http://antruong.free.fr/bannercaodai_cli.gif

VŨ TRỤ CÓ TỪ HỒI NÀO?
ĐẤNG NÀO TẠO DỰNG? TẠO DỰNG BẰNG CÁCH NÀO?

TÔI LÀ AI? CHÚNG TA LÀ NHỮNG NGƯỜI TỪ ĐÂU ĐẾN ĐÂY? SỐNG ĐỂ LÀM G̀? CHẾT RỒI HỒN CHÚNG TA ĐI ĐÂU?


 
HAY LÀ THEO KINH THÁNH CỰU ƯỚC GHI "Cát bụi trở về cát bụi" nghĩa là chết rồi hết ư?
Tại sao có quá nhiều Tôn Giáo? Làm sao thấy cơi vô h́nh và nói chuyện với người trong cơi vô h́nh?
VẠN GIÁO NHẤT LƯ LÀ G̀
HAY LÀ THEO KINH THÁNH CỰU ƯỚC GHI "Cát bụi trở về cát bụi" nghĩa là chết rồi hết ư?
Tại sao có quá nhiều Tôn Giáo? Làm sao thấy cơi vô h́nh và nói chuyện với người trong cơi vô h́nh?
VẠN GIÁO NHẤT LƯ LÀ G̀?


Trang  nầy được đưa  lên  Internet với mục đích phổ biến giáo lư Đại Đạo và Thánh Giáo của Đức Chí Tôn Thượng Đế cũng như Chân lư ẩn
tàng trong các Tôn giáo. Sở dĩ nhân loại gây nhiều cuộc chiến và nhiều tệ đoan xă hội với nhiều tội ác là v́ đa số loài người trên quả địa cầu thứ
68 nầy đă bỏ quên các thuần phong mỹ tục, đạo đức cổ truyền cũng như Chân lư ẩn tàng trong các Tôn giáo, chỉ chấp nhận giáo lư và tín ngưỡng của Tôn giáo ḿnh hay Phái của minh theo chứa chưa ḥa được với tín ngưỡng của nước, vùng, chủng tộc khác nên mới xảy ra "Thánh chiến" kéo dài hằng trăm năm tại Âu châu , hằng 30 năm tại Ái Nhĩ Lan va đang xảy ra khắp nơi trên thế giới do các cuộc khủng bố và sắp sửa mở đầu cho Đại Chiên1 nguyên tử v́ nhiều nơi đă chuẩn bị vũ khí nầy để tận diệt nhau.
Nhân loại đang đau khổ v́ có nhiều bịnh lạ và bịnh nan y v́ sự bồi dưỡng sai lầm trong cách ăn uống và ham mê dục lạc, v́ nhiều người chưa biết luật nhân quả trong việc  sát sanh: giết thú vật mà ăn là vay nợ với chúng sanh nên phải trả nợ bằng xác thân bịnh hoạn. V́ vô minh nên con người mới gây ra tội ác. V́  tội ác xảy ra nên người ta mới gánh quả nghiệp. V́ cá nghiệp nặng nên người ta mới tạo nên cộng nghiệp trầm trọng. Cuộc sàng sảy diễn ra  khắp thế giới như thiên tai, ô nhiểm, tội phạm, x́ ke ma túy, các giáo phái cuồng tín mới gây thảm trạng cuồng sát và tự sát tập thể v́ do sự vô
minh mà ra.
    Các Tôn giáo hiện hữu đang t́m mọi cách cản ngăn các thảm trạng trên bằng một nền giáo dục về đạo đức và giáo lư lấy từ Kinh Thánh và từ Kinh Phật cũng như nền đạo học cổ truyền, nhưng vô hiệu quả v́ phần đông nhân loại thiếu, không có hoặc đă có mà mất đức tin.
  Nền kỹ thuật tân tiến và sự phát triển vượt bực của khoa Truyền thông vi tính đă giúp cho nhân loại có phương tiện liên lạc nhanh chóng trên PC để tra cứu, t́m hiểu, học hỏi mọi thứ trong vài giây hay phút đồng hồ. Các tác giả viết về Đạo học nếu có tinh thần thí pháp đă viết sách khuyến người đời lo tu, nếu không có phương tiện xuất bản sách ḿnh, có thể mua máy vi tính (computer) với giá rẽ cùng với Modem để cho sách ḿnh vào Internet hầu phổ Đạo góp tay biến cảnh khổ đau của đời ô trọc thành đời Thánh Đức. Đây cũng là một công quả thí pháp lớn lao để độ đời. Việc làm nầy như việc gieo giống đạo đức với hy vọng nơi nào có chút ít đất th́ hột cũng nẩy mầm chờ mưa mà mọc lên, c̣n chỗ nào chỉ có toàn đá th́ hột giống nằm yên chờ gió thổi đưa đi nơi có đất trong kẹt núi và cây vẫn mọc lên.
    Con người lạc lơng giưă ngă ba đường không biết đường nào đi đúng đích và không biết trong số người chỉ đường ai là người chỉ đúng đường. Thật rất khó phân biệt vàng thau lẫn lộn, người hiền và quỉ ma trà trộn. Lời khuyến dụ của đời phàm tục th́ ngọt ngào lôi cuốn, c̣n lời đạo đức th́ khô khan nhưng rất hưũ ích. Cửa đời th́ rộng, nhưng đường Đạo th́ hẹp và khó đi. Nếu người t́m đường hay người t́m Đạo đi đúng đường và đến đích kịp lúc, không mất th́ giờ t́m đường giữa mạng nhện của đường xá, không mất thời gian cả cuộc đời cho việc tầm
Đạo, không bị đi lạc đường vào nơi nguy hiểm mà vào cửa của Bàng Môn tả đạo...th́ là cơ duyên may để sống cho đúng theo lẽ Đạo, xây dựng cho tương lai ở đời sau, phản bổn hoàn nguyên hay quay về nguồn cội hay từ Vạn Thù qui nhứt bổn hay từ Tiểu Linh Quang về nhập cùng Đại Linh Quang sau khi rời khỏi cảnh đời ô trọc . Nói về phần Đạo th́ không có ǵ quí bằng TU và Đức Thượng Đế Cao Đài đă hỏi một người Pháp trong Thánh giáo dạy bằng Pháp ngữ "Cherchez vous autres, la Richesse en la Vertue de Dieu, c'est la seule que vous aurez éternellement; nul ne pourra vous la dérober. la gloire est souvent contre la vertue. Elle est éphémère. Elle provient souvent de la fourberies. La gloire de Dieu est la seule qui résiste à toutes épreuves.
    ( Trung bạch: Mấy con phải làm sao t́m đặng la Noblesse, la Richesse et la Gloire de Dieu?". Đức Thượng Đế trả lời : Thầy trả lời " TU ".
                            Một vị Đại Tiên là Đức Lê Văn Duyệt đă nói một cách siêu triết lư như sau:
                                                 Tu là học để làm Trời,
                                          Chớ đâu muôn kiếp làm người thế gian?
 Với ư hướng trên, chúng tôi cũng như các chư huynh đệ trong Đạo Cao Đài là người Việt nam trên khắp thế giới cố gắng học Thánh giáo, viết các sách về Đạo, dịch sách Đạo, sưu tầm Chơn lư, chuyển ngữ các Thánh giáo từ Việt ngữ cũng như từ Pháp văn mà Đức Thượng Đế Cao Đài dạy cho người Pháp ở Việt Nam cũng như các Thánh giáo sau nầy do chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần ...dạy cho các tín đồ Đạo Cao Đài...ra tiếng Đức , tiêng Anh ...để phổ biến cho các huynh đệ có cùng một Cha Chung là Đức Thượng Đế biết Ngài là Cha Trời và biết Mẹ Đất của ḿnh là Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu là ai , để khêu gợi ḷng hiếu thảo của người con nhớ Cha, nhớ Mẹ mà cố gắng trở về đoàn tụ trong Đại Gia Đ́nh trong Càn Khôn Vũ Trụ. Chỉ có Ấn Độ Giáo (Hinduism) có nói về ba Ngôi trong đó có Đấng Mẹ Đất Shiva, c̣n trong Thánh Đạo th́ nói đến ba Ngôi theo cách khác là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần mà Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Linh Điển. Trong Phật Giáo, v́ Đức Thích Ca không muốn cho dân Ấn Độ trước đây trên 2.550 năm trở lại t́nh trạng mê tín của thời trước nên không nói đến Độc Thần nữa mà Ngài dạy thực tế theo phương pháp qui nạp nên chư Phật tử hiểu lầm cho rằng không có Thượng Đế và Đức Phật Mẫu (Thật ra Ngài đă có nói đến Đức Nhiên Đăng Cổ Phật hiểu ngầm là Đức Thượng Đế và Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là pháp thân của Mẹ Đất độ trần).
  Với mục tiêu Qui Tam Giáo hay trở về nguồn gốc chánh giáo của ba Tôn giáo ở Phương Đông là Khổng, Lăo, Phật theo tiêu đề Vạn Giáo Nhất Lư, hầu không c̣n phân biệt Đạo người, Đạo ta nưă, không phân biệt Phái nầy, Phái nọ, biết thương yêu hoà hợp nhau trên căn bản huynh đệ đại đồng, v́ "Không có Tôn Giáo nào cao hơn Chơn Lư" theo như Hội Thông Thiên học đă chủ trương.
    Tôn giáo là cái cửa để bước vào Đạo hay Tôn giáo không là Chơn Lư mà chỉ là phương tiện để t́m Chơn Lư.Tôn giáo giống như tập vở có gạch hàng để đứa bé học lớp 1 viết cho ngay, khi lên Trung học hay Đại học th́ giấy trắng cũng viết ngay hàng.. Muốn vào cửa Đạo th́ mỗi người tùy theo tŕnh độ, sở thích... mà vào cửa bên ngoài (Tôn giáo) nào cũng được để đi vào Chánh Môn bên trong là Đại Đạo. Đại Đạo là vô vi và không bi ràng buộc bởi h́nh thức hữu h́nh nữa. Người t́m được Đạo th́ lo tu ẩn chớ không để mất th́ giờ trong vật chất hữu h́nh nữa để có th́ giờ lo tu tánh luyện mạng, lo việc giải thoát sau khi bỏ xác.
  Đạo gốc bởi nơi con người có ḷng Thành, Tín và Hiệp, Nếu không có ba yếu tố nầy th́ con người vẫn ở trong ṿng vô minh t́m các mục tiêu tạm bợ, nhất thời và chỉ hiện hưũ trong một đời người mà thôi, chớ không đi vào sự hằng hưũ được.
         Để giải đáp thắc mắc của đa số huynh đệ tỉ muội không phân biệt chủng tộc, ṇi giống, màu da sắc tóc của nhân loại trên thế giới, chúng  tôi sưu tầm Thánh giáo, Dharma và Chơn Lư trong vạn giáo để cho lên Trang nầy trong Internet với hy vọng giúp cho mỗi người khi có máy Computer trước mắt để đọc( Trong tương lai với sự phát triển của khoa hoc kỹ thuật trong ngành truyền thông _ Kommunikationstechnik th́ tiện lợi và rẽ tiền hơn các phương tirện khác : ác ấn phẩm quá đắt, các nhà Xuất bản có vốn in, c̣n các tác giả về khoa Tôn giáo học không có tiền in, chỉ cho hết sách ḿnh vào internet cho độc giả đọc miễn phí, in kinh sách phát không th́ cũng tốn kém mà phải đợi sự công quả của độc giả. Hiện nay ở Mỹ internet trong Tiểu bang miễn phí nên mỗi tác giả có thể cho Server của ḿnh chạy 24/24 với các Programme Linux+Netscape, mỗi gia đ́nh có con em đi học đều có PC và Internet như một thư viện quốc tế - C̣n ở Đức phát triển quá chậm, chỉ  58% vernetzt v́ lệ phí điện thoại quá cao và ở Việt nam c̣n quá kém so với Thái lan, Mă lai..). Trang nầy viết thuần tuư vê Tôn giáo học, khoa học tâm linh...tuy không hấp dẫn như các Trang khác phơi bày nhiều tư tưởng tầm thường, khêu gợi dục vọng, ṭ ṃ thấp hèn như dục lạc, nhạc khích động như heavy metall music hay sex nhưng cũng là sự ṭ ṃ mới và thanh cao hướng thượng hơn, nhờ đó con người sẽ thức tâm, t́m được Chân Lư riêng của ḿnh, nhớ nguồn gốc vinh quang của ḿnh trên Thiên Đàng hay trên cơi Niết bàn xuống đây mang sứ mạng chớ không xuống để hưởng cảnh vật chất, hiểu thế mà biết hồi tâm hướng thiện, t́m đường về gặp Đức Chí Tôn hay Đấng Cha Trời hay Đức Chúa Trời theo đức tin Thiên Chuá Giáo hay Đấng Allah cho các dân tộc ở Trung Đông.... và Đức Phật Mẫu hay Mẹ Đất  trên Bạch Ngọc Kinh theo Đạo Cao Đài hay Niết bàn theo Đạo Phật.
         Mỗi con người là một điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế phân ra xuống thế học hỏi. Khi học hỏi xong, biết điều Thiện và điều ác như Thượng Đế, như nguyện vọng của hai người đầu tiên trên trái đất là Adam và Eva được diễn tả ra trong Kinh Thánh. Đây không phải là tội Tổ Tông v́ đă ăn trái cấm mà là v́ muốn học hỏi, nên phải tự lăn xả và Trường Đời, tự lo liệu, lo t́m kế sinh nhai, chịu cực khổ học hỏi từ điều ác để tránh, từ điều thiện nhỏ để hành và học rồi tiến lên nữa, không lười biếng hưởng cảnh sung sướng là chỉ biết hái trái trên cây và lượm trái rụng để ăn trong Vườn Eden giống như người Pigmée giữa rừng rậm Phi Châu măi nữa mà phải ra trường đời đạt sự hiểu biết hay minh triết thiêng liêng thuộc hàng Hiền Nhơn quân tử hầu tiến hoá lên hàng Thần, Thánh, Tiên , Phật...và sau cùng hợp nhứt với Đấng Cha Lành hay Thiên nhơn hiệp nhứt....
         Học hỏi ở trường xong th́ phải về nhà gặp Cha gặp Mẹ trên Trời mà nhận công tác hay nhiệm vụ giúp các đàn em c̣n thơ dại, mới tiến hóa từ kiếp thú lên, kém thông minh, c̣n nhiều thú tánh như ganh ghét, ích kỷ, chỉ biết lấy của người chớ  không biết cho ra, biết phục vụ cho Tam Bành Lục Tặc chớ không biết hướng thượng thăng hoa, chỉ biết ganh ghét kẻ hơn ḿnh hay ghét nguời ngoại quốc như thanh niên thiếu hiểu biết thưộc nhóm Néo-Nazi ở Đức hay những nhà tư bản giàu có bên Mỹ kỳ thị da đen, đă giết những Tổng Thống lo cho dân da đen hay Mục sư tranh đấu cho con cháu của dân nô lệ, chưa biết hy sinh cho người khác hay từ, bi, hỉ, xả như những bậc Hiền Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật đă nêu gương trước đây. Trong giai đoạn cuối của Trường Tiến Hóa th́ phải có kỳ thi. Nhiều Kỳ thi trước một số các Chơn Linh thi không đậu mà phải chịu khổ công học đi học lại măi trong chu kỳ vô tận của sự Luân Hồi trên một hành tinh là trái đất hay quả cầu thứ 68 nầy chớ chưa biết tương lai ḿnh là sẽ tiến lên quả cầu 67 cao hơn, cho nên vị Chánh Chủ Khảo mới mở Ân Khoa, giúp  thí sinh thiếu vài điểm theo luật cũ, vớt lên mà cho đậu lên Bảng Vàng hay Bảng Phong Thần hay cao hơn là Tiên tịch.
     Qua ba thời kỳ từ Thượng Cổ, Trung Cổ cho đến hiện nay Đức Thượng Đế giáo dục con cái của Ngài là loài người bằng nhiều h́nh thức như gởi các Chơn Linh xuống thế, mượn xác phàm là các Tiên Tri viết Cựu Ước của Kinh Thánh hay các Đấng Giáo Chủ dạy trực tiếp cho đệ tử hay Tông Đồ và chư vị nầy viết lại Tân Ước và Tam Tạng Kinh. Nhưng người phàm ở các đời nối tiếp làm sai lạc Chánh giáo và chư vị Thiền Tổ v́ chọn không được đệ tử hành pháp nên Chánh Pháp cũng bị thất truyền đi hoặc những người hành sau biến đổi đi theo ư ḿnh, nên Pháp Tu hay Pháp Luyện Đạo không c̣n đúng cách luyện Kim Thân nữa. V́ Thánh giáo biến ra phàm giáo, mượn h́nh thức âm thanh sắc tướng , tượng gỗ hay tượng vàng, đền thờ nguy nga lộng lẫy, chùa chiền , đền thờ, thánh đường ... giống như tháp Babel cao ngất hay Tháp Babylon vào Thời Trung Cổ  xây không bằng những viên gạch Chơn Lư mà bằng vật chất sơn son thếp vàng, tượng vàng...để phổ Đạo cho rộng, cho nhiều tín đồ về lượng mà thiếu về phẩm, cho nên mới có cảnh Chiến tranh nhơn danh Thánh chiến ổ Âu châu hằng trăm năm , ở Bắc Ái nhỉ lan hằng mấy chục năm, ở Ethiopie đói khát, buôn nô lệ..., gây tang tóc cho nhân loại, gây sự mất đức tin cho tín đồ trung kiên.
         Cuộc tiến hóa từ thời Thượng Cổ mà ḷng con người thơ ngây , vô tội như con đỏ, chất phác như hai vị đầu tiên là Adam và Eva, nhưng lần hồi qua sự tiến hóa với mạnh hiếp yếu, với ḷng tham vọng mà loài người chém giết lẫn nhau , với vũ khí tối tân hơn và đến thời kỳ hiện đại th́ kỹ thuật tân kỳ giết người hằng loạt và nhanh chóng hơn xưa như bom nguyên tử, độc chất, bom vi trùng...và v́ quá ô nhiểm mà trái đất đến ngày hư hoại với nhiều thiên tai mới như lổ hổng Ozon...và cũng v́ nhiều nhục dục mà có thêm bịnh mới như AIDS.
         V́ thương con cái của Ngài mà Đức Thượng Đế không giao Chánh giáo cho tay phàm như trước nữa mà chính Ngài dùng huyền diệu cơ bút, tức phương tiện truyền thông của Ngài qua đồng tử trong trạng thái vô thức, không chen ư phàm vào như các Thánh Tiên Tri viết Cựu Ước và không giải thích theo ư riêng như các Thánh Tông Đồ viết Tân Ước hay chư đệ tử Phật viết Tam Tạng Kinh nữa, để có phương tiện viết ra Thánh Giáo trực tiếp giống như một máy đánh Fax vậy. Đức Thượng Đế Cao Đài viết Thánh giáo, dạy chư Tiền Khai Đại Đạo thực hiện Tổ chức Tôn giáo Cao Đài qua Thánh Lịnh như Thánh Ngôn Hiệp Tuyển , Tân Luật và Pháp Chánh Truyền như Hiến Pháp và Luật Pháp vừa thiêng liêng vừa giống như nền dân chủ của một Chánh Phủ nơi cơi trần là phân quyền rơ rệt như Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. Vị Giáo Tông của Đại Đạo không là người phàm như một vị Giáo Hoàng mà là vị Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo và Tam Giáo Ṭa là chư Đại Diện vô vi của Tam Giáo.
         Giáo lư của Đạo Cao Đài không phải là giáo lư tổng hợp các Tôn giáo đă có theo danh từ Syncrétisme như các nhà nghiên cứu Tôn giáo đă đặt cho, mà Giáo Lư Đạo Cao Đài hay Thánh Giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là những bài ôn lại những giáo lư có từ trước mà là sự nhắc đi, nhắc lại, nhấn mạnh điểm chánh yếu, tóm lược...là cơ Phổ Độ của Đức Thượng Đế cùng với các Giáo Tổ trong Kỳ Thi cuối hay Ân Khoa hay Kỳ Ân Xá thứ Ba để giúp những thí sinh thi đậu mà lên lớp. Lớp cao hơn hay cuộc sống mới trên quả cầu thứ 67 Thượng Ngươn Thánh Đức. Đức Long Hoa Giáo Chủ hay vị Giám Khảo Kỳ Thi cuối chu kỳ Tiến Hóa của Nhân Loại là Đức Di Lạc Bồ Tát hay Đấng Christ giáng thế trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng như Sách Thiên Khải Offenbarung trong Kinh Thánh đă tiên tri.

