Việt học
Thập can và thời lập quốc họ HÙNG Nguyễn Quang Nhật |
Dịch học là ánh sáng của
người họ HÙNG nên không có ǵ nằm ngoài nó,lịch
sử cũng vậy, người họ Hùng đă
kiến taọ lịch sử của ḿnh trên cơ sở
HÀ THƯ và NGŨ HÀNH, ta nh́n lại Hà thư và những
vận dụng của ngũ hành A- Thời tiền lập
quốc. Tóm lược những thông tin
rút ra được từ sách Lă thị xuân thu của Lă
bất vi: -Phương số 3- 8 Hà thư
là :Thái cao –Bào hy vua của phương đông ứng
với màu xanh hành mộc Vùng trời này được
gọi là Viêm thiên trong cửu thiên và trên thực
địa th́ không thể có sự chỉ định nào
khác ngoài vùng nhiệt đới hay cận xích đới,
ngược với viêm thiên là huyền thiên hay
phương nam,phương màu đen tiếng Việt c̣n
gọi là Mun, người Tàu kư âm thành Man và chính
người Tàu củng đă xác định đấy là
phương nam qua từ kép NAM MAN tức nam mun. Tới đây đă đủ
bằng chứng để kết luận : phương
bắc và nam đă bị lật ngược đây là
việc làm có chủ đích , có hệ thống v́ không
phải chỉ có phương nam bắc mà toàn bộ
những thông tin cơ bản của dịch lư
đều bị đảo lộn như âm dương,
vạch đứt -vạch liền, các phương
vị của Hà Lạc và bát quái, ngũ hành cũng cùng
chung số phận; nói chung CÀN KHÔN đă bị
người Hán phá nát, những điều này dần
dần khi đi sâu t́m hiểu địch học họ
HÙNG chúng ta sẽ nhận ra. Các cặp số của Hà
thư cho ta 4 phương và trung tâm hay trung nguyên. 4 phương tượng
trưng cho 4 thị tộc hay bộ lạc thời
tiền lập quốc và trung nguyên là nơi hoà hợp
–thống nhất các thị tộc thành dân tộc, thời
gian này là thời lưỡng tính, khởi đầu là
liên minh thị tộc và kết thúc là h́nh thành quốc gia.
Quốc hiệu đầu tiên của ḍng giống HÙNG là
Quốc gia họ HÙNG hay HỮU HÙNG QUỐC, chữ hữu
ở đây là kư âm chữ họ , quốc
hiệu này biểu thị rất rơ thời lưỡng
tính trên v́ mang trong bản thân cả hữu lẫn
quốc . - cặp số ( 3-8 ) Trong hà thư chỉ
phương đông phương mặt trời mọc
hay mùa xuân; ư chỉ buổi b́nh minh của dân tộc.
Truyền thuyết lập quốc người Việt gọi
vị tổ phụ phương đông là
ĐỘNG Đ̀NH QUÂN vua vùng Động đ́nh hồ.
Mới đây các nhà nghiên cứu Việt nam đă sưu
tập được trong truyền thuyết dân gian tên 4
v́ vua đầu của họ HÙNG là : VUA CẢ- THÁI CAO,
THÁI VIÊM ( ĐẾ VIÊM) , THÁI KHANG VÀ THÁI TIẾT;THÁI CAO
chỉ là tên chữ nho của VUA CẢ mà
thôi, ta thấy đế hiệu này trùng khớp với
THÁI CAO- BÀO HY của cổ sử Trung hoa, theo 1 trật
tự hợp lư th́ THÁI CAO chỉ là tên khác của
ĐỘNG Đ̀NH QUÂN cả 2 đều mang tính biểu
thị cho phương đông; chính xác phải gọi là
phương động là tính chất
của can BÍNH- BẤN tượng số (8) trong thập
can, c̣n Thái cao hay Vua cả chỉ sự khởi
đầu của các vua hay buổi b́nh minh của dân
tộc.phương đông củng là phương của
màu xanh và t́nh thương.sách Lă thị xuân thu chép vua
dựa vào mộc đức mà cai trị, số ứng
là số 8 là số chỉ phương đông trong Hà
thư, động vật tiêu biểu là loài có vảy
tức loài rồng –rắn , kỷ cuả ngài gọi là
mạnh xuân kỷ. Động đ́nh hồ ở
đâu ? phần lớn những nhà nghiên cứu sử
đều bị mê hoặc bởi đầm Vân mộng
ở Hồ nam và xác định đấy là Động
đ́nh hồ của cổ thư, trong sách cổ của
Trung hoa nói nhiều đến Chấn trạch hay Lôi
trạch cả 2 đều có nghĩa là cái hồ ở
phương đông ta thấy đầm Vân mộng không
đủ các yếu tố theo chỉ định của
ngôn ngữ v́ nó nằm ở khoảng giữa đất
Trung hoa..Đ́nh hồ nghĩa là cái hồ lớn có
thể hiểu là biển nên động đ́nh hồ phải
dịch sang Việt ngữ là Biển đông mới
đúng, Động đ́nh quân là vua vùng biển đông,
căn cứ vào năng lực con người vào thời
đại ấy th́ biển đông chỉ có thể gom
vào vùng vịnh bắc bộ ngày nay là hợp lư, truyền
thuyết Việt nam nói Linh lang một v́ vua
được thờ rất nhiều đă hoá tức
chết ở hồ Tây và hồn suôi về Động
đ́nh hồ ,điều này kiện chứng thêm cho
sự ấn định trên. - cặp số ( 2-7 ) Số( 2-7) chỉ phương
nóng bức hay hướng xích đạo là nơi cai
quản của THÁI VIÊM ;tổ phụ
phương lửa hay quẻ LY.sách Lă thị xuân
