TRÍCH YẾU LƯỢC VỀ CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO

                                CHIẾU MINH GIÁO T̉A

                                     VÔ VI TAM THANH

 ĐẠI THỪA TÂM PHÁP

 

I/ DẪN NHẬP:

        Đạo Cao Đài xuất phát ở tại Việt Nam do Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu tiếp nhận chân truyền tâm pháp  của Đấng Chí Tôn năm 1921 Tại Dương Đông,Phú Quốc, và Ngài khai mở tại Sài G̣n năm Giáp Tư 1924

          Ta cần phải t́m hiểu những sự việc có liên quan đến nền đạo cả này. Nhất là phước địa được Thượng Đế chọn làm nơi khai đạo cứu độ kỳ ba gọi là:

      CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

          Đủ đầy ư nghĩa để độ dẫn các nguyên nhân phục hưng chánh pháp và tái tạo một thời kỳ tốt đẹp văn minh vừa vật chất lẫn tinh thần trên thế gian này gọi là Tiên bang, Niết Bàn và Thiên đàng tại thế.

Ta đă biết qua địa h́nh và truyền thuyết lập quốc từ khởi điểm thông thường, ai ai cũng nhận rơ và thông hiểu mượn sự bày lư, dụng chỗ dễ hiểu, dễ biết, đễ thấy chỗ không thể thấy, cái không thể biết ,tức là trong cái thường, có cái phi thường, trong cái hữu có cái hy hữu là bí nhiệm ở bên trong, khi ta rơ thấu th́ thấy được sự sắp bày do Thiên định – ư trời thể hiện.

Nước Việt Nam từ h́nh thể đến con người mang biểu tượng đạo lư ẩn tàng trong danh xưng:

          Việt là ưu việt, siêu việt , trác tuyệt tối ưu, đỉnh cao tuyệt hảo là cao đài của chính ḿnh.

          Nam Nam phương Bính Đinh Hỏa -Tâm Hỏa.

Việt Nam là chân tâm ưu việt, tâm đăng sáng chói lương tâm của thời đại.

Chính nơi địa danh này xuất phát nền tâm pháp ưu việt để cứu khổ ban vui cho nhân loại .

Xét về địa h́nh của đất nước Việt Nam ta nhận thấy nó có h́nh chữ S và vẽ một  ṿng tṛn bao quanh ấy thấy rơ 2 phần.

Đất liền và Biển Cả

Trong đất liền có Biển Hồ

Trong biển có đảo Hải Nam

Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương

Nghịch chuyển do âm dương giao ḥa,kết tụ địa h́nh của lưỡng nghi tương đối.

Lại thêm nó có dạng h́nh tia chớp      

Đất nước Việt Nam phân chia ra làm ba miền rơ rệt: Bắc, Trung, Nam

Nhất tâm biến ra tam tâm: Bắc, Trung, Nam liên kết một nhà cũng là ba báu linh nằm trong cơ thể: Tinh, Khí, Thần

          Bắc thuộc thủy (nước) – Tinh

          Trung thuộc khí (có Ngũ hành sơn ngũ khí ) -Khí

          Nam thuộc hỏa, (lửa) -Thần

Đây cũng là Tài, Trí, Đức

Số 3 là số mầu nhiệm của đạo

Tuy ba mà một, tuy một mà ba.

Nếu thiếu một trong ba yếu tố sẽ mất hết tác dụng cũng như nơi con người :đầu, ngực và bụng.

Cũng là Bắc, Trung, Nam thống nhất một nhà, không c̣n rẻ chia, độc lập thịnh vượng vững bền. Điều đáng chú ư nhứt là đạo tâm xuất phát từ Miền Nam Việt Nam, nó có ḍng sông Cửu Long chảy qua,phát nguồn từ Tây Tạng, trên đỉnh cao tột của Hy– Mă– Lạp – Sơn đổ ra biển Đông, chỗ thấp nhứt tượng trưng Thượng Hạ, Cao Thấp, Tây Đông hợp nhất, thành con sông Báu. Bảo Giang mang linh khí của trời đất tạo tác địa linh, đánh dấu nền văn minh tối ưu của nhân loại.

Trời đất hợp nhất, càn khôn hoán tượng, âm dương giao ḥa.

Đạo lành phát khởi

      Lại thêm dân tộc Việt Nam là Giống Tiên Rồng, anh hùng dũng cảm: tiền nhân dùng truyền thuyết,mượn sự bày lư diễn tả nguồn cội

Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sanh ra một  bộc - đồng bào - một trăm trứng nở ra một trăm người con, năm chục người theo Bà lên núi trong dương có âm, năm chục người theo Ông xuống biển, trong âm có dương, lưỡng nghi tương đối tạo ra giống Lạc Hồng, theo đàn chim việt xuống Phía Nam  lập nghiệp, từ trung tâm nguyên bản (thượng giới) xa rời nguồn cội lạc vào hồng trần ( Hạ giới) để học hỏi và tiến hóa.

Dân tộc Việt Nam thông minh lỗi lạc lại phải bị Tàu đô hộ ngàn năm,trăm năm Pháp xâm chiếm,ba mươi năm nội chiến dai dẳng, với biết bao gian khổ để tồn tại, nhờ tiền nhân thương dân, mến nước giữ ǵn bờ cơi.

Ngoài ra tiếng nói Việt Nam rất phong phú đủ đầy truyền cảm  là tiếng nói của con tim, xuất phát từ tâm, tâm pháp phát khởi, chân lư rạng ngời.

 Ta nhận thấy phần tinh thần lư thuyết cũng trùng hợp với địa h́nh vật thể của đất nước Việt Nam, khai mở nền Đại Đạo, ban truyền tâm pháp, cứu vớt nhân loại thoát khổ là điều tất nhiên.

Thiên định an bài.

Đây cũng là lư đạo tiềm tàng của đất nước và con người thể hiện  nơi  thế gian bên ngoài,  gom về đối chiếu tiểu vũ trụ nơi thân ta cũng vậy, gồm 3 phần:

          Đầu: sức nóng, ánh sáng :         Thần

          Ngực: chứa không khí :   Khí

          Bụng: chứa nước:            Tinh

          Ta mượn cái hữu để t́m vô, mượn tướng để rơ tánh, nhờ vào cái đă thấy biết, để tỏ ngộ cái chưa thấy biết ẩn tàng ở bên trong, vô cùng quan trọng. Khi ta đă rơ thấu, biết được cơ tạo – Máy Trời- vận hành cũng là Tâm Pháp đấy!

