễn 勉: Cố gắng (tận lực 盡力, nỗ lực 努力). Td. Nguyện tử miễn vi quả
nhân trị chi 愿子勉為寡人治之 [Hàn Phi Tử 韓非子, Ngoại trừ thuyết tả
hạ 外儲說左下]
(Mong sao khanh vì quả nhân mà cố gắng lo liệu việc
ấy).
DỊCH ĐIỀU 10
Vậy cho nên, người hiền lành nói điều lành,
xem điều lành, và làm điều
lành. Mỗi ngày làm ba điều lành thì
ba năm trời ban phúc cho. Còn người
ác nói điều ác, xem điều ác, và
làm điều ác. Mỗi ngày làm ba điều ác
thì ba năm trời giáng họa cho. Tại sao lại không cố
gắng mà làm điều
lành đi?
GIẢI ĐIỀU 10
Điều 10 tổng kết lại toàn bộ kinh: Rằng nhân thiện
thì quả thiện (thiện
báo), nhân ác thì quả ác (ác
báo). Sau cùng, kinh khuyên bảo mọi người
phải gắng sức hành thiện.

Kinh cảm
ứng

(dành cho chư hành giả tu theo Chiếu Minh Tam
Thanh học thuộc lòng
trước khi xin keo THẦY để được thọ pháp)
Kiến tâm kỉnh lễ
1. Ngọc Hoàng Đại
Thiên Tôn, Huyền Khung Cao Thượng Đế (lạy 1 lạy trơn)
2. Tấm Thinh Phó Cảm Thái Ất Cứu Khổ Thiên
Tôn -nt-
3. Cửu Thiên Ứng Nguơn Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên
Tôn -nt-
4. Huyền Thiên Thượng Đế Kim Khuyết Hóa Thân Đảng Ma
Thiên Tôn -nt-
5. Cửu Thiên Khai Hóa Thất Khúc Văn Xương Tử Đồng
Đế Quân Thiên Tôn -nt-
6. Tam Giái Phục Ma Đại Đế Thần Oai Viễn Trấn Thiên
Tôn Quan Thánh Đế Quân -nt-
7. Ngọc Hư Sư Tướng Kim Khuyết Tuyển Tiên Phù Hựu Đế
Quân Diệu Đạo Thiên Tôn -nt-
8. Tam Nguơn Tam Phẩm Tam Quan Đại Đế Tam Cung Cửu Phủ Cảm Ứng
Thiên Tôn -nt-
Tiên ông Thái-Cực tặng
kinh rằng :
Đức Thái-Thượng đặt kinh Cảm ứng mà khuyên đời.
Một ngày tụng một lần thì tiêu tội lỗi ;
Giữ lời dạy một tháng, phước lộc càng bền ;
Giữ theo đặng một năm thất tổ siêu thăng ;
Tụng hoài chẳng mỏi thì thọ mạng lâu dài :
Các vị Thần-Tiên cung kính mình và
tên mình được biên vào bộ chư Tiên.
Kinh Cảm ứng rất linh của
đức THÁI-THƯỢNG
Đức Thái-Thượng nói rằng :
Điều họa phước không tìm đến, chỉ tại mình vời đến.
Điều lành dữ báo ứng như bóng nọ theo hình.
1. Giải nghĩa điều thứ nhứt (xá 1 xá)
Bởi vậy cho nên : Trời Đất có đặt mấy vị Thần coi
Việc tội lỗi của người, tùy theo tội phạm nặng nhẹ mà bớt
lộc ;
Nếu lộc bớt thì phi chịu nghèo khổ.
Năng gặp sự rầu buồn tai nạn,
Người người đều ghét.
Tù rạt theo buộc mình.
Điềm lành tránh xa.
Thần dữ cứ theo làn hại,
Lộc hết phi chết, chớ không chờ đến số,
Lại có sao Tam-Thai là Thượng-Thai, Trung-Thai, Hạ-
Thai là ba vì sao ở trên đầu biên chép
tội ác của người đặng bớt kỷ, bớt toán.
Lại còn mỗi người trong mình có 3 vị Thần Tam-Thai
Tinh, Khí, Thần,
Tới ngày Canh-T'hân xuất ra lên
Thiên-Tào mà khai tội lỗi của người.
Mỗi tháng, ngày 30 Thần Táo (ông Táo)
cũng về Trời tâu y như Thần Tam-Thai,
Ai có lỗi lớn thì bớt một kỷ tội nhỏ bớt toán.
Sự tội lỗi lớn nhỏ cộng chừng trăm việc,
Nếu ai muốn sống, lâu: trước tua lánh mấy điều dữ.
II - Tra xét điều thứ nhì: (xá 1 xá)
Đường phải đi thì đi, đường quấy thì tránh.
Đừng khi nhà tối không ai mà làm việc
trái lẽ,
Chứa đức và làm công quả cho nhiều, phải giữ
lòng lành mà thương thú vật.
Ngay tho hiếu thuận, sửa mình cho chánh mới đặng dạy
người, Thương kẻ mồ-côi. Thảm cho người góa bụa.
Kính trọng kẻ tuổi tác, thương kẻ nhỏ dại.
Loài vật cỏ cây chớ khá phá hại.
Hãy khuyên lơn kẻ dữ trở lại hiền, mừng cho kẻ làm
lành .
Giúp người cơn gấp rút. Cứu người lúc nguy hiểm.
Thấy nguời đặng như mình đặng,
Thấy người mất như mình mất.
Đừng khai xấu của người để khoe mình hay .
Giấu sự quấy của người, khen điều phải của người,
Chia vật thì xẻ phần nhiều cho người.
Chịu nhục chẳng oán,
Đặng quan trên yêu phải giựt mình:
Làm ơn đừng trông người trả.