       Từ năm 1926 Thánh giáo Cơ Bút trong Đạo Cao Đài ở Việt nam có sự nhắc đi nhắc lại nhiều lần Chánh Giáo xưa, Đức Thượng Đế kêu gọi con cái Ngài qui về Chơn Lư hay nguồn gốc của Tôn giáo , mà những tín đồ đang tin và đang hành theo Tôn giáo ḿnh theo, hành lại cho đúng nguồn gốc Chánh giáo nguyên bổn, nếu những ai muốn hành tiếp theo Tôn giáo của ḿnh. C̣n nếu ai muốn đi tắt hay tu tắt th́ nhập môn Đạo của Đức Thượng Đế, nghĩa là không bỏ Đạo cũ mà song hành bước lên nấc thang cao hơn trên đường Đạo, rời ngưỡng cửa Tôn giáo để bước vào cửa Đạo bên trong th́ vào Đạo Cao Đài, nghĩa là nhập môn hay xin phép Đức Thượng Đế cho được trở về cùng Ngài. Nếu ai là nguyên căn th́ xin phép Ngài thọ pháp Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh mà hành, để khi bỏ xác phàm về cùng Ngài trên Bạch Ngọc Kinh. Đức Thượng Đế không bồng ẳm con cái của Ngài về cùng Ngài v́ Ngài đă cho con cái Ngài cái quyền tự do lựa chọn, đi, về hay ở lại tùy ư thích, Ngài đưa tay cho con cái ngài níu, ai không níu th́ chịu thôi chớ Ngài không biết sao hơn. Ai gơ cửa Ngài th́ Ngài mở cửa. Người hiền tự chọn
và tự nguyện vào cửa Đạo, c̣n người ác không muốn vào mà Ngài lùa vào th́ Thiên Cung sẽ loạn cũng như Thiên Đàng tại thế hay đời Thượng Nguơn Thánh Đức sẽ không c̣n người ác chung sống với người hiền.
  Ai vào Đạo Cao Đài th́ có cơ hội tốt để học giáo lư hiện đại của Đức Thượng Đế. V́ nhân loại tiến hóa cao, học đủ các ngành khoa học, học thêm môn Tôn giáo học, có nhiều phương tiện truyền thông, ngôn ngữ có đủ danh từ để hiểu Đạo, Ngài không dùng thí dụ dẫn chứng như chư Giáo Tổ khi xưa nữa mà Ngài dạy rất khoa học, chẳng hạn như Thiên văn học, nguyên do tạo lập Vũ Trụ và cả việc giải thích về nguồn gốc sanh ra Ngài nữa. Ngài dạy các định luật trong thiên nhiên như luân hồi, nhân quả, hy sinh, tiến hóa...để những người từ có học thức cho đến kẻ dốt nát đều hiểu Đạo của Ngài, v́ "đọc Kinh cầu Lư" để hiểu Đạo , bài trừ những mê tín và cuồng tín như các tín đồ đă theo các Tôn giáo trước đây.
  Nhờ có học Chánh giáo, biết lẽ Đạo, con người sẽ thích t́m đường về nguồn cội . Đây là cơ hội ngàn vàn, cơ hội quí báu mà cuối chu kỳ của 700.000 năm mới có một lần. Ai cố gắng hành Pháp th́ sẽ luyện đuợc Kim Thân mà lên cơi Niết bàn hay vào Bạch Ngọc Kinh mới được. Nếu không là nguyên căn mà là hoá căn tức những kiếp trước là kiếp thú tiến hóa mà muốn tu tiến th́ có thể xin Đức Đông Phương Lăo Tổ xin học Tân Pháp Cao Đài để hành mà pḥng bịnh tật v́ cảnh ô nhiểm v́ độc chất đang lan tràn khắp thế giới. Loài người sẽ hiểu tại sao những người ăn chay trong một bệnh viện tại nơi nổ hai trái bôm nguyên tử không bị hề hấn ǵ, không bị bịnh lạ khi ở gần phóng xạ? Tại sao những người ăn chay ít bị bịnh hoặc tránh được bịnh ung thư mặc dù độc chất hóa học vẫn đang lan tràn? Các nhà khoa học Tâm Linh sau nầy sẽ chứng minh rằng các tế bào của người ăn rau cải sẽ có cùng tần số với phóng xạ tức cơ thể người ăn chay trường sẽ thanh như làn sóng cao tần của cơi
thanh nhẹ v́ là thọ khí Tiên Thiên, c̣n cá thịt, xác sanh vật thọ khí Hậu Thiên nên nặng trược, ch́m xuống thấp như cơi trần nầy.
   Đức Thượng Đế rất đau ḷng khi thấy con cái của Ngài từ 6.000 năm nay cố gắng tu cả đời như các chư nhu mà không kết quả, không có ai đắc quả Phật duy trừ có một vị mà thôi. Cố tu mà không đạt kết quả v́ hành sai Pháp, v́ Pháp bị canh cải hay thất truyền hay hành giả bảo thủ cho Đạo ḿnh đúng, pháp ḿnh đúng mà thật ra đă sai lạc mà không hay.
   V́ ḷng từ bi của Đức Thượng Đế mà Ngài đích thân dạy Pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu, đệ tử đầu tiên hành Pháp của Ngài . Khi bỏ xác phàm Đức Ngô Minh Chiêuvề Bạch Ngọc Kinh gặp Đức Thượng Đế. Đức Ngô Minh Chiêu là vị Thầy dạy Chánh Pháp cho huynh đệ sau khi Ngài đă học trực tiếp với Đức Cao Đài va khi Đức Ngô Minh Chiêu đắc quả Đại Tiên hay Phật tại thế Ngài c̣n giáng cơ tiếp để nhắc nhở hành giả đệ tử. Đức Thượng Đế xưng danh là Cao Đài Giáo Chủ mà Đức Ngô Minh Chiêu cũng xưng Cao Đài Giáo Chủ tức Ngôi Hai. Chư vị đệ tử Phái Chiếu Minh sau nầy hành đúng pháp th́ khi qui liễu cũng về Tiên cảnh trên Niết Bàn và có giáng cơ về cho biết việc hiện tại hoặc nhắc lại việc hành lúc c̣n sống, đă nhắc nhở, chứng minh cho những huynh đệ đang hành có đức tin mạnh hơn và kiên tŕ công phu hơn. Những vị nầy khi sống ngủ ngồi và có ấn chứng khi qui liễu là mắt trái mở khi hồn rời khỏi xác và khi chết th́ ngồi chớ không nằm.
         Việc hành pháp của Đức Cao Đài Thượng Đế là Đời, Đạo song tu, nghĩa là vẫn c̣n lo trả nợ đời là làm việc để sống, lo cho vợ con chu toàn, trường chay tuyệt dục theo sự ưng thuận của vị hôn phối để bảo tinh mà luyện tinh hóa Khí, dùng hơi thở là Khí để hóa Thần và dùng Thần là sinh lực sống để hoàn Hư và nhờ có thờ Thiên Nhăn mà có Trạm Tiếp Vận Thần Lực của Đức Thượng Đế như cái antenne nhận điển quang như Satelite của Đức Thượng Đế. Ngài tiếp sức với hành giả mà luyện Hư hoàn Vô, tức là Thiên Nhơn Hiệp Nhứt hay Trời và Người sẽ hợp cùng nhau làm Một.
         Thật là may mắn biết bao khi có cơ duyên may 700.000 năm mới có một lần ân xá như thời đại hiện nay. Mỗi người chỉ cần cố gắng trong một kiếp hành đời Đạo song tu, không phế đời vô Chùa làm sư tăng tu hay làm ông cha trong nhà thờ mà chỉ làm một người thường, làm tṛn Nhơn Đạo và bớt th́ giờ cho các vui thú khác để hành tứ thời, mỗi thời có một giờ, không cần phải hành tŕ 49 ngày ngồi thiền như Đức Phật, cũng không cần nhịn ăn 40 ngày, chỉ uống nước để khử trược lưu thanh và thiền định hay liên lạc với Cha Trời như Chúa Giê-su, hành giả  chỉ tu ẩn, không cho ai biết ḿnh tu, làm như người dốt, ăn mặc b́nh thường, sống đơn giản và hành suốt đời như thế, khi có ấn chứng th́ cũng giữ kín không cho ai biết, thế th́ khi bỏ xác th́ Thầy Thượng Đế sẽ chấm điểm và quyết định địa vị nơi Bạch Ngọc Kinh mà Đạo Phật gọi
là Niết bàn.
         Để có một quan niệm rộng răi, ḥa đồng Tôn giáo hay khoan dung tha thứ, hoà hiệp huynh đệ, không phân biệt Tôn giáo, học hỏi chân lư từ khoa học, triết lư, Tôn giáo, so sánh các giáo lư mà rút tỉa ra Chơn Lư Đại Đạo... nên tác giả Trang nầy xin nêu lên đây lần lượt các câu hỏi của nhân loại từ khi khởi nguyên Vũ Trụ đến nay và trích Thánh Giáo mà trả lời các câu hỏi, ngoài ra chính Đức Thượng Đế  Cao Đài đă hỏi chư vị hầu đàn cơ :"Các con đă sanh tại thế nầy, ở tại thế nầy chịu khổ năo tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy, Thầy hỏi : các con chết
rồi các con ra thế nào ? Các con đi đâu? (TNHT, trang 59, Đàn cơ đêm Chúa Nhật ngày  tháng Chạp Dương lịch 1926 tức ngày rằm tháng 11 năm Bính Dần).
         Sau đây là các câu hỏi của nhiều người Đức sau khi chúng tôi thuyết tŕnh để giới thiệu về Tôn giáo mới cho người Tây Phương tại Viện Đại  Học Ludwig-Maximilian-Universitảt München, sau đó tại Phân Khoa Tôn Giáo Học thuộc Viện Đại Học Leipzig và tại Trung Tâm Điều Dưỡng Phục Hồi Sức Khoẻ tại Bad Mergentheim. Chúng tôi nghĩ rằng người Việt Nam ở hải ngoại qua cuộc đổi đời và vượt biển cũng có những câu hỏi tương tợ. Trên xe lửa (tàu hỏa) chúng tôi thường hỏi những hành khách ngồi gần :
Woher kommen Sie ? (Ông (bà) từ đâu đến đây? hay Where are you from?
 Nhiều người trả lời rằng Tôi từ Berlin đến, người khác nói tôi từ Munich vv hay tôi từ New York đến.
Khi chúng tôi hỏi tiếp : Von wo sind Sie  im Universum auf die Erde oder nach Deutschland gekommen? (Ông(bà) từ nơi nào trong Vũ Trụ hay từ hành tinh nào đàu thai xuống cơi trần hay đến Đức hay xuống trái đất nầy đây?)
 Th́ đa số không biết trả lời được, cứ ngẩn ngơ măi và bảo rằng : ’’Philosophie ist schwierig !!!’’ (Ông hỏi về triết khó quá tôi không trả lời được, đẻ tôi về hỏi ông Cha (linh mục hay mục sư), mặc dù những người nầy trông rất trí thức, ăn mặy sang trọng, hỏi thêm th́ là kỷ sư, bác sĩ...có khi cả mục sư, người đă học Thần học rồi mà cũng không trả lời được nữa, chỉỉ bảo rằng Kinh Thánh dạy sao th́ tôi học vậy chớ chưa bao giờ nghe ai hỏi câu  nầy.
Sau khi trả lời về mục đích của đời sống, chúng tôi góp nhặt và chép lại cũng như phân loại những câu hỏi để viết thành cuốn sách bằng Đức ngữ ’’Der  Mensch und das Universum - Fragen und Antworten über Gott, den Mensch, Religionswissenschaft, Religionsethnologie, Esoterik.....und neue Religion Gottes (Cao-Dai-Religion) (Vũ Trụ và con người - Những câu hỏi và câu trả ḷi về Thượng Đế, về con người, về Khoa Tôn Giáo Học, về Khoa Nhân Chủng Tôn Giáo Học, về Huyền môn học và về nền Tôn Giáo mới của Đức Thượng Đế hay Cao-Đài-Giáo). Có vài người Việt nam ṭ ṃ muốn đọc bằng tiếng Việt nên chúng tôi dịch ra đây những  câu hỏi thuộc về  Khoa Học, Tôn Giáo, Triết Học, Huyền Bí Học,Thông Thiên Học , Văn Minh và Văn Hóa Học Đông  Phương....  cũng như  Đạo Học hay Giáo Lư Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ.
Những câu hỏi của nhân sinh về vũ trụ quan ( Câu trả lời đă có Links màu xanh tại câu hỏi có gạch dưới - Xin quư vị bấm con chuột vào câu hỏi để có câu trả lời - Các câu kế tiếp sẽ được cho vào sau - V́ có nhiều người hỏi giống nhau nên các câu trả lời câu hỏi dưới là các Links của câu hỏi trên -  Đang viết - sẽ cho các Links vào khi những câu hỏi có màu xanh và gạch dưới quí vị bấm con chuột phía tay trái vào để đọc.
1) Vũ trụ rộng lớn bao la vô giới hạn hay có giới hạn ?
2) Vũ trụ được thành lập như thế nào?
3) Đấng Sáng Tạo làm cách nào để thành lập Vũ Trụ ?
3) Đức Thượng Đế làm cách nào để tạo lập mọi vật trong thiên nhiên?

