Trang nầy được đưa
lên Internet với mục đích phổ
biến giáo lư Đại Đạo và
Thánh Giáo của Đức Chí
Tôn Thượng Đế cũng như Chân lư ẩn
tàng trong
các Tôn giáo. Sở dĩ nhân
loại gây nhiều cuộc chiến và nhiều tệ
đoan xă hội với nhiều tội ác là
v́ đa số loài người trên quả địa
cầu thứ
68 nầy đă bỏ
quên các thuần phong mỹ tục, đạo đức cổ
truyền cũng như Chân lư ẩn tàng
trong các Tôn giáo, chỉ chấp
nhận giáo lư và tín
ngưỡng của Tôn giáo ḿnh hay
Phái của minh theo chứa chưa ḥa được
với tín ngưỡng của nước, vùng, chủng
tộc khác nên mới xảy ra "Thánh
chiến" kéo dài hằng trăm năm tại
Âu châu , hằng 30 năm tại Ái Nhĩ
Lan va đang xảy ra khắp nơi trên thế giới do
các cuộc khủng bố và sắp sửa mở đầu
cho Đại Chiên1 nguyên tử v́
nhiều nơi đă chuẩn bị vũ khí nầy để
tận diệt nhau.
Nhân loại
đang đau khổ v́ có nhiều bịnh lạ
và bịnh nan y v́ sự bồi dưỡng sai lầm
trong cách ăn uống và ham mê dục
lạc, v́ nhiều người chưa biết luật nhân
quả trong việc sát sanh: giết
thú vật mà ăn là vay nợ với
chúng sanh nên phải trả nợ bằng
xác thân bịnh hoạn. V́ vô
minh nên con người mới gây ra tội
ác. V́ tội ác xảy ra
nên người ta mới gánh quả nghiệp.
V́ cá nghiệp nặng nên người ta
mới tạo nên cộng nghiệp trầm trọng. Cuộc
sàng sảy diễn ra khắp thế giới như
thiên tai, ô nhiểm, tội phạm, x́
ke ma túy, các giáo phái
cuồng tín mới gây thảm trạng cuồng
sát và tự sát tập thể v́
do sự vô
minh mà ra.
Các Tôn giáo hiện hữu đang
t́m mọi cách cản ngăn các thảm
trạng trên bằng một nền giáo dục về đạo
đức và giáo lư lấy từ Kinh
Thánh và từ Kinh Phật cũng như nền đạo học cổ
truyền, nhưng vô hiệu quả v́ phần
đông nhân loại thiếu, không
có hoặc đă có mà mất đức
tin.
Nền kỹ thuật
tân tiến và sự phát triển vượt
bực của khoa Truyền thông vi tính
đă giúp cho nhân loại có
phương tiện liên lạc nhanh chóng
trên PC để tra cứu, t́m hiểu, học hỏi
mọi thứ trong vài giây hay phút
đồng hồ. Các tác giả viết về Đạo học
nếu có tinh thần thí pháp
đă viết sách khuyến người đời lo tu, nếu
không có phương tiện xuất bản
sách ḿnh, có thể mua
máy vi tính (computer) với giá
rẽ cùng với Modem để cho sách
ḿnh
vào Internet hầu phổ Đạo góp tay biến
cảnh khổ đau của đời ô trọc thành đời
Thánh Đức. Đây cũng là một
công quả thí pháp lớn lao
để độ đời. Việc
làm nầy như việc gieo giống đạo đức với hy
vọng nơi nào có chút ít
đất th́ hột cũng nẩy mầm chờ mưa mà
mọc lên, c̣n chỗ nào chỉ
có toàn đá th́ hột giống
nằm yên chờ gió thổi đưa đi nơi
có đất trong kẹt núi và
cây vẫn mọc lên.
Con người lạc lơng giưă ngă ba
đường không biết đường nào đi
đúng đích và không biết
trong số người chỉ đường ai là người chỉ
đúng đường. Thật rất khó phân
biệt vàng thau lẫn lộn, người hiền và
quỉ ma trà trộn. Lời khuyến dụ của đời
phàm tục th́ ngọt ngào
lôi cuốn, c̣n lời đạo đức th́
khô khan nhưng rất hưũ ích. Cửa đời
th́ rộng, nhưng đường Đạo th́ hẹp
và khó đi. Nếu người t́m đường
hay người t́m Đạo đi đúng đường
và đến đích kịp lúc,
không mất th́ giờ t́m đường giữa
mạng nhện của đường xá, không mất thời
gian cả cuộc đời cho việc tầm
Đạo, không bị
đi lạc đường vào nơi nguy hiểm mà
vào cửa của Bàng Môn tả
đạo...th́ là cơ duyên may để
sống cho đúng theo lẽ Đạo, xây dựng cho tương lai ở
đời sau, phản bổn hoàn nguyên hay quay
về nguồn cội hay từ Vạn Thù qui nhứt bổn hay
từ Tiểu Linh Quang về nhập cùng Đại Linh Quang sau khi
rời khỏi cảnh đời ô trọc . Nói về phần
Đạo th́ không có ǵ
quí bằng TU và Đức Thượng Đế Cao
Đài đă hỏi một người Pháp trong
Thánh giáo dạy bằng Pháp ngữ
"Cherchez vous autres, la Richesse en la Vertue de
Dieu, c'est la seule que vous aurez éternellement;
nul ne pourra vous la dérober. la gloire est
souvent contre la vertue. Elle est
éphémère. Elle provient souvent
de la fourberies. La gloire de Dieu est la seule qui
résiste à toutes épreuves.
( Trung bạch: Mấy con phải làm sao t́m
đặng la Noblesse, la Richesse et la Gloire de
Dieu?". Đức Thượng Đế trả lời : Thầy trả lời " TU ".
Một
vị
Đại
Tiên
là
Đức
Lê
Văn
Duyệt
đă
nói
một
cách
siêu
triết
lư như sau:
Tu là học để làm Trời,
Chớ đâu muôn kiếp làm người thế gian?
Với ư
hướng trên, chúng tôi cũng như
các chư huynh đệ trong Đạo Cao Đài
là người Việt nam trên khắp thế giới cố
gắng học Thánh giáo, viết các sách
về Đạo, dịch sách Đạo, sưu tầm Chơn
lư, chuyển ngữ các Thánh
giáo từ Việt ngữ cũng như từ Pháp văn
mà Đức Thượng Đế Cao Đài dạy cho người
Pháp ở Việt Nam cũng như các
Thánh giáo sau nầy do chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần ...dạy cho
các tín đồ Đạo Cao Đài...ra tiếng
Đức , tiêng Anh ...để phổ biến cho các
huynh đệ có cùng một Cha Chung
là Đức Thượng Đế biết Ngài là
Cha Trời và biết Mẹ Đất của ḿnh
là Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu
là ai , để khêu gợi ḷng hiếu
thảo của người con nhớ Cha, nhớ Mẹ mà cố gắng
trở về đoàn tụ trong Đại Gia Đ́nh trong
Càn Khôn Vũ Trụ. Chỉ có Ấn Độ
Giáo (Hinduism) có nói về ba
Ngôi trong đó có Đấng Mẹ Đất
Shiva, c̣n trong Thánh Đạo th́
nói đến ba Ngôi theo cách
khác là Đức Chúa Cha, Đức
Chúa Con và Đức Chúa
Thánh Thần mà Đức Chúa
Thánh Thần là Thiên Linh Điển.
Trong Phật
Giáo, v́ Đức Thích Ca
không muốn cho dân Ấn Độ trước đây
trên 2.550 năm trở lại t́nh trạng
mê tín của thời trước nên
không nói đến Độc Thần nữa mà Ngài
dạy thực tế theo phương pháp qui nạp
nên chư Phật tử hiểu lầm cho rằng không
có Thượng Đế và Đức Phật Mẫu (Thật
ra Ngài
đă có nói đến Đức Nhiên
Đăng Cổ Phật hiểu ngầm là Đức Thượng Đế
và Đức Quan Thế Âm Bồ Tát
là pháp thân của Mẹ Đất độ
trần).
Với mục
tiêu Qui Tam Giáo hay trở về nguồn gốc
chánh giáo của ba Tôn
giáo ở Phương Đông là Khổng,
Lăo, Phật theo tiêu đề Vạn Giáo
Nhất Lư, hầu
không c̣n phân biệt Đạo người,
Đạo ta nưă, không phân biệt
Phái nầy, Phái nọ, biết thương
yêu hoà hợp nhau trên căn bản
huynh đệ đại đồng,
v́ "Không có Tôn
Giáo nào cao hơn Chơn Lư" theo
như Hội Thông Thiên học đă chủ
trương.
Tôn giáo là cái cửa để
bước vào Đạo hay Tôn giáo
không là Chơn Lư mà chỉ
là phương tiện để t́m Chơn
Lư.Tôn giáo giống như tập vở
có gạch
hàng để đứa bé học lớp 1 viết cho
ngay, khi lên Trung học hay Đại học th́
giấy trắng cũng viết ngay hàng.. Muốn
vào cửa Đạo th́ mỗi người tùy theo
tŕnh độ, sở thích... mà
vào cửa bên ngoài (Tôn
giáo) nào cũng được để đi vào
Chánh Môn bên trong là Đại
Đạo. Đại Đạo là vô vi và
không bi ràng buộc bởi h́nh thức
hữu h́nh nữa. Người t́m được Đạo
th́ lo tu ẩn chớ không để mất
th́ giờ trong vật chất hữu h́nh nữa để
có
th́ giờ lo tu tánh luyện mạng, lo việc
giải thoát sau khi bỏ xác.
Đạo gốc bởi
nơi con người có ḷng Thành,
Tín và Hiệp, Nếu không có
ba yếu tố nầy th́ con người vẫn ở trong
ṿng vô minh t́m các mục
tiêu tạm bợ, nhất thời và chỉ hiện
hưũ trong một đời người mà thôi, chớ
không đi vào sự hằng hưũ được.
Để
giải
đáp
thắc
mắc
của
đa
số
huynh đệ tỉ muội không phân biệt chủng
tộc, ṇi giống, màu da sắc tóc
của nhân loại trên thế giới, chúng
tôi sưu tầm Thánh giáo, Dharma
và Chơn Lư trong vạn giáo để
cho lên Trang nầy trong Internet với hy vọng
giúp cho mỗi người khi có máy Computer
trước mắt để đọc( Trong tương lai với sự phát
triển của khoa hoc kỹ thuật trong ngành
truyền thông _ Kommunikationstechnik th́ tiện lợi
và rẽ tiền hơn các phương tirện
khác : ác ấn phẩm quá đắt,
các nhà Xuất bản có vốn in,
c̣n các tác giả về khoa
Tôn giáo học không có tiền in, chỉ
cho hết sách ḿnh vào internet
cho độc giả đọc miễn phí, in kinh sách
phát không th́ cũng tốn
kém mà phải đợi sự công quả của
độc giả. Hiện nay ở
Mỹ internet trong Tiểu bang miễn phí
nên mỗi tác giả có thể cho
Server của ḿnh chạy 24/24 với các
Programme Linux+Netscape,
mỗi
gia đ́nh có con em đi học đều
có PC và Internet như một thư viện
quốc tế - C̣n ở Đức phát triển
quá chậm, chỉ 58% vernetzt v́ lệ
phí điện thoại quá cao và ở
Việt nam c̣n quá kém so với
Thái lan, Mă lai..). Trang nầy viết
thuần tuư vê Tôn giáo học,
khoa học tâm
linh...tuy không hấp dẫn như các Trang
khác phơi bày nhiều tư tưởng tầm
thường, khêu gợi dục vọng, ṭ ṃ
thấp hèn như dục lạc, nhạc khích động như
heavy metall music hay sex nhưng cũng là sự
ṭ ṃ mới và thanh cao hướng
thượng hơn, nhờ đó con người sẽ thức tâm,
t́m được Chân Lư riêng của
ḿnh, nhớ nguồn gốc vinh quang của
ḿnh trên Thiên Đàng hay
trên cơi Niết bàn xuống
đây mang sứ mạng chớ không xuống để hưởng
cảnh vật chất, hiểu thế mà biết hồi tâm
hướng thiện, t́m đường về gặp Đức Chí
Tôn hay Đấng Cha Trời hay Đức Chúa Trời
theo đức tin Thiên Chuá Giáo hay
Đấng Allah cho các dân tộc ở Trung
Đông.... và Đức Phật Mẫu hay Mẹ
Đất trên Bạch Ngọc Kinh theo Đạo Cao
Đài hay Niết bàn theo Đạo Phật.
Mỗi
con
người
là
một
điểm
Linh
Quang
của Đức Thượng Đế phân ra xuống thế học hỏi.