Cho người vật chi rồi đừng nghĩ lại mà tiếc.
III - Chứa điều lành - điều thứ ba (xá 1 xá)
Thữa gọi mình lành ;
Người người đều kính trọng.
Đạo Trời phò hộ đó,
Phước lộc theo đó,
Các tà ma lánh xa mình đó
Vị Thần linh hộ vệ mình đó;
Các sự mình làm ắt nên,
Khá mà trông cậy đến bực Thần-Tiên.
Muốn thành bực Thiên-Tiên,
Phải làm một ngàn ba trăm điều lành :
Muốn làm bực Địa-Tiên,
Phải làm ba trăm điều lành.
IV Làm lành gặp lành - Điều thứ tư (xá 1
xá)
Nhược bằng : phát tâm làm điều phi nghĩa.
Làm điều trái lẽ.
Lấy sự ác làm giỏi,
Giả nhịn mà làm hại,
Lén hại người lương thiện.
Thầm khi vua chúa cha mẹ,
Khi dể Thầy và người lớn.
Phản chỗ mình thờ,
Gạt gẫm kẻ dốt nát.
Chê bai bạn học,
Khi không vu phản gian dối.
Xoi bói bà con dòng họ,
Cứng cỏi chẳng lành ,
Làm dữ hiếp người,
Phải quấy chẳng xét ,
Đua theo hoặc bỏ ra không nhằm chỗ.
Hà hiếp kẻ dưới để lập công,
Gièm siểm ngưởi bề trên mà khi lịnh.
Mang ơn mà chẳng cám ơn,
Cố oán không thôi,
Khi dễ dân Trời ,
Khuấy rối việc nứớc, '
Thưởng mấy kẻ phi nghĩa,
Quở phạt người không tội,
Giết người lấy của.
Xô nghiêng người đoạt ngôi.
Chém giết kẻ hàng, đầu.
Ngạo kẻ chánh, chê người hiền,
Húng hiếp kẻ mồ-côi, người góa bụa,
Bỏ phép, ăn của hối lộ.
Lấy ngay làm vạy.
Lấy vạy làm ngay,
Tội nhẹ làm nặng.
Thấy người bị tội chết mà còn ghét.
Biết lỗi mà chẳng sửa mình, .
Biết điều lành mà chẳng làm.
Đã có tội còn làm liên lụy đến người.
Chôn lấp phương hay của người.
Chê bai Thánh-Hiền,
Khi ngạo điều Đạo-Đức,
Bắn loài bay, săn loài chạy,
Phá loài bu đậu,
Lấp hang phá ổ ,
Hại thai phá trứng.
Cầu cho người hư hại,
Hủy phá người đã nên công.
Làm cho người bị ngụy đặng mình an.
Xới bớt của người, lấy thêm lợi cho mình.
Lấy điều ác gọi là lành lốt,
Lấy việc tư mà bỏ việc công,
Trộm lấy cái hay của người.
Che lấp sự lành của người,
Bày tỏ cái xấu của người,
Xoi bói việc riêng của người.
Làm hư-hao của cải người,
Chia lìa cốt nhục người,
Phạm chỗ người yêu mến.
Giúp người làm quấy,
Làm dữ lấy oai.
Làm nhục người cầu cho mình hơn.
Phá hại đồ trồng tỉa của người,
Phá việc vợ chồng người.
Gặp may làm giàu sanh kiêu,
Chịu lỳ cầu may khỏi tội.
Mạo nhận ơn, chối đổ lỗi,
Gieo họa, mướn làm điều ác,
Mua chuộng cái hư danh,
Chất-chứa lòng độc hiểm,
Làm cho lục sự giỏi của người,
Giấu sự dở của mình,
Ỷ oai thế, bức hiếp người
Nuôi kẻ dữ để giết người,
Vô cớ cắt vụng-vằng hay đập bể món chi,
Chẳng tế-lễ mà sát sanh:
Hủy-hoại đổ bỏ lúa gạo,
Rối người, hành hà súc vật,
Phá nhà người đề lấy của cải của người,
Xoi bờ cho nước tràn, phóng lửa đốt nhà mà
hại chỗ ăn ở của dân ;
Phá nề-nếp kiểu-vở mà hại công trình của
người,
Phá hư-hao đồ nghề cho người hết đồ dùng ;
Thấy người vinh hiển, muốn người ra hèn-hạ, bị hại,
Thấy người giàu có muốn cho ra tàn mạt ;
Thấy người sắc tốt. lòng dục mơ ước thầm ;
Thiếu nợ người cầu cho chủ nợ chết,
Vay hỏi chẳng đặng sanh lòng oán hận.
Thấy người tướng xấu, tàn-tật chẳng sợ lại cười chê,
Thấy người tài-năng, đã không khen mà
còn chê.
V. Ấy là các điều ác trong điều thứ năm (xá
1 xá)
Chôn bùa trù ếm ngườí, dùng thuốc độc
giết cây cối.
Giận Thầy, xúc phạm cha mẹ anh chị,
Giựt lấy ngang, xin nài-nỉ quá,
Hay lấn lưót, hay giành giựt.
Cướp giựt mà làm giàu ,
Bợ đỡ mà cầu danh lợi.
Thưởng phạt ch ẳng công .
Ở không nhưng vui ehơi quá độ.
Ở khổ-khắc với kẻ dưới .
Hăm dọa người mà lấy của,
Oán Trời, giận người,
Mắng gió chửi mưa,
Hiệp nhau mà đua kiện cáo,
Theo phe đảng dữ,
Nghe lời vợ hầu thiếp, mà cải lời cha mẹ dạy,
Đặng mới quên cũ,
Miệng nói phải lòng ở quấy,
Tham mê tiền của, dối trá khuất lấp kẻ bề trên,
Đặt Chuyện nói quấy,
Gièm siễm kiêu ngạo người.