4) Tại sao có quá nhiều ngôi sao và dăy ngân hà ?
5) Có bao nhiêu cơi trong Vũ Trụ ?
6) Có bao nhiêu hành tinh trong Thái Dương hệ và trong Vũ Trụ ?
7) Tại sao các hành tinh, định tinh không đụng nhau mà quay trong trật tự và
8) theo định luật nào?
9) Có những Định luật nào trong Vũ Trụ ?
      Luật Nhân quả là ǵ ?
     Thế nào là cá nghiệp? Con người có chịu trách nhiệm đối với chính ḿnh trong  việc tạo nghiệp quả hay Trời ấn định sẵn số phận của mỗi người  hay tự con người tạo nên số mạng của ḿnh?
     Thế nào là cộng nghiệp? Mỗi dân tộc có cộng nghiệp không? Những nhà văn  cũng như nhà viết truyện phim có chịu trách nhiệm hay chịu chung cộng nghiệp  với người đọc hay người xem phim bắt chước làm theo các vai mà gây tội ác  không?
          Luật Luân Hồi là ǵ ?
    Luật Hy sinh là ǵ? Người hy sinh cho kẻ khác luôn luôn bị thiệt thời hay có luật  bù trừ hay được thưởng theo luật công bằng không?
   Trong Đạo Phật th́ Đức Thích Ca có dạy rơ về Luật Luân Hồi, tại sao Đúc Giê-su không dạy rơ Luật Luân Hồi và Đức Giaó Hoàng thứ 7 là Constantinoble lại cấm các vị linh mục dạy về luật Luân Hồi?(trong Kinh Thánh dịch là renaissance , Wiedergeburt hay Auferstehung hay người chét ngày sau sống lại - chớ không dịch Reinkarnetion, réincarnation)
 Luật Tiến Hóa là ǵ ?
10) Từ đâu  đưa đến những thiên tai khủng khiếp như đại hồng thủy, hạn hán gây tang tóc cho nhân loại ?
11) Có phải Đức Thượng Đế gây ra trận Đại Hồng Thủy  để giết những  đứa con bất hiếu gây ra tội Tổ Tông là không nghe lời Chuá dám bất tuân lịnh Chúa là ăn trái cấm không? Tại sao Ngài cho phép ăn trái khác trong vườn Địa Đàng không cho ăn trái cấm ? Ư nghĩa của trái cấm là ǵ?
12) Có bao nhiêu chủng tộc trên thế giới ? Tại sao màu da của nhiều giống dân như :  đen, vàng, đỏ, trắng khác nhau?
13) Tại sao Đức Thượng Đế tạo ra quá nhiều giống dân và cá tính lại không giống nhau?
14) Các giống dân tiến hóa bằng cách nào ?
     Những câu hỏi của nhân loại về Đức Thượng  Đế :
15) Thượng  Đế Ngài là ai ?
16) Ngài được sanh ra bằng cách nào ? Đấng nào đă sanh ra Ngài ? Trên ngài nữa là ấng nào? Tên gọi làǵ?
17) Ngài là  đàn ông hay đàn bà ?
18) Ngài có bao nhiêu  đức tánh? Ngài công bằng hay bất công?
     Những câu hỏi của nhân loại về những vấn  đề của con người
19) Con người là ai ?
20) Con người xuống cơi trần để làm chi ?
 21) Mục đích của đời sống là thế nào?
 22) Con người chết rồi đi về đâu ? Tại sao ít có người tự hỏi hay hỏi người khác về ba câu trên? Tại sao có ít người trả lời được ba câu hỏi nầy hoặc mỗi người trả lời theo một ư riêng ?
23) Con người là một điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế. Tại sao con người không toàn năng toàn thiện như Đức Thượng Đế mà bất toàn?
 24) Tại sao Đức Thượng Đế không sanh ra con người toàn năng như Ngài mà sanh ra bất toàn ?
25) Tại sao con người phải chịu luật thành, trụ, hoại, diệt hay sanh, lăo, bịnh, tử mà không sống trong hằng hữu  như Đức Thượng Đế?