thu và các tư liệu lịch sử Việt nam
đều gọi là VIÊM ĐẾ đây là sự
khập khễnh đáng tiếc , khi đă xác định
là 1 tổ phụ thời tiền lập quốc phải
gọi là THÁI VIÊM mới chuẩn xác và nhất
quán;truyền thuyết lich sử Việt coi Thái viêm
Thần nông là tổ cao nhất của ḿnh; Đế MINH
chắu 3 đời của Viêm đế Thần
nông....dă sử Việt đả mở đầu như
thế..., c̣n theo Lă thị xuân thu: Viêm đế cai
trị bằng hoả đức, thần bảo hộ
là hỏa thần Chúc dung, số tương ứng trong
Hà thưlà số 7 hướng xích đạo cũng là
màu đỏ, động vật tiêu biểu là loài lông
vũ tức loài chim và nhiều sách cổ của Trung Hoa
chỉ định rơ là chim khổng tước tức
chim công. Thực tế ta hiểu thị tộc của
Viêm đế có địa bàn sinh sống là vùng nóng
nhất trong 4 thị tộc thời tiền lập
quốc tức gần xích đạo nhất.Trung hoa
xưa vẫn gọi miền trung Việt nam là miền
bắc hộ ư nói v́ đă vượt qúa xích đạo
nên cửa mở về hướng bắc để
đ̣ón ańh mặt trời. - cặp số (4-9) Phương tây trước
đây không được nói tới trong truyền
thuyết lập quốc nhưng nay đă được
bổ sung là THÁI KHANG hay tổ phụ phương tây,
từ khang thực ra là khăng hay khăng khăng
nghĩa là không thay đổi, khăng
=cang=cương=cứng là tính chất của
phương tây theo dịch học: số 4 là cứng,
số 9 là đinh hay tịnh, Lă thị xuân thu viết
động vật tiêu biểu là loài lông mao ư nói loài sư
tử , đây là cái sai rất điển h́nh
của những người cố ư cạo sửa
cổ thư v́ sư tử là loài thú xa lạ với
cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến
sư tử á châu bao giờ chưa ?..Động vật
tiêu biểu của phương tây phải là con voi v́ can
số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can:
định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đă là
con voi rồi vậy mà Có người cố ư nhập nhèm
sửa đổi v́ phía bắc sông Ḥang hà từ cổ
chí kim làm ǵ có voi nên họ thay bằng con sư tử ,
cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi
số 4 mà thôi, số 4 việt ngữ là bốn, biến
âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa
ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây c̣n gọi là
phương Chiêu, tổ phụ phương này là THIẾU
HẠO. Ở trên ta đă biết khương hay
cương có nghĩa là cứng rắn không thay
đổi, đấy là đặc tính của
phương tây cổ thư trung hoa cũng nói đến
sông KHANG hay KHƯƠNG như cái nôi của người
cổ, từ Khương kư âm thành Cương cho phép ta
liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức sông MÊCÔNG
ngày nay. - Cặp số ( 1-6) Việt ngữ gọi tháng 1 là
tháng giêng, hoa ngữ kư âm thành giang đồng nghĩa
với con sông thường được dịch thành
xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen
trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng
là mun màu đen tiếng Việt để tạo thành nam
mun hay man, vị vua của phương này truyền
thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra
là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp chỗ
giao nhau của cũ và mới trước và sau là sự
bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa
chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên
Thái tiết c̣n có tên là tiên đế, lĩnh nam trích quái
gọi là bà VŨ TIÊN,ta thếy tất cả đều
xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa
là vua vùng số 1 tức phương nam, v́ vua của
phương 1-6 này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC,
xuyên là con sông như ta đă biết ở trên c̣n Húc
chỉ là kư âm sai của từ hắc
nghĩa cũng là màu ̣đen.sông đen chuyển
ngữ thành Xuyên húc hay Hắc B- Thời lập quốc. HIỀN VƯƠNG vua của thị tộc CẢ
nghĩa là tộc đứng đầu; cổ sử
Trung hoa chép thành HIÊN VIÊN của tộc CƠ, nơi
Thị tộc CẢ sinh trú là vùng sông CẢ ở
NGHỆ AN VIỆT NAM ngày nay , cổ sử chép : Hiên viên
trở thành tổ họ CƠ; sông CƠ tức sông
CẢ nơi sinh trú được lấy làm họ cho
thị tộc, Vương đánh bại XUY VƯU vua
của thị tộc CỬU LÊ ; đoạn sử này
xuất phát từ cặp số 4-9 chỉ phương
tây của Hà thư, xuy là âm số 4 c̣n cửu là số 9.