Tâm đăng – ngọn đèn ḷng của ta đem ra ứng dụng bị hao hụt nên mờ lu u tối, bởi thiếu dầu, hao tinh, ánh sáng yếu ớt, thần lụn bại,càng ngày càng kiệt quệ. Nhờ có tâm pháp hành trau phục đạo, tinh đầy, khí đủ, thần quang tỏ rạng, tâm đăng thành huệ đăng đến Thiên đăng nhựt diện.

Ngọn đèn Trời Chiếu Minh khắp chốn.

Nước Việt Nam xuất  hiện Đạo Trời đem đến sự hưng thịnh về vật chất và tinh thần  với nền văn minh tối ưu của nhân loại trong những thế kỷ kế tiếp.

Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ra đời cứu khổ ban vui một Đại Hồng Ân đến với nhân sinh thời mạt hạ.

II/ KHAI MỞ: CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO (1926 – 2004)

Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu hướng dẫn các vị c̣n sơ cơ: ông Kỳ, Bản, Hoài, Sang thờ phượng theo chân truyền của Ngài rồi đến các vị Trung, Tắc, Cư . . . với bài thi kỷ niệm ngày mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần(21/02/1926)

Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh,

Bản đạo khai Sang, Quư, Giảng thành.

Hậu, Đức, Tắc, Cư Thiên địa cảnh,

Hườn, Minh, Mẩn đáo thủ đài danh.

         Với đạo lư Đại Thừa cùng sứ mạng của Ngài cũng như từ khởi điểm diễn tiến đạo pháp:

          1./ Đức Ngô Minh Chiêu phải cứu độ hướng dẫn các vị bằng Tồn Sanh Pháp để tinh thần phát triển  măi măi, không hao hụt, lưng vơi.

          2./ Điều căn Bản của đạo là sự sống, sự sáng giảng giải cho nhân sanh phải thực hành đắc thành pháp đạo quư báu vô ngần.

          3/ Sau khi thực hành đầy đủ trí huệ phát sanh tự hữu hằng hữu nơi ḿnh, âm dương hiệp đèn ḷng bừng sáng, có như vậy mới thông thiên hoạt địa, biết  của đất rơ của trời, cũng là giai đọan quan trọng với cảnh giới.

          Thiên hoàng: 500 năm (1924-2424)

          Địa hoàng: 500 năm (2424-2924)

          Nhân hoàng: 500 năm (2924 –3424)

          4./ Đắc đạt và phục hoàn do công phu tu hành trở thành minh mẫn ư nói sau cùng đạo pháp hoàn nguyên, đến chỗ viên minh thành đạo phải giữ lại danh nghĩa của “Cao Đài”là điều căn bản, cũng là Cao Đài đảnh thượng của ḿnh.

              Bài thơ tứ tuyệt của Đức Chí Tôn dạy Đại thừa tâm pháp cứu độ các vị có tên trong đó.

              Nhưng v́ địa vị, danh lợi ,chức quyền các vị không chịu tu hành nên tách rời ra lập cơ hữu h́nh tôn giáo theo âm thinh sắc tướng, tổ chức nhân sự quy tụ tín đồ để lập công bồi đức.

C̣n  Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu lo phần truyền nội đạo vô vi, tô bồi tâm trau luyện tánh gọi là Phương Pháp Bồi Dưỡng Sức Khỏe và Tinh Thần để con người có thân thể khỏe mạnh trí tuệ dồi dào tạo tác sự sống và sự sáng  cho con người tu giải thoát và an vui trên cơi đời.

Ngài chỉ dạy cho những vị hữu duyên hữu phước tu theo đường lối đúng chân truyền, không được canh cải đó là Máy Trời -Thiên Cơ nơi con người.

Ông Bùi Quang Huy, sanh năm 1878 là Hội Đồng Địa Hạt, lúc c̣n nhỏ lưu lạc ở Miền Đông, Miền Tây gặp gỡ và giao lưu các nhà cách mạng lăo thành, Ngài dám đánh Tây kinh lư, bảo vệ dân và ra ṭa được trắng án. Với ư chí hào hùng và luôn luôn vươn lên từ bàn tay trắng làm nên sự nghiệp. Năm 1926 Ngài gặp Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu hóa thân độ Ngài  thâu làm đệ tử đầu tiên và dùng tư gia lập Tổ Đ́nh Chiếu Minh Đàn ở Xă Mỹ Thuận, Tổng An Trường, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là xă Thuận An, huyện B́nh Minh, tỉnh Vĩnh Long)với đầy đủ ư nghĩa của mối Đạo Trờiû:

          Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (tám chữ là Bác phương)

Gồm cả hữu vô mới thực dụng, c̣n các vị theo cơ hữu h́nh không nhận rơ vô chấp vào chỗ hữu, cùng với hoàn cảnh lúc bấy giờ các vị đều là nhân viên chức quyền. Trong khi đó  Pháp gặp sự chống đối của các nhà yêu nước Cách mạng, v́ vậy họ sợ chữ Cao Đài là công cụ của nhà Cách mạng Cường Để (CĐ) nên bỏ hẳn hai chữ Cao Đài chỉ c̣n lại: “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.

          Ngọn đèn soi sáng cho thế gian đen tối, nhưng lại không có điện, khác nào xác không hồn, đèn không cháy, máy không hoạt động, lại mang sứ mạng cao cả đi cứu độ, giải khổ cho nhân sinh thật là điều thiên nan vạn nan, không thể nào làm được.

 

 Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu cùng với Ngài Bùi Quang Huy đi Sài G̣n vẽ tượng thờ thiên nhăn đầy đủ  ư nghĩa về đạo lư thâm sâu biểu tượng máy trời để nhân sinh t́m cầu học hỏi, từ vô ra hữu, nương hữu t́m vô, khi rơ hữu vô mới tri tường lẽ đạo, đây là đường lối Cao Đài Chiếu Minh thật sự đem đến lợi ích  cho con người.

Trời:  Có Nhựt - Nguyệt - Tinh

Đất: Có Thủy- Hỏa- Phong

Người: Có  Tinh – Khí – Thần

Vốn là báu linh, thiếu một không thể được, mất hết tác dụng, như người chết máy không hoạt động. V́ vậy tượng thờ có Nhựt – Nguyệt – Tinh xếp thành h́nh chữ nhất thẳng đứng, đi xuống là đoạ thần ra tinh, đi lên là siêu tinh quy thần. Ngọn đèn tinh thần bừng sáng, tượng thờ Mặt Trời là thần hỏa rọi dưới mặt nước để cho nước bốc hơi là khí:  (kim)Mặt Trăng bay bổng lên trên, Ngôi Sao là Tinh (Thủy), Lửa thiêu đáy chảo nước sôi động máy trời  thể hiện pháp luân vận hành sanh lửa điện (tia chớp)Thiên Nhăn tỏ sáng rạng ngời . Do đó Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu nói rằng nếu thiếu tia chớp là không có điện, máy không chạy. Như vậy tu chẳng có kết quả chi cả, c̣n dưới là Thập Tự Tam  Thanh: là Ngọc Thanh, Thái Thanh, Chơn Thanh cũng là pháp đạo luyện tinh, luyện khí, luyện thần của ba cấp đạo:

Thần Đạo

Thánh Đạo

Tiên Đạo hay Phật Đạo.