26) Tại sao con người không giống nhau mà có kẻ th́ giàu,người lại  nghèo, kẻ mạnh khoẻ người lại bịnh hoạn, kẻ thông minh, người  lại đần độn, kẻ làm như chơi mà đạt kết quả,c̣n  người siêng năng cố gắng mà thất bại?

27) Tại sao con người quên hết dĩ văng, quên hết những điều đă học trong những kiếp trước?
28) Thiên tài là ai ?
29)Tại sao có quá ít người nhớ lại những khả năng của tiền kiếp mà đa số phải học lại từ đầu ?
30) Con người từ Đức Thượng Đế cho giáng trần. Tại sao con người không nhớ thời vàng son sung sướng trên cơi Niết bàn mà mê trần, quên hết dĩ văng thánh thiện ?
31) Tại sao con người phải chịu sống cảnh đau khổ ở trần gian?
32) Tại sao người ta sợ chết ?
33) Tại sao người bịnh bịnh nan y hay đau khổ v́ già yếu bịnh tật liên miên, muốn chết cho rảnh nợ đời mà khi chết lại sợ ? Tại sao trong các Viện Đưỡng lăo tại các nước Tây phương có một số người nguyên là luật sư, Makler, Chánh án Toà của Vùng, Biện lư ...toàn là người giàu có mà khi bịnh phải nằm liệt giường đến 5,7 năm cho đến thối thịt (Dekubitus) mà không chết được ?Họ không chịu ăn để chết và khi cho ống dẫn thức ăn lỏng Magensonder vào bao tử theo lổ mũi hoặc chích ngay bụng th́ sống lâu thêm nữa từ năm đến bảy năm trong đau đớn, khổ năo v́ con cháu ít đến thăm. Có vài người yêu cầu con cháu chở qua Hoà lan, nơi Luật pháp cho phép giúp đỡ chết trong êm ái và như vậy vị bác sĩ phụ trách chích thước ngủ vĩnh viễn cho bịnh nhân yêu cầu có bị luật Nhân quả trừng phạt là tội giết người không?
34) Tại sao đời sống con người quá ngắn, chỉ 70, 80 là cùng, có khi đến 100 tuổi rồi phải bịnh rồi chết? Trăm năm có quá ngắn ngủi không?

35) Tại sao đời sống của mỗi người kéo dài khác nhau?
36) Có số mạng hay không ? Có phải Trời ấn định số mạng cho mỗi người hay do ai định  đoạt thời gian sống ở cơi trần?
37) Có phải số mạng là bất công hay không? Đức Thượng Đế ấn  định số mạng giàu sang và số mạng nghèo hèn không? Trí thông
minh là ǵ? Sự may mắn là ǵ?
38) Cuộc đời có đáng yêu hay đáng chán? Những người chán đời tự tử có tội ǵ không?
39) Linh hồn là ǵ ? Thiên Thần là ǵ ? Thần Linh hay Thần minh là những vị nào?
            (Xin quí vị xem các câu hỏi của các khoa học gia Pháp hỏi các vị Thần Minh giáng cơ được ông Allen Kardec (-) ghi lại ztrong cuốn sách le livre des Esprits , do Nhà Xuất Bản VERMET , 10, rue du pière-Lachaise , 5020 Paris, tái bản Décembre 1996).
40) Có bao nhiêu linh hồn hay con người dưới trần thế?
41) Tại sao tổng số người trên trái  đất càng ngày càng  đông?
42) Thế nào là ư nghĩa của huyền thoại Adam và Ê-và ?
43) Thức ăn của loài người theo Kinh Thánh là những thứ nào? Tại sao có nhóm người không ăn máu hay sang máu?
44) Ai sống trong vĩnh cửu ? Nếu con người sống lâu đến ngàn năm th́ đời sống có buồn chán không?
45) Tại sao có những người bị mù từ khi mới sanh ? Trẻ con nầy có làm nên tội t́nh ǵ mà phải chịu như thế ? Tại sao cha mẹ những đứa trẻ nầy mạnh khoẻ, không bị bịnh di truyền hay ăn nhằm chất độc ǵ mà sanh con ra như thế ?
     Tại sao cũng là người mà người th́ sanh ra đẹp đẽ, người th́ xấu xí, người th́ tánh tốt, kẻ mang tánh xấu hay độc ác, người sanh trong gia  đ́nh giàu sang c̣n người sanh ra trong gia đ́nh nghèo đói ? Tại sao người th́ sanh ra đàn ông c̣n người th́ sanh ra đàn bà và có phải theo định luật hay do ư muốn của linh hồn? Tại sao có những người bị bịnh đồng tính luyến ái. Họ chỉ yêu và thích sống chung với một người cùng phái ? Đa số th́ làm t́nh trái thiên nhiên nên sanh bịnh SIDA (AIDS) c̣n một số cặp khác th́ chỉ sống chung như bạn hay như hai vợ chồng là bởi nguyên nhân nào?
46) Từ đâu  đưa đến những tai nạn mặc dầu người ta cẩn thận từ chút? Đức Chúa Giê-su giải thích như thế nào về những trường hợp nêu trên ?
47) Đức Chúa Giê-su dạy các Thánh Tông Đồ như thế nào về luật Luân hồi ? Tại sao nhiều người cùng là Đạo Thánh mà kẻ th́ cắt nghĩa như thế nầy, người cắt nghĩa như thế khác về truyện Ni-cô-đem hỏi Đức Chúa Giê-su về sự "Sống lại" trong quyển Thánh Giaon Đọan II ?