Khi học hỏi xong, biết điều Thiện và điều
ác như
Thượng Đế, như nguyện vọng của hai người đầu
tiên trên trái đất là Adam
và Eva được diễn tả ra trong Kinh
Thánh. Đây không phải là
tội Tổ
Tông v́ đă ăn trái cấm
mà là v́ muốn học hỏi,
nên phải tự lăn xả và Trường Đời, tự lo
liệu, lo t́m kế sinh nhai, chịu cực khổ học
hỏi từ điều ác để tránh, từ điều
thiện nhỏ để hành và học rồi tiến
lên nữa, không lười biếng hưởng cảnh
sung sướng là chỉ biết hái trái
trên cây và lượm trái
rụng để ăn trong
Vườn Eden giống như người Pigmée giữa rừng
rậm Phi Châu măi nữa mà phải ra
trường đời đạt sự hiểu biết hay minh triết thiêng
liêng thuộc hàng Hiền Nhơn quân
tử hầu tiến hoá lên hàng Thần,
Thánh, Tiên , Phật...và sau
cùng hợp nhứt với Đấng Cha Lành hay
Thiên nhơn
hiệp nhứt....
Học
hỏi
ở
trường
xong
th́
phải
về
nhà gặp Cha gặp Mẹ trên Trời mà
nhận công tác hay nhiệm vụ giúp
các đàn em c̣n thơ dại, mới
tiến hóa từ
kiếp thú lên, kém thông
minh, c̣n nhiều thú tánh như
ganh ghét, ích kỷ, chỉ biết lấy của
người chớ không biết cho ra, biết phục
vụ cho
Tam Bành Lục Tặc chớ không biết hướng
thượng thăng hoa, chỉ biết ganh ghét kẻ hơn
ḿnh hay ghét nguời ngoại quốc như
thanh niên thiếu hiểu biết thưộc nhóm
Néo-Nazi ở Đức hay những nhà tư bản
giàu có bên Mỹ kỳ thị da đen,
đă giết những Tổng Thống lo cho dân da
đen hay
Mục sư tranh đấu cho con cháu của dân
nô lệ, chưa biết hy sinh cho người khác
hay từ, bi, hỉ, xả như những bậc Hiền Nhơn, Thần,
Thánh, Tiên, Phật đă nêu
gương trước đây. Trong giai đoạn cuối của
Trường Tiến Hóa th́ phải có kỳ
thi. Nhiều Kỳ thi trước một số các Chơn Linh
thi không
đậu mà phải chịu khổ công học đi học
lại măi trong chu kỳ vô tận của sự
Luân Hồi trên một hành tinh
là trái đất hay quả cầu thứ 68 nầy
chớ chưa biết tương
lai ḿnh là sẽ tiến lên quả cầu
67 cao hơn, cho nên vị Chánh Chủ Khảo
mới mở Ân Khoa, giúp thí
sinh thiếu vài điểm theo luật cũ, vớt lên
mà cho đậu lên Bảng Vàng hay
Bảng Phong Thần hay cao hơn là Tiên
tịch.
Qua
ba thời kỳ từ Thượng Cổ, Trung Cổ cho đến hiện nay
Đức Thượng Đế giáo dục con cái của
Ngài là loài người bằng nhiều
h́nh thức như gởi các Chơn Linh xuống thế,
mượn xác phàm là các
Tiên Tri viết Cựu Ước của Kinh Thánh
hay các Đấng Giáo Chủ dạy trực tiếp
cho đệ tử hay
Tông Đồ và chư vị nầy viết lại
Tân Ước và Tam Tạng Kinh. Nhưng người
phàm ở các đời nối tiếp làm sai
lạc Chánh giáo và chư vị Thiền
Tổ v́ chọn
không được đệ tử hành pháp
nên Chánh Pháp cũng bị thất
truyền đi hoặc những người hành sau biến đổi
đi theo ư ḿnh, nên Pháp
Tu hay Pháp
Luyện Đạo không c̣n đúng
cách luyện Kim Thân nữa. V́
Thánh giáo biến ra phàm
giáo, mượn h́nh thức âm thanh
sắc tướng , tượng gỗ hay tượng vàng, đền thờ
nguy nga lộng lẫy, chùa chiền , đền thờ,
thánh đường ... giống như tháp Babel
cao ngất hay Tháp Babylon vào Thời Trung
Cổ xây không bằng những viên
gạch Chơn Lư mà bằng vật chất sơn son
thếp vàng, tượng vàng...để phổ Đạo cho
rộng, cho nhiều
tín đồ về lượng mà thiếu về phẩm, cho
nên mới có cảnh Chiến tranh nhơn danh
Thánh chiến ổ Âu châu hằng trăm
năm , ở Bắc Ái nhỉ lan hằng mấy chục năm, ở
Ethiopie đói khát, buôn nô
lệ..., gây tang tóc cho nhân
loại, gây sự mất đức tin cho tín đồ
trung kiên.
Cuộc
tiến
hóa
từ
thời
Thượng
Cổ
mà
ḷng con người thơ ngây , vô tội
như con đỏ, chất phác như hai vị đầu
tiên là Adam và Eva, nhưng lần hồi qua sự
tiến hóa với mạnh hiếp yếu, với ḷng
tham vọng mà loài người chém
giết lẫn nhau , với vũ khí tối tân hơn
và đến thời kỳ hiện đại th́ kỹ thuật tân
kỳ giết người hằng loạt và nhanh chóng
hơn xưa như bom nguyên tử, độc chất, bom vi
trùng...và v́ quá
ô nhiểm mà trái đất đến ngày hư
hoại với nhiều thiên tai mới như lổ hổng
Ozon...và cũng v́ nhiều nhục dục
mà có thêm bịnh mới như AIDS.
V́
thương
con
cái
của
Ngài
mà
Đức
Thượng Đế không giao Chánh giáo
cho tay phàm như trước nữa mà
chính Ngài dùng huyền diệu
cơ bút, tức
phương tiện truyền thông của Ngài qua
đồng tử trong trạng thái vô thức,
không chen ư phàm vào như
các Thánh Tiên Tri viết Cựu
Ước và
không giải thích theo ư
riêng như các Thánh Tông
Đồ viết Tân Ước hay chư đệ tử Phật viết Tam
Tạng Kinh nữa, để có phương tiện viết
ra Thánh
Giáo trực tiếp giống như một máy
đánh Fax vậy. Đức Thượng Đế Cao Đài
viết Thánh giáo, dạy chư Tiền Khai Đại
Đạo thực hiện Tổ chức Tôn giáo Cao
Đài qua Thánh Lịnh như Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển , Tân Luật và
Pháp Chánh Truyền như Hiến Pháp
và Luật Pháp vừa thiêng
liêng vừa giống như nền dân chủ của một
Chánh Phủ nơi cơi trần là
phân quyền rơ rệt như Lập Pháp,
Hành Pháp và Tư Pháp. Vị
Giáo Tông của Đại Đạo không
là người phàm như một vị Giáo
Hoàng mà là vị Giáo
Tông Vô Vi Đại Đạo và Tam
Giáo Ṭa là chư Đại Diện vô
vi của Tam Giáo.
Giáo
lư
của
Đạo
Cao
Đài
không
phải
là giáo lư tổng hợp các
Tôn giáo đă có theo danh
từ Syncrétisme như các nhà
nghiên cứu Tôn giáo đă đặt cho,
mà Giáo Lư Đạo Cao Đài
hay Thánh Giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
là những bài ôn lại những
giáo lư có từ trước mà
là sự nhắc đi, nhắc lại, nhấn mạnh điểm
chánh yếu, tóm lược...là cơ Phổ
Độ của Đức Thượng Đế cùng với các
Giáo Tổ trong Kỳ Thi cuối hay Ân
Khoa hay Kỳ
Ân Xá thứ Ba để giúp những
thí sinh thi đậu mà lên lớp. Lớp
cao hơn hay cuộc sống mới trên quả cầu thứ 67
Thượng Ngươn Thánh Đức. Đức Long Hoa
Giáo Chủ hay vị Giám Khảo Kỳ Thi cuối
chu kỳ Tiến Hóa của Nhân Loại là
Đức Di Lạc Bồ Tát hay Đấng Christ giáng thế trong
Ngày Phán Xét Cuối Cùng
như Sách Thiên Khải Offenbarung trong
Kinh Thánh đă tiên tri.
Từ
năm 1926 Thánh giáo Cơ Bút
trong Đạo Cao Đài ở Việt nam có sự
nhắc đi nhắc lại nhiều lần Chánh Giáo
xưa, Đức Thượng Đế kêu gọi con cái
Ngài qui về Chơn Lư hay nguồn gốc của
Tôn giáo , mà những tín
đồ đang tin và đang hành theo
Tôn giáo ḿnh theo, hành
lại cho đúng
nguồn gốc Chánh giáo nguyên bổn,
nếu những ai muốn hành tiếp theo Tôn
giáo của ḿnh. C̣n nếu ai muốn
đi tắt hay tu tắt th́ nhập môn Đạo của Đức Thượng Đế,
nghĩa là không bỏ Đạo cũ mà song
hành bước lên nấc thang cao hơn
trên đường Đạo, rời ngưỡng cửa Tôn
giáo để bước vào cửa Đạo bên trong
th́ vào Đạo Cao Đài, nghĩa
là nhập môn hay xin phép Đức
Thượng Đế cho được trở về cùng Ngài.
Nếu ai là nguyên căn th́ xin
phép Ngài thọ pháp Chiếu Minh
Vô Vi Tam Thanh mà hành, để khi
bỏ xác phàm về cùng Ngài
trên Bạch Ngọc Kinh. Đức Thượng Đế không
bồng ẳm con cái của Ngài về
cùng Ngài v́ Ngài
đă cho con cái Ngài cái
quyền tự do lựa chọn, đi, về hay ở lại tùy
ư thích, Ngài đưa tay cho con cái
ngài níu, ai không níu
th́ chịu thôi chớ Ngài
không biết sao hơn. Ai gơ cửa
Ngài th́ Ngài mở cửa. Người
hiền tự chọn
và tự nguyện
vào cửa Đạo, c̣n người ác
không muốn vào mà Ngài
lùa vào th́ Thiên Cung sẽ
loạn cũng như Thiên Đàng tại thế hay
đời Thượng
Nguơn
Thánh Đức sẽ không c̣n người
ác chung sống với người hiền.
Ai
vào Đạo Cao Đài th́ có
cơ hội tốt để học giáo lư hiện đại của
Đức Thượng Đế. V́ nhân loại tiến
hóa cao, học đủ các ngành khoa
học, học thêm
môn Tôn giáo học, có nhiều
phương tiện truyền thông, ngôn ngữ
có đủ danh từ để hiểu Đạo, Ngài
không dùng thí dụ dẫn chứng như
chư Giáo
Tổ khi xưa nữa mà Ngài dạy rất khoa
học, chẳng hạn như Thiên văn học, nguyên
do tạo lập Vũ Trụ và cả việc giải
thích về nguồn gốc sanh ra Ngài nữa.
Ngài dạy các định luật trong
thiên nhiên như luân hồi,
nhân quả, hy sinh, tiến hóa...để những
người từ có học thức cho đến kẻ dốt nát đều hiểu
Đạo của Ngài, v́ "đọc Kinh cầu
Lư" để hiểu Đạo , bài trừ những
mê tín và cuồng tín như
các tín đồ đă theo các
Tôn giáo trước đây.
Nhờ
có học Chánh giáo, biết lẽ Đạo,
con người sẽ thích t́m đường về nguồn
cội . Đây là cơ hội ngàn
vàn, cơ hội quí báu mà
cuối chu kỳ của 700.000 năm mới có một lần. Ai
cố gắng hành Pháp th́ sẽ luyện
đuợc Kim Thân mà lên cơi
Niết bàn hay vào Bạch Ngọc Kinh mới
được. Nếu không
là nguyên căn mà là
hoá căn tức những kiếp trước là kiếp
thú tiến hóa mà muốn tu tiến
th́ có thể xin Đức Đông Phương
Lăo Tổ xin học Tân Pháp Cao Đài để
hành mà pḥng bịnh tật
v́ cảnh ô nhiểm v́ độc chất đang
lan tràn khắp thế giới. Loài người sẽ
hiểu tại sao những người ăn chay trong một bệnh viện tại nơi
nổ hai trái bôm nguyên tử
không bị hề hấn ǵ, không bị bịnh
lạ khi ở gần phóng xạ? Tại sao những người
ăn chay ít
bị bịnh hoặc tránh được bịnh ung thư mặc
dù độc chất hóa học vẫn đang lan
tràn? Các nhà khoa học
Tâm Linh sau nầy sẽ chứng minh rằng các tế
bào của người ăn rau cải sẽ có
cùng tần số với phóng xạ tức cơ thể
người ăn chay trường sẽ thanh như làn
sóng cao tần của cơi
thanh nhẹ v́
là thọ khí Tiên Thiên,
c̣n cá thịt, xác sanh vật thọ
khí Hậu Thiên nên nặng trược,
ch́m xuống thấp như cơi trần nầy.
Đức
Thượng Đế rất đau ḷng khi thấy con
cái của Ngài từ 6.000 năm nay cố gắng
tu cả đời như các chư nhu mà
không kết quả, không có ai
đắc quả Phật duy
trừ có một vị mà thôi. Cố tu
mà không đạt kết quả v́
hành sai Pháp, v́ Pháp
bị canh cải hay thất truyền hay hành giả bảo
thủ cho
Đạo ḿnh đúng, pháp ḿnh
đúng mà thật ra đă sai lạc
mà không hay.