         Tùy theo căn duyên và tŕnh độ của mỗi người để tự chọn lấy hành trau gọi là công phu, công quả, công tŕnh.

Trên Thiên Bàn c̣n có đèn Thái cực,lư hương,rượu,nước trà, bạch thủy,hoa,quả,cặp đèn lưỡng nghi.Đây là đạo lư ẩn tàng trong h́nh thức rơ ràng, khi nhân sinh t́m hiểu được,để dâng cúng hằng ngày.

 Ngài Bùi Quang Huy  từ khi thọ nhận Chân Truyền Tâm Pháp với Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu  phế bỏ việc đời cứ lo tu hành cùng xây dựng đạo tại địa phương, với uy tín  lúc ở đời các bè bạn thấy rơ. Ngài đă oanh oanh liệt liệt thế mà vào đường hướng tu hành chánh chơn nên họ theo tu rất nhiều như ông Xă Cương ở xă Mỹ Ḥa, Cai Tổng Phương ở Thành Lợi, Hội Đồng Năm ở Tân Quới, ông Hương Quản Viên ở Phong Ḥa. . . và hàng ngàn gia đ́nh nông dân, các vị trí thức như: Phan Khắc Giản, Phan Khắc Sửu. . . trở thành đệ tử môn đồ và tín đồ tu  hành theo Chiếu Minh Đàn của Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu, trong thời gian 1926 đến năm 1932. Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu liễu đạo trên sông Tiền bắc Mỹ Thuận, tỉnh Vĩnh Long năm 1932, tang lễ tại Thảo Lư ở Cần Thơ , an táng nơi Chiếu Minh nghĩa Địa. Ngài Bùi Quang Huy người đă dầy công truyền đạo trông coi chánh pháp chân truyền là Chưởng giáo đầu tiên của Chiếu Minh, Cao Đài Đại Đạo dạy dỗ các môn đồ vừa tu vừa lo đời, bởi đời đạo không ly ĺa hữu vô không riêng rẽ, có thực mới giựt được đạo. Tổ Đ́nh Chiếu Minh Đàn càng ngày càng thu thập môn đồ, tín đồ rất đông cả vùng đều theo và nhất là trong gia đ́nh các người con đều theo ư chí của Ngài như các vị sau đây.

Bùi Thị Vàng (sanh năm 1902- mất 1972)

Bùi Hà Thanh (sanh năm 1904 - mất 1985) Hội Trưởng Hội Liên Việt Long Châu Sa

Bùi Hà Đông (sanh năm 1907 - mất1968) Chủ Tịch UBKC Mỹ Thuận

Bùi Sanh Châu (sanh năm 1911 – mất 1937)

Bùi Tần (sanh năm 1917 – mất 1983) P. Ban Tuyên Giáo Tỉnh Đồng Tháp; Huân Chương Độc Lập Hạng II

Bùi thị Nết (sanh năm 1925- mất 1995) Phụ Nữ Mỹ Thuận

Bùi Tâm (1924 ) Thương Binh

Với sự tin tưởng về thân phụ và thân mẫu nên các vị này đi theo đường lối tu hành và truyền thống bất  khuất của gia đ́nh.

Năm 1933 Chưởng giáo Bùi Quang Huy liễu đạo. Người thay thế kế vị Chưởng giáo đời thứ hai là Ngài Bùi Hà Thanh cũng là đệ tử của Đức Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu tiếp tục trông coi chân truyền chánh pháp, dạy dỗ môn đồ theo lư đại thừa và hoằng hóa khắp nơi Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh, Đại Thừa Tâm Pháp được Ngài thực thi đúng mức nên nổi tiếng và có uy tín khắp nơi, điều đáng chú ư là Ngài bị bệnh thổ huyết khi đậu thủ khoa ở Miền Nam, sắp đi Pháp học, nhưng gặp Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu hành phương pháp này hết hẳn cơn bệnh mọi người tin tưởng.

Tổ Đ́nh Chiếu Minh Đàn khang trang là nơi sinh hoạt của đạo, nuôi những người tu hành xuất gia, giúp đỡ tín đồ trong cuộc sống vật chất và tinh thần. Thế đạo càng ngày càng phát triển v́ niềm tin vào mối đạo trời, ngày rằm và mùng một thường lệ họ đến để triêm bái và học hỏi việc tu hành cho chính chắn, Ngài Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh phải đảm nhiệm trọng trách cùng với người em là ông Bùi Hà Đông cương vị phụ tá vừa trông coi gia đ́nh  liên hệ tốt đẹp với xă hội, uy tín của ông Bùi Hà Đông là người tánh t́nh quảng  đại, hào hùng dám nghỉ dám làm, văn vơ song toàn, dân chúng mến mộ một  cách đặc biệt.

Về mặt đời người đă tổ chức hội thể thao, đội bống đá nữ đầu tiên ở Cái Vồn, khuyến học đưa ông Phan Khắc Sửu đi Pháp học đỗ kỹ sư, tổ chức thầy cô giáo tŕnh diễn văn nghệ lấy tiền nuôi học sinh ở vùng sâu vùng xa đến trường Cái Vồn học, giúp đỡ người nghèo, tá điền, người dân tộc Khơme xem như là ân nhân. Điều đáng quan tâm là sự giáo dục của ông đối với toàn thể gia đ́nh noi theo truyền thống cha ông để lại, thực tế chứng minh gia đ́nh ḥa thuận, trên dưới một ḷng theo đạo, lo đời giúp ích xă hội. Thời gian sống an nhanø trong cảnh thái b́nh, hai vị đều lo gầy dựng đạo, mến thương đời là tôn chỉ mục đích của cuộc sống gia đ́nh và  mẫu mực cho mọi người  noi theo.