48) Tại sao Đức Chúa Giê-su không giải thích rơ ràng cho Ni-cô-đem về luật luân hồi ? Tại sao Chúa không dạy như trong Đạo Phật ,như Đức Thích Ca đă dạy các đệ tử ? Có phải Kinh Thánh có sự thiếu sót không?
49) Có phải Kinh Thánh do Ư Chúa mặc khải qua chư Tiên Tri viết ra không? Đức Chúa Giê-su giảng và chư Thánh Tông Đồ viết ra Tân Ước, như vậy những lời viết có đúng trăm phần trăm không? Những vị nầy hiểu hết nghĩa bóng không?
50) Tại sao có quá nhiều Tôn giáo, nhiều Chi Phái trên thế giới ?
51) Đức Thượng Đế giáo dục con cái của Ngài qua bao nhiêu thời kỳ ?
     Thế nào là Nhứt Kỳ Phổ Độ ?
     Thế nào là Nhị Kỳ Phổ Độ ?
     Thế nào là Tam Kỳ Phổ Độ ?
52) Các lời dạy của chư Giáo Tổ trong các Tôn giáo giống nhau hay khác nhau ?
53) Có phải chư Giáo Tổ đều do  Đức Thượng Đế cho giáng trần để độ nhân loại không?
54) Các nhà Thần học, các Nhân Chứng Giê-hô-va, những người nghiên cứu Kinh Thánh... có hiểu hết ư nghĩa trong Kinh Thánh không ?
55)Mỗi con người nên học một Tôn giáo của ḿnh hay cần học các Tôn giáo khác để hiểu Chân Lư ?
56) Có bao nhiêu loại đức tin ?
     Thế nào là cuồng tín ?
     Thế nào là đức tin mê tín dị đoan ?
     Người vô thần tin tưởng khoa học và không tin ǵ cả những ǵ họ không thấy. Tại sao ?
     Thế nào là đức tin Tôn giáo ?
      Thế nào là đức tin triết học ?
     Thế nào là đức tin minh triết ?
57) Có phải vạn giáo nhất lư không ? Tại sao người của Tôn giáo nầy đả kích phê b́nh, chê Tôn giáo khác ?
58) Tại sao cũng là cùng một lời dạy của Chúa Giê-su mà có quá nhiều Phái Tin Lành và các Phái khác ?
59) Tại sao cũng một Kinh Thánh mà mỗi người hiểu khác nhau và chưa có ai hiểu hết những lời dạy trong Kinh Thánh?
60) Tại sao sự giải thích Kinh Thánh của mỗi người khác nhau ?
61) Ai là Satan ? Satan có những tánh xấu ǵ ?
62) Tại sao Satan không bị Chúa trừng phạt mà để cho nó tự do tung hoành, mê hoặc hai người trong vườn Địa Đàng ?
63) Có phải Satan tượng trưng cho dục vọng của mỗi người không?
64) Tại sao đa số nhân loại bị chết v́ trận Đại Hồng Thủy mà có 8 người sống sót ?
65) Tại sao Adam và Ê-va coi các loài thú như bạn. Khi xảy ra trận Đại Hồng Thủy th́ con cháu gia đ́nh Noah nuôi thú rồi lại ăn
thú nhà  ? Tại sao họ không thương loài thú như Tổ Tiên họ ?
66) Tại sao ngày nay có số người ăn thịt ḅ, gà, heo mà không ăn thịt chó, mèo? Có phải là sự bất công không?
67) Tại sao Chúa Giê-su nhịn ăn trong 40 ngày ? Cho biết mục đích ?
68) Tại sao những người theo Đạo Hồi không ăn thịt heo ?
69) Chúa Giê-su là bậc Thánh, là Đấng Thiêng Liêng Con Một Thiên Chúa. Tại sao Ngài c̣n phải  được Tông Đồ Gioan rửa tội cho ?
Cho biết ư nghĩa việc rửa tội ? Khi rửa tội phải hụp xuống nước hay chỉ được vị Linh mục nhểu vài giọt nước Thánh trên trán ? Tại sao có sự khác nhau ? Cách nào đúng? Cho biết ư nghĩa ?
70) Tại sao đa số những người tu thiền ăn chay? Cho biết ư nghĩa của sự ăn chay ? Ăn chay kém sức khoẻ hay có sức khoẻ ? Ăn chay có thiếu dinh dưỡng, thiếu chất đạm không ? Cho biết cách ăn chay  đúng theo khoa học ?
71) Tại sao trên thế giới có quá nhiều Tôn giáo ?Cho biết ư nghĩa của huyền thoại về tháp Ba-bên ?
72)Tại sao cá lớn nuốt cá bé ? Đó có phải là sự bất công không ?
73) Tại sao ông A-Đam và bà Ê-va sống trên 800 năm ? Số 80 đúng hay số 800 đúng ? Có phải là Kinh bị in sai hay thợ in sắp  thêm số zéro không ?
74) Tại sao đời sống hiện nay quá ngắn ?
75) Làm thế nào để được sống lâu ? Làm sao để tránh bịnh tật đau khổ ?
76) Làm sao để  bảo vệ sức khoẻ ? Làm sao để chuẩn bị cho tuổi già để chết an nhàn, khỏi bịnh hoạn đau khổ ?
77) Làm sao  để tránh ô nhiểm ?
78) Thân Tứ Đại là ǵ ? Thế nào là ư nghĩa của danh từ Tiểu Thiên Địa ?
79) Con người có bao nhiêu xác thân ? Thế nào là Kim Thân bất hoại ? Làm thế nào để có Kim Thân mà lên cơi Niết bàn?
80) Làm thế nào để Người hiệp nhứt cùng Trời hay Thiên Nhơn hiệp nhứt ?
81) Có bao nhiêu phương pháp thiền ? Tại sao chư Thiêng Liêng khuyên tu? (Ngài  Đức Minh Chơn Tiên tu giải thoát giáng cơ
khuyên)
82) Từ đâu có chiến tranh ? Tại sao Đức Thượng Đế không ngăn cản loài người gây chiến tranh mà  để loài người tàn hại nhau? Chiến tranh do Đức Thượng Đế hay do con người gây ra?
83) Thế nào là Ngày Phán Xét cuối cùng? Thế nào là Đại Hội Long Hoa? Tai sao Kinh Thánh, Sấm Giảng  đều nói đến Ngày Tận Thế nầy ? Đức Giáo Hoàng làm ǵ để chuẩn bị đến ngày  đó ? Chư vị giáo sĩ, chư tăng làm ǵ để chuẩn bị cho ngày nầy ? Chúng ta làm ǵ ?
     Ngày tận thế như thế nào? Chừng nào xảy ra? Tại sao sấm giảng của chư Tiên Tri như Nostradamus và Trạng tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm...không nói trắng ra mà tiết lộ bí mật có một phần?
     Một số câu hỏi khác của một số người đặt ra thêm vào đây :
84.Huyền bí học là ǵ ? Tại sao khoa học kỹ thuật tiến bộ cao tột như ngày nay mà không biết những định luật và các cơi vô h́nh
nên phải đi vào khoa Esoterik để nghiên cứu ? Khoa học thiên nhiên bị giới hạn đến ranh giới nào và khi nào họ mở ra chân Trời mới để biết khoa huyền môn và Đạo học?
85. Khoa Chiêm tinh, bói bài, bói Dịch, Độn, xin keo, xin xâm, khoa Địa lư huyền bí như long mạch, xây nhà theo hướng, cúng sao, đi xa cử ngày mùng 5,14,23 ....có tác dụng thiết thực không? Có phải là mê tín dị đoan? Theo huyền sử vua Phục Hi (4477-4363) thấy h́nh vẽ trên con Long Mă trên sông Hoàng hà rồi ngài phỏng theo đó mà vạch ra Tiên Thiên bát Quái và vua Vũ Nhà Hạ là Đại Vũ (2205-1766) thấy
trên lưng con rùa xuất hiện trên sông Hoàng Hà, ngài dựa theo đó mà vạch ra Hậu Thiên bát Quái  (thoán từ hay hào từ). Như vậy những vị nào đă vẽ hai h́nh đồ trên lưng hai con vật linh ở Trung Hoa để phổ biến Thiên cơ huyền bí và tạo lập Vũ Trụ ? Tại sao chư vị đă vễ đó đấu tên hay không muốn ai biết tên ḿnh? Tại sao hai vị Vua không giải thích trực tiếp mà để đến đời sau là con của Vua Văn Vương là Chu Công Đán nghiên cứu kỹ hơn và đến đời Khổng Tử (551-479) mới giải thích cặn kẻ hơn?
     * Tại sao có vài vị Tiên tri thấy cuốn phim akasha của Vũ trụ viết ra Sấm kư như Nostradamus và Trạng Tŕnh và không nói rơ mà chỉ dùng những danh từ khó hiểu cho người đời không biết được ? Tại sao ông Edagar Cayce cũng có nói tương lai rất rơ ràng không có nói thời gian chính xác thí dụ như trong Readings ông có nói về hai người thuộc Châu Atlantis : một người đầu thai vào nước Tàu sẽ thay đổi chế độ tuy hơi chậm từ cộng sản sang dân chủ (sau nầy người ta hiểu là Đặng Tiểu B́nh) và người kia đầu thai vào nước Liên bang Sô Viết và làm thay đổi chế độ nầy để chiến tranh lạnh chấm dứt (sau nầy người ta hiểu là Gorbartchev). Tại sao các chư Thiêng Liêng giáng cơ cũng không nói Thiên cơ ? Muốn hiểu Đại Đạo, người ta phải học để hiểu thế nào là Vạn Giáo Nhất Lư?Phải làm sao để ḥa đồng Tôn Giáo và tránh t́nh trạng như Thánh Chiến ở Âu Châu hằng trăm năm và nhu ở Bắc Ái Nhỉ Lan hằng mấy chục năm?
         Muốn trả lời những câu hỏi trên, người ta phải sử dụng các khoa học về tinh thần như Tôn  giáo học, Triết học, siêu h́nh học, Thần học, huyền bí học...để chứng minh, nhưng lại gặp sự bất khả tri. sau nầy nhờ có cơ bút mà một dân tộc nhỏ bé, một nước nhỏ nhoi trong bốn bể được học trực tiếp với Cha Trời, Mẹ Đất, với chư Giáo Tổ, chư Phật, chư Thánh, chư Thần..., nhờ thế mà những đệ tử của ông Thầy Trời mới được thỏa măn các thắc mắc trrước đây, để an tâm, tin tưởng nơi Ông Thầy Trời lo tu tánh, luyện mạng t́m đường giải thoát khỏi Luân Hồi sanh tử trong một kiếp nầy.
        Giáo lư của Đức Chí Tôn Thượng Đế trong giai đoạn hiện tại và trong tương lai là sự tóm lược của Ngài để qui về ba nền chánh giáo tại Á Châu là Khổng Giáo, Lăo Giáo và Phật Giáo. Đức Chí Tôn Cha Chung Nhân loại cùng với Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn, chư Phật, chư Giáo Tổ các Tôn Giáo đă có, chư Tiên, chư Thánh , chư Thần và cả chư vị tu theo vô vi đắc quả giáng cơ theo phương pháp áp dụng điển linh thiêng như tần số của tư tưởng hay Thánh Ư Ơn Trên chuyển vào từ lực của đồng tử như phương pháp thông linh trong các Hội Thần Linh Học trên thế giới mà Đức Chí Tôn báo trước và tập lần cho các nhà khoa học làm quen với sự truyền thông huyền diệu nầy và trong Đạo Cao Đài ở Việt nam, qua Thánh Giáo cơ bút,chính  Đức Chí Tôn Thưượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đă mở Đạo trong thời kỳ ân xá thứ ba nầy để cứu độ con cái Ngài trên quả cầu thứ số 68 nầy. Giáo lư Đạo Cao Đài là bài ôn tập các giáo lư đă có v́ nhân loại có quá nhiều căn trí, tŕnh độ, khuynh hướng, sở thích, tín ngưỡng khác nhau để Ngài qui nguyên Tam Giáo và hiệp nhứt Ngũ Chi Đại Đạo
để nhân loại cùng học một bài học chung bởi hiện nay nhân loại đă tiến hóa khá cao về mọi mặt nên có thể hiểu được lời Ngài. Các Tôn giáo như những lớp học gồm :
          1. Các Tôn giáo thuộc Nhơn Đạo lấy sự công b́nh, b́nh đẳng giữa huynh đệ đại đồng như Đạo Khổng ở Trung Quốc.Tu
theo con đường tiệm tiến là Tu Thân, Tề gia, trị quốc để b́nh Thiên hạ.
            2. Các Tôn Giáo thuộc Thần Đạo ở Trung Hoa và ở Nhựt Bổn cũng từ Nhơn Đạo làm căn bản và sau cùng mới lo việc
nước là Trung quân, ái quốc.
          3. Các Tôn giáo thuộc Nhơn Đạo ở bậc cao hơn là Thánh Đạo như Khổng Giáo ở Trung Hoa và Thiên Chúa Giáo ở Do Thái lấy đức bác ái đói xử với tha nhân: Thương người như ḿnh vậy.
            4. Tôn giáo của chư Tiên hay Tiên Đạo hayLăo Giáo ở Trung Hoa là an bần lạc Đạo cầu tu giải thoát về
Tiên cảnh.
          5. Tôn giáo của chư Phật như Ấn Độ giáo vào Nhứt Kỳ Phổ Độ ở thời Thượng Cổ và Phật Giáo vào Nhị Kỳ Phổ Độ ở thời Trung Cổ là tin tưởng nơi luật công bằng là luân hồi, nhân quả và giáo lư rất khoa học của Đức Phật Thích Ca (Tín) để tập tánh cho tốt hơn (Hạnh) và ước vọng (Nguyện)  là làm như Phật đă làm là lấy ḷng Từ Bi mà đối với chúng sanh kể cả loài vật nhỏ có sự sống, là căn bản để tu theo Tiệm Tiến của Bát Chánh Đạo và con đường chót là Thiền định để mở trí huệ để tự giải thoát (Tự giác). Đó là cỗ xe lớn (Đại Thừa) mà giúp người khác cùng lên xe về Bến Giác (Giác tha).
         Đức Thượng Đế giáo dục con cái của Ngài bằng cách gởi Chơn Linh của Ngài xuống thế có sứ mạng như những Tiên Tri, chư Giáo Chủ mở Đạo để giáo dân vi thiện trong ba thời kỳ tiến hóa của nhân loại :
          1- Thời Thượng Cổ :
             Ngài gởi các Tiên Tri như Mô-se và các Tiên Tri khác viết Cựu Ước dạy Thánh Đạo ở Vùng Trung Đông, có mười điều răn để dạy dân an hiền ở lành, bên Trung Hoa Ngài cho chư Tam Hoàng và Ngũ Đế dạy đạo đức cho dân Trung Hoa, ở Ấn Dộ Ngài cho Đức A-Di-Đà-Phật dạy Phật Đạo hay Ấn-Độ Giáo cho dân Ấn-Độ.
          2-Thời Trung Cổ :
             Chánh Đạo bị thất truyền nên Ngài gởi chư Giáo Tổ xuống thế chỉnh đốn lại giáo lư:
             - Ở Ấn Độ Ngài gởi Chơn Linh của Ngài mang xác phàm là Thái Tử Sĩ-đạt-ta tu luyện   đắc quả Phật, làm cuộc cách mạng xóa bỏ sự phân chia 4 giai cấp ở Ấn-Độ,Ngài dạy về Ngũ Giới Cấm để dạy dân lo tu tâm sửa tánh,  dạy triết lư giải thoát với Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và bửu pháp  thiền định.
             - Ở Trung Hoa Ngài gởi Chơn Linh của Ngài xuống thế mang xác phàm là Đức Khổng Tử, Đức Lăo Tử và Đức Khương Tử Nha để mở Đạo dạy cho dân Trung Hoa ở ba cấp bực là Thần với Thần Đạo, Thánh với Khổng Nho và Tiên với Lăo giáo.
             - Ở Trung Đông Ngài cho Chơn Linh của Ngài là Ngôi hai giáng thế là Đức Chúa Giê-su Ki-tô mở Thánh Đạo dạy dân Do Thái biết thương người khác như ḿnh vậy (sau nầy Ngài có giáng cơ nhiều lần trong Đạo Cao Đài), Ngài c̣n gởi Đức
Mohammed , Đấng Tiên Tri sau cùng xuống thế để viết Kinh Coran dạy Thánh Đạo cho dân Á-Rạp là Hồi Giáo.
          3-Thời Hiện Đại :
         Đức Thượng Đế không gởi Chơn Linh của Ngài xuống thế trong thời kỳ thứ ba nầy v́ Ngài biết nhân loại sẽ giết con Ngài như Đức Chúa Giê-su nữa, nên chính Ngài chuẩn bị trước ở khắp nơi là tập cho các nhà khoa học làm quen với phương tiện thông linh là xây bàn, dùng đồng từ viết cơ bút.. ở các Hội Thần Linh Học trên thế giới  như Ông Victor Hugo, Allen Kardec, Flammarion, Đạo Hinomoto và Oomoto ở núi Phú-sĩ bên Nhật, các Hội Thần Linh Học vv... và đến năm 1926, Ngài cho chư vị Tiền Khai tập xây bàn và Thất Nương Diêu Tŕ Cung tập cách cầu cơ cho những đệ tử Cao Đài đầu tiên ở Việt Nam, để sau đó chư vị nầy nhận Thánh Giáo là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật, Pháp
Chánh Truyền... để mở nền Đạo tại thế là Đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
             Giáo lư Đạo Cao-Đài là Vạn Giáo Nhất lư, là Thánh giáo của Đức Thượng Đế mà Ngài đă cho chư Tiên Tri, Giáo
Tổ mang xuống thế dạy nhân loại qua hai thời kỳ trước, nay được Ngài hay Cha Chung Nhân Loại, Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu hay Mẹ Chung các loài, chư Giáo Tổ, chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, chư liệt vị Anh Hùng, chư vị đệ tử của Đức Cao Đài tu đắc quả, chư vị Tiền Khai Đại Đạo... giáng cơ tóm lược lại như để ôn bài, nhắc lại cho tín đồ của các Tôn giáo khác nhau hiểu chơn lư trong vạn giáo là nhất lư để không tranh chấp, kỳ thị nhau nữa, biết nguồn cội , lo tu mà trở về ngôi vị  thiêng liêng của ḿnh..
         Mục đích mở Đạo Cao Đài là để Đức Thượng vớt những kẻ tánh đức lên cơi nhàn là quả cầu  67 và dạy pháp cho những nguyên căn lo tu để có kim thân mà về ngôi vị cũ ở Niết bàn hay Bạch Ngọc Kinh.
         Hiện nay nhân loại đang ở vào thời Mạt Pháp và là thời kỳ ân xá lần thứ ba, nên những người dưới cơi âm u gọi là địa ngục được Ơn Trên thả ra đầu thai lên cơi trần đoái công chuộc tội, dự thi chung với những người hiền, nên trên thế giới có nhiều tội ác v́ bản tánh xưa của những người ác chưa hoàn thiện được, cùng nhau khảo đảo, thi chung khóa cuối chu kỳ tiến hóa.
             Giáo lư của các Tôn giáo là bài học chung cho mọi người ở mọi tŕnh độ tiến hóa, ai thích Đạo nào th́ theo Đạo đó, nếu qui nguyên nguồn cội để hành đúng chánh giáo th́  dự Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng cũng được.Kỳ Phán Xét nầy c̣n gọi là đổi đời hay chuyển thế. Xă hội sẽ có xáo trộn và thế giới sẽ gặp Thiên tai khổ nạn rất lớn người chết rất nhiều chớ không phải tận thế.
    Nhờ kỹ thuật tiến bộ, ngôn ngữ có nhiều Translators, có đủ từ... có Internet... nên mọi người trên thế giới có thể ngồi trước máy PC đọc, nghiên cứu mọi sự trên thế giới, nhất là giáo lư của vạn giáo.
         Hễ có bao nhiêu tỷ người là có bao nhiêu Tôn giáo riêng cho cá nhân từng người. Ai có duyên nào th́ gặp đường đó. Đường nào cũng về Đại Đạo.
         Nhân loại tiến hóa từ vô minh đến nơi sáng suốt. V́ vô minh nên mới gây nghiệp ác và v́ nghiệp ác nên mới trả quả hay học bài học đau khổ và bài học khó là sự luân hồi hay nhồi lớp để học bài cũ. khi có tiến bộ linh hồn mới được lên cao hơn. linh hồn giống như cuốn  băng Vidéo và thân xác của đứa bé khi chấp nhận luân hồi giống như máy Video-recorder. V́ có nhiều tần số hay tŕnh độ khác nhau nên máy Video-recorder không thích hợp tần số  với PAL-SECAM hay NTSC... nên màn ảnh truyền h́nh không chính xác, không đủ màu...V́ lư do nầy mà con người quên những kiến thức trong kiếp trưốc mặc dù tiền kiếp đă học tới Tiến sĩ. Linh hồn phải học lại từ đầu, chỉ nhanh hơn ngưồi chưa học : đó là sự thông minh.
         Theo luật Nhân Quả và sự công bằng trong Vũ Trụ, sự quên những ǵ đă học ở kiếp trước rất cần thiết, v́ những người có thù hận với nhau gặp nhau lại trong một gia đ́nh mà nhớ những ân oán trong kiếp trước th́ sẽ trả thù ngay và gia đ́nh se gặp thảm trạng nhồi quả khôn lường.Quên thù hận cũ để trả từ từ như trường hợp con bất hiếu, con là nợ, vợ là oan gia nên người trả quả phải rán chịu đựng mà trả cho xong trong một kiếp.
         V́ vô minh nên mới xảy ra thảm trạng gia đ́nh. Nếu biết Đạo th́ vui ḷng trả nghiệp cũ, lấy t́nh thương cha con chồng vợ mà xoá bỏ ân oán kiếp trước.
         Muốn phá màn vô minh, con ngưồi phải cách vật trí tri ...nghĩa là học khoa học, triết học, Thần học, Tôn giáo học, huyền bí học, Thông Thiên học và sau cùng muốn cho hiểu  toàn diện và ḥa đồng Tôn giáo, không chia rẽ Phái nầy, Đạo nọ th́ người ta phải học Thánh giáo Đạo Cao Đài. Nếu là người trong Đạo Cao Đài mà c̣n chia Chi rẽ Phái th́ họ chưa hiẻu chánh lư trong Thánh Giáo. Họ sẽ phải học lại trong kiếp sau.... và hiện nay người học Thánh giáo Đạo Cao Đài mà chưa hành được Ngũ giới cấm và Tứ Đại Điều Qui th́ chưa phải là người Cao Đài mặc dù đă nhập môn từ lâu. Việc chánh kỷ là tiên quyết. Chưa chánh kỷ mà hóa nhơn th́ làm mất đức tin người mới vô Đạo v́ chưa làm gương tốt cho người được,c̣n chia Chi rẻ Phái, làm cản trở cơ Đạo: Ơn Trên sẽ theo luật Thiên Điều mà trừng trị v́ cản bánh xe của Thiên cơ : Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong.
     Ba câu hỏi do Đức Chí Tôn Thượng Đế hỏi các đệ tử Cao Đài là :
     các con biết các con từ đâu đến đây ? Các con làm ǵ ở đây và chết rồi các con đi đâu ? cùng những câu hỏi khác của nhân loại đặt ra, sẽ được lần lượt giải đáp tại đây sau khi tôi tham khảo các Thánh giáo và những câu trả lời của các vị Thần Minh trích trong cuốn "Những Tiết Lộ của Thần Minh = Le livre des Esprits của Allan Kardec, Édition Veremet,
     ISBN 2865140202 (xin xem trong Cao Đài Giáo Lư print )