V́ ḷng từ bi của Đức Thượng Đế
mà Ngài đích thân dạy
Pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu, đệ
tử đầu tiên hành Pháp của
Ngài . Khi bỏ xác phàm Đức
Ngô Minh Chiêuvề Bạch Ngọc Kinh gặp Đức
Thượng Đế. Đức Ngô Minh Chiêu là
vị Thầy dạy Chánh Pháp cho huynh đệ
sau khi Ngài
đă học trực tiếp với Đức Cao Đài va
khi Đức Ngô Minh Chiêu đắc quả Đại
Tiên hay Phật tại thế Ngài c̣n
giáng cơ tiếp để nhắc nhở hành
giả đệ tử. Đức
Thượng Đế xưng danh là Cao Đài
Giáo Chủ mà Đức Ngô Minh
Chiêu cũng xưng Cao Đài Giáo Chủ
tức Ngôi Hai. Chư vị đệ tử Phái Chiếu Minh
sau nầy hành đúng pháp
th́ khi qui liễu cũng về Tiên cảnh
trên Niết Bàn và có
giáng cơ về cho biết việc hiện tại hoặc nhắc
lại việc
hành lúc c̣n sống, đă
nhắc nhở, chứng minh cho những huynh đệ đang
hành có đức tin mạnh hơn và
kiên tŕ công phu hơn. Những vị
nầy khi
sống ngủ ngồi và có ấn chứng khi qui
liễu là mắt trái mở khi hồn rời khỏi
xác và khi chết th́ ngồi chớ
không nằm.
Việc
hành
pháp
của
Đức
Cao
Đài
Thượng
Đế là Đời, Đạo song tu, nghĩa là vẫn
c̣n lo trả nợ đời là làm việc
để sống, lo cho vợ con chu toàn, trường chay tuyệt dục
theo sự ưng thuận của vị hôn phối để bảo tinh
mà luyện tinh hóa Khí,
dùng hơi thở là Khí để
hóa Thần và dùng Thần là sinh lực
sống để hoàn Hư và nhờ có thờ
Thiên Nhăn mà có Trạm
Tiếp Vận Thần Lực của Đức Thượng Đế như cái
antenne nhận điển quang như Satelite của Đức Thượng Đế.
Ngài tiếp sức với hành giả mà
luyện Hư hoàn Vô, tức là
Thiên Nhơn Hiệp Nhứt hay Trời và Người
sẽ hợp
cùng nhau làm Một.
Thật
là
may
mắn
biết
bao
khi
có
cơ duyên may 700.000 năm mới có một lần
ân xá như thời đại hiện nay. Mỗi người
chỉ cần cố gắng trong một kiếp hành đời Đạo song
tu, không phế đời vô Chùa
làm sư tăng tu hay làm ông cha
trong nhà thờ mà chỉ làm một
người thường, làm tṛn Nhơn Đạo và bớt
th́ giờ cho các vui thú
khác để hành tứ thời, mỗi thời
có một giờ, không cần phải hành
tŕ 49 ngày ngồi thiền như Đức
Phật, cũng
không cần nhịn ăn 40 ngày, chỉ uống
nước để khử trược lưu thanh và thiền định hay
liên lạc với Cha Trời như Chúa
Giê-su, hành giả chỉ tu ẩn, không
cho ai biết ḿnh tu, làm như người
dốt, ăn mặc b́nh thường, sống đơn giản
và hành suốt đời như thế, khi
có ấn chứng th́ cũng giữ kín
không cho ai biết, thế th́ khi bỏ
xác th́ Thầy Thượng Đế sẽ chấm điểm
và quyết định địa vị nơi Bạch Ngọc Kinh
mà Đạo Phật gọi
là Niết
bàn.
Để
có
một
quan
niệm
rộng
răi,
ḥa
đồng Tôn giáo hay khoan dung tha thứ,
hoà hiệp huynh đệ, không phân
biệt Tôn giáo, học hỏi chân lư từ
khoa học, triết lư, Tôn giáo, so
sánh các giáo lư
mà rút tỉa ra Chơn Lư Đại
Đạo... nên tác giả Trang nầy xin
nêu lên đây lần lượt các
câu hỏi của
nhân loại từ khi khởi nguyên Vũ Trụ đến
nay và trích Thánh Giáo
mà trả lời các câu hỏi,
ngoài ra chính Đức Thượng Đế Cao
Đài đă hỏi chư vị hầu đàn cơ
:"Các con đă sanh tại thế nầy, ở tại
thế nầy chịu khổ năo tại thế nầy, rồi chết
cũng tại thế nầy, Thầy hỏi : các con chết
rồi các con
ra thế nào ? Các con đi đâu?
(TNHT, trang 59, Đàn cơ đêm Chúa
Nhật ngày tháng Chạp Dương lịch
1926 tức ngày rằm tháng 11 năm Bính
Dần).
Sau
đây
là
các
câu
hỏi
của
nhiều
người Đức sau khi chúng tôi thuyết
tŕnh để giới thiệu về Tôn giáo
mới cho người Tây Phương tại Viện Đại Học
Ludwig-Maximilian-Universitảt München, sau
đó tại Phân Khoa Tôn Giáo
Học thuộc Viện Đại Học Leipzig và tại Trung
Tâm Điều Dưỡng Phục Hồi Sức Khoẻ tại Bad Mergentheim.
Chúng tôi nghĩ rằng người Việt Nam ở
hải ngoại qua cuộc đổi đời và vượt biển cũng
có những câu hỏi tương tợ. Trên xe lửa
(tàu hỏa) chúng tôi thường hỏi
những hành khách ngồi gần :
Woher kommen Sie ?
(Ông (bà) từ đâu đến đây?
hay Where
are you from?
Nhiều người
trả lời rằng Tôi từ Berlin đến, người
khác nói tôi từ Munich vv hay
tôi từ New York đến.
Khi chúng
tôi hỏi tiếp : Von wo sind Sie im
Universum auf die Erde oder nach Deutschland
gekommen? (Ông(bà) từ nơi nào
trong Vũ Trụ hay từ hành tinh nào
đàu thai xuống cơi trần hay đến Đức
hay xuống trái đất nầy đây?)
Th́ đa
số không biết trả lời được, cứ ngẩn ngơ
măi và bảo rằng : ’’Philosophie ist
schwierig !!!’’ (Ông hỏi về triết khó
quá tôi không trả lời được,
đẻ tôi về hỏi ông Cha (linh mục hay mục
sư), mặc dù những người nầy trông rất
trí thức, ăn mặy sang trọng, hỏi thêm
th́ là kỷ sư, bác sĩ...có khi cả
mục sư, người đă học Thần học rồi mà
cũng không trả lời được nữa, chỉỉ bảo rằng
Kinh Thánh dạy sao th́ tôi học
vậy chớ chưa bao giờ nghe ai hỏi câu
nầy.
Sau khi trả lời về
mục đích của đời sống, chúng tôi
góp nhặt và chép lại cũng như
phân loại những câu hỏi để viết
thành cuốn sách bằng Đức ngữ
’’Der Mensch
und das Universum - Fragen und Antworten über
Gott, den Mensch, Religionswissenschaft,
Religionsethnologie, Esoterik.....und neue Religion Gottes
(Cao-Dai-Religion) (Vũ Trụ và con người -
Những câu hỏi và câu trả
ḷi về Thượng Đế, về con người, về Khoa
Tôn Giáo Học, về Khoa Nhân Chủng Tôn
Giáo Học, về Huyền môn học và về
nền Tôn Giáo mới của Đức Thượng Đế hay
Cao-Đài-Giáo). Có vài
người Việt nam ṭ ṃ muốn đọc bằng
tiếng Việt nên chúng tôi dịch ra
đây những câu hỏi thuộc về
Khoa Học, Tôn Giáo, Triết Học, Huyền
Bí Học,Thông Thiên Học , Văn Minh
và Văn Hóa Học Đông
Phương.... cũng như Đạo Học hay
Giáo Lư Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ.
Những câu hỏi
của nhân sinh về vũ trụ quan ( Câu trả
lời đă có Links màu xanh tại
câu hỏi có gạch dưới - Xin quư
vị bấm con chuột vào câu hỏi để có
câu trả lời - Các câu kế tiếp sẽ
được cho vào sau - V́ có nhiều
người hỏi giống nhau nên các câu
trả lời câu hỏi dưới là các
Links của câu
hỏi trên - Đang viết - sẽ cho
các Links vào khi những câu hỏi
có màu xanh và gạch dưới
quí vị bấm con chuột phía tay
trái vào để đọc.
1) Vũ trụ rộng lớn
bao la vô giới hạn hay có giới hạn ?
2) Vũ trụ được
thành lập như thế nào?
3) Đấng Sáng
Tạo làm cách nào để
thành lập Vũ Trụ ?
3) Đức Thượng Đế
làm cách nào để tạo lập mọi vật
trong thiên nhiên?
4) Tại sao có quá nhiều
ngôi sao và dăy ngân
hà ?
5) Có bao
nhiêu cơi trong Vũ Trụ ?
6) Có bao
nhiêu hành tinh trong Thái Dương
hệ và trong Vũ Trụ ?
7) Tại sao
các hành tinh, định tinh không
đụng nhau mà quay trong trật tự và
8) theo định luật
nào?
9) Có những
Định luật nào trong Vũ Trụ ?
Luật Nhân quả là ǵ ?
Thế
nào là cá nghiệp? Con người
có chịu trách nhiệm đối với
chính ḿnh trong việc tạo nghiệp
quả hay Trời ấn định sẵn số phận của mỗi người hay tự
con người tạo nên số mạng của ḿnh?
Thế
nào là cộng nghiệp? Mỗi dân tộc
có cộng nghiệp không? Những nhà
văn cũng như nhà viết truyện phim
có chịu trách nhiệm hay chịu chung cộng
nghiệp với người đọc hay người xem phim bắt
chước làm theo các vai mà
gây tội ác không?
Luật Luân Hồi là ǵ ?
Luật Hy sinh là ǵ? Người hy sinh cho
kẻ khác luôn luôn bị thiệt thời
hay có luật bù trừ hay được
thưởng theo luật công bằng không?
Trong
Đạo Phật th́ Đức Thích Ca có
dạy rơ về Luật Luân Hồi, tại sao
Đúc Giê-su không dạy rơ
Luật Luân Hồi và Đức Giaó
Hoàng thứ 7 là Constantinoble lại cấm
các vị linh mục dạy về luật Luân
Hồi?(trong Kinh Thánh dịch là
renaissance , Wiedergeburt hay Auferstehung hay
người chét
ngày sau sống lại - chớ không dịch
Reinkarnetion, réincarnation)
Luật Tiến
Hóa là ǵ ?
10) Từ
đâu đưa đến những thiên tai khủng
khiếp như đại hồng thủy, hạn hán gây
tang tóc cho nhân loại ?
11) Có phải
Đức Thượng Đế gây ra trận Đại Hồng Thủy
để giết những đứa con bất hiếu gây ra
tội Tổ Tông là không nghe lời
Chuá dám bất tuân lịnh Chúa
là ăn trái cấm không? Tại sao
Ngài cho phép ăn trái
khác trong vườn Địa Đàng không
cho ăn trái cấm ? Ư nghĩa của
trái cấm là ǵ?
12) Có bao
nhiêu chủng tộc trên thế giới ? Tại sao
màu da của nhiều giống dân như :
đen, vàng, đỏ, trắng khác nhau?
13) Tại sao Đức
Thượng Đế tạo ra quá nhiều giống dân
và cá tính lại không
giống nhau?
14) Các
giống dân tiến hóa bằng cách
nào ?
Những
câu hỏi của nhân loại về Đức
Thượng Đế :
15) Thượng Đế
Ngài là ai ?
16) Ngài
được sanh ra bằng cách nào ? Đấng
nào đă sanh ra Ngài ?
Trên ngài nữa là ấng nào?
Tên gọi làǵ?
17) Ngài
là đàn ông hay đàn
bà ?
18) Ngài
có bao nhiêu đức tánh?
Ngài công bằng hay bất công?
Những
câu hỏi của nhân loại về những vấn
đề của con người
19) Con người
là ai ?
20) Con người xuống
cơi trần để làm chi ?
21) Mục
đích của đời sống là thế nào?
22) Con người
chết rồi đi về đâu ? Tại sao ít
có người tự hỏi hay hỏi người khác về
ba câu trên? Tại sao có ít
người trả lời được ba câu hỏi nầy hoặc mỗi người trả
lời theo một ư riêng ?
23) Con người
là một điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế. Tại
sao con người không toàn năng
toàn thiện như Đức Thượng Đế mà bất
toàn?
24) Tại sao
Đức Thượng Đế không sanh ra con người
toàn năng như Ngài mà sanh ra
bất toàn ?
25) Tại sao con
người phải chịu luật thành, trụ, hoại, diệt
hay sanh, lăo, bịnh, tử mà không
sống trong hằng hữu như Đức Thượng Đế?
26) Tại sao con người không giống
nhau mà có kẻ th́
giàu,người lại nghèo, kẻ mạnh
khoẻ người lại bịnh hoạn, kẻ thông minh,
người lại đần độn, kẻ làm như chơi
mà đạt kết quả,c̣n người
siêng năng cố gắng mà thất bại?
27) Tại sao con người quên
hết dĩ văng, quên hết những điều
đă học trong những kiếp trước?
28) Thiên
tài là ai ?