Đột nhiên thời thế thay đổi, ngọn lửa chiến tranh khởi sự năm 1945 từng lớp nhân dân ở mọi thành phần giai cấp, đảng phái phải đi vào cuộc chiến, đây là vấn đề quan trọng nhất của thời thế lúc bấy giờ, ông Bùi Hà Đông với uy tín sẳn có và được cảm t́nh ủng hộ bầu là Thủ Lĩnh Thanh Niên Tiền Phong và lật đổ chính quyền Pháp làm Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến xă Mỹ Thuận, lănh đạo chính quyền Cách Mạng trong vùng vươn cao ngọn cờ  chống thực dân Pháp giành thắng lợi. Ông Bùi Hà Thanh làm Chủ Tịch Mặt Trận Việt Minh, ông Nguyễn Ngọc Diệp đệ tử của Ngài Bùi Quang Huy là Đảng viên Cộng Sản thành lập Đảng bộ đầu tiên trong vùng, Bà Bùi Tần lănh đạo phong trào phụ nữ, Bùi Thị Nết cán bộ phụ nữ, Bùi Tâm đi bộ đội bị cụt chân. Như vậy gia đ́nh của ông Bùi Quang Huy đều tham gia cách mạng đầu tiên trong vùng, c̣n môn đồ và tín đồ Chiếu Minh hăng say gia nhập vào mọi đoàn thể, tinh thần hăng hái rần rộ theo tiếng gọi của Nam bộ kháng chiến. Thực tế theo quan điểm  nhứt thời và ḷng thương yêu mọi người xuất phát từ gia đ́nh đạo đức. Ông chủ tịch Bùi Hà Đông tưởng rằng cuộc cách mạng đă thành công vững vàng thấy dân chúng khắp nơi trong tỉnh Vĩnh Long nào là xă Ḥa Thạnh, An Phú Thuận, Lộc Ḥa, An Khánh, Mỹ Thuận, Thành Lợi, Tân Quới.v.v. . . đang gặp cơn đói nên ông đă kư giấy mượn hai chục ngàn giạ lúa của Ban Dùng và mười ngàn giạ lúa của Phó Lỹ, xuất kho để chia cho các hộ qua cơn đói, mượn heo, ḅ của dân chúng để làm thực phẩm cho bộ đội, lấy Tổ Đ́nh Chiếu Minh Đàn làm nơi đống quân của bộ đội ông Khương, Ông Lới, tập dượt quân du kích, môn đồ, tín đồ hàng ngàn người đă ủng hộ  và tiếp tế cho cách mạng thật là sự đóng góp lớn lao mà gia đ́nh của ông Bùi Quang Huy khởi xướng dấy lên phong trào yêu nước. Cuộc cách mạng tháng 8 của Miền Nam riêng ở vùng Cái Vồn Mỹ Thuận là sôi động nhất. Nhưng rồi giặc Pháp trở lại chiếm Đông Dương t́nh h́nh ở vùng Mỹ Thuận thay đổi, Ty mật thám của Pháp bắt ông Bùi Hà Đông và Ông Bùi Hà Thanh giam ở khám lớn Cần Thơ. Thật là giai đoạn khó khăn cho gia đ́nh ông phải xuất tiền lo lót và trả nợ số lúa, heo, ḅ mượn của dân chúng.

Năm 1946 ông Bùi Hà Đông tiếp tục hoạt động cách mạng với cương vị Chủ Tịch và ngôi Tổ Đ́nh Chiếu Minh Đàn là ngôi nhà 115 năm (nhà báo Thanh Nhân viết) đồn binh chống Pháp, sau đó bị tiêu thổ kháng chiến nên nay chỉ c̣n là nền và đóng gạch vụn. Ông Bùi Hà Thanh đứng ra đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Liên Việt  Long Châu Sa tản cư vào vùng giải phóng, xây dựng căn cứ ly thôn ở xă Ḥa Thạnh, Sông Phú, An Phú Thuận, An Khánh. v. v. .

Ông Chưởng Gíao Bùi Hà Thanh lo đạo giúp  đời, yêu nước tổ chức Cao Đài Cứu Quốc như ở các nơi.

Giặc Pháp họa đồ h́nh treo án tử h́nh hai ông Bùi Hà Đông và Bùi Hà Thanh và cho máy bay rải truyền đơn truy nă thưởng tiền cho ai bắt được hai ông này.

 Trong thời điểm ở vùng Cái Vồn từ năm 1946 trở đi có một thế lực lớn lao của Trần Văn Soái lănh đạo quân sự Phật Giáo Ḥa Hảo và xung đột với lực lượng cách mạng (VM). Những trận đánh lớn nhất  xảy ra tại vùng này từ cấp trung đoàn, sư đoàn: 109, 81 . . . đă thắng rất nhiều trận danh tiếng diệt hàng ngàn tên giặc Pháp (trận Vông Đôi, trận đồn Cai Tổng Giỏi, Chùa Cổ Đông Phước)

Riêng môn đồ tín đồ Cao Đài Chiếu Minh đă tham gia vào quân du kích và đi bộ đội hàng ngàn người, tiếp tế cho cách mạng và là chỗ dựa nuôi dưỡng cán bộ.

Đến năm 1950 ông Bùi Hà Đông và Bùi Hà  Thanh tản cư xuống xă Lộc Ḥa v́ lúc này vùng  giải phóng đă bị giặc chiếm đóng, hai Ông cùng các cán bộ ở xă An Khánh bị Ḥa Hảo bắt giam và gia đ́nh lo tiền được thả.

Riêng về gia đ́nh của các Ông, môn đồ, tín đồ Chiếu Minh đi qua quân khu 9 và khu 8 gia nhập vào các lực lượng cách mạng và bộ đội. . . tiếp tục chống Pháp.

 Tất cả các người đi nên danh phận tập kết ra Bắc, trở thành tướng, thứ trưởng, tư lệnh, kỹ sư, bác sĩ.v.v . . .

Trung tướng: Nguyễn Như Văn

Trung tướng: Nguyễn Thanh Tùng

Thứ trưởng: Hoàng Thiện Tâm (Tác giả Mỹ Thuận anh hùng)

Thứ trưởng: Đặng Văn Thông

Tư lệnh không quân: Cao Hùng Mạnh . . .

Bà Bùi Ngọc Bê, Sinh năm 1925 ở xă Thuận An, tham gia Cách mạng năm 1945 trong hai thời chống Pháp và chống Mỹ (Huân Chương Kháng Chiến Hạng Nhất, Huy Chương kháng Chiến Hạng Nhất, Huy Hiệu 40 Năm Tuổi Đảng, Huy Hiệu 50 Năm Tuổi Đảng,)

          Ông Phạm Ngọc Cứ, sinh năm 1924,ở xă Nguyễn văn Thảnh tham gia Cách Mạng năm 1945, suốt trong hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ, sau ngày Miền Nam ḥa b́nh là Chủ Tịch UBND xă Mỹ Thuận. Huy Chương Kháng Chiến Hạng Hai và nhiều giấy khen.