   Đạo Cao Đài, một Tôn Giáo mới do chính Đức Thượng Đế mở ra vào năm 1926 tại Việt nam, là triết lư chung cho mọi Tôn giáo

                             Tóm lược về Đạo Cao Đài : Tôn Giáo của
                                              Đức Thượng Đế

     1.  Nguồn gốc các Tôn giáo: Nhân loại ở thời Thượng cổ sống đời Thượng nguơn Thánh Đức, ngây thơ, vô tội. Người và thú coi nhau như bạn, thương nhau. Người và người không ghét nhau và giết hại nhau. Đức Chúa Trời dạy trực tiếp cho loài ngựi mọi việc.
     Sau biến cố đổi thay của các lục địa nên có đại hồng thủy, loài người phải mưu sanh thoát  hiểm để tồn tại. Sau những trận cháy rừng, loài người t́m thấy xác thú bị cháy nướng, ăn thử thấy ngon rồi ăn măi thành thói quen. Về sau loài người mới chăn nuôi để thú nhà sanh sản thêm mà giết để ăn. Loài người sanh sản ngày càng đông, giành nhau miếng ăn, giết hại nhau bằng chiến tranh. Đức Chúa Trời sai chư Tiên Tri giáng thế viết Cựu Ước với 10 điều răn và cấm giết người để dạy dỗ (ở Trung Đông). Ngài cho Đức Nhiên Đăng Cổ Phật giáng thế ở Ấn Độ mở Phật Đạo dạy dân, đồng thời Ngài cũng cho chư Thánh giáng trần ở Trung Hoa mà cai trị dạy dân cho hiền lương.Đó là Nhứt Kỳ Phổ Độ.
     Nhân loại dữ nhiều lành ít, chánh giáo bị sai lạc đi và thất truyền, nên Đức Chúa Trời sai chư Giáo Tổ giáng thế mở Đạo, chỉnh đốn lại các Tôn giáo có từ trước. Đó là Nhị Kỳ Phổ Độ.
     1.  Hai Kỳ Phổ Độ trước : do chư Tiên Tri và chư Giáo Chủ thay mặt Đức Thượng Đế mở Đạo dạy dân tại từng vùng:
             1 . Nhứt Kỳ Phổ Độ vào thời Thượng Cổ :
     -Trung Hoa : có Đức Thái Thượng Đạo Tổ mở Tiên Đạo, Đức Văn Xương Đế Quân mở Thánh Đạo và Vua Phục Hi mở Nhơn Đạo.

     Ấn Độ : có Đức Nhiên Đăng Cổ Phật mở Phật Đạo.
     Ở Trung Đông có Đức Mose mở Thánh Đạo.
             2. Nhị Kỳ Phổ Độ vào thời Trung Cổ, các Đấng phục sinh lại, mở Đạo lần thứ hai :
         *Ở Ấn Độ : có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mở Phật Đạo,
         *Ở Trung Hoa : có Đức Lăo Tử mở Tiên Đạo, và Đức Khổng Tử mở Thánh Đạo, Đức  Khương Tử Nha mở Thần Đạo, truyền sang Nhựt Bổn là Shintoism ( Shintoismus, Shintoisme).
        *Ở Do Thái có Đức Giê-su mở Thánh Đạo. Tiếp theo sau đó có Đức Mohammed mở Đạo Hồi cũng ở Trung Đông, là  Đấng Tiên Tri sau cùng trong Thánh Đạo.

           3.  Tam Kỳ Phổ Độ : do chính Đức Chí Tôn Thượng Đế mở cơ tận độ cho nhơn loại bằng huyền diệu cơ bút chớ không giao cho tay phàm như trước.
     2.  Đấng Giáo Chủ Đạo Cao Đài : do chính Đức Thượng Đế khai mở Đạo Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ.

   3.  Nơi khai mở Đạo Cao Đài : Thánh Địa Việt Nam - vào năm 1926 - Tổ Đ́nh tại Ṭa Thánh Tây Ninh. Dân tộc Việt Nam là giống dân được Đức Thượng Đế chọn mà đạy trước tiên v́ dân tộc và đất nước nhỏ nhoi trong bốn biển mà biết tin tưởng Trời Phật .
     4.  Phương tiện truyền thông qua ba thời kỳ :

   Thời Thượng cổ : Chư Tiên Tri mặc khải viết ra Thánh Giáo :
                                                                                  Chấp bút.
     Thời Trung cổ : Chư Giáo Chủ dạy trực tiếp các đệ tử và các  đệ tử hoặc Thánh Tông Đồ viết Tam tạng Kinh hoặc Kinh Thánh.

     Thời hiện đại: Cơ bút với đồng tử như máy Telefax vậy.
     Đức Thượng Đế truyền thông điển quang của Ngài cho loài người qua đồng tử  trong trạng thái mê như một máy Fax và ng̣i bút viết ra chữ là Cơ Bút hay Thần Cơ , Diệu Bút chớ không qua trung gian Đấng Tiên Tri chấp bút trong trạng thái tỉnh có chen phàm ư mà viết Thánh giáo như xưa hoặc không giao cho Đấng Giáo Chủ mang xác phàm dạy trực tiếp cho đệ tử hay Tông Đồ như hai lần Phổ Độ trước.
 

5. Tôn Chỉ và Mục đích của Đạo Cao Đài :
     Thứ nhứt : V́ ḷng đại từ, đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà Đức Thượng Đế dựng mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để :
     Thứ  nhứt :Vớt những kẻ hữu phần vào địa vị cao thượng để tránh khỏi số mạng luân hồi
     ( Đức Thượng Đế dạy bửu pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu hành để trở về cựu vị. Đức Ngô Minh Chiêu truyền lại cho những người sau, tu cầu giải thoát luân hồi sanh tử)
     Thứ hai : Nâng những kẻ có tánh đức bước vào cơi nhàn cao hơn phảm hèn khó ở nơi trần thế nầy (Mọi người có thể tu từ dễ đến khó, hành Tân pháp Cao Đài để khi thoát xác lên quả cầu 67, người ở giai cấp thấp nhứt mà sung sướng hơn bực đế vương của cơi trần hay quả cầu thứ 68 nầy).
        6. Tôn chỉ của Đạo Cao Đài : Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi phục nhứt :
     Tam Giáo Qui Nguyên: Tam Giáo gồm Thánh giáo (Nho), Tiên giáo (Lăo) và Phật giáo ở Đông phương. Ba Tôn giáo lớn ở Á
Châu tiêu biểu cho vạn giáo trên hoàn cầu.
     Qui nguyên : Trở về nguồn gốc là Đạo hay Hư Vô chi Khí, hay Nhân tính, Thiên lương, qui Tâm, hay trở về Phật tại tâm hay Chúa tại Tâm hay từ hữu h́nh sang hư vô, v́ Vạn Giáo đồng nguyên hay Vạn Giáo Nhất Lư.
     Ngũ Chi Phục Nhứt : Ngũ Chi gồm 5 cấp bực tu học do Đức Thượng Đế lập ra trong Tam Kỳ Phổ Độ v́ nhơn loại căn trí, tŕnh độ tiến hoá khác nhau. Họ có thể dễ dàng đi từng bước từ thấp lên cao:
     Nhơn Đạo và Thần Đạo : Nhơn Đạo th́ Tùng khổ    (luyện Tam Cang, Ngũ Thường)  c̣n  Thần Đạo th́ Thắng khổ ( Tam cang , Ngũ Thường) và cách tu tiệm tiến là Tu Thân, Tề Gia, trị Quốc và b́nh thiên hạ.
     Thánh Đạo : Thọ Khổ ( bác ái, tha thứ, khoan dung) : hy sinh v́ người khác như Đức Giê-su chịu nạn, chịu chết mà cứu chuộc cho nhân loại.
     Tiên Đạo : Thoát khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, luyện Kim Đơn): Tránh cảnh phồn hoa, vinh sang phú quí,an bần lạc Đạo.
     Phật Đạo : Giải Khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, thiền định) : Từ bi với sinh linh, trả nghiệp cũ, khử trược lưu  thanh bằng cách ăn chay, thiền định để mở trí huệ.
     Đặc điểm của triết lư ( Giáo lư) Đạo Cao Đài :

   1.  Cách lập giáo : Tôn giáo Cao Đài được truyền bá ở thế gian do một Đấng Giáo Chủ Vô H́nh. Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn
Giác, Hằng Hữu và thanh quang điển lành của Ngài chiếu phóng khắp nơi trong Vũ Trụ.  Tôn Giáo Cao Đài hay Đạo Cao Đài là một Tôn Giáo chớ không phải một Giáo Phái (Secte) như mt số người nước ngoài hay những người Việt nam chưa hiểu Đạo Cao Đài đă dùng sai danh từ trong sách hay trong Internet. Sự hiểu lầm nầy là một sự vô minh tai hại, vô lễ với  Đấng Cha Lành.
     2.  Cách truyền giáo : Ngài là Đấng Hóa Công hay Đấng Sáng Tạo Vũ Trụ Vạn Vật hay Cha Trời hay Thiên Chúa hay Thượng
Đế...trực tiếp mở Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ một cách thần diệu và nhanh chóng phi thường đó là ‘Thiên Linh Điển’. Ngài trực tiếp giáng cơ dạy Đạo, lập Hiến Pháp nền Đạo, tổ chức Tôn giáo Cao Đài thuộc hữu h́nh chớ không do Đấng Giáo Chủ mang xác phàm mở Đạo như hai lần Phổ Độ trước. Chư vị Tiền Khai Đại  Đạo là chư vị từ trên do Ngài cho đầu thai làm người để tiếp tay với Ngài tổ chức nền Đạo ở cơi trần.