29)Tại sao
có quá ít người nhớ lại những
khả năng của tiền kiếp mà đa số phải học lại
từ đầu ?
30) Con người từ
Đức Thượng Đế cho giáng trần. Tại sao con
người không nhớ thời vàng son sung
sướng trên cơi Niết bàn
mà mê trần, quên hết dĩ
văng thánh thiện ?
31) Tại sao con
người phải chịu sống cảnh đau khổ ở trần gian?
32) Tại sao
người ta sợ chết ?
33) Tại sao
người bịnh bịnh nan y hay đau khổ v́
già yếu bịnh tật liên miên, muốn
chết cho rảnh nợ đời mà khi chết lại sợ ? Tại
sao trong các Viện Đưỡng lăo tại
các nước Tây phương có một số
người nguyên là luật sư, Makler,
Chánh án Toà của Vùng,
Biện lư ...toàn là người
giàu có mà khi bịnh phải nằm
liệt giường đến 5,7 năm cho đến thối thịt
(Dekubitus) mà không chết được ?Họ
không chịu ăn để chết và khi cho ống
dẫn thức
ăn lỏng Magensonder vào bao tử theo lổ mũi
hoặc chích ngay bụng th́ sống
lâu thêm nữa từ năm đến bảy năm trong
đau đớn, khổ năo v́ con
cháu ít đến thăm. Có vài
người yêu cầu con cháu chở qua
Hoà lan, nơi Luật pháp cho phép
giúp đỡ chết trong êm ái
và như vậy vị bác sĩ phụ trách
chích thước ngủ vĩnh viễn cho bịnh nhân
yêu cầu có bị luật Nhân quả trừng
phạt là tội giết người không?
34) Tại sao đời
sống con người quá ngắn, chỉ 70, 80 là
cùng, có khi đến 100 tuổi rồi phải
bịnh rồi chết? Trăm năm có quá ngắn
ngủi không?
35) Tại sao đời
sống của mỗi người kéo dài khác
nhau?
36) Có số
mạng hay không ? Có phải Trời ấn định
số mạng cho mỗi người hay do ai định đoạt thời
gian sống ở cơi trần?
37) Có phải
số mạng là bất công hay không?
Đức Thượng Đế ấn định số mạng giàu sang
và số mạng nghèo hèn
không? Trí thông
minh là
ǵ? Sự may mắn là ǵ?
38) Cuộc đời
có đáng yêu hay đáng
chán? Những người chán đời tự tử
có tội ǵ không?
39) Linh hồn
là ǵ ? Thiên Thần là
ǵ ? Thần Linh hay Thần minh là những
vị nào?
(Xin
quí
vị
xem
các
câu
hỏi
của
các khoa học gia Pháp hỏi các
vị Thần Minh giáng cơ được ông Allen
Kardec (-) ghi lại ztrong cuốn sách le livre
des Esprits , do Nhà Xuất Bản VERMET , 10,
rue du pière-Lachaise , 5020 Paris,
tái bản Décembre 1996).
40) Có bao
nhiêu linh hồn hay con người dưới trần thế?
41) Tại sao tổng số
người trên trái đất càng
ngày càng đông?
42) Thế nào
là ư nghĩa của huyền thoại Adam
và Ê-và ?
43) Thức ăn của
loài người theo Kinh Thánh là
những thứ nào? Tại sao có nhóm
người không ăn máu hay sang máu?
44) Ai sống trong
vĩnh cửu ? Nếu con người sống lâu đến
ngàn năm th́ đời sống có buồn
chán không?
45) Tại sao
có những người bị mù từ khi mới sanh ?
Trẻ con nầy có làm nên tội
t́nh ǵ mà phải chịu như thế ?
Tại sao cha mẹ những đứa trẻ nầy mạnh khoẻ, không bị
bịnh di truyền hay ăn nhằm chất độc ǵ
mà sanh con ra như thế ?
Tại
sao cũng là người mà người th́
sanh ra đẹp đẽ, người th́ xấu xí,
người th́ tánh tốt, kẻ mang
tánh xấu hay độc ác, người sanh trong
gia
đ́nh giàu sang c̣n người sanh
ra trong gia đ́nh nghèo đói ?
Tại sao người th́ sanh ra đàn
ông c̣n người th́ sanh ra
đàn bà và có phải theo
định luật hay do
ư muốn của linh hồn? Tại sao có những
người bị bịnh đồng tính luyến ái. Họ
chỉ yêu và thích sống chung với
một người cùng phái ? Đa số th́
làm t́nh trái thiên
nhiên nên sanh bịnh SIDA (AIDS)
c̣n một số cặp khác th́ chỉ
sống chung như bạn hay như hai vợ chồng là
bởi nguyên
nhân nào?
46) Từ
đâu đưa đến những tai nạn mặc dầu người
ta cẩn thận từ chút? Đức Chúa
Giê-su giải thích như thế nào về
những trường hợp nêu trên ?
47) Đức Chúa
Giê-su dạy các Thánh Tông
Đồ như thế nào về luật Luân hồi ? Tại
sao nhiều người cùng là Đạo
Thánh mà kẻ th́ cắt nghĩa
như thế nầy, người
cắt nghĩa như thế khác về truyện
Ni-cô-đem hỏi Đức Chúa Giê-su về
sự "Sống lại" trong quyển Thánh Giaon Đọan II
?
48) Tại sao Đức
Chúa Giê-su không giải
thích rơ ràng cho
Ni-cô-đem về luật luân hồi ? Tại sao
Chúa không dạy như trong Đạo Phật ,như
Đức Thích Ca
đă dạy các đệ tử ? Có phải Kinh
Thánh có sự thiếu sót
không?
49) Có phải
Kinh Thánh do Ư Chúa mặc khải
qua chư Tiên Tri viết ra không? Đức
Chúa Giê-su giảng và chư
Thánh Tông Đồ viết ra Tân
Ước, như vậy những
lời viết có đúng trăm phần trăm
không? Những vị nầy hiểu hết nghĩa bóng
không?
50) Tại sao
có quá nhiều Tôn giáo,
nhiều Chi Phái trên thế giới ?
51) Đức Thượng Đế
giáo dục con cái của Ngài qua
bao nhiêu thời kỳ ?
Thế
nào là Nhứt Kỳ Phổ Độ ?
Thế
nào là Nhị Kỳ Phổ Độ ?
Thế
nào là Tam Kỳ Phổ Độ ?
52) Các lời
dạy của chư Giáo Tổ trong các
Tôn giáo giống nhau hay khác
nhau ?
53) Có phải
chư Giáo Tổ đều do Đức Thượng Đế cho
giáng trần để độ nhân loại không?
54) Các
nhà Thần học, các Nhân Chứng
Giê-hô-va, những người nghiên cứu
Kinh Thánh... có hiểu hết ư
nghĩa trong Kinh Thánh không ?
55)Mỗi con người
nên học một Tôn giáo của
ḿnh hay cần học các Tôn
giáo khác để hiểu Chân Lư
?
56) Có bao
nhiêu loại đức tin ?
Thế
nào là cuồng tín ?
Thế
nào là đức tin mê tín dị
đoan ?
Người
vô thần tin tưởng khoa học và
không tin ǵ cả những ǵ họ
không thấy. Tại sao ?
Thế
nào là đức tin Tôn giáo ?
Thế
nào là đức tin triết học ?
Thế
nào là đức tin minh triết ?
57) Có phải
vạn giáo nhất lư không ? Tại sao
người của Tôn giáo nầy đả kích
phê b́nh, chê Tôn
giáo khác ?
58) Tại sao cũng
là cùng một lời dạy của Chúa
Giê-su mà có quá nhiều
Phái Tin Lành và các
Phái khác ?
59) Tại sao cũng
một Kinh Thánh mà mỗi người hiểu
khác nhau và chưa có ai hiểu
hết những lời dạy trong Kinh Thánh?
60) Tại sao sự giải
thích Kinh Thánh của mỗi người
khác nhau ?
61) Ai là
Satan ? Satan có những tánh xấu
ǵ ?
62) Tại sao Satan
không bị Chúa trừng phạt mà để
cho nó tự do tung hoành, mê hoặc
hai người trong vườn Địa Đàng ?
63) Có phải
Satan tượng trưng cho dục vọng của mỗi người
không?
64) Tại sao đa số
nhân loại bị chết v́ trận Đại Hồng Thủy
mà có 8 người sống sót ?
65) Tại sao Adam
và Ê-va coi các loài
thú như bạn. Khi xảy ra trận Đại Hồng Thủy
th́ con cháu gia đ́nh Noah
nuôi thú rồi lại ăn
thú
nhà ? Tại sao họ không thương
loài thú như Tổ Tiên họ ?
66) Tại sao
ngày nay có số người ăn thịt
ḅ, gà, heo mà không ăn
thịt chó, mèo? Có phải
là sự bất công không?
67) Tại sao
Chúa Giê-su nhịn ăn trong 40
ngày ? Cho biết mục đích ?
68) Tại sao những
người theo Đạo Hồi không ăn thịt heo ?
69) Chúa
Giê-su là bậc Thánh, là
Đấng Thiêng Liêng Con Một Thiên
Chúa. Tại sao Ngài c̣n
phải được Tông Đồ Gioan rửa tội cho ?
Cho biết ư
nghĩa việc rửa tội ? Khi rửa tội phải hụp xuống nước
hay chỉ được vị Linh mục nhểu vài giọt nước
Thánh trên trán ? Tại sao
có sự khác nhau ? Cách
nào đúng? Cho biết ư nghĩa ?
70) Tại sao đa số
những người tu thiền ăn chay? Cho biết ư
nghĩa của sự ăn chay ? Ăn chay kém sức khoẻ
hay có sức khoẻ ? Ăn chay có thiếu dinh dưỡng, thiếu
chất đạm không ? Cho biết cách ăn
chay đúng theo khoa học ?
71) Tại sao
trên thế giới có quá nhiều
Tôn giáo ?Cho biết ư nghĩa của
huyền thoại về tháp Ba-bên ?
72)Tại sao
cá lớn nuốt cá bé ? Đó
có phải là sự bất công
không ?
73) Tại sao
ông A-Đam và bà Ê-va sống
trên 800 năm ? Số 80 đúng hay số 800
đúng ? Có phải là Kinh bị in
sai hay thợ in sắp thêm số zéro không
?
74) Tại sao đời
sống hiện nay quá ngắn ?
75) Làm thế
nào để được sống lâu ? Làm sao
để tránh bịnh tật đau khổ ?
76) Làm sao
để bảo vệ sức khoẻ ? Làm sao để chuẩn
bị cho tuổi già để chết an nhàn, khỏi
bịnh hoạn đau khổ ?
77) Làm
sao để tránh ô nhiểm ?
78) Thân Tứ
Đại là ǵ ? Thế nào là
ư nghĩa của danh từ Tiểu Thiên Địa ?
79) Con người
có bao nhiêu xác thân ?
Thế nào là Kim Thân bất hoại ?
Làm thế nào để có Kim
Thân mà lên cơi Niết
bàn?
80) Làm thế
nào để Người hiệp nhứt cùng Trời hay
Thiên Nhơn hiệp nhứt ?
81) Có bao
nhiêu phương pháp thiền ? Tại sao chư
Thiêng Liêng khuyên tu?
(Ngài Đức Minh Chơn Tiên tu giải
thoát giáng cơ
khuyên)
82) Từ đâu
có chiến tranh ? Tại sao Đức Thượng Đế
không ngăn cản loài người gây
chiến tranh mà để loài người
tàn hại nhau? Chiến tranh do Đức Thượng Đế hay do
con người gây ra?
83) Thế nào
là Ngày Phán Xét cuối
cùng? Thế nào là Đại Hội Long
Hoa? Tai sao Kinh Thánh, Sấm Giảng đều
nói đến Ngày Tận Thế nầy ? Đức Giáo
Hoàng làm ǵ để chuẩn bị đến
ngày đó ? Chư vị giáo sĩ,
chư tăng làm ǵ để chuẩn bị cho
ngày nầy ? Chúng ta làm
ǵ ?
Ngày
tận thế như thế nào? Chừng nào xảy ra?
Tại sao sấm giảng của chư Tiên Tri như
Nostradamus và Trạng tŕnh Nguyễn Bỉnh
Khiêm...không
nói
trắng
ra
mà
tiết
lộ
bí
mật
có một phần?
Một
số câu hỏi khác của một số người đặt ra
thêm vào đây :
84.Huyền bí
học là ǵ ? Tại sao khoa học kỹ thuật
tiến bộ cao tột như ngày nay mà
không biết những định luật và
các cơi vô h́nh
nên phải đi
vào khoa Esoterik để nghiên cứu ? Khoa
học thiên nhiên bị giới hạn đến ranh
giới nào và khi nào họ mở ra
chân Trời mới để biết khoa huyền môn
và Đạo học?