          Ông Thân Văn Hớn: sinh năm 1926 tham gia Cách mạng năm 1948, ban chấp hành Cao Đài cứu quốc liên Châu Sa tham gia kháng chiến hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, đến năm 1984 Trưởng Ban Văn xă Mỹ Thuận, kiêm Hội Thẩm Ṭa Aùn huyện B́nh Minh. Huy Chương Kháng Chiến Hạng Nhất

          Bà Nguyễn Thị Năm: sinh năm 1931, xă Nguyễn Văn Thảnh đă có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nuôi dưỡng cán bộ Huy Chương Kháng Chiến Hạng II.

          Ông Phạm Văn Chơn: sinh năm 1906 tham gia Cách Mạng năm 1946, phong tặng Huân Chương Kháng Chiến Hạng III.

          Ông Nguyễn  Hữu Sao: sinh năm 1930 tham gia Cách mạng năm 1947 hy sinh năm 1972, chức vụ Bí Thư xă Mỹ Thuận (Huân Chương Kháng Khiến Hạng I ).

          Bà Trần Thị Kư: sinh năm 1920 xă Nguyễn Văn Thảnh người có công nuôi dưỡng cán bộ, phong tặng Huân Chương Kháng Chiến Hạng III.

          Con Liên Sĩ: Nguyễn Thị Đường. Huân Chương Chiến Sĩ Giải Phóng Hạng Nh́.

          Bà Nguyễn Thị Lư : sinh năm 1915 xă Nguyễn Văn Thảnh có công nuôi dưỡng cán bộ Ban Tuyên Huấn tỉnh như Ông Ba Chài, ông Ba Đổ v.v…….., phong tặng Huy Chương Kháng Chiến Hạng Nhất.

          Liệt sĩ: Lê Văn Hà : sinh năm 1943 xă Nguyễn Văn Thảnh hy sinh năm 1967.

          Ông Lê Văn Dân: sinh năm 1950 nuôi dưỡng cán bộ, được tặn Bằng Khen của UBND tỉnh Cửu Long.

          Ông Nguyễn Văn Vàng: sinh năm 1929 tham gia Cách mạng 1946 thương binh hạng 1/4, chức vụ Trưởng ban Công Trường huyện.

          Liệt sĩ: Nguyễn Văn Khâu: sinh năm 1924 tham gia Cách mạng hy sinh 1969, Trưởng ban Tài chánh xă Mỹ Thuận. Huân Chương Kháng Chiến Hạng Ba

          Liệt sĩ: nguyễn Văn Aån: sinh năm 1948 tham gia kháng chiến chống Mỹ, hy sinh năm 1968 (Huân Chương Kháng Chiến Hạng Ba, Huân Chương Chiến Công Giải Phóng Hạng Ba, Huân Chương Chiến Sĩ Giải Phóng Hạng Ba.)

          Bà nguyễn Thị Ḅ: sinh năm 1923,xă Nguyễn Văn Thảnh, có công nuôi dưỡng cán bộ được Hội Đồng Bộ Trưởng tặng Bằng Khen.

          Phan Văn Phát: sinh năm 1913 ở xă Nguyễn Văn Thảnh, tham gia Cách mạng năm 1962 (Huy Chương Kháng Chiến Hạng I và hai người con hy sinh: Phan Văn In và Phan Kim Linh.

Riêng gia đ́nh ông Bùi Hà Đông

có 5 người con tham gia cách mạng.

1. Bùi Thành Ngôn: Đại tá về hưu

2. Bùi Hà Nam: cán bộ tập kết về hưu

3. Bùi Minh Tạo: Phó Giám đốc sở KHCNMT Cần Thơ

4. Bùi Quang Hà: Viện kiểm sát Cần Thơ

5. Bà Bùi Thị Nương: Là quân báo Quân khu 9

(Sát gian Đảng đăng báo Cần Thơ tác giả Phi Hùng Cục 2)

Năm 1955 Tổng Thống Miền Nam Ngô Đ́nh Diệm truy quét Trần Văn Soái ở tại Cái Vồn và khắp vùng chiếm đống, b́nh định an ninh, nên đổi tên Cái Vồn kinh hoàng thành B́nh Minh. Nhân dịp này ông Bùi Hà Thanh và Bùi Hà Đông trở về quê cũ, ông Bùi Hà Đông bị mật vụ của Ngô Đ́nh Diệm bắt vào năm 1958 tra tấn và mang bệnh chết năm 1968

Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh về quê lo phần tu hành viết kinh sách giải lư đại thừa, hướng dẫn cho các môn đồ Chiếu Minh lo tu thân chân chính. Mục đích đưa con người từ mê đến giác tạo tác trí huệ, ḷng thương yêu mọi người. Đường lối đại thừa là làm được cái khó làm, giữ được cái khó giữ là trường trai tuyệt dục. Nên  người nhận tâm pháp phải thực hành đúng chơn truyền không được canh cải Ngài giải Pháp Bửu Đàn Kinh là Đại Kinh của nhà Phật, vạch rơ con đường tô bồi tâm gầy dựng tánh, nhân sinh phải thực hiện th́ việc tạo Tiên, tác Phật không c̣n là điều khó khăn nữa Nhất là không phân biệt tôn giáo, phái chi bởi v́  đó là trường lớp, tùy tŕnh độ và cường độ giác ngộ của nhân sinh đi vào Đại Đạo tạo tác sự  sống và sự sáng.