     3.  Phương tiện truyền thông mới và huyền diệu được Đức Thượng Đế chuẩn bị trước từ lâu:  Đức Phật Thích Ca đă thông báo trước là  ‘Phật tương lai là một vị Bồ Tát’ và trong Đạo Cao Đài Đức Thượng Đế hạ ḿnh mang danh hiệu là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát . Đức và  Đức Di Lạc Bồ Tát sẽ là Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật, là Long Hoa Giáo Chủ và thời Mạt Pháp để chuẩn bị Thời Thượng Nguơn Thánh Đức ( Ngày nay trên nóc Ṭa Thánh có tượng Đức Di Lạc và tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện hay Chùa Di Lạc ở Vĩnh Long có thờ tượng Phật Di Lạc và vào ngày mùng 8 tháng 10 năm Giáp Dần  (21.11.1974) tại Vĩnh Long có cuộc Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai Diễn, sau đó đến 30.4.1975 là có xảy ra cuộc sàng sảy thật sự để đổi đời, khảo đảo).
     Đức Chúa Giê-su thông báo là trong tương lai sẽ có Đấng Thánh Linh dạy Đạo ( Trong Kinh Thánh  Đức Chúa Giê- su có nói cơ duyên chuyển Đạo Kỳ Ba là Thánh Linh Giáo hay một Tộn giáo mượn phương tiện cơ bút như trong Khoa Thần Linh Học:’Nếu các người thương Ta th́ các người hăy nhớ lời Ta dạy bảo, rồi ta sẽ xin Cha Ta sai Thần Cứu Khổ khác xuống đây ở luôn với các người. Đó là Thần Chơn Lư mà người ở thế gian không thể nào rước được, v́ không thấy được, v́ bởi Thần ấy sẽ ở với các người...Nhưng Đấng an ủi tức là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy cho chúng con mọi sự và sẽ nhắc lại cho chúng con tất cả những điều Thầy đă nói với chúng con’ -A. Elchinger et J. Dheilly, T́m hiểu Kinh Thánh, quyển I, Tân Ước, Sách Thánh Gioan, do Trần Ngọc Thụ, Lê Trung Thịnh, dịch ra Việt Ngữ, Nhà Xuất Bản Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo Comitium, Sài G̣n,1960,  trang 126).
     Đức Thượng Đế cho Đức Victor Hugo, Đại Văn Hào Pháp mở đầu phương pháp truyền thông giữa cơi vô h́nh và hữu h́nh bằng cách xây bàn.
        Đức Thượng Đế c̣n cho Bác sĩ Allen Kardec , nhà Thiên văn học Flammarion ở Pháp và các Hội Thần Linh Học bên Anh
quốc sử dụng cơ bút để chư Thần Minh giáng cơ dạy cho các nhà khoa học.
     Bên Nhựt Bổn có Đạo Oomoto và Hinomoto sử dụng cơ bút mà viết Thánh giáo và trong cơ bút Đức Thượng Đế có cho vị Chưởng Quản của Đạo nầy liên lạc với Ṭa Thánh Tây Ninh.
       Sự chuẩn bị cho thế giới c̣n tiếp diễn thêm cho người các dân tộc khác tin vào phương tiện thông linh nầy : Ở Thánh Thiền Đường bên Đài Loan cũng có cơ bút và có đồng tử xuất thần viếng các cơi thiêng liêng và viếng cả Địa ngục, viết ra Thánh giáo răn đời.
     H́nh dáng cơ bút giống h́nh Cḥm sao Bánh Lái hay hay Đại Hùng Tinh và Tiểu Hùng Tinh tức cḥm sao con gấu lớn và con gấu nhỏ hay Thất Tinh. Ng̣i bút là mơ chim Loan, ngay tại địa điểm của sao Bắc Đẩu, nơi Đức Thượng Đế ngự, cũng là trục của quả cầu 68 mà loài người nh́n lên Trời vào lúc ban đêm sẽ thấy.
     4.  Luật Đạo và Nghi Lễ : Luật Đạo giống như Hiến Pháp của nền Đạo do chính Đức Thượng Đế ban Sắc cho Đức Giáo Tông,
cũng là Vô Vi tức Đức Kim Tinh Lư Thái Bạch, viết dự luật . Đức Cao Đài chuẩn y để ban hành mà tổ chức nền Đạo ( Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ) . Nghi Lễ như cách thờ phượng, cách lạy, Thánh Tượng, Lễ vật... do chính Đức Thượng Đế giáng cơ dạy và giải thích rơ ràng, chớ
không do người phàm hay chức sắc trong Giáo Hội trong các Tôn giáo đă có đặt ra theo phong tục địa phương hay ư riêng như hai thời kỳ Phổ Độ trước. Nghi Lễ và Lễ Vật mang một ư nghĩa huyền nhiệm về Huyền Môn Học như : Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tam tài, Ngũ Khí, Bát Quái, cách bắt Ấn ở bàn tay theo vị trí của Cơ sanh Hóa  của Tiên Thiên và Hậu Thiên trong Càn Khôn Vũ Trụ ( Tư và Dần trong bàn tay). Thánh tượng không là tượng của Đấng Giáo Chủ hay Thập Tự Giá như xưa mà là Thiên Nhăn, tượng trưng cho Chúa Tể Càn Khôn .
    Người tín đồ Cao Đài Giáo thờ Thánh Tượng Thiên Nhăn trên bàn thờ :
    v́ Đức Thượng Đế dạy:
    Nhăn thị chủ Tâm,
                                                   Lưỡng quang chủ tể
                                                   Quang thị Thần
                                                   Thần thị Thiên
                                                   Thiên ngă giả Ngă.
   5.  Thiên bàn : là cái bản đồ của Càn Khôn Thế giới : Vị trí của Thánh Tượng, đèn, hương, hoa, trà, quả, lư hương, ly rượu, tách trà... là tượng trưng của Càn Khôn Vũ Trụ và Tiểu Thiên Địa trong xác thân Tứ Đại.Đây là cái bản đồ cho chư vị tu thiền nh́n mà hành cho đúng:
                                   Thiên bàn là cái bản đồ
                                    Lấy đó mà điểm tô trong ḿnh.
   6.  Mục đích và Tôn Chỉ của Đạo Cao Đài : mang tính chất quyết định, nhất thiết và kịp lúc trên con đường giải thoát hay hợp nhứt với Thượng Đế hoặc tiến hoá nhanh trên con đường phản bổn hoàn nguyên :
   Cứu chư vị linh căn xuống thế độ trần mà quên đường về, tự tu kỷ và thiền định mà trở về ngôi vị cũ.
     Giúp những linh hồn đang tiến hóa tiến nhanh hơn, tự tu kỷ, học thiền và hành thiền theo Pháp Môn Tam Công trong Cơ Phổ Độ để có tánh đức mà tiến nhanh kịp lúc khi quả cầu 68 nầy đến ngày tàn, lên quả cầu 67 sống trong cơi nhàn tiếp tục tu hành trên con đường phản bổn hoàn nguyên.
   7.  Các bài Kinh chứa nội dung huyền nhiệm : Không như các Tôn giáo có trước các bài Kinh là sự tán tụng Đấng Thiên Chúa hay Mantra ( chơn ngôn) hay lời Phật dạy không thôi , mà lời Kinh trong Đạo Cao Đài mang đủ các tính chất : vừa tán tụng công đức Đấng Sáng Tạo, chư Giáo Tổ mà c̣n giải thích lịch sử Đấng Giáo Tổ , tóm tắt lời dạy Đạo, mỗi danh từ là một ư nghĩa sâu xa. Người hành Đạo đọc Kinh để cầu lư, lần lần sẽ hiểu thêm ra, hiểu cách hành thiền để tự giải thoát. Các bài Kinh đều có dạy về các nguyên lư Vũ Trụ và cách vận chuyển Đạo hay Nguơn Khí hay Hư Vô chi khí  khi thiền.
   8.  Đức Thượng Đế và Đức Lăo Tử dạy thiền trực tiếp : Đấng Cha Lành là Đức Cao Đài truyền pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu để Ngài tu luyện Đạo và truyền bửu pháp tiếp cho chư đệ sau . Đức Lăo Tử cũng như Đức Ngô Minh Chiêu và chư vị tu theo Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi đă qui liễu giáng cơ dạy trực tiếp cho các hành giả tại thế . Điều kiện thọ pháp rất gắt gao ( trường chay, tuyệt dục, nhập môn,xin vị hôn phối cho phép tu và coi như huynh muội, xin Thầy bằng keo) nhưng cũng dễ dàng ( ai quyết chí cũng được Thầy Thượng Đế ban ơn).  Để giữ chân truyền, người hành trước được phép chỉ cách hành (chỉ kiểu) cho người sau khi được THẦY  Thượng Đế cho phép và không được khinh thường muốn chỉ ai là chỉ để tránh thất truyền như hai lần Phổ Độ trước.
   9.  Các Pháp Môn được Ơn Trên dạy cho mọi tŕnh độ tiến hóa. Tùy theo cơ duyên mà thọ pháp hoặc hành theo tịnh tiến ( từ dễ và thấp đến cao) hoặc luyện Đạo theo cơ giải thoát ( trường chay, tuyết dục,xin keo, được Thầy Thượng Đế cho keo th́ hành cơ giải thoát khi qui liễu).
 10.  Giáo lư Đại Đạo là cơ tận độ  cho toàn nhân loại chớ không riêng cho dân tộc Việt nam.
 11.  Thánh giáo Đạo Cao Đài là lời dạy của chính Đức Thượng Đế, Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, chư Phật, chư Giáo Tổ, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần  , chư vị liễu đạo đắc quả, chư vị Anh Hùng, chư Hiền, chư Chơn Nhơn... chớ không do một Đấng Tiên Tri mặc khải chấp bút viết ra hay do Đấng Giáo Chủ giảng cho đệ tử hay Tông Đồ và chư vị nầy viết lại sau khi chư vị Giáo Tổ đắc đạo như hai thời kỳ Phổ Độ trước nữa.
12.  Giáo lư Đạo Cao Đài do các Đấng nào dạy   ?
     Do chính Đức Thượng Đế, do Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, chư Giáo Tổ trong hai thời Kỳ trước giáng cơ nhắc lại lời dạy khi xưa, do chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, chư vị tu đắc quả...giáng cơ dạy chi tiết từng li từng tí rất khoa học và thực tế. Giáo lư Đạo Cao Đài không phải là giáo lư vay mượn hay sự tổng hợp của các giáo lư Tôn giáo khác mà là bài học ôn tập trong kỳ thi cuối khoá trong cuộc tuần huờn tiến hoá.
 13.  Giáo lư Đạo Cao Đài là những tóm lược hay sự ôn bài của chư vị Thầy để học sinh dự kỳ thi cuối khóa hay Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng    ( chớ không phải giáo lư tổng hợp, góp nhặt, vay mượn từ các Tôn giáo khác có trước... như nhiều học giả Tây phương lầm tưởng mà đặt ra danh từ syncrétisme như các sách đă in).