Hủy báng người, xưng mình ngay thẳng.
Mắng nhiếc Thần, xưng mình chánh,
Bỏ điều .thuận, theo điều nghịch.
Ruột bỏ ra, da bỏ vào (Binh kẻ lạ bỏ người thân)
Chỉ Trời Đất thề xin chứng bụng xấu.
Vái Thần Thánh xin chứng lời thề về sự tục tiểu.
Bố thí rồi sau còn tiếc.
Giả đò mượn rồi chẳng trả.
Cầu nguyện xin điều vô ích,
Sắm ắn sắm mặc quá bực ;
Dâm dục vô độ.
Lòng hiểm độc ngoài mặt làm bộ từ thiện,
Lấy đồ ăn dơ ép người ta ăn.
Dùng tà-thuật gạt chúng.
Dùng thước non đo thiếu.
Cân non, giạ non đong thiếu.
Trộn điều giả dối với sụ thiệt.
Lượm-lặt cái lợi gian trá:
Ém sự tốt làm cho ra hèn,
Khi dễ, gạt-gẫm kẻ khờ dại,
Lòng tham không nhàm,
Thề mẳt thắt dối, (Thề lấy được cho qua buổi)
Say rượu làm dữ.
Nồi da xáo thịt (Anh em gây gổ, đánh lộn nhau)
Trai chẳng ngay lành,
Gái chẳng mềm mỏng.
Chằng hòa-thuận nhà chồng.
Chẳng kính trọng chồng,
Ưa khoe-khoang, làm tài khôn.
Thường hay ganh ghét,
Ở với vợ con không tốt,
Hổn ẩu với cha mẹ chồng.
Khi dễ vong ông bà cha mẹ,
Cải lời người trên trước,
Chơi sự vô ích, cờ bạc,
Đờn bà con gái ngoại tình lấy trai,
Giả rủa mình mà rủa ngưởt ta.
Thương ghét không đồng.
Bước nhảy qua giếng, qua bếp;
Bước qua đồ ăn, bước trên đầu người,
Hại con và phá thai,
Làm điều lén-!úc khuất lấp.
Bữa tối ba mươi hát, múa, ca.
Ngày mùng một : khóc, giận, la, rầy,
Day qua hứớng Bắc : hỉ mũi, khạc, nhổ đái .
Day vào bếp : hát ngâm và rủa khóc,
Lại kê nhangg vô bếp mà đốt,
Lấy củi dơ mà nấu ăn,
Ban đêm để lõa-lồ thân thể,
Tám tiết hành hình,
Phun nước miếng sao vá,
Lấy tay chỉ móng chỉ ráng,
Chỉ mặt Trời, mặt Trăng. Sao.
Ngó lâu mặt Trời, mặt Trăng.
Mùa xuân đốt đồng và săn bắn,
Day qua hướng Bắc mà chưởi, rủa,
Vô cớ giết rùa đập rắn.
VI Mấy điều ác nầy thuộc về điều thứ sáu (xá 1
xá)
Như các tỏi trên đây,
Ông Táo tùy theo tội nặng nhẹ mà giảm
niên-kỷ (tuổi)
Niên-kỷ hết phải chết chớ không đợi tới số.
Phạt chết rồi mà còn dư tội,
Thì con cháu chịu tai-ương.
Lại kẻ cướp giựt của người thì vợ con và nội gia
thuộc đều chịu tội đó cho đến chết,
Nếu chẳng chết, thời ắt có tai thủy-hỏa, trộm cướp ,
mất đồ-đạc lại thêm bị tật bịnh đau ốm và tiếng xấu, đặng
trừ tội cướp giựt ấy.
Lại nếu giết người, ắt sẽ bị kẻ khác giết lại, cũng như
đổi gươm giết lẫn nhau.
Kẻ giữ lấy của phi nghĩa,
Ví như ăn thịt thúi đở đói, uống rượu độc đở
khát,
Ấy là no đở, _đả khát đở,
rồi sự chết đến liền.
VII Ấy là báo ứng điều làm ác điều thứ bảy
(xá 1 xá)
Nếu lòng định làm lành, tuy chưa làm
mà đã có vị
Thần lành theo hộ mình ;
Hoặc lòng phát muốn làm ác, sự ác
tuy chưa làm, mà vị
hung Thần đã theo mình.
VllI Ấy là điều thứ tám (xá 1 xá)
Như ai có làm lỡ điều ác rồi,
Nếu biết ăn năn chừa lỗi.
Các điều dữ đùng làm nữa.
Cứ chí quyết làm lành.
Lần lần sau cũng đặng phước lành ;
Ấy mới đổi họa ra pbước đặng,
IX - Ấy là ăn năn tội - Điều thứ chín (xá 1
xá)
Cho nên người lành,
Một ngày làm đặng ba điều lnnh :
Nói điều lành, xem điều lành, làm điều
lành,
Ba năm Trời ắt nhỏ phước lành.
Người dữ : Nói điều dữ, xem điều dữ, làm điều dữ.
Một ngày có ba điều dữ,
Ba năm Trời ắt giáug xuống điều tai hại,
Sao lại chẳng rán sức mà làm lành và
chừa sự dữ ?
X Luật định điều thứ mười - (xá 1 xá)
Chung
KlNH CẢM ỨNG có 10 điều đọc hết một điều xá một xá.