85. Khoa
Chiêm tinh, bói bài, bói
Dịch, Độn, xin keo, xin xâm, khoa Địa
lư huyền bí như long mạch, xây
nhà theo hướng, cúng sao, đi xa cử ngày
mùng 5,14,23 ....có tác dụng
thiết thực không? Có phải là
mê tín dị đoan? Theo huyền sử vua Phục
Hi (4477-4363) thấy h́nh vẽ trên con Long
Mă trên sông Hoàng
hà rồi ngài phỏng theo đó
mà vạch ra Tiên Thiên bát
Quái và vua Vũ Nhà Hạ là
Đại Vũ (2205-1766) thấy
trên lưng con
rùa xuất hiện trên sông
Hoàng Hà, ngài dựa theo
đó mà vạch ra Hậu Thiên
bát Quái (thoán từ hay
hào từ). Như vậy những vị nào đă vẽ hai
h́nh đồ trên lưng hai con vật linh ở
Trung Hoa để phổ biến Thiên cơ huyền bí
và tạo lập Vũ Trụ ? Tại sao chư vị đă
vễ đó đấu tên hay không muốn ai
biết tên ḿnh? Tại sao hai vị Vua
không giải thích trực tiếp mà để
đến đời sau là con của Vua Văn Vương
là Chu Công Đán nghiên cứu kỹ hơn
và đến đời Khổng Tử (551-479) mới giải
thích cặn kẻ hơn?
*
Tại sao có vài vị Tiên tri thấy
cuốn phim akasha của Vũ trụ viết ra Sấm kư
như Nostradamus và Trạng Tŕnh
và không nói rơ mà
chỉ dùng
những danh từ khó hiểu cho người đời
không biết được ? Tại sao ông Edagar
Cayce cũng có nói tương lai rất
rơ ràng không có
nói thời gian chính xác thí
dụ như trong Readings ông có nói
về hai người thuộc Châu Atlantis : một người
đầu thai vào nước Tàu sẽ thay đổi chế
độ tuy hơi
chậm từ cộng sản sang dân chủ (sau nầy người
ta hiểu là Đặng Tiểu B́nh) và
người kia đầu thai vào nước Liên bang
Sô Viết và làm thay đổi chế độ nầy để chiến
tranh lạnh chấm dứt (sau nầy người ta hiểu là
Gorbartchev). Tại sao các chư Thiêng
Liêng giáng cơ cũng không
nói Thiên cơ ? Muốn hiểu Đại Đạo, người ta phải
học để hiểu thế nào là Vạn Giáo
Nhất Lư?Phải làm sao để ḥa
đồng Tôn Giáo và tránh
t́nh trạng như Thánh Chiến ở Âu
Châu hằng trăm năm và nhu ở Bắc
Ái Nhỉ Lan hằng mấy chục năm?
Muốn
trả
lời
những
câu
hỏi
trên,
người
ta phải sử dụng các khoa học về tinh thần như
Tôn giáo học, Triết học,
siêu h́nh học, Thần học, huyền bí
học...để chứng minh, nhưng lại gặp sự bất khả tri.
sau nầy nhờ có cơ bút mà một
dân tộc nhỏ bé, một nước nhỏ nhoi trong
bốn bể được
học trực tiếp với Cha Trời, Mẹ Đất, với chư
Giáo Tổ, chư Phật, chư Thánh, chư
Thần..., nhờ thế mà những đệ tử của ông
Thầy Trời mới được thỏa măn các thắc
mắc trrước đây, để an tâm, tin tưởng nơi
Ông Thầy Trời lo tu tánh, luyện mạng
t́m đường giải thoát khỏi Luân
Hồi sanh tử
trong một kiếp nầy.
Giáo
lư
của
Đức
Chí
Tôn
Thượng
Đế
trong giai đoạn hiện tại và trong tương lai
là sự tóm lược của Ngài để qui
về ba nền chánh giáo tại Á Châu
là Khổng Giáo, Lăo Giáo
và Phật Giáo. Đức Chí Tôn
Cha Chung Nhân loại cùng với Đức
Diêu Tŕ Kim Mẫu Vô Cực Từ
Tôn, chư Phật, chư Giáo Tổ các
Tôn Giáo đă có, chư
Tiên, chư Thánh , chư Thần và cả
chư vị tu theo vô vi đắc quả giáng cơ
theo phương pháp áp dụng điển linh thiêng
như tần số của tư tưởng hay Thánh Ư Ơn
Trên chuyển vào từ lực của đồng tử như
phương pháp thông linh trong các
Hội Thần Linh
Học trên thế giới mà Đức Chí
Tôn báo trước và tập lần cho
các nhà khoa học làm quen với
sự truyền thông huyền diệu nầy và trong
Đạo Cao
Đài ở Việt nam, qua Thánh Giáo
cơ bút,chính Đức Chí
Tôn Thưượng Đế tá danh Cao Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát đă mở Đạo trong thời kỳ ân
xá thứ ba nầy để cứu độ con cái
Ngài trên quả cầu thứ số 68 nầy.
Giáo lư Đạo Cao Đài là
bài ôn tập các giáo
lư đă có v́ nhân
loại có
quá nhiều căn trí, tŕnh độ,
khuynh hướng, sở thích, tín ngưỡng
khác nhau để Ngài qui nguyên Tam
Giáo và hiệp nhứt Ngũ Chi Đại Đạo
để nhân loại
cùng học một bài học chung bởi hiện
nay nhân loại đă tiến hóa
khá cao về mọi mặt nên có thể
hiểu được lời Ngài. Các Tôn
giáo như những lớp học gồm :
1.
Các
Tôn
giáo
thuộc
Nhơn
Đạo
lấy
sự công b́nh, b́nh đẳng giữa
huynh đệ đại đồng như Đạo Khổng ở Trung Quốc.Tu
theo con đường tiệm
tiến là Tu Thân, Tề gia, trị quốc để
b́nh Thiên hạ.
2.
Các
Tôn
Giáo
thuộc
Thần
Đạo
ở
Trung Hoa và ở Nhựt Bổn cũng từ Nhơn Đạo
làm căn bản và sau cùng mới lo
việc
nước là
Trung quân, ái quốc.
3.
Các
Tôn
giáo
thuộc
Nhơn
Đạo
ở
bậc cao hơn là Thánh Đạo như Khổng
Giáo ở Trung Hoa và Thiên
Chúa Giáo ở Do Thái lấy đức bác
ái đói xử với tha nhân: Thương
người như ḿnh vậy.
4.
Tôn
giáo
của
chư
Tiên
hay
Tiên
Đạo hayLăo Giáo ở Trung Hoa là
an bần lạc Đạo cầu tu giải thoát về
Tiên cảnh.
5.
Tôn
giáo
của
chư
Phật
như
Ấn
Độ giáo vào Nhứt Kỳ Phổ Độ ở thời
Thượng Cổ và Phật Giáo vào Nhị
Kỳ Phổ Độ ở thời Trung Cổ là tin tưởng nơi luật
công bằng là luân hồi, nhân
quả và giáo lư rất khoa học của
Đức Phật Thích Ca (Tín) để tập
tánh cho tốt hơn (Hạnh) và ước vọng
(Nguyện) là làm như Phật
đă làm là lấy ḷng Từ Bi
mà đối với chúng sanh kể cả
loài vật nhỏ có sự sống, là căn
bản để tu theo
Tiệm Tiến của Bát Chánh Đạo và
con đường chót là Thiền định để mở
trí huệ để tự giải thoát (Tự
giác). Đó là cỗ xe lớn (Đại
Thừa) mà giúp người khác
cùng lên xe về Bến Giác
(Giác tha).
Đức
Thượng
Đế
giáo
dục
con
cái
của
Ngài bằng cách gởi Chơn Linh của
Ngài xuống thế có sứ mạng như những
Tiên Tri, chư Giáo Chủ mở Đạo để
giáo dân vi thiện trong ba thời kỳ tiến
hóa của nhân loại :
1- Thời Thượng Cổ :
Ngài
gởi
các
Tiên
Tri
như
Mô-se
và
các
Tiên Tri khác viết Cựu Ước dạy
Thánh Đạo ở Vùng Trung Đông,
có mười điều răn để dạy dân an hiền ở
lành, bên Trung Hoa Ngài cho chư
Tam Hoàng và Ngũ Đế dạy đạo đức cho
dân Trung Hoa, ở Ấn Dộ Ngài cho Đức
A-Di-Đà-Phật
dạy Phật Đạo hay Ấn-Độ Giáo cho dân
Ấn-Độ.
2-Thời Trung Cổ :
Chánh
Đạo
bị
thất
truyền
nên
Ngài
gởi
chư Giáo Tổ xuống thế chỉnh đốn lại
giáo lư:
-
Ở
Ấn
Độ
Ngài
gởi
Chơn
Linh
của Ngài mang xác phàm
là Thái Tử Sĩ-đạt-ta tu
luyện đắc quả Phật, làm cuộc
cách mạng xóa bỏ sự phân chia 4
giai cấp ở Ấn-Độ,Ngài dạy về Ngũ Giới Cấm để
dạy dân lo tu tâm sửa tánh,
dạy triết lư giải thoát với Tứ
Diệu Đế, Bát
Chánh Đạo và bửu pháp
thiền định.
-
Ở
Trung
Hoa
Ngài
gởi
Chơn
Linh
của Ngài xuống thế mang xác
phàm là Đức Khổng Tử, Đức Lăo
Tử và Đức Khương Tử Nha để mở Đạo dạy cho
dân Trung Hoa ở ba cấp bực là Thần với
Thần Đạo, Thánh với Khổng Nho và
Tiên với Lăo giáo.
-
Ở
Trung
Đông
Ngài
cho
Chơn
Linh
của Ngài là Ngôi hai
giáng thế là Đức Chúa
Giê-su Ki-tô mở Thánh Đạo dạy
dân Do Thái biết thương người
khác như ḿnh vậy (sau nầy Ngài
có giáng cơ nhiều lần trong Đạo Cao
Đài), Ngài c̣n gởi Đức
Mohammed , Đấng
Tiên Tri sau cùng xuống thế để viết
Kinh Coran dạy Thánh Đạo cho dân
Á-Rạp là Hồi Giáo.
3-Thời Hiện Đại :
Đức
Thượng
Đế
không
gởi
Chơn
Linh
của
Ngài xuống thế trong thời kỳ thứ ba nầy
v́ Ngài biết nhân loại sẽ giết
con Ngài như Đức Chúa Giê-su nữa,
nên chính Ngài chuẩn bị trước ở
khắp nơi là tập cho các nhà
khoa học làm quen với phương tiện thông
linh là xây bàn, dùng
đồng từ viết cơ
bút.. ở các Hội Thần Linh Học
trên thế giới như Ông Victor Hugo,
Allen Kardec, Flammarion, Đạo Hinomoto và
Oomoto ở núi Phú-sĩ bên Nhật,
các Hội Thần Linh Học vv... và đến năm
1926, Ngài cho chư vị Tiền Khai tập xây
bàn và Thất Nương Diêu
Tŕ Cung tập cách cầu cơ cho những đệ tử
Cao Đài đầu tiên ở Việt Nam, để sau
đó chư vị nầy nhận Thánh Giáo
là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,
Tân Luật, Pháp
Chánh
Truyền... để mở nền Đạo tại thế là Đạo Cao
Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Giáo
lư
Đạo
Cao-Đài
là
Vạn
Giáo
Nhất
lư,
là Thánh giáo của Đức Thượng Đế
mà Ngài đă cho chư Tiên
Tri, Giáo
Tổ mang xuống thế
dạy nhân loại qua hai thời kỳ trước, nay được
Ngài hay Cha Chung Nhân Loại, Đức
Diêu Tŕ Kim Mẫu hay Mẹ Chung
các loài, chư Giáo Tổ, chư
Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần,
chư liệt vị Anh Hùng, chư vị đệ tử của Đức
Cao Đài tu đắc quả, chư vị Tiền Khai Đại Đạo... giáng
cơ tóm lược lại như để ôn bài,
nhắc lại cho tín đồ của các Tôn
giáo khác nhau hiểu chơn lư
trong vạn giáo là nhất lư để
không tranh chấp, kỳ thị nhau nữa, biết nguồn
cội , lo tu mà trở về ngôi vị
thiêng liêng của ḿnh..
Mục
đích
mở
Đạo
Cao
Đài
là
để
Đức Thượng vớt những kẻ tánh đức lên
cơi nhàn là quả cầu 67
và dạy pháp cho những nguyên căn
lo tu để có
kim thân mà về ngôi vị cũ ở Niết
bàn hay Bạch Ngọc Kinh.
Hiện
nay
nhân
loại
đang
ở
vào
thời
Mạt Pháp và là thời kỳ ân
xá lần thứ ba, nên những người dưới
cơi âm u gọi là địa ngục được Ơn
Trên thả ra
đầu thai lên cơi trần đoái
công chuộc tội, dự thi chung với những người
hiền, nên trên thế giới có nhiều
tội ác v́ bản tánh xưa của
những người
ác chưa hoàn thiện được, cùng
nhau khảo đảo, thi chung khóa cuối chu kỳ
tiến hóa.
Giáo
lư
của
các
Tôn
giáo
là
bài
học
chung cho mọi người ở mọi tŕnh độ tiến
hóa, ai thích Đạo nào
th́ theo Đạo đó, nếu qui nguyên
nguồn cội để
hành đúng chánh giáo
th́ dự Long Hoa Đại Hội hay Ngày
Phán Xét Cuối Cùng cũng được.Kỳ
Phán Xét nầy c̣n gọi là
đổi đời hay
chuyển thế. Xă hội sẽ có xáo
trộn và thế giới sẽ gặp Thiên tai khổ
nạn rất lớn người chết rất nhiều chớ không
phải tận thế.