 14.  Cách xưng hô của Đấng Giáo Chủ rất thân mật trong t́nh Cha con trong Đại Gia Đ́nh Càn Khôn Vũ Trụ , t́nh Thầy tṛ trong Trường Đời trần gian hay trong gia đ́nh theo phong tục và đại danh xưng của người Việt miền Bắc. Đức Thượng Đế xưng là THẦY. Ngài không dùng danh từ của ngôn ngữ địa phương do loài người đặt ra để gọi Ngài như trước ( Thí dụ như Giê-hô-va , JHWH, Allah ...) mà Ngài mượn danh từ  không mang tên hay vô danh có ư nghĩa tượng trưng trong ngôn ngữ Việt Nam là Cao-Đài .
                                                ‘Cao Đài là cái đài cao,
                                          Vượt trên tất cả cách rào ngăn che
                                                                                (Đức Quảng Đức Chơn Tiên)
   cũng là nê huờn cung, trên đỉnh đầu của con người. Người đời thường gọi ‘Chín Trời, mười Phật tức là cửu khiếu hay 9 cửa để hồn xuất ra khi chết mà lên không gian là 2 mắt, 2 tai, 2 mũi, miệng, hậu môn, lổ tiểu c̣n con đường thứ 10 là nê huờn cung. Người luyện Đạo  khi chết hồn lên đỉnh đầu  mới về cơi Niết Bàn  được.
   15.  Giáo lư Đạo Cao Đài mang tính cách khoa học và hiện đại và là nền tảng cho các ngành khoa học trong tương lai.
   Giáo lư Đạo Cao Đài khai mở trí người tín đồ khi đọc kinh mà hiểu nghĩa lư sâu xa trong các danh từ trong lời kinh.
   16.  Giáo lư Đạo Cao Đài duy tŕ Ngũ Giới Cấm trong Đạo Phật nhưng được chính Đức Thượng Đế giải thích rất rơ ràng nguyên do tại sao cấm, nhờ đó nhân loại hiểu rơ nguồn gốc của tội lỗi mà tránh vấp phải hoặc lần lần giảm tội lỗi, hoàn thiện hơn cũng là điều kiện cần thiết để tu và hành pháp môn trong Đại Đạo.
   17.  Các danh từ  trong Thánh Giáo Đạo Cao Đài là những từ căn bản, phong phú lấy từ chữ Hán Việt, chữ Nôm, chữ Pháp có dấu ngoặc và các Thánh giáo sau nầy trong Thánh Giáo Sưu tập được chư Thiên Liêng dùng rất khoa học, chính xác đúng theo tŕnh độ tiến hoá của nhân loại trong giai đoạn khoa học kỹ thuật cao tột nầy ( Thí dụ như các danh từ do Đức Di Lạc Thiên Tôn gọi Ngọn đèn từ huệ và Ngài cho mở dấu ngoặc transistor ( TGST ) hay Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy về thiền...(TGST ) hay Đức Thượng Đế dẫn thí dụ như kỹ sư....(TGST ).
   18.  Giáo lư Đạo Cao Đài dạy về Thiên Nhơn Hiệp Nhứt : Các Tôn giáo xưa dạyrằng :  Đức Chúa Trời  (Tây phương)  hay Brama(Ấn độ) là Đấng toàn năng, toàn thiện và con người là con cái của Ngài, nhưng không có dạy con người bửu pháp tu tánh luyện mạng để hợp nhất cùng Cha Trời làm một. Lấy thí dụ : Tại sao người cha trong gia đ́nh là Tiến sĩ th́ muốn con ḿnh cũng Tiến sĩ như ḿnh mà trong các Tôn giáo xưa không nói rơ nên con người do Cha Trời tạo ra và ở địa vị luôn luôn nhỏ thấp chớ không bao giờ bằng Ngài được. Thí dụ Adam và E-và muốn biết điều thiện và điều ác như Chúa th́ bị Chúa phạt đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng, c̣n phếp luyện Đạo trong Đạo Cao Đài là bửu pháp để Thiên và Nhơn hiệp nhất làm một và Ngài nói "THẦY là các con, các con là THẦY".
   19.  Thánh giáo của Đức Cao Đài là sự b́nh đẳng giữa Thiên và Nhơn : Đức Cao Đài dạy :’các con là chư Phật, chư Phật là các con.
     Có Thầy mới có các con. Có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên , Phật’ (TNHT trg.43).
     20.  Người tín đồ Đạo Cao Đài là con và là đệ tử của Đức Chí Tôn hay Đấng Cha Trời.
     21.  Người tín đồ Đạo Cao Đài đănh lễ Đức Chí Tôn và Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu  hằng này trong tứ thời như người con hiếu thảo viếng cha mẹ tại nơi Thiên bàn ở nhà ḿnh, trực tiếp hành lễ, cúng, đọc kinh, dâng lễ ( Tam bửu là Tinh, Khí, Thần tượng trưng bằng hoa, trà, rượu) lên Đức Chí Tôn chớ không qua trung gian của linh mục, tăng sĩ hay thầy lễ như trong các Tôn giáo có trước đây.
     22.  Thiên Nhăn có tác dụng như điểm tựa hay antenne để cho người tu luyện nhận điển lành của Đức Thượng Đế. Trong lúc luyện Đạo mượn đó để Đức Chí Tôn tiếp sức (trợ lực) cho hành giả chuyển Đạo lên nê huờn cung mà Thiên Nhơn hiệp nhứt trên đỉnh đầu, nơi Đức Cao Đài ngự ở Tiểu Thiên Địa.
     23.  Các cựu pháp bị thất truyền và biến ra nhiều pháp (tám vạn bốn ngàn pháp môn), nhiều người hành mà không đắc quả duy có một vị mà thôi. Đến năm Dậu (1919) chính Đức Cao Đài truyền chánh pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu và Đức Ngô Minh
Chiêu truyền tiếp cho chư đệ tử. Các Đàn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi lập đàn cơ để Đức Thượng Đế Cao Đài giáng cơ dạy cách vận chuyển Đạo, lư thuyết căn bản về Đạo Pháp, chỉnh đốn, sửa cách hành cho đúng để hành giả công phu đạt kết quả trên đường giải thoát khỏi luân hồi sanh tử trong một kiếp nầy và Đạo Pháp của Thầy Thượng Đế là độc nhất vô nhị.
     24.  Đức Đông Phương Lăo Tổ cũng giáng cơ truyền dạy từ chút Tân Pháp Cao Đài cho những ai chưa có cơ duyên hành pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi th́ hành Đạo Pháp theo tịnh tiến để tiến hoá, tu kỷ tập cho có tánh đức và công phu thiền
định để thăng hoa, khi già (nếu nam trước 64 tuổi và nữ trước 56 tuổi quyết chí hành th́ là cơ duyên may), nếu vị hôn phu chưa cho phép th́ hành Tân Pháp tiếp để khi chết lên cơi nhàn hơn là quả cầu 67, là người dân thường c̣n sung sướng hơn bậc vua chúa tại cơi trần nầy.
     25.  Gíao lư Đạo Cao Đài là một siêu triết lư để nhân loại thực hành, hầu tạo một nền ḥa b́nh trên thế giới và một Thiên Đàng tại thế, trở lại đời Thượng Nguơn Thánh Đức.
     26.  Giáo lư Đạo Cao Đài đưa nhân loại một nhân sinh quan và một Vũ Trụ quan siêu việt để nhân loại sống cho đúng với Đạo,
trung dung và ḥa điệu giữa người với người, người và loài vật, giữa Tiểu Thiên Địa và Đại Thiên Địa. Giáo lư Đạo Cao Đài mang tính chất đại chúng v́ thích ứng với mọi tŕnh độ của con người ở mọi tŕnh độ tiến hóa từ thấp đến cao.
     Tóm lược triết lư như sau : Đầu tiên trong Vũ Trụ chỉ có Khí Hư Vô hằng có. Khí Hư Vô do pháp giới duyên khởi hay đúng ngày giờ mà có trận nổ mà khoa học gọi là Big bang. Từ đó Đức Thượng Đế, Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ hay Đấng Sáng Tạo hay Ngôi Thái Cực được sanh ra. Ngài ṭan năng, toàn thiện. Ngài phân tánh Ngài ra hai phần Âm và Dương hay Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi mới phân ra Tứ Tượng và Tứ Tượng sanh ra Bát Quái, 16, 32, 64...quái và muôn loài vạn vật. Từ các loài tinh chất hay những nguyên tử khác mà có thêm những nguyên tử mới, những nguyên sinh chất, tế bào... rồi qua hằng triệu năm tạo thành cây cỏ, thảo mộc, các sinh vật nhỏ rồi thú, cầm. Thú cầm tiến hóa hằng triệu năm để thành con người. Sự tiến hóa rất dài. Mỗi phần tử của sự sống hay linh hồn phải tiến hóa hằng triệu năm và sống qua nhiều bầu hành tinh khác nhau với các khí các nhau, từ vật chất đến thanh khí. Loài người trước đây là loài thú trên bầu Nguyệt tinh. Khi tiến hóa qua bầu trái đất nầy là quả cầu thứ 68. Sau đó sẽ tiến hóa lên bầu hành tinh thứ 67, rồi 66, 65... cho đến khi lên đến đệ nhứt cầu. Sự tiến hóa lên thêm để lên đến tam thiên thế giới rồi Tứ Đại Bộ Châu và sau cùng sẽ về Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn, nơi Đức Thượng Đế ngự.
     Sự xuống trần học hỏi là sự nhập thế hay từ Nhứt Bổn tán vạn thù hay từ Nhứt Nguyên phân tán ra thành Nhị Nguyên. Trong Nhị Nguyên linh hồn phải gánh mọi nặng trược, các đau khổ của trạng thái vật lư, luân hồi măi theo chu kỳ thành , trụ hoại, diệt trong chu kỳ kín mà khó thoát ra khỏi ṿng tṛn của bánh xe tiến hóa. Trong Nhị Nguyên các loài cắn xé, sống trên xác chết của loài nhỏ hơn, mạnh được yếu thua. Khi đến con người th́ vẫn c̣n đấu tranh, ích kỷ. Nhưng khi có sự tiến hóa cao th́ con người hướng thượng hơn, vong kỷ, vị tha và luật hy sinh hay sự công quả để tạo tánh đức mà tiến lên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Khi lên đến phẩm Phật, linh hồn c̣n phải tiến hóa thêm là hy sinh, hạ ḿnh xuống thế mang sứ mạng của hàng bồ tát mà độ đời tiếp, nhờ thế mà công đày , quả măn th́ mới hợp cùng Đức Thượng Đế hay Thiên Nhơn hiệp Nhứt làm một được. Đó là con đường phản bổn hoàn nguyên.
     27.  Giáo lư Đạo Cao Đài đem lại sự ḥa đồng Tôn giáo, tránh ghét nhau, khoan dung , tha thứ, phát triển t́nh huynh đệ đại đồng, tạo t́nh thương đến những kẻ ghét ḿnh , nhằm xây dựng một xă hội Thánh Đức, thanh b́nh và hạnh phúc dựa trên căn bản ‘Công b́nh, Bác ái, Từ bi’ , giúp cho nhân loại thương yêu, giúp đỡ nhau với tinh thần thuần chơn , vô ngă, và là cửa ngơ để vào Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn.

     28.  Thánh giáo Đạo Cao Đài thể hiện đức háo sanh và ḷng bác ái vô biên của Đức Chí Tôn Thượng Đế, Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và của chư Thiêng Liêng, là sự hội tụ tất cả các giáo lư đă có từ trước đến nay và là sự thống nhất các triết lư Đạo trong tinh thần ‘Vạn Giáo Nhất Lư.
     29.  Thánh giáo Đạo Cao Đài là Khoa Học Huyền Môn nhằm nghiên cứu và thực hành các định luật trong Vũ Trụ là :
     Luật Âm Dương (Đối lập nhưng ḥa hợp và sinh hóa)
     Luật Nhân quả , Luật công bằng, thăng bằng, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
     Luật Luân Hồi (Tác dụng của luật Nhân quả qua nhiều kiếp)
     Luật hy sinh
     Luật Tiến Hoá.

             Muốn hiểu chúng ta là ai? chúng ta nên đọc sách Thông Thiên học.
             Muốn hiểu Tôn Giáo, Đạo và Đạo Học chúng ta nên đọc hết những cuốn sách trong Thư Viện Cao Đài Đại Đạo.
             Muốn hiểu sự tương quan của Khoa Học và Tôn Giáo chúng ta nên đọc trang: Khoa học, Y học, Y Đạo, Tôn giáo học.
             Niêm - Tịnh - Quán - Định - Thiền - Luyện là 6 pháp phải công phu chung một lượt như thế nào mới co Kim Thân để về Niết Bàn?
             Xem Video về phương pháp tự biết ḿnh, bộ óc ḿnh, xác thân ḿnh là Tiểu Thiên Địa liên hệ với Đại Thiên Địa thế nào?
            
Bác sĩ Jill Bolte Taylor thuyết tŕnh và biểu diễn về Bộ óc, nội tâm liên quan đến thiên nhiên Vũ Trụ. (Video nói tiếng Anh) 
                

update 3.4.2010  9:44 
von Hà Phước Thảo, Bad Aibling,  Germany  haphuocthao2006@yahoo.de
Biển trần khổ !!!




MỤC LỤC