Hiền vương thống nhất 2 tḥị tộc thành một dân tộc, dân
tộc HÙNG, lập nước họ HÙNG và lên ngôi HÙNG
VŨ tức VUA HÙNG , vũ chỉ là kư âm hán tự
chữ vua của việt ngữ, lănh thổ của
nước họ HÙNG là đất GIỮA chuyển âm
Hán ngữ thành YUÊ c̣n được dịch thành GIAO
CHỈ, chỉ là chỗ, nơi chốn ư nói nơi giao
nhau của 2 đường nam –bắc, đông tây,
chữ giữa kư âm YUÊ không hiểu sao Việt nho
đọc thành VIỆT. Vua Hùng dạo chơi
phương nam gặp và kết hôn với con gái bà Vũ
tiên hay tiên đế sinh ra LỘC TỤC, Lộc là
biến âm của lục là số 6 và công thức
đả ấn định trong hà thư để sinh
ra Lục tục : Hiên viên hay Hiền vương tên
tộc là NGU chính xác là NGŨ số 5 ở trung tâm của
Hà thư, lấy con bà Vũ tiên là số 1, sinh ra Lộc
tục được chỉ bởi số 6;ta có: 5+1=6,
sau vua HÙNG truyền ngôi cho con cả lập nên triều
đế NGHI ở phương Bắc và Lộc tục
được phong là vương phương Nam lấy
hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG, Kinh
biến âm của cóng nghĩa là lạnh
cũng là một tên khác của quẻ Khảm chỉ
NƯỚC trong cặp đối Lửa-Nước hay
phương Bắc và phương nam,nóng và lạnh c̣n dương
chỉ là biến âm của Giêng tức số 1 của Hà
thư.Gịng con cháu đế NGHI gọi là người LA
tượng trưng bởi qủe LY là lửa , qủe
của Viêm phương. Cổ sử Trung hoa không ‘thích’
con đường hôn nhân mà nhất định phải
đánh , phải có chiến tranh và chiến thắng
mới oai ...nên viết HOÀNG ĐẾ tức HÙNG VŨ
đánh bại HOAN ĐÂU con của vua XUYÊN HÚC ở
ĐAN THỦY, đan là biến âm của đen, Đan
thủy hay HẮC THỦY cũng là con ‘sông đen’ mà thôi,
HẮC THỦY là tên của sông ĐÀ xưa. HOAN ĐÂU là
tổ của người MIÊU hay Hữu Miêu tức
họ Miêu, chữ Miêu chỉ là kư âm sai của chữ MUN
mà thôi, người Mun nghĩa là người phương
nam. Tất cả người tộc Miêu đều
nhận ḿnh là người MUN. Thực tế th́ chẳng có hôn
nhân cũng chẳng có đánh nhau đấy chỉ là
một lối ám chỉ ,diễn tả việc phát
triển dân tộc HÙNG về phương nam ,ở
đấy cộng sinh và hoà huyết với1 tộc
người mới là người MUN kết qủa là
tạo thành gịng tộc HÙNG phương nam gọi là
người KINH hay CÓNG tên khác của quẻ Khảm
chỉ phương nước ngược với
phương lửa. LA và KINH là anh em cùng cha khác mẹ
, cả 2 là con HÙNG VŨ tức vua HÙNG và đất
giữa hay YUÊ cũng có Yuê-bắc và Yuê- nam, ngày nay kim chỉ
nam c̣n được gọi là LA-KINH tức cây kim 2
đầu, 1 đầu Bắc và1 đầu Nam nhưng
chỉ là 1 cây kim mà thôi . Người KINH mọi
người đều biết là người VIỆT
hiện nay c̣n người LA ? Câu ca dao sau sẽ dẫn dắt
chúng ta ̣đến 1 bất ngờ to lớn: Ai ơi chớ lấy KẺ LA. Gạt bỏ ư tứ trong
lối chơi chữ ‘dưa khú- cà thâm’ đi ta có
được 1 thông tin quan trọng và qúy giá đó là
KẺ LA, kẻ nghĩa là người , kẻ La là
người La tên người Việt gọi
người CHĂM hay CHÀM; th́ ra La và Kinh là chỉ người
Việt và người Chàm hiện nay..., người Chàm