Đọc tất kinh lạy một lạy 12 gật, đoạn đứng dậy xá một xá.
kế đó xây mặt ra sau lưng xá bàn
Hộ-Pháp một xá rồi
hai bên nam nữ : nam đứng phía bình bông. nữ
đứng phía dĩa
trái, day mặt đối diện nhau xá một xá, gọi
là thủ lễ với nhau
rồi bãi đàn.
Thái Thượng Cảm Ứng
Thiên - Ps. Tịnh Không - Đọc: Kiều Hạnh
Audio 1 2 3 4 5
KINH THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG DIỄN NGHĨA
do Đức Văn Xương Đế Quân
giáng bút diễn nghĩa bằng thơ lục bát
● Theo bản ấn tống
của Thánh Thất Tân Định, Saigon, 1964 ●
Kiền tâm kỉnh lễ
1. Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Huyền Khung Cao Thượng
Đế.
2. Tầm Thinh Phó Cảm Thái Ất, Cứu Khổ Thiên
Tôn.
3. Cửu Thiên Ứng Nguơn Lôi Thinh, Phổ Hóa
Thiên Tôn.
4. Huyền Thiên Thượng Đế, Kim Khuyết Hóa Thân, Đảng
Ma Thiên Tôn.
5. Cửu Thiên Khai Hóa, Thất Khúc Văn Xương Tử Đồng
Đế Quân Thiên Tôn.
6. Tam Giới Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn Thiên Tôn,
Quan Thánh Đế Quân.
7. Ngọc Hư Sư Tướng, Kim Khuyết Tuyển Tiên, Phù Hựu Đế
Quân, Diệu Đạo Thiên Tôn.
8. Tam Nguơn Tam Phẩm, Tam Quang Đại Đế, Tam Cung Cửu Phủ, Cảm Ứng
Thiên Tôn.
Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ
Nam mô Cao Đài Tiên Ông
(Mỗi câu lạy một lạy)
☸
Tiên ông Thái Cực tặng rằng:
Nhờ nơi kinh sám đạo hằng dạy dân.
Thiên Tôn Thái Thượng hồng
ân,
Truyền kinh cảm ứng độ trần một thiên.
Muốn cho rảnh nợ tiền khiên,
Mỗi ngày một biến, tụng liền tội
tiêu.
Ăn năn Trời cũng dung nhiêu,
Thọ trì một tháng, phước nhiều
bền yên.
Muốn cho thất tổ thăng thiên,
Trọn năm giữ vẹn, phước liền lần
lên.
Mong chờ lộc cả bề trên,
Lâu ngày chẳng trễ vào nền
tiên căn.
Tiên ông Thái Thượng dặn
rằng:
Rủi may không cửa, níu phăng tại
mình.
Đạo Trời thưởng phạt chí minh,
Dữ lành như bóng theo
mình chẳng sai.
Thứ nhất minh nghĩa tỏ bày,
Ai người tỉnh ngộ lánh rày họa
tai.
Thưởng răn Trời chẳng phụ ai,
Sai thần tiên chép hôm mai
chẳng lầm.
Cân theo tội lỗi khinh thâm,
Giảm thâu phúc lộc cũng năm ba
phần.
Khó nghèo chờ đợi trước
sân,
Gặp nhiều ưu hoạn tìm lần đến
thân.
Hễ là chẳng giữ nghĩa nhân,
Khiến người đều ghét, họa gần chẳng sai.
Nếu theo việc dữ gây hoài,
Điều lành xa lánh họa tai
khó rời.
Khuyên đời chẳng gọi rằng chơi,
Lộc Trời đã hết lưng vơi khó
nài.
Dữ lành báo ứng chẳng sai,
Có thần Bắc Đẩu Tam Thai trên đầu.
Hễ ai tính việc cơ cầu,
Biên cho đúng tội, giảm
thâu số người.
Luật Trời chớ khá dễ ngươi,
Trong mình sẵn có ba người thần
linh.
Ngay gian chép đủ sự tình,
Đến ngày Canh nhật thiên
đình cáo tâu.
Lại còn thần Táo trên đầu,
Ba mươi mỗi tháng đều âu y lời.
Hễ là tính việc lưng vơi,
Nhẹ thời giảm toán, nặng mười hai năm.
Thần tiên giữ sổ chẳng lầm,
Tùy làm nạêng nhẹ mỗi năm
ghi vào.
Ở đời chớ tính thấp cao,
Muốn cho trường thọ chớ vào thị phi.
[xá 1 xá]
Thứ hai tra xét biên y,
Làm người phải biết thạnh suy theo
thì.
Gìn lòng nhớ chữ tu trì,
Hai đường phải quấy lựa đi cho nhằm.
Lưới Trời tuy rộng thâm thâm,
Chớ khi nhà tối mà lầm điều ngoa.
Xét cho rõ lẽ chánh
tà,
Tu bồi công đức thương qua thú
cầm.
Bỏ điều độc ác hiểm tâm,
Sửa mình ngay hảo chính
tâm dạy người.
Giữ bền đạo đức tốt tươi,
Thương đàn goá bụa giúp người mồ côi.
Khá lo lễ nghĩa trau dồi,
Kính người tuổi tác, thường hồi
bé thơ.
Điều lành khá nỡ lấp ngơ,
Côn trùng thảo mộc đừng quơ hại
nhầm.
Hễ là đứng bậc hảo tâm,
Thương người hung ác, mừng
thầm người nhơn.
Biết câu thiên địa tuần huờn,
Giúp người nguy cấp ra ơn cứu
nàn.
Gổ ganh dạ chớ cưu mang,
Thấy ngưòi đặng việc hân hoan như
mình.
Cùng là học tánh
háo sinh,
Thấy người thất việc như mình đồng lo.
Dặn lòng chớ khá so đo,
Đừng chê người xấu, đừng cho hơn người.