Năm 1970 Chiếu Minh Đàn được tái lập tại xă Đông B́nh, Huyện B́nh Minh, tỉnh Vĩnh Long là Chiếu Minh Giáo Ṭa để dạy dỗ nhân sinh tu hành theo pháp Chiếu Minh. Ngài  Thiên Huyền Tâm Chưởng Quản Tam Giang thành lập Chiếu Minh Long Châu và hiệp Thánh Thất, Thánh Tịnh quy về Chiếu Minh Giáo Ṭa và trao gánh nặng hữu h́nh cho Ngài Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh, như vậy Chiếu Minh giờ đây gồm cả hữu h́nh và vô vi, được lệnh ân trên thành lập Hội Thánh Chiếu Minh đủ các ban Tam Đài, Cửu Viện. Sau đó ngài Thiên Huyền Tâm quy liễu, Hội Thánh đặc cử Ngài Nguyễn Văn Các pháp danh Thiên Đức làm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài, Ngài Cao Văn Tư pháp danh là Thông Ḥa Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, Ngài Nguyễn Văn Ḥa Chưởng Quản Bát Quái Đài pháp danh là Thiên Quang Đức lo về phần kinh tế cho đạo, do lệnh của Ân Trên Hội Thánh Chiếu Minh tổ chức mừng Đại lễ Long Hoa Hội khai diễn tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện (chùa Di Lạc phường 3, thị xă Vĩnh Long) trong ṿng 12 ngày từ mùng 8 – 20 tháng 10 năm Giáp Dần (1974) cảnh báo cho con người phải làm lành lánh dữ, trau luyện đạo pháp mới có trí huệ giải thoát và giúp đỡ mọi người cùng hoài bảo cứu thế độ đời trong thời mạt hạ, Đại lễ thành công tốt đẹp, trên 20.000 người tham dự đủ đầy các tôn giáo, chi phái, cùng mọi tầng lớp nhân dân đến mừng Đại lễ Long Hoa.

Từ đây Hội Thánh Chiếu Minh thành h́nh và phát triển càng ngày càng đông môn đồ tín đồ , giúp cho các tu sĩ khỏi bị đi quân dịch và nhân dân tự vệ. Chiến tranh đến hồi ác liệt các môn đồ, tín đồ tu sĩ trong vùng giải phóng đă tham gia cách mạng.

Ở Mặt Trận Giải Phóng như ông Nhuận phó Chủ tịch Mặt trận huyện B́nh Minh, ông Phạm Ngọc Cứ Chủ tịch Mặt trận Mỹ Thuận, ông Tiến, ông Năm Trung làm ở Mặt trận và Bí thư xă Mỹ Ḥa, Trưởng Pḥng Thông Tin Văn Hóa huyện B́nh Minh . . .  các tín đồ theo bộ đội, du kích địa phương trong việc chống Mỹ cứu nước rất nhiều người tín đồ đă hy sinh cho đất nước và dân tộc trở thành liệt sĩ . Nhất là bà mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Điền có rất nhiều liệt sĩ trong gia đ́nh đă hy sinh nhưng bà vẫn giữ đạo ăn chay cho đến măn  phần ( Mỹ Thuận anh hùng).

Sự đóng góp lớn lao của môn đồ và tín đồ Chiếu Minh Đàn cho cách mạng do truyền thống của Ngài Chưởng Giáo Bùi Quang Huy, Chưởng Giáo Bùi Hà Thanh, Ông Bùi Hà Đông là mẫu mực để cho họ noi theo nhất là quư vị này không bao giờ kể công yêu nước thương dân đối với cách mạng thành công.

Đó là huấn thị di ngôn cho các hậu duệ của quư Ngài, chỉ mong sao đất nước được độc lập tự do hạnh phúc là điều quư nhất.

Năm 1975 Miền Nam được hoàn toàn “giải phóng” đó là thành công của cách mạng đối với chín năm chống Pháp, “hai mươi mốt năm chống Mỹ cứu nước”. Đất nước ḥa b́nh Bắc, Trung, Nam hiệp nhứt một nhà là niềm vui mừng của toàn dân, trong đó có sự đóng góp lớn lao, xương máu vật chất, tinh thần của Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Đàn từ các vị lănh đạo, môn đồ, tín đồ rất lấy làm hănh diện v́ trong công cuộc giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ có sự hy sinh của ḿnh. Sự hội ngộ sau ngày giải phóng các người đi tập kết về Nam gặp gỡ lại những người ở quê hương c̣n sống sót và mới tin tưởng việc làm của họ là đúng.

Từ năm 1975 với đường lối của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thực hiện việc đoàn kết thành phần lương giáo, tín ngưỡng được tôn trọng  nên Chiếu Minh Giáo Ṭa  vẫn hoạt động theo đường lối của nhà nước đă đề ra.

Ông Bùi Trí Dũng con của ông Bùi Hà Đông và cũng là đệ tử của Ngài Bùi Hà Thanh, thay thế làm Chưởng Giáo trông coi việc đạo, hướng dẫn các môn đồ, trong cuộc sống mới vừa tu, vừa xây dựng đất nước, để nước vinh đạo sáng. Với hiến pháp Việt Nam cho tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng phù hợp với mọi thành phần. V́ vậy Hội Thánh Chiếu Minh giải thể để cho họ  về nhà tu tại gia và phát triển kinh tế. Thật là thích hợp với chủ trương của nhà nước, tu theo phái Chiếu Minh không có h́nh tướng bên ngoài, không dụng âm thinh tế lễ họ tu vô vi, tự gầy dựng nơi bản thân của ḿnh để tạo sức khỏe và tinh thần. Nhất là họ dùng đồ ăn dễ dàng thanh đạm hằng ngày chay lạt ít tốn kém, nhưng nhờ có Phương Pháp  Bồi Dưỡng Sức Khỏe và Tinh Thần để thực hành. Khi tu người ta không biết ḿnh tu, ḥa nhập với đời, chung lộn với xă hội một cách thuận ḥa. Nên việc tu hành của môn đồ Chiếu Minh đem đến lợi ích sức khỏe dồi dào, tinh thần sáng suốt, đời sống an vui phù hợp với mọi hoàn cảnh.

Trong cuộc sống mới, cần có con người mới phù hợp với thời đại mới , bởi môi trường bị ô nhiễm  quá nhiều chất độc là thuốc trừ sâu, chất thải công nghiệp, thuốc diệt cỏ, chất độc màu da cam  của chiến tranh c̣n để lại làm cho cơ thể con người sanh ra những bệnh tật lạ lùng không có thuốc điều trị hữu hiệu và gây tử vong rất nhiều.

Nhờ phương pháp này khi thực hành sẽ thảy độc chất ra ngoài, giải trừ ô nhiễm, nên c̣n gọi là khử trược lưu thanh, tạo sức đề kháng cao chống lại những bệnh tật mới nguy hiểm.

Nên phương pháp tu của Chiếu Minh Giáo Ṭa trở thành đề tài khoa học, đi vào thực tế giúp cho con người hiện nay có sức khỏe dồi dào, cơ thể tráng kiện,  để sinh hoạt hằng ngày .

Ngoài ra nhờ vào dưỡng khí nuôi tinh thần sáng suốt, khí về óc sinh minh, trí huệ khai mở làm cho con người hưng phấn trong cuộc sống.