Nhờ kỹ thuật tiến bộ, ngôn ngữ có nhiều
Translators, có đủ từ... có
Internet... nên mọi người trên thế giới
có thể ngồi trước máy PC đọc, nghiên cứu mọi sự
trên thế giới, nhất là giáo
lư của vạn giáo.
Hễ
có
bao
nhiêu
tỷ
người
là
có
bao nhiêu Tôn giáo riêng
cho cá nhân từng người. Ai có
duyên nào th́ gặp đường
đó. Đường nào cũng về Đại Đạo.
Nhân
loại
tiến
hóa
từ
vô
minh
đến
nơi sáng suốt. V́ vô minh
nên mới gây nghiệp ác và
v́ nghiệp ác nên mới trả quả hay
học bài học đau khổ và bài học
khó là sự luân hồi hay nhồi lớp
để học bài cũ. khi có tiến bộ linh hồn
mới được lên cao hơn. linh hồn giống như
cuốn băng Vidéo và thân
xác của đứa bé khi chấp nhận
luân hồi giống như máy Video-recorder.
V́ có nhiều tần số hay tŕnh độ
khác nhau nên máy Video-recorder
không thích hợp tần số với
PAL-SECAM hay NTSC... nên màn ảnh
truyền h́nh không chính
xác, không đủ màu...V́
lư do nầy mà con người quên những
kiến thức trong kiếp trưốc mặc dù tiền kiếp
đă học tới Tiến sĩ. Linh hồn phải học lại từ
đầu, chỉ nhanh hơn ngưồi chưa học : đó là sự
thông minh.
Theo
luật
Nhân
Quả
và
sự
công
bằng
trong Vũ Trụ, sự quên những ǵ
đă học ở kiếp trước rất cần thiết, v́
những người có thù hận với nhau gặp nhau lại trong
một gia đ́nh mà nhớ những ân
oán trong kiếp trước th́ sẽ trả
thù ngay và gia đ́nh se gặp
thảm trạng nhồi quả khôn lường.Quên
thù hận cũ để trả từ từ như trường hợp con
bất hiếu, con là nợ, vợ là oan gia
nên người trả quả phải rán chịu đựng
mà trả cho xong trong một kiếp.
V́
vô
minh
nên
mới
xảy
ra
thảm
trạng gia đ́nh. Nếu biết Đạo th́ vui
ḷng trả nghiệp cũ, lấy t́nh thương
cha con chồng vợ mà xoá bỏ ân oán
kiếp trước.
Muốn
phá
màn
vô
minh,
con
ngưồi
phải
cách vật trí tri ...nghĩa là
học khoa học, triết học, Thần học, Tôn
giáo học, huyền bí học, Thông Thiên
học và sau cùng muốn cho hiểu
toàn diện và ḥa đồng Tôn
giáo, không chia rẽ Phái nầy,
Đạo nọ th́ người ta phải học Thánh
giáo Đạo Cao
Đài. Nếu là người trong Đạo Cao
Đài mà c̣n chia Chi rẽ
Phái th́ họ chưa hiẻu chánh
lư trong Thánh Giáo. Họ sẽ phải
học lại trong
kiếp sau.... và hiện nay người học
Thánh giáo Đạo Cao Đài
mà chưa hành được Ngũ giới cấm
và Tứ Đại Điều Qui th́ chưa phải
là người Cao Đài mặc dù đă
nhập môn từ lâu. Việc chánh kỷ
là tiên quyết. Chưa chánh kỷ
mà hóa nhơn th́ làm mất
đức tin người mới vô Đạo v́ chưa
làm gương
tốt cho người được,c̣n chia Chi rẻ
Phái, làm cản trở cơ Đạo: Ơn
Trên sẽ theo luật Thiên Điều mà
trừng trị v́ cản bánh xe của
Thiên cơ : Thuận Thiên giả tồn, nghịch
Thiên giả vong.
Ba
câu hỏi do Đức Chí Tôn Thượng Đế
hỏi các đệ tử Cao Đài là :
các
con biết các con từ đâu đến đây ?
Các con làm ǵ ở đây
và chết rồi các con đi đâu ?
cùng những câu hỏi khác của
nhân loại đặt ra, sẽ được lần lượt giải đáp tại
đây sau khi tôi tham khảo các
Thánh giáo và những câu
trả lời của các vị Thần Minh trích
trong cuốn "Những Tiết Lộ của Thần Minh = Le livre des
Esprits của Allan Kardec, Édition Veremet,
ISBN
2865140202 (xin xem trong Cao Đài Giáo
Lư print )
Đạo Cao Đài, một Tôn Giáo mới do
chính Đức Thượng Đế mở ra vào năm 1926
tại Việt nam, là triết lư chung cho
mọi Tôn giáo
Tóm lược về Đạo Cao Đài : Tôn Giáo của
Đức Thượng Đế
1.
Nguồn
gốc
các
Tôn
giáo:
Nhân
loại
ở thời Thượng cổ sống đời Thượng nguơn Thánh
Đức, ngây thơ, vô tội. Người và
thú coi nhau như bạn, thương nhau. Người và
người không ghét nhau và giết
hại nhau. Đức Chúa Trời dạy trực tiếp cho
loài ngựi mọi việc.
Sau
biến cố đổi thay của các lục địa nên
có đại hồng thủy, loài người phải mưu
sanh thoát hiểm để tồn tại. Sau những
trận cháy rừng, loài người t́m thấy
xác thú bị cháy nướng, ăn thử
thấy ngon rồi ăn măi thành thói
quen. Về sau loài người mới chăn nuôi
để thú nhà sanh sản thêm mà
giết để ăn. Loài người sanh sản ngày
càng đông, giành nhau miếng ăn,
giết hại nhau bằng chiến tranh. Đức Chúa Trời
sai chư Tiên Tri giáng thế viết Cựu Ước với 10
điều răn và cấm giết người để dạy dỗ (ở Trung
Đông). Ngài cho Đức Nhiên Đăng Cổ
Phật giáng thế ở Ấn Độ mở Phật Đạo dạy dân,
đồng thời Ngài cũng cho chư Thánh
giáng trần ở Trung Hoa mà cai trị dạy
dân cho hiền lương.Đó là Nhứt Kỳ
Phổ Độ.
Nhân
loại dữ nhiều lành ít, chánh
giáo bị sai lạc đi và thất truyền,
nên Đức Chúa Trời sai chư Giáo
Tổ giáng thế mở Đạo, chỉnh đốn lại các Tôn
giáo có từ trước. Đó là
Nhị Kỳ Phổ Độ.
1.
Hai Kỳ Phổ Độ trước : do chư Tiên Tri
và chư Giáo Chủ thay mặt Đức Thượng Đế
mở Đạo dạy dân tại từng vùng:
1
.
Nhứt
Kỳ
Phổ
Độ
vào
thời
Thượng Cổ :
-Trung
Hoa : có Đức Thái Thượng Đạo Tổ mở
Tiên Đạo, Đức Văn Xương Đế Quân mở
Thánh Đạo và Vua Phục Hi mở Nhơn Đạo.
Ấn
Độ
:
có
Đức
Nhiên
Đăng
Cổ
Phật mở Phật Đạo.
Ở
Trung Đông có Đức Mose mở Thánh
Đạo.
2.
Nhị
Kỳ
Phổ
Độ
vào
thời
Trung
Cổ, các Đấng phục sinh lại, mở Đạo lần thứ
hai :
*Ở
Ấn
Độ
:
có
Đức
Phật
Thích
Ca Mâu Ni mở Phật Đạo,
*Ở
Trung
Hoa
:
có
Đức
Lăo
Tử
mở Tiên Đạo, và Đức Khổng Tử mở
Thánh Đạo, Đức Khương Tử Nha mở Thần
Đạo, truyền sang Nhựt Bổn là Shintoism (
Shintoismus, Shintoisme).
*Ở
Do
Thái
có
Đức
Giê-su
mở
Thánh
Đạo. Tiếp theo sau đó có Đức Mohammed
mở Đạo Hồi cũng ở Trung Đông, là
Đấng Tiên Tri sau cùng trong Thánh Đạo.
3.
Tam
Kỳ
Phổ
Độ
:
do
chính
Đức Chí Tôn Thượng Đế mở cơ tận độ cho
nhơn loại bằng huyền diệu cơ bút chớ
không giao cho tay phàm như trước.
2.
Đấng Giáo Chủ Đạo Cao Đài : do
chính Đức Thượng Đế khai mở Đạo Cao
Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ.
3. Nơi khai mở Đạo Cao Đài :
Thánh Địa Việt Nam - vào năm 1926 - Tổ
Đ́nh tại Ṭa Thánh Tây
Ninh. Dân tộc Việt Nam là giống
dân được Đức
Thượng Đế chọn mà đạy trước tiên
v́ dân tộc và đất nước nhỏ nhoi
trong bốn biển mà biết tin tưởng Trời Phật .
4.
Phương tiện truyền thông qua ba thời kỳ :
Thời Thượng cổ : Chư Tiên Tri mặc khải viết ra
Thánh Giáo :
Chấp bút.
Thời
Trung cổ : Chư Giáo Chủ dạy trực tiếp
các đệ tử và các đệ tử
hoặc Thánh Tông Đồ viết Tam tạng Kinh
hoặc Kinh Thánh.
Thời
hiện
đại:
Cơ
bút
với
đồng
tử
như máy Telefax vậy.
Đức
Thượng Đế truyền thông điển quang của
Ngài cho loài người qua đồng tử
trong trạng thái mê như một máy
Fax và ng̣i bút viết ra
chữ là Cơ
Bút hay Thần Cơ , Diệu Bút chớ
không qua trung gian Đấng Tiên Tri chấp
bút trong trạng thái tỉnh có
chen phàm ư mà viết
Thánh giáo như xưa hoặc không
giao cho Đấng Giáo Chủ mang xác
phàm dạy trực tiếp cho đệ tử hay Tông
Đồ như hai lần Phổ Độ trước.
5. Tôn
Chỉ và Mục đích của Đạo Cao Đài
:
Thứ
nhứt : V́ ḷng đại từ, đại bi, vẫn lấy
đức háo sanh mà Đức Thượng Đế dựng mối
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để :
Thứ
nhứt :Vớt những kẻ hữu phần vào địa vị cao
thượng để tránh khỏi số mạng luân hồi
(
Đức Thượng Đế dạy bửu pháp cho Đức Ngô
Minh Chiêu hành để trở về cựu vị. Đức
Ngô Minh Chiêu truyền lại cho những
người sau, tu cầu giải thoát luân hồi
sanh tử)
Thứ
hai : Nâng những kẻ có tánh đức
bước vào cơi nhàn cao hơn phảm
hèn khó ở nơi trần thế nầy (Mọi người
có thể tu từ dễ đến khó, hành Tân
pháp Cao Đài để khi thoát
xác lên quả cầu 67, người ở giai cấp
thấp nhứt mà sung sướng hơn bực đế vương của
cơi trần hay quả cầu thứ 68 nầy).
6.
Tôn
chỉ
của
Đạo
Cao
Đài
:
Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi phục nhứt
:
Tam
Giáo Qui Nguyên: Tam Giáo gồm
Thánh giáo (Nho), Tiên
giáo (Lăo) và Phật giáo
ở Đông phương. Ba Tôn giáo lớn ở
Á
Châu
tiêu biểu cho vạn giáo trên
hoàn cầu.
Qui
nguyên : Trở về nguồn gốc là Đạo hay Hư
Vô chi Khí, hay Nhân tính,
Thiên lương, qui Tâm, hay trở về Phật
tại tâm hay Chúa tại Tâm hay từ hữu
h́nh sang hư vô, v́ Vạn
Giáo đồng nguyên hay Vạn Giáo
Nhất Lư.
Ngũ
Chi Phục Nhứt : Ngũ Chi gồm 5 cấp bực tu học do Đức
Thượng Đế lập ra trong Tam Kỳ Phổ Độ v́ nhơn
loại căn trí, tŕnh độ tiến hoá
khác nhau. Họ có thể dễ dàng đi
từng bước từ thấp lên cao:
Nhơn
Đạo và Thần Đạo : Nhơn Đạo th́
Tùng khổ (luyện Tam Cang,
Ngũ Thường) c̣n Thần Đạo
th́ Thắng khổ ( Tam cang , Ngũ Thường) và
cách tu tiệm tiến là Tu Thân, Tề
Gia, trị Quốc và b́nh thiên hạ.
Thánh
Đạo : Thọ Khổ ( bác ái, tha thứ, khoan
dung) : hy sinh v́ người khác như Đức
Giê-su chịu nạn, chịu chết mà cứu chuộc
cho nhân
loại.
Tiên
Đạo : Thoát khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới,
luyện Kim Đơn): Tránh cảnh phồn hoa, vinh
sang phú quí,an bần lạc Đạo.
Phật
Đạo : Giải Khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, thiền định)
: Từ bi với sinh linh, trả nghiệp cũ, khử trược
lưu thanh bằng cách ăn chay, thiền định để mở
trí huệ.