Rèn lòng đạo lý tốt tươi,
Xấu che tốt tặng việc người mới ngoan.
Ở đời cho có chánh đoan,
Chia tiền chia vật phải toan nhượng người.
Chớ lo kẻ quấy chê cười,
Nhịn người mà chẳng giận người mới hay.
Hễ là đứng bậc nhân tài,
Đặng quan yêu chuộng sợ hoài
xét thân.
Giữ bền đạo đức nghĩa nhân,
Ra ơn giúp chúng mựacần trả ân.
Muôn điều âm chất là hơn,
Cho người nhiều ít đừng cơn tiếc thầm.
[xá1xá]
Thứ ba điều luật thiện tâm,
Chứa nhiều âm chất, phước
lâm khỏi tầm
Nên hư do tại chữ tâm,
Làm người đạo đức tri âm
kính nhường.
Ở đời cho vẹn nghĩa phương,
Đạo Trời ủng hộ, lộc thường đến thân.
Giữ tròn đạo đức nghĩa nhân,
Tà ma xa lánh, phước Thần
giúp nên.
Lòng thành thấu đến ơn
trên,
Những điều làm phải ắt nên chẳng
lầm.
Tu hành luyện đặng chữ tâm,
Có ngày trông cậy đặng tầm
thần tiên.
Muốn cầu đặng bậc thiên tiên,
Làm cho đủ số một thiên ba hiền.
Muốn cầu đặng bậc địa tiên,
Ba trăm điều thiện lòng chuyên lo
toàn.
[xá 1 xá]
Thứ tư điều luật nghiêm trang,
Làm lành gặp phước Trời ban
rõ ràng.
Phải thông trông máy
hành tàng,
Chớ tham việc quấy mà toan động
lòng.
Xét suy cho rõ đục trong,
Những điều trái lẽ đừng mong dự
vào.
Phải kiêng có luật Thiên
tào,
Đừng làm việc dữ hùng hào
khoe khoang.
Bỏ điều kế xảo mưu gian,
Giả đò nhịn nhục lòng toan hại
ngầm.
Cũng đừng có việc hiểm tâm,
Bề ngoài giả lả hại ngầm thiện lương.
Làm người chẳng biết lư hương,
Khi thầm cha mẹ quân vương tội dầy.
Chẳng lo báo ứng liền tay,
Dễ dui trên trước cùng thầy dạy
khuyên.
Lòng không kính mến tổ
tiên,
Phụng thờ giả dối, huỳnh tuyền
khổ thân.
Chẳng lo họa phước xoay vần,
Gạt người dốt nát đặng phần mình
hơn.
Không cần giữ nghĩa gìn nhơn,
Chê bai bạn học khoe hơn tài
mình.
Còn làm nhiều việc bất minh,
Vu oan cho kẻ thiệt tình thảm thưong.
Những người dạ ở vô lương,
Bói xoi thân tộc lẽ thường tội
sâu.
Chẳng kiêng thiên ốc thiềm đầu,
Hung hăng tánh nết bất câu
trẻ già.
Hiền ngu cũng chẳng dung tha,
Ỷ mình mạnh bạo hiếp hà thiện
nhơn.
Hằng ngày tính thiệt so hơn,
Ngay gian chẳng xét, ỷ quờn hiếp cô.
Thói quen làm sự hồ đồ,
Đua nhau chỗ quấy việc mô chẳng nhằm.
Lại thêm độc tánh hiểm tâm,
Hiếp xô kẻ dưới đặng tầm lập công.
Ấy là xử thế chẳng thông,
Dễ dui dèm siểm phép công
khi thầm.
Làm người chẳng có lương
tâm,
Thọ ân chẳng nhớ, oán thầm chẳng
quên.
Không kiêng thần thánh hai
bên,
Khi dân tạo hóa
rối trên nước nhà.
Chẳng phân hai lẽ chánh tà,
Thưởng người phi nghĩa, tội gia
người lành.
Hằng ngày tính việc cạnh tranh,
Giết người lấy của hoành hành
đoạt ngôi.
Chẳng lo thiên võng khôi
khôi
Giết người hàng phục, tội thôi dư
ngàn.
Quen theo tánh nết lăng loàn,
Biếm người chánh trực chê người
nghĩa phương.
Lại thêm lòng dạ vô lương,
Mồ côi góa bụa chẳng thương, hiếp
đành.
Làm quan chẳng giữ chữ thanh,
Lấp che phép nước, ăn đành của
dân.
Ưa làm nhiều chuyện bất nhân,
Lấy ngay làm vạy, cầm cân
không bằng.
Ỷ mình là bậc tài năng,
Đem điều gian trá gọi rằng sự ngay.
Chẳng lo báo ứng liền tay,
Tội nhẹ làm nặng hại rày lương
dân.
Ở đời thiếu đức thiểu nhân,
Thấy người tội thác còn
phân lỗi người.
Thương đời chẳng biết hổ ngươi,
Đã làm việc quấy vui cười chẳng
nao.
Ít ai xét kỹ âm hao,
Điều lành chẳng muốn đem vào
trong tâm.
Cứ theo làm viêïc lỗi lầm,
Biết mình có tội còn
xâm đến người.
Lại thêm có tánh
móc bươi,
Gổ ganh che lấp những người tài năng.
Chẳng tuân kinh sám khuyên
răn,
Chê bai thần thánh gọi rằng
tài hay.
Tưởng rằng giỏi chạy cao bay,
Xâm lăng đạo đức lại bày
kiêu căng.
Chẳng tin tội dữ gia tăng,
Đuổi loài thú chạy, bắn săn
thượng cầm.
Còn làm nhiều chuyện ác
tâm,
Phá loài bu đậu, lấp hầm lỗ hang.