Với Phương Pháp Bồi Dưỡng Sức Khỏe Và Tinh Thần của Chiếu Minh Giáo Ṭa là pháp tu của Đạo Trời, thật quư giá vô cùng nên không dành riêng cho Chiếu Minh, mà của chung nhân loại, như bầu không khí mọi người được quyền thở vậy. Phương pháp: là đường lối, cách thức.

Bồi dưỡng: là tu

Sức khỏe: là thân

Tinh thần: là tâm tánh.

Đây là phương pháp tu tâm dưỡng tánh, để đưa con người có được đạo bằng “vi diệu pháp” dạy người mà người không biết, giúp người mà người không hay, dẫn dắt họ vào đường tu học mà họ không rơ. V́ vậy họ tu mà không biết rằng họ đang tu th́ mới thật sự là tu, hành đạo mà không biết họ đang hành đạo th́ mới thật là hành đạo. Bởi hành đạo theo đây có nghĩa là thực hành, để được sự sống và sự sáng, khác hẳn với h́nh thức của tôn giáo dụng âm thinh sắc tướng ở bên ngoài, không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, dân tộc, chi phái nếu có được thân thể nguyên vẹn, một tinh thần không điên loạn tiếp thu sự chỉ dẫn, thực hiện một cách dễ dàng kết quả hữu hiệu.

Nên các vị lănh đạo tôn giáo, chi phái thấy được sự ích lợi thiết thực này để tiếp thu rồi hành trau như Ḥa Thượng Thích Huệ Hưng, Tăng Sự Trưởng Tăng Sự Trung Ương Phật Giáo Việt Nam. Ḥa Thượng Thích Hồng Quang, Thương tọa Thích Giác Huệ, Ḥa Thượng Thích Huệ Viên, Ḥa Thượng Thích Minh Cảnh ( Đại học Vạn hạnh) Tỳ Kheo: Minh Diệu. . .

Thượng đầu sư: Nguyễn Văn Nhi. Đầu sư Bùi Văn Huỳnh, Bảo Thế: Trương Thành Thất, Chủ Trưởng: Thượng Hậu Thanh Cao Đài Truyền Giáo Trung Việt, Thừa sử: Nguyễn Thanh Giang, Linh mục: Đỗ Chính Thống, Viện phụ: Nguyễn Bá Linh, Pháp Chủ Sơn Hồng Đăng, Pháp Chủ: Cao Văn Hiến.v.v…

Các vị này đă thực hiện để có trí huệ, gầy dựng đạo là sự sống và sự sáng.

Sự sống là sức  khỏe, sự sáng là tinh thần ngăn ngừa và trị bệnh nên lợi ích vô cùng .

Chính v́ vậy sự truyền ban càng thêm rộng răi để giúp đỡ và cứu nhân sanh trong giai  đoạn hiện tại và tương lai.

Lợi ích của phương pháp này là đào tạo con người hoàn mỹ về thân và tâm, tướng hảo quang minh, tinh thần rạng rỡ ở mọi tầng lớp xă hội trai, gái, già, trẻ đều có thể thực hiện và kết quả họ cảm thấy quư mến bản thân, coi trọng nó nên không thể hủy hoại  một cách bừa băi, từ đó họ không làm việc sai trái có hại cho bản thân. Nên tự chế phục lấy ḿnh trở thành con người hữu dụng.

V́ vậy Chiếu Minh Giáo Ṭa là nơi dạy dỗ cho con người thực hành phương pháp để Bồi Dưỡng Sức Khỏe và Tinh Thần từ người này sang người khác gọi là Đại Đạo.  nhiều người có sự sống và sự sáng để cứu độ  thời kỳ hiện nay gọi là Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là như thế đó.

Năm 2000 với đường lối thích hợp của Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Giáo Ṭa, Vô Vi Tam Thanh, Đại Thừa Tâm Pháp, Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Ban Tôn Giáo Chính Phủ có văn thơ số 296/TGCP  đối với cơ sở tu hành của Chiếu Minh Giáo Ṭa, Ban Tôn Giáo UBND tỉnh Vĩnh Long ban cho tư cách pháp nhân để hoạt động đúng tôn chỉ và mục đích, b́nh đẳng với các tôn giáo khác.Đây là sự giúp đỡ của chính phủ để cho Chiếu Minh Giáo Ṭa hoạt động tự do tín ngưỡng.

Năm 2001 để cho sự xứng hợp về h́nh thức bên ngoài Chiếu Minh Giáo Toà được tu sửa khang trang như Thánh Đền, để tiếp nhận nhân sinh t́m cầu học hỏi phương pháp tô bồi tâm, gầy dựng tánh, phát triển vật chất lẫn tinh thần và giúp đỡ các vị tu hành xuất gia có nơi nương tựa, hành đạo tu thân lập cơ sở vật chất để lo kinh tế như mở doanh nghiệp xăng dầu, trang trại, pḥng chuẩn trị...

Với đường lối tự làm tự tu là phương chăm hành đạo trọn đời của người tu thân chân chính không bị lệ thuộc  vào ngoại cảnh bởi v́ tu là thực hiện việc đầu tư ngay bản thân ḿnh rồi đem ứng dụng ra bên ngoài ḥa đồng với xă hội tạo nếp sống thanh cao, đời đạo kết liên mới thuận lợi.

Trong giai đoạn hiện tại đất nước thanh b́nh xây dựng xă hội tốt đẹp tiến bộ văn minh tinh thần và vật chất. Đi lên đường lối Từ Bi – Bác Ái – Công Bằng. Muốn xây dựng một xă hội văn minh, cần phải có con người trí tuệ. Nên Phương Pháp Bồi Dưỡng Sức Khỏe và Tinh Thần sẽ được công bố rộng răi khắp nơi trong và ngoài nước để ai nhận thấy lợi ích cho chính bản thân ḿnh t́m cầu đến học hỏi.

Đây là đường lối tu hành của Cao Đài Đại Đạo, Chiếu Minh Giáo Ṭa, Vô Vi Tam Thanh, Đại Thừa Tâm Pháp  để giúp đỡ nhân sinh trong giai đoạn chuyển hóa, thực hiện đại thưà là làm được việc lớn lao, chuyển mê thành giác, Phàm thành Thánh, ít thành nhiều, không ra có, để xứng hợp với sự phát triển của mối Đạo Trời.

Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

Cao Đài là đỉnh cao tuyệt đối của tâm linh, trung tâm điện năng, lưới điện quốc gia.