Đặc
điểm của triết lư ( Giáo lư)
Đạo Cao Đài :
1. Cách lập giáo : Tôn
giáo Cao Đài được truyền bá ở
thế gian do một Đấng Giáo Chủ Vô
H́nh. Ngài là Đấng Toàn
Năng, Toàn
Giác, Hằng
Hữu và thanh quang điển lành của
Ngài chiếu phóng khắp nơi trong Vũ
Trụ. Tôn Giáo Cao Đài hay
Đạo Cao Đài là một Tôn
Giáo chớ không phải một Giáo
Phái (Secte) như mt số người nước
ngoài hay những người Việt nam chưa hiểu Đạo
Cao Đài đă dùng sai danh từ
trong sách
hay trong Internet. Sự hiểu lầm nầy là một sự
vô minh tai hại, vô lễ với Đấng
Cha Lành.
2.
Cách truyền giáo : Ngài
là Đấng Hóa Công hay Đấng
Sáng Tạo Vũ Trụ Vạn Vật hay Cha Trời hay
Thiên Chúa hay Thượng
Đế...trực tiếp mở
Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ một cách thần diệu
và nhanh chóng phi thường đó
là ‘Thiên Linh Điển’. Ngài trực
tiếp giáng cơ dạy Đạo, lập Hiến Pháp nền Đạo,
tổ chức Tôn giáo Cao Đài thuộc
hữu h́nh chớ không do Đấng Giáo
Chủ mang xác phàm mở Đạo như hai
lần Phổ Độ trước.
Chư vị Tiền Khai Đại Đạo là chư vị từ
trên do Ngài cho đầu thai làm
người để tiếp tay với Ngài tổ chức nền Đạo ở
cơi trần.
3.
Phương
tiện
truyền
thông
mới
và
huyền
diệu được Đức Thượng Đế chuẩn bị trước từ
lâu: Đức Phật Thích Ca đă
thông báo trước là ‘Phật tương lai
là một vị Bồ Tát’ và trong Đạo
Cao Đài Đức Thượng Đế hạ ḿnh mang
danh hiệu là Cao Đài Tiên
Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát . Đức
và Đức Di Lạc Bồ Tát sẽ
là Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật,
là Long Hoa Giáo Chủ và thời
Mạt Pháp để chuẩn bị Thời Thượng Nguơn
Thánh Đức ( Ngày nay trên
nóc Ṭa Thánh có tượng
Đức Di Lạc và tại Trước Lâm
Thánh Đức Thiền Điện hay Chùa Di
Lạc ở Vĩnh Long
có thờ tượng Phật Di Lạc và vào
ngày mùng 8 tháng 10 năm
Giáp Dần (21.11.1974) tại Vĩnh Long
có cuộc Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai Diễn, sau
đó đến 30.4.1975 là có xảy ra
cuộc sàng sảy thật sự để đổi đời, khảo đảo).
Đức
Chúa Giê-su thông báo
là trong tương lai sẽ có Đấng
Thánh Linh dạy Đạo ( Trong Kinh
Thánh Đức Chúa Giê- su
có nói cơ duyên chuyển Đạo Kỳ Ba
là Thánh Linh Giáo hay một Tộn
giáo mượn phương tiện cơ bút như trong
Khoa Thần Linh Học:’Nếu các người thương Ta th́
các người hăy nhớ lời Ta dạy bảo, rồi
ta sẽ xin Cha Ta sai Thần Cứu Khổ khác xuống
đây ở luôn với các người.
Đó là Thần Chơn Lư mà
người ở thế gian không thể nào rước
được, v́ không thấy được, v́ bởi
Thần ấy sẽ ở với các người...Nhưng Đấng an ủi
tức là Thánh Thần mà Chúa
Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính
người sẽ dạy cho chúng con mọi sự và
sẽ nhắc lại cho chúng con tất cả những điều
Thầy đă nói với chúng con’ -A. Elchinger
et J. Dheilly, T́m hiểu Kinh Thánh,
quyển I, Tân Ước, Sách Thánh
Gioan, do Trần Ngọc Thụ, Lê Trung Thịnh,
dịch ra Việt Ngữ,
Nhà Xuất Bản Kinh Thánh Thiên
Chúa Giáo Comitium, Sài
G̣n,1960, trang 126).
Đức
Thượng Đế cho Đức Victor Hugo, Đại Văn Hào
Pháp mở đầu phương pháp truyền
thông giữa cơi vô h́nh
và hữu h́nh bằng cách xây bàn.
Đức
Thượng
Đế
c̣n
cho
Bác
sĩ
Allen
Kardec , nhà Thiên văn học Flammarion ở
Pháp và các Hội Thần Linh Học
bên Anh
quốc sử dụng cơ
bút để chư Thần Minh giáng cơ dạy cho
các nhà khoa học.
Bên
Nhựt Bổn có Đạo Oomoto và Hinomoto sử
dụng cơ bút mà viết Thánh
giáo và trong cơ bút Đức Thượng
Đế có cho vị Chưởng Quản của Đạo nầy liên lạc với
Ṭa Thánh Tây Ninh.
Sự
chuẩn
bị
cho
thế
giới
c̣n
tiếp
diễn thêm cho người các dân tộc
khác tin vào phương tiện thông
linh nầy : Ở Thánh Thiền Đường bên
Đài Loan
cũng có cơ bút và có
đồng tử xuất thần viếng các cơi
thiêng liêng và viếng cả Địa
ngục, viết ra Thánh giáo răn đời.
H́nh
dáng cơ bút giống h́nh
Cḥm sao Bánh Lái hay hay Đại
Hùng Tinh và Tiểu Hùng Tinh tức
cḥm sao con gấu lớn và con gấu nhỏ
hay Thất Tinh.
Ng̣i bút là mơ chim
Loan, ngay tại địa điểm của sao Bắc Đẩu, nơi Đức
Thượng Đế ngự, cũng là trục của quả cầu 68
mà loài người nh́n lên Trời
vào lúc ban đêm sẽ thấy.
4.
Luật Đạo và Nghi Lễ : Luật Đạo giống như Hiến
Pháp của nền Đạo do chính Đức Thượng
Đế ban Sắc cho Đức Giáo Tông,
cũng là
Vô Vi tức Đức Kim Tinh Lư Thái
Bạch, viết dự luật . Đức Cao Đài chuẩn y để
ban hành mà tổ chức nền Đạo (
Tân Luật và Pháp Chánh
Truyền ) . Nghi Lễ
như cách thờ phượng, cách lạy,
Thánh Tượng, Lễ vật... do chính Đức
Thượng Đế giáng cơ dạy và giải
thích rơ ràng, chớ
không do
người phàm hay chức sắc trong Giáo Hội
trong các Tôn giáo đă
có đặt ra theo phong tục địa phương hay
ư riêng như hai thời kỳ Phổ Độ trước. Nghi Lễ
và Lễ Vật mang một ư nghĩa huyền nhiệm
về Huyền Môn Học như : Thái Cực, Lưỡng
Nghi, Tam tài, Ngũ Khí, Bát
Quái, cách bắt Ấn ở bàn tay
theo vị trí của Cơ sanh Hóa của
Tiên Thiên và Hậu Thiên
trong Càn Khôn Vũ Trụ ( Tư
và Dần trong bàn tay). Thánh
tượng không
là tượng của Đấng Giáo Chủ hay Thập Tự
Giá như xưa mà là Thiên
Nhăn, tượng trưng cho Chúa Tể
Càn Khôn .
Người tín đồ Cao Đài Giáo thờ
Thánh Tượng Thiên Nhăn
trên bàn thờ :
v́ Đức Thượng Đế dạy:
Nhăn thị chủ Tâm,
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị Thần
Thần thị Thiên
Thiên ngă giả Ngă.
5. Thiên bàn : là
cái bản đồ của Càn Khôn Thế giới
: Vị trí của Thánh Tượng, đèn,
hương, hoa, trà, quả, lư hương, ly rượu,
tách trà... là tượng trưng của
Càn Khôn Vũ Trụ và Tiểu
Thiên Địa trong xác thân Tứ
Đại.Đây là cái bản đồ cho chư vị
tu thiền nh́n mà hành cho
đúng:
Thiên bàn là cái bản đồ
Lấy đó mà điểm tô trong ḿnh.
6. Mục đích và Tôn Chỉ của
Đạo Cao Đài : mang tính chất quyết
định, nhất thiết và kịp lúc trên
con đường giải thoát hay hợp nhứt với Thượng Đế hoặc tiến
hoá nhanh trên con đường phản bổn
hoàn nguyên :
Cứu
chư vị linh căn xuống thế độ trần mà
quên đường về, tự tu kỷ và thiền định
mà trở về ngôi vị cũ.
Giúp
những linh hồn đang tiến hóa tiến nhanh hơn,
tự tu kỷ, học thiền và hành thiền theo
Pháp Môn Tam Công trong Cơ Phổ Độ
để có tánh đức mà tiến nhanh
kịp lúc khi quả cầu 68 nầy đến ngày
tàn, lên quả cầu 67 sống trong
cơi nhàn tiếp tục tu hành
trên con đường phản bổn hoàn
nguyên.
7. Các bài Kinh chứa nội dung
huyền nhiệm : Không như các Tôn
giáo có trước các bài
Kinh là sự tán tụng Đấng Thiên
Chúa hay Mantra ( chơn ngôn) hay lời Phật
dạy không thôi , mà lời Kinh
trong Đạo Cao Đài mang đủ các
tính chất : vừa tán tụng công
đức Đấng Sáng Tạo, chư Giáo Tổ mà
c̣n giải thích lịch sử Đấng
Giáo Tổ , tóm tắt lời dạy Đạo, mỗi
danh từ là một ư nghĩa sâu xa.
Người hành Đạo đọc Kinh để cầu lư, lần
lần sẽ hiểu thêm ra, hiểu cách
hành thiền để tự giải thoát.
Các bài Kinh đều có dạy về
các nguyên lư Vũ Trụ và
cách vận chuyển Đạo hay Nguơn Khí hay Hư
Vô chi khí khi thiền.
8. Đức Thượng Đế và Đức Lăo Tử
dạy thiền trực tiếp : Đấng Cha Lành là
Đức Cao Đài truyền pháp cho Đức
Ngô Minh Chiêu để Ngài tu luyện
Đạo và truyền bửu pháp tiếp cho chư đệ
sau . Đức Lăo Tử cũng như Đức Ngô Minh
Chiêu và chư vị tu theo Pháp
Môn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi đă
qui liễu giáng cơ dạy trực tiếp cho
các hành giả tại thế . Điều kiện thọ
pháp rất gắt gao ( trường chay, tuyệt dục,
nhập môn,xin
vị hôn phối cho phép tu và coi
như huynh muội, xin Thầy bằng keo) nhưng cũng dễ
dàng ( ai quyết chí cũng được Thầy
Thượng Đế
ban ơn). Để giữ chân truyền, người
hành trước được phép chỉ cách
hành (chỉ kiểu) cho người sau khi được
THẦY Thượng Đế cho phép và
không được
khinh thường muốn chỉ ai là chỉ để
tránh thất truyền như hai lần Phổ Độ trước.
9. Các Pháp Môn được Ơn
Trên dạy cho mọi tŕnh độ tiến
hóa. Tùy theo cơ duyên mà
thọ pháp hoặc hành theo tịnh tiến ( từ
dễ và thấp đến cao) hoặc luyện Đạo theo cơ
giải thoát ( trường chay, tuyết dục,xin keo, được
Thầy Thượng Đế cho keo th́ hành cơ
giải thoát khi qui liễu).
10.
Giáo lư Đại Đạo là cơ tận
độ cho toàn nhân loại chớ
không riêng cho dân tộc Việt nam.
11.
Thánh giáo Đạo Cao Đài
là lời dạy của chính Đức Thượng Đế,
Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu, chư Phật, chư
Giáo Tổ, chư Tiên, chư Thánh,
chư Thần
, chư vị liễu đạo đắc quả, chư vị Anh Hùng,
chư Hiền, chư Chơn Nhơn... chớ không do một
Đấng Tiên Tri mặc khải chấp bút viết ra
hay do
Đấng Giáo Chủ giảng cho đệ tử hay Tông
Đồ và chư vị nầy viết lại sau khi chư vị
Giáo Tổ đắc đạo như hai thời kỳ Phổ Độ trước
nữa.
12.
Giáo lư Đạo Cao Đài do
các Đấng nào dạy ?
Do
chính Đức Thượng Đế, do Đức Diêu
Tŕ Kim Mẫu, chư Giáo Tổ trong hai
thời Kỳ trước giáng cơ nhắc lại lời dạy khi
xưa, do chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, chư vị
tu đắc quả...giáng cơ dạy chi tiết từng li
từng tí rất khoa học và thực tế.
Giáo lư Đạo Cao Đài không
phải là giáo lư vay mượn hay sự tổng
hợp của các giáo lư Tôn
giáo khác mà là
bài học ôn tập trong kỳ thi cuối
khoá trong cuộc tuần huờn tiến hoá.
13.