Chẳng lo vướng việc trái oan,
Hai thai phá trứng lại càng tội
sâu.
Hư nên báo ứng nào
lâu,
Trù người mất việc, lỗi âu về
mình.
Lòng hung dạ hiểm trớ trinh,
Bày mưu hủy phá công
trình người ta.
Lại thêm tánh nết chẳng
hòa,
Hại người hư việc đặng mà an thân.
Lòng tham, tội phước chẳng cần,
Bớt người của cải, nhập phần mình hơn.
Lòng không đặng chút từ
nhơn,
Lấy điều hung ác gọi hơn sự lành.
Chẳng kiêng trên có cao
xanh,
Lo điều ích kỷ, bỏ đành việc
công.
Trả vay mau nhặt chí công,
Trộm nghề, cắp kiểu, tội không nhỏ
gì.
Chẳng lo họa phước liền ghi,
Việc lành của chúng phân
bì lấp che.
Rủi may dạ chẳng kiêng dè,
Những điều xấu bạn, đem khoe ngạo cười.
Gổ ganh lòng chẳng hổ ngươi,
Trông mong xoi bói của người việc
riêng.
Không kiêng trên có
Hoàng Thiên,
Làm hư nghiệp sản bạc tiền của
dân.
Ở đời chẳng giữ nghĩa nhân,
Xúi cho cốt nhục rẽ phân
nhà người.
Hằng lo cuộc thế móc bươi,
Thầm mưu xâm lấn của người mến yêu.
Chẳng lo thiên võng nan điều,
Mong lòng giúp chúng
làm nhiều sự gian.
Ỷ mình tàn bạo nghinh ngang,
Làm oai hiếp chúng phá
làng dọa dân.
Không kiêng tạo hóa cầm
cân,
Dương oai, nhục chúng để phần
mình hơn.
Hung hăng chẳng sợ Trời hờn,
Phá đồ công nghệ, hôn
nhân của người.
Tánh ngay chẳng biết hổ ngươi,
Gặp may đặng của thị đời kiêu căng.
Người ngu chẳng biết ăn năn,
Tội tình qua khỏi chẳng răn sửa
mình.
Vụng về nào biết phân minh,
Kể ơn với chúng, trừ mình lỗi
xưa.
Lòng hung dạ dữ chẳng chừa,
Bán tai, gieo họa, mua bừa tiếng khen.
Hằng gây việc quấy đua chen,
Chứa lòng độc ác nhiều phen gạt
lường.
Làm người chẳng dạ tư lương,
Phá cho nhuế lụt sở trường người ta.
Lại thêm tánh quỉ nết tà,
Ém điều hư dở mình mà gạt
dân.
Làm người thiếu đức thiếu nhân,
Thừa oai bức hiếp ép dân thiệt
thà.
Tưởng rằng Trời Phật ở xa,
Túng dung kẻ dữ đặng mà
sát nhơn.
Chẳng lo quỉ giận thần hờn,
Khi không bứng gốc chặt chơn
nhánh chồi.
Hung hăng tánh dữ chẳng thôi,
Sát sanh chẳng phải nhằm hồi lễ chi.
Hà Tăng chuyện cũ còn ghi,
Phá hao ngũ cốc chẳng vì tội căn.
Lòng tham tính việc lăng xăng,
Âm mưu quấy rối đạo hằng chúng
sanh.
Tham lam dạ lại gổ ganh,
Phá nhà lấy vật báu
lành của dân.
Chẳng kiêng trên có
thánh thần,
Đốt nhà phá cảng chẳng cần sợ ai.
Không lo họa phước tương lai,
Làm cho dân sự lạc loài
gia cư.
Hằng quen ghẹo kẻ nhân từ,
Khuấy đồ kiểu vỡ cho hư công người.
Lòng phàm tánh tục
móc bươi,
Phá hao vật dụng của người uổng oan.
Thấy ai đang lúc vinh vang,
Cầu cho mắc việc vào đàng
tân toan.
Thấy ai đang lúc giầu sang,
Cầu cho thất bát nghèo
nàn tiêu hao.
Lại thêm ghẹo nguyệt trêu
đào,
Thấy người sắc tốt đem vào lòng
thương.
Lại thêm có tánh gạt lường,
Thiếu người tiền bạc lo phương rủa người.
Bởi lòng chẳng đặng tốt tươi,
Nguyện cầu không ứng, hổ ngươi oán hờn.
Chẳng suy xét việc tiền duơn,
Thấy người đói khổ, thừa cơn siểm
dèm.
Gặp ai tướng xấu khó xem,
Chẳng lo quả báo, siểm dèm cười
chê.
Thấy người tài trí chỉnh tề,
Đã không kính phục, lại
chê cũng kỳ. [xá 1 xá]
Thứ năm luật phạt chép ghi,
Những là tội ác biên
ghi mỗi người.
Chẳng lo vay một trả mười,
Chôn bùa luyện phép
ếm người mạng căn.
Không tin tội phước giáng
thăng,
Dùng đồ thuốc độc giết căn cội
nhành.
Tánh ưa lỗ mãng đua tranh,
Trêu gan thầy thợ, lại
giành mình khôn.
Nghịch thiên thì tội dập
dồn,
Xâm lăng anh chị, không
tôn nghiêm đường.
Chẳng lo thiên lý chiếu
chương,
Tham lam của chúng, gạt lường xin
ngang.
Quen theo tánh nết bạo tàn,
Ưa điều xâm phạm giật ngang tranh
giành.
Chẳng lo nhớp kiếp nhơ danh,
Làm nghề cướp giật vui
đành giàu sang.
Tưởng mình là bậc
khôn ngoan,
Lập mưu xảo trá cầu ban đổi dời.