là ḍng đế NGHI con cả của vua HÙNG, thật là
một bất ngờ to lớn khi biết La là quẻ Ly
;Kinh là quẻ Cóng hay khảm tức quẻ lửa và
quẻ nước biểu thị sự phân cực
của một thể thống nhất theo luật
lưỡng nghi của dịch học. Người Chàm chỉ là
một phần của người La , người La
hiện nay có mặt ở nhiều nơi trong vùng đông
nam á và trung quốc, Lào và Thái có người LÀO hay LĂO QUA,
Trung quốc có người DI LĂO hay CAĐAI và
người LÊ, các từ Ly-la- lê-lăo-lô..v.v chỉ là
những biến âm của 1 từ gốc là LỬA,
chữ Di là tàn tích của chữ NH̀ là thứ hai . DI_LĂO có 1 từ kép Đối
xứng là KINH_LẠC, qủe Cóng đối với
qủe Ly hay Kinh đối với Lăo; Lạc biến âm
của lục số 6 đối với Di biến âm
của nhị số 2, 6 và 2 là 2 số đối phân
cực Bắc –Nam của Hà thư. Người KINH- LẠC; ngoài
người Kinh ở đất Việt hiện nay c̣n có
ḍng Bách-lộc và người Hẹ hay Hacka và
người mang họ MẠC ở đất Trung quốc
v́ Chữ LẠC c̣n đọc là ḤẠC
và MẠC-MẠCH, có điều lạ lùng là không hiểu
sao người Tàu lại gọi người Cao ly là
Mạch, có 1 sự lẫn lộn nào đó của
lịch sử hay không ?. Khi h́nh thành nên tộc Kinh-Lạc
ḍng máu người họ HÙNG đă là sự ḥa huyết
của 3 thị tộc gốc: người ḍng CẢ
của phương bắc, người CỬU_LÊ của
phương tây, người MUN hay MIÊU của
phương nước hay nam xưa tức phương
bắc ngày nay. Truyền thuyết Việt nói :
KINH DƯƠNG VƯƠNG kết hôn cùng LONG _NỮ con
ĐỘNG Đ̀NH QUÂN; thế là người họ Hùng
đă đi hết đoạn đường mà tạo
hóa sắp đặt để ḥa thêm ḍng máu thứ 4 vào
huyết thống của ḿnh ḍng máu của LONG tộc
ở phương ĐÔNG, diễn biến này
được Truyền thuyết lịch sử Trung hoa
viết Cổ sử cũng cho biết
khởi thủy đất trung hoa chỉ có châu
ĐÀO-ĐƯỜNG hay ĐÀO- DƯƠNG, thông qua các
dịch tượng ta hiểu Đào đường hay
dương cũng chỉ có nghĩa là bắc - nam hay
lửa và nước mà thôi, cổ sử Việt có nói
đ̣ến đất Việt thường
đấy chính là nói về đất Đường
trên, Đường là phát âm hán việt chữ thọng hay
thường mà thôi.Con dân vua HÙNG có người LA
người KINH, đất có đất Đào
đất Đường hay Việt thường,
căn cứ vào thư tịch cổ ta c̣n thấy vua
cũng có 2 ḍng, đế KHAI-MINH và đế
MINH-KHIẾT, ông KHIẾT là tổ của người
Trung hoa vùng Trường giang ta có thể suy ra đế
Minh Khiết hay MINH + KHIẾT là vua gốc ḍng KINH- LẠC
do sự ḥa huyết của đế MINH và ḍng VŨ TIÊN
phương nam gọi tên khác là ông KHIẾT như
truyền thuyết đă nói ở trên. Khi vua HÙNG truyền
ngôi cho đế NGHI ở phương bắc tức
đất Đào th́ quốc hiệu là nước
‘ĐÀO’ dịch sang Hoa ngữ là HỒNG BANG kư âm sai thành
HỒNG BÀNG, đấy là quốc hiệu đă
được mọi người VIÊT NAM mặc nhiên công
nhận Những ḍng tóm lược
về thời khai quốc trên đă cho thấy có sự
trùng hợp hầu như hoàn toàn giữa 2 ḍng sử
VIỆT và HOA , sự việc này thực kỳ bí buộc
ta phải đi sâu thêm để khám phá. |