Giáo lư Đạo Cao Đài là
những tóm lược hay sự ôn bài của
chư vị Thầy để học sinh dự kỳ thi cuối khóa
hay Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xét
Cuối Cùng ( chớ không
phải giáo lư tổng hợp, góp
nhặt, vay mượn từ các Tôn giáo
khác có trước... như nhiều học giả
Tây phương lầm tưởng mà đặt ra danh từ
syncrétisme như các sách
đă in).
14.
Cách xưng hô của Đấng Giáo Chủ
rất thân mật trong t́nh Cha con trong
Đại Gia Đ́nh Càn Khôn Vũ Trụ ,
t́nh Thầy tṛ trong Trường Đời
trần gian hay trong
gia đ́nh theo phong tục và đại danh
xưng của người Việt miền Bắc. Đức Thượng Đế xưng
là THẦY. Ngài không dùng danh từ của
ngôn ngữ địa phương do loài người đặt
ra để gọi Ngài như trước ( Thí dụ như
Giê-hô-va , JHWH, Allah ...) mà
Ngài mượn danh từ không mang
tên hay vô danh có ư nghĩa
tượng trưng trong ngôn ngữ Việt Nam là
Cao-Đài .
‘Cao Đài là cái đài cao,
Vượt trên tất cả cách rào ngăn che
(Đức Quảng Đức Chơn Tiên)
cũng
là nê huờn cung, trên đỉnh đầu
của con người. Người đời thường gọi ‘Chín
Trời, mười Phật tức là cửu khiếu hay 9 cửa để
hồn xuất ra khi chết mà lên
không gian là 2 mắt, 2 tai, 2 mũi,
miệng, hậu môn, lổ tiểu c̣n con đường
thứ 10 là nê huờn cung. Người luyện
Đạo khi chết hồn lên đỉnh đầu mới về
cơi Niết Bàn được.
15. Giáo lư Đạo Cao Đài
mang tính cách khoa học và hiện
đại và là nền tảng cho các
ngành khoa học trong tương lai.
Giáo lư Đạo Cao Đài khai mở
trí người tín đồ khi đọc kinh
mà hiểu nghĩa lư sâu xa trong
các danh từ trong lời kinh.
16. Giáo lư Đạo Cao Đài
duy tŕ Ngũ Giới Cấm trong Đạo Phật nhưng
được chính Đức Thượng Đế giải thích
rất rơ ràng nguyên do tại sao cấm, nhờ
đó nhân loại hiểu rơ nguồn gốc
của tội lỗi mà tránh vấp phải hoặc lần
lần giảm tội lỗi, hoàn thiện hơn cũng
là điều kiện cần thiết để tu và hành
pháp môn trong Đại Đạo.
17. Các danh từ trong
Thánh Giáo Đạo Cao Đài
là những từ căn bản, phong phú lấy từ
chữ Hán Việt, chữ Nôm, chữ Pháp
có dấu ngoặc và các Thánh
giáo sau nầy trong Thánh Giáo
Sưu tập được chư Thiên Liêng dùng
rất khoa học, chính xác đúng
theo tŕnh độ tiến hoá của nhân loại trong
giai đoạn khoa học kỹ thuật cao tột nầy ( Thí
dụ như các danh từ do Đức Di Lạc Thiên
Tôn gọi Ngọn đèn từ huệ và
Ngài cho mở dấu ngoặc transistor ( TGST ) hay
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy về thiền...(TGST ) hay Đức
Thượng Đế dẫn thí dụ như kỹ sư....(TGST ).
18. Giáo lư Đạo Cao Đài
dạy về Thiên Nhơn Hiệp Nhứt : Các
Tôn giáo xưa dạyrằng : Đức
Chúa Trời (Tây phương) hay
Brama(Ấn độ)
là Đấng toàn năng, toàn thiện
và con người là con cái của
Ngài, nhưng không có dạy con
người bửu pháp tu tánh luyện mạng để
hợp nhất cùng
Cha Trời làm một. Lấy thí dụ : Tại sao
người cha trong gia đ́nh là Tiến sĩ
th́ muốn con ḿnh cũng Tiến sĩ như
ḿnh mà trong các Tôn
giáo xưa
không nói rơ nên con người
do Cha Trời tạo ra và ở địa vị luôn
luôn nhỏ thấp chớ không bao giờ bằng
Ngài được. Thí dụ Adam và
E-và muốn
biết điều thiện và điều ác như
Chúa th́ bị Chúa phạt đuổi ra
khỏi vườn Địa Đàng, c̣n phếp luyện Đạo
trong Đạo Cao Đài là bửu pháp để
Thiên và Nhơn hiệp nhất làm một
và Ngài nói "THẦY là
các con, các con là THẦY".
19. Thánh giáo của Đức Cao
Đài là sự b́nh đẳng giữa
Thiên và Nhơn : Đức Cao Đài dạy
:’các con là chư Phật, chư Phật
là các con.
Có
Thầy mới có các con. Có
các con rồi mới có chư Thần,
Thánh, Tiên , Phật’ (TNHT trg.43).
20.
Người tín đồ Đạo Cao Đài là con
và là đệ tử của Đức Chí
Tôn hay Đấng Cha Trời.
21.
Người tín đồ Đạo Cao Đài đănh
lễ Đức Chí Tôn và Đức Diêu
Tŕ Kim Mẫu hằng này trong tứ
thời như người con hiếu thảo viếng cha mẹ tại nơi
Thiên bàn ở nhà ḿnh,
trực tiếp hành lễ, cúng, đọc kinh,
dâng lễ ( Tam bửu là Tinh, Khí,
Thần tượng trưng bằng hoa, trà, rượu) lên Đức
Chí Tôn chớ không qua trung gian
của linh mục, tăng sĩ hay thầy lễ như trong
các Tôn giáo có trước
đây.
22.
Thiên Nhăn có tác dụng
như điểm tựa hay antenne để cho người tu luyện nhận
điển lành của Đức Thượng Đế. Trong lúc
luyện Đạo
mượn đó để Đức Chí Tôn tiếp sức
(trợ lực) cho hành giả chuyển Đạo lên
nê huờn cung mà Thiên Nhơn hiệp
nhứt trên đỉnh đầu, nơi Đức Cao Đài ngự ở
Tiểu Thiên Địa.
23.
Các cựu pháp bị thất truyền và
biến ra nhiều pháp (tám vạn bốn
ngàn pháp môn), nhiều người
hành mà không đắc quả duy
có một
vị mà thôi. Đến năm Dậu (1919)
chính Đức Cao Đài truyền chánh
pháp cho Đức Ngô Minh Chiêu
và Đức Ngô Minh
Chiêu truyền
tiếp cho chư đệ tử. Các Đàn Chiếu Minh
Tam Thanh Vô Vi lập đàn cơ để Đức
Thượng Đế Cao Đài giáng cơ dạy
cách vận chuyển Đạo, lư thuyết căn bản về Đạo
Pháp, chỉnh đốn, sửa cách hành
cho đúng để hành giả công phu
đạt kết quả trên đường giải thoát khỏi
luân hồi sanh tử trong một kiếp nầy và
Đạo Pháp của Thầy Thượng Đế là độc
nhất vô nhị.
24.
Đức Đông Phương Lăo Tổ cũng
giáng cơ truyền dạy từ chút Tân
Pháp Cao Đài cho những ai chưa
có cơ duyên hành pháp
Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi th́ hành Đạo
Pháp theo tịnh tiến để tiến hoá, tu kỷ
tập cho có tánh đức và
công phu thiền
định để thăng hoa,
khi già (nếu nam trước 64 tuổi và nữ
trước 56 tuổi quyết chí hành
th́ là cơ duyên may), nếu vị
hôn phu chưa cho phép th́
hành
Tân Pháp tiếp để khi chết lên
cơi nhàn hơn là quả cầu 67,
là người dân thường c̣n sung
sướng hơn bậc vua chúa tại cơi trần
nầy.
25.
Gíao lư Đạo Cao Đài là
một siêu triết lư để nhân loại
thực hành, hầu tạo một nền ḥa
b́nh trên thế giới và một
Thiên Đàng tại thế, trở lại đời Thượng
Nguơn Thánh Đức.
26.
Giáo lư Đạo Cao Đài đưa
nhân loại một nhân sinh quan và
một Vũ Trụ quan siêu việt để nhân loại
sống cho đúng với Đạo,
trung dung
và ḥa điệu giữa người với người,
người và loài vật, giữa Tiểu
Thiên Địa và Đại Thiên Địa.
Giáo lư Đạo Cao Đài mang
tính chất đại chúng v́ thích ứng
với mọi tŕnh độ của con người ở mọi
tŕnh độ tiến hóa từ thấp đến cao.
Tóm
lược triết lư như sau : Đầu tiên trong
Vũ Trụ chỉ có Khí Hư Vô hằng
có. Khí Hư Vô do pháp
giới duyên khởi hay đúng ngày
giờ mà
có trận nổ mà khoa học gọi là
Big bang. Từ đó Đức Thượng Đế, Chúa Tể
Càn Khôn Vũ Trụ hay Đấng Sáng
Tạo hay Ngôi Thái Cực được sanh ra.
Ngài ṭan năng, toàn thiện.
Ngài phân tánh Ngài ra
hai phần Âm và Dương hay Lưỡng Nghi.
Lưỡng Nghi mới phân ra Tứ Tượng và Tứ Tượng sanh
ra Bát Quái, 16, 32, 64...quái
và muôn loài vạn vật. Từ
các loài tinh chất hay những
nguyên tử khác mà có
thêm những nguyên tử mới, những nguyên
sinh chất, tế bào... rồi qua hằng triệu năm
tạo thành cây cỏ, thảo mộc, các
sinh vật nhỏ rồi thú, cầm. Thú cầm
tiến hóa
hằng triệu năm để thành con người. Sự tiến
hóa rất dài. Mỗi phần tử của sự sống
hay linh hồn phải tiến hóa hằng triệu năm
và sống qua nhiều bầu hành tinh khác
nhau với các khí các nhau, từ
vật chất đến thanh khí. Loài người
trước đây là loài thú
trên bầu Nguyệt tinh. Khi tiến hóa qua bầu
trái đất nầy là quả cầu thứ 68. Sau
đó sẽ tiến hóa lên bầu
hành tinh thứ 67, rồi 66, 65... cho đến khi
lên đến đệ nhứt cầu. Sự tiến hóa lên
thêm để lên đến tam thiên thế giới
rồi Tứ Đại Bộ Châu và sau cùng
sẽ về Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn, nơi Đức
Thượng Đế ngự.
Sự
xuống trần học hỏi là sự nhập thế hay từ Nhứt
Bổn tán vạn thù hay từ Nhứt
Nguyên phân tán ra thành
Nhị Nguyên. Trong Nhị Nguyên linh hồn phải
gánh mọi nặng trược, các đau khổ của
trạng thái vật lư, luân hồi
măi theo chu kỳ thành , trụ hoại, diệt
trong chu kỳ kín mà khó
thoát ra
khỏi ṿng tṛn của bánh xe tiến
hóa. Trong Nhị Nguyên các
loài cắn xé, sống trên
xác chết của loài nhỏ hơn, mạnh được
yếu thua. Khi đến con người th́ vẫn c̣n
đấu tranh, ích kỷ. Nhưng khi có sự
tiến hóa cao th́ con người hướng
thượng hơn, vong kỷ, vị tha và luật hy sinh
hay sự
công quả để tạo tánh đức mà tiến
lên hàng Thần, Thánh,
Tiên, Phật. Khi lên đến phẩm Phật, linh
hồn c̣n phải tiến hóa thêm
là hy sinh, hạ ḿnh xuống thế mang sứ mạng của
hàng bồ tát mà độ đời tiếp, nhờ
thế mà công đày , quả măn
th́ mới hợp cùng Đức Thượng Đế hay
Thiên Nhơn hiệp Nhứt làm một được.
Đó là con đường phản bổn hoàn
nguyên.
27.
Giáo lư Đạo Cao Đài đem lại sự
ḥa đồng Tôn giáo, tránh
ghét nhau, khoan dung , tha thứ, phát
triển t́nh huynh đệ đại đồng, tạo t́nh thương đến
những kẻ ghét ḿnh , nhằm xây
dựng một xă hội Thánh Đức, thanh
b́nh và hạnh phúc dựa
trên căn bản ‘Công b́nh,
Bác ái, Từ bi’ , giúp cho
nhân loại thương yêu, giúp đỡ
nhau với tinh thần thuần chơn , vô ngă,
và là cửa ngơ để vào
Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn.
28.
Thánh giáo Đạo Cao Đài thể hiện
đức háo sanh và ḷng bác
ái vô biên của Đức Chí
Tôn Thượng Đế, Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu
và của chư Thiêng Liêng, là
sự hội tụ tất cả các giáo lư
đă có từ trước đến nay và
là sự thống nhất các triết lư Đạo
trong tinh thần ‘Vạn Giáo Nhất Lư.
29.
Thánh giáo Đạo Cao Đài là
Khoa Học Huyền Môn nhằm nghiên cứu
và thực hành các định luật trong
Vũ Trụ là :
Luật
Âm Dương (Đối lập nhưng ḥa hợp và
sinh hóa)
Luật
Nhân quả , Luật công bằng, thăng bằng,
đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.
Luật
Luân Hồi (Tác dụng của luật Nhân
quả qua nhiều kiếp)
Luật
hy sinh
Luật Tiến Hoá. |