Lòng còn tính việc
lưng vơi,
Thưởng răn kẻ dưới chẳng lời nào
công.
Ở đời đạo lý chẳng thông,
Vui chơi phí lãng, dạ
không tiếc tiền.
Lại lòng chẳng sợ oan khiên,
Hiếp xô kẻ dưới, không
kiêng lưới trời.
Tập tành tánh nết lộng
khơi,
Dọa hăm dân chúng cậy lời
mình hung.
Ngỗ ngang thần thánh khó
dung,
Oán hờn trời phật, giận
khùng thế gian.
Cứ quen tánh nết bạo tàn,
Chưởi mưa mắng gió tội
càng thêm sâu.
Xúi mưu là tội đứng đầu,
Đua nhau kiện cáo đặng cầu
mình hơn.
Làm người chẳng giữ nghĩa nhơn,
Dua theo phe đảng thiệt hơn khuấy đời.
Tánh tình dời đổi nay mơi,
Nghe theo thê thiếp, bỏ lời mẹ cha.
Chẳng suy xét việc gần xa,
Dùng điều mới, tính bỏ qua
việc rồi.
Chẳng lo thiên võng
khôi khôi,
Lòng ưa việc quấy, miệng lời ngọt
ngon.
Chẳng lo phước đức hao mòn,
Tham lam vô yếm, càng
bòn của dân.
Làm người chẳng biết tứ ân,
Dễ duôi phép nước gạt lần
bề trên.
Không tin báo ứng hư
nên,
Dùng lời độc ác, dựa
bên miệng hoai.
Chẳng lo tránh việc họa tai,
Siểm dèm, kích bác,
chê bai kẻ thường.
Chẳng thông hữu xạ nhiên
hương,
Chỉ người chỗ vạy, khoe đường
mình hay.
Không lo báo ứng liền tay,
Xưng mình chánh trực, mắng
rày thần linh.
Vạy ngay chẳng xét phân
minh,
Bỏ thuận theo nghịch không
gìn lễ nghi.
Dữ lành trời phạt thưởng y,
Người ngoài khắng khít,
chẳng vì người trong.
Liều thân thề thốt như giông,
Chỉ trời đất nguyện chứng lòng
xấu xa.
Nghinh ngang ưa thói xiên
tà,
Cầu thần xem xét những là
điều nhơ.
Mua khen thiệt dạ chẳng ngờ,
Thí cho kẻ đói còn
mơ ước hoài.
Tánh tham, dạ xấu không
phai,
Dối lòng mượn của, để hoài
giả quên.
Chẳng suy xét việc hư nên,
Cầu điều vô ích xin
trên chứng nguyền.
Thạnh suy bĩ thới chẳng kiêng,
Ăn xài quá mức coi tiền
như rơm.
Làm người chẳng giữ danh thơm,
Dục dâm quá độ, bệnh hờm một bên.
Nhiều người chẳng sợ oai trên,
Bề ngoài giả dối, gươm tên
chứa lòng.
Chẳng suy xét việc đục trong,
Lấy đồ dơ uế ép lòng người
ăn.
Xưng mình tả đạo tài năng,
Phép phù gạt chúng,
xưng mình hiển linh.
Bán buôn tính việc
trọng khinh,
Thước non đo thiếu phạm tình tham
gian.
Chác lòng những việc hổ
hang,
Giạ non gạt hụt làm đàng
sai ngoa.
Lại thêm ưa việc vạy tà,
Dùng hư trộn thật đặng mà
lợi riêng.
Chẳng lo quả báo nhãn tiền,
Lượm đồ gian giảo tội truyền cháu
con.
Không tin tội chứa phước
mòn,
Ém điều lành tốt đổi
lòn điều hư.
Trớ trinh dạ chẳng nhơn từ,
Gạt người khờ dại tội dư muôn
ngàn.
Hằng lo kết việc trái oan,
Tham lam phải chịu tai nàn
ngày sau.
Rủi may thiên võng nan
đào,
Dối trù nguyện thấu thiên
tào cầu ngay.
Lòng phàm tánh tục
dại ngây,
Say sưa quá độ, sanh rầy đệ huynh.
Đạo nhà xử chẳng phân minh,
Trai không hiếu thảo, gái
sinh ngang tàng.
Chẳng gìn tứ đức tam cang,
Không hoà gia thất, ngỗ
ngang với chồng.
Làm người tánh nết chẳng
thông,
Khoe khoang tài giỏi lòng
không kiêng dè.
Công dung ngôn hạnh vắng hoe,
Cố điều ghen ghét, chẳng nghe lời
chồng.
Làm trai xử phận chẳng
thông,
Ở ăn không hạnh, nặng lòng
thê nhi.
Chẳng tròn phận gái vu qui,
Lỗi cùng cha mẹ, tôn ti
bên chồng.
Chẳng kiêng trên có
thiên công,
Vong linh trên trước lòng
không kiêng vì.
Làm con chẳng giữ lễ nghi,
Nghịch lời cha mẹ, không vìbỏ qua.
Chẳng suy xét việc gần xa,
Làm điều trái lẽ lại
hoà ý riêng.
Lẽ trời báo ứng chẳng kiêng,
Giả đò rủa phận, tự nhiên
rủa người.
Chẳng ham học tánh tốt tươi,
Ghét thương vô độ,
làm người chẳng công.
Rủi may chẳng lọt mảy lông,
Bước ngang lò giếng, không phòng
tội sau.
Nào hay tội phước là
đâu,
Bước ngang vật thực, trên đầu
người ta.
Chẳng lo đọa xuống diêm la.
Hại thai phá trứng tội đà
dư muôn.
Trả vay tội phước in khuôn,
Làm điều khuất lấp ra tuồng gian
nhơn.
Oai linh thần thánh đã lờn,
Ba mươi, mồng một hát hờn rầy la.
Tánh tình ăn ở xông
pha,
Day qua hướng bắc đái, và
khạc dơ.
Lại thêm lòng chẳng
kính thờ,
Day vô bếp núc ngâm
thơ rủa trù.
Ở ăn theo thói phàm phu,
Đốt hương trong bếp, giảm lu phước
nhàn.
Cùng người tánh chẳng kỹ
càng,
Củi dơ nấu nướng ăng càng
mùi tanh.
Chẳng phân chỗ trược, chỗ thanh,
Ban đêm lõa lộ, chẳng
gìn vóc thân.
Luông tuồng chẳng biết xét
phân,
Hành hình tám tiết
bội phần chẳng nao.
Không lo tội phước âm hao,
Nhổ phun sao giá, biết bao lỗi
lầm.
Ngỗ ngang taánh ở phạm xâm,
Lấy tay chỉ mống
như hăm dọa trời.
Chẳng lo hồn phách lưng vơi,
Chỉ ba ánh sáng
buông lời khinh khi.
Dễ ngươi trời phật từ bi,
Ngó lâu nhật nguyệt cũng
khi lỗi lầm.
Ham vui tập thói hung tâm,
Mùa xuân săn bắn đốt lầm
rừng hoang.
Ở ăn tánh nết bạo tàn,
Day qua hướng bắc mắng ngang rủa bừa.
Sát sanh hại mạng chẳng chừa,
Khi không đập rắn, giết bừa
rùa qui.
[xá 1 xá]
Thứ sáu điều luật chép ghi,
Những
là tội dữ biên y mỗi kỳ.
Trọng khinh các tội đều ghi,
Táo thần tra xét giảm kỳ
số căn.
Đạo trời lành thưởng, dữ răn,
Chẳng cần đợi số, dứt căn nguyên
người.
Luật trời khuyên chớ dễ ngươi,
Tội dư dồn lại cho người đời sau.
Trả vay thiên võng nan
đào,
Tai ương các tội biên
vào cháu con.
Cũng như cối đá hao mòn,
Cướp người của cải, vợ con tội đồng.
Trả vay chẳng lọt mảy lông,
Phạt lây gia quyến cũng trong luật
điều.
Nếu không đổi tánh khoan
nhiêu,
Phạt cho đến thác chưa tiêu
tội trần.
Nếu mà chưa tới căn phần,
Thủy hỏa đạo tặc lần lần đến xâm.
Hung tinh bịnh hoạn đến tầm,
Mất đồ, khẩu thiệt cũng thâm nhập
mình.
Lẽ trời báo ứng rất minh,
Phạt cho vừa tội ỷ mình giật
ngang.
Lại còn những kẻ bạo tàn,
Sát nhân hại mạng lại
càng tội sâu.
Trớ trinh là tội đứng đầu,
Mượn tay đổi giáo ngõ hầu
giết nhau.
Tham lam phước đức mòn hao,
Dụng tài phi nghĩa lẽ nào
bền lâu.
Xét suy nghĩ rõ cạn
sâu,
Cũng như thịt độc ăn hầu đỡ lao.
Rượu ngâm chim trấm uống
vào,
Đã không đỡ khát lại
hao tinh thần.
Làm người chẳng biết xét
phân,
Dầu cho quỉ quyệt cũng phần tử sinh.
[xá 1 xá]
Đạo trời báo ứng chí minh,
Nhằm điều thứ
bảy phạt hình trả vay.
Nếu lòng muốn khởi thiện tai,
Lành chưa làm tới, phước lai
chẳng lầm.
Còn lòng muốn khởi ác
tâm,
Ác tuy chưa khởi họa xâm đến
mình. [xá 1 xá]
Kiết hung hai lẽ phân minh,
Là điều thứ tám sửa mình thiện lương.
Nên hư báo ứng tỏ tường,
Ai người tỉnh ngộ còn phương chuộc trừ.
Dầu mà làm lỡ ác dư,
Ăn năn chừa lỗi cũng trừ đặng cho.
Trong khi rảnh việc sánh so,
Những điều độc ác chớ cho vướng
nhầm.
Việc lành chất để vào
tâm,
Lâu lâu ắt gặp phước
lâm môn đình.
Lành ban, dữ phạt phân minh,
Mới rằng đổi hoạ cho mình phước
lai.
[xá 1 xá]
Thứ chín tội phước đều cai,
Ăn năn sám hối tiêu tai nạn
trừ.
Cho nên những kẻ nhân từ,
Lời lành, làm phải, xem
chư việc lành.
Tánh tình vẹn giữ trong
xanh,
Một ngày đều đặng ba lành
vào tâm.
Xét thân mỗi bữa chẳng lầm,
Ba năm trời thưởng, phước cầm bền
lâu.
Còn người có dạ hiểm
sâu,
Lời ngang, xem quấy, ác âu lo làm.
Bởi lòng chứa quấy bạo tham,
Một ngày ba ác đều cam
vào lòng.
Cứ điều độc ác cố mong,
Ba năm trời phạt, khó hòng
nài kêu.
Dữ lành tội phước đều nêu,
Sao mà chẳng bỏ những điều hiểm
sâu?
Trăm năm trong cuộc biển dâu,
Lỗi lầm mau khá hồi đầu
lánh tai.
[xá 1 xá]
Thứ mười luật định chẳng sai,
Khuyên trong già trẻ
gái trai sửa mình.
[xá1xá]
☸
Bản ấn tống của Thánh Thất Tân Định, Saigon, 1964
Trở
lại
trang chánh
Thư Viện 1
2
3
4 5