Đại đạo là sự sống và sự sáng

Tam kỳ phổ độ là cứu độ kỳ ba

V́ vậy muốn có sự sống và sự sáng mà không liên hệ với trung tâm điện năng, đèn không cháy th́ trở  nên đen tối, làm sao thực hiện việc cứu độ được, cũng như có xác không hồn,thật bất hạnh thay.Chính ở điểm này trước kia các nhà lănh đạo chi phái hữu h́nh tách rời lo về tướng của hữu vi cơ đạo bỏ mất đi Cao Đài. Lại c̣n sợ Pháp bắt v́ tưởng là  công cụ của nhà Cách Mạng Cường Để (CĐ) nên chỉ c̣n có vỏn vẹn 6 chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Đây là điều quan trọng trong cơ đạo Đức Chí Tôn có dạy:

Cao Đài ứng hóa theo ḷng chúng sanh.

Đố ai biết được cái danh Cao Đài !

Tùy theo căn cơ tŕnh độ của nhân sanh thích hợp với đường lối tu của ḿnh, thấp hay cao, mê hay giác, hữu tướng hay vô vi, họ tu theo âm thinh sắc tướng th́ dùng trống kèn nhạc lễ để dẫn dụ họ, nếu thích thi vịnh ngâm nga th́ dùng thánh ngôn thánh giáo cho họ ê a và theo đó. C̣n những ai thích triết thiết nhiệm mầu cao sâu pháp đạo dẫn đến con đường giải thoát th́ lặng lẽ cách xa chỗ âm thinh sắc tướng trở về với vô tướng vô vi, lo trau luyện đạo mầu đắc trí huệ tự hành tự đạt là điều căn bản nhất của việc tu thân chân chính.

Muốn phổ độ cứu đời, đem ánh sáng dẫn dắt nhân sanh nhưng đèn không điện mất hết tác dụng, đen tối vô minh thế mà đi soi rọi cứu độ ai được thật là điều thiên nan vạn nan , không thể nào thực hiện. Nên họ nghi ngờ vào việc làm , nhất là sứ mạng Chí Tôn giao phó Quy Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi.

Thật sự con đường sáng dẫn dắt nhân sanh cứu khổ ban vui cho đời không thể chấp riêng rẽ hữu hay vo,â đời hay đạo. Đời là cái dụng của đạo, đạo soi sáng cho đời mới đủ lẻ thể và dụng và đi đến chỗ thành tựu. Do đó các nhà lănh đạo chi phái trong cơ đạo mong muốn sự hợp nhất của Cao Đài thể hiện chỗ quy và hiệp không c̣n tách rời riêng rẽ cũng như trong tiểu vũ trụ, xác thân này, đây là vấn đề  cần phải thấu triệt,  hữu vô trong một vóc, xác hồn trong một bộc, thiếu một mất hết tác dụng. Hy vọng rằng với tinh thần hợp nhứt Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ban răi khắp nơi sẽ là nguồn sống cho nhân loại hiện tại và mai sau để phục hưng chánh pháp cứu thế độ đời theo lời của Đấng Chí Tôn:  Phán dạy mối Đạo Trời kéo dài đến thất ức dư niên, tạo dựng một thời kỳ văn minh tuyệt hảo vật chất lẫn tinh thần.

Đạo không dành riêng cho một tôn giáo, chi phái, dân tộc, màu da, sắc tóc cho nên cần phải ban truyền rộng răi đến khắp nơi trong và ngoài nước để cho nhân sanh tiếp nhận. Nguồn phước báu mà Thượng Đế bố ban sức khỏe và tinh thần , xứng hợp với thế hệ để khai mở năo bộ cho con người.

Chính v́ sứ mạng cao cả đó Chưởng Giáo Bùi Trí Dũng ban truyền  phương pháp này đến các nhà lănh đạo trên Thế giới qua thư văn, thông điệp, kinh sách giúp cho các vị này hiểu rơ cần phải quư trọng con người, một tuyệt tác phẩm của tạo hóa với đầy đủ  báu vật, cần phải giữ ǵn chu đáo và biến nó thành quư bửu thật sự trong công cuộc đầu tư  lớn nhất của con người. Khi đă nhận rơ và làm chủ được thân và tâm, sức khỏe và tinh thần đấy là vạn hạnh chân hạnh phúc của cuộc đời. Nên họ quư trọng và không hủy hoại nó được, từ đó con người được biến cải và thay đổi lớn lao,từ tư tưởng đến hành động, dữ thành hiền, chiến tranh thành ḥa b́nh, đem an vui đến cho mọi người, đời ḥa khỏi cảnh khóc rên, con người thương yêu đồng loại. Với t́nh thương cao cả như không gian bao trùm tinh tú như Đại Dương chứa chở năm châu, thể hiện t́nh nhân đạo.

Các vị lănh đạo đă đồng t́nh và tin tưởng đường lối thích hợp để đầu tư con người mới và chúc mừng tốt đẹp nhất, với sứ mạng  cao cả ban vui cứu khổ cho đời nhất là trong giai đoạn hiện nay gặp nhiều khó khăn, v́ môi trường bị ô nhiễm, con người mang phải bệnh tật không có thuốc điều trị hữu hiệu, cũng như họ không quư mến bản thân tự hủy hoại do thiếu trí tuệ dùng ma túy, gây tội phạm, tạo chiến tranh giết hại đồng loại một cách dă man. Nếu không có sự thương yêu chân thật, trí huệ sáng soi dẫn đến hành động sai thất mất hết thiện lương, đưa nhân loại đến chỗ diệt vong nguy hại vô cùng .

III/ LỜI KẾT

Thật may mắn thay tại Miền Nam,tỉnh Vĩnh Long vùng địa linh ở B́nh Minh nói riêng, đất nước Việt Nam nói chung, khai sáng mối đạo lành ra đời đem đến sự thống hợp không c̣n thấy rẻ chia bởi tôn giáo này, tín ngưỡng nọ, định kiến kia, kết liên bởi sự quy thống chân lư ban vui cứu khổ cho đời theo tôn chỉ Quy Tam Giáo,Hiệp Ngũ Chi.

Tam giáo:

Phật giáo do Đức Phật Thích Ca ra đời ban truyền giáo lư  từ bi tại Ấn Độ dạy con người làm lành lánh dữ.

Thiên Chúa giáo do Đức Chúa JêSus truyền bá giáo lư bác ái tại xứ Palestine dạy con người phải thương yêu nhau.

Bởi v́ dùng giáo lư  ngoài con người nên hai nơi này xảy ra ngoại chiến liên tục khổ cảnh đa mang. V́ vậy nơi nào có khổ th́ có vị cứu tinh đến giải khổ ban vui. Nếu họ không biết cải thiện làm lành lánh dữ  sẽ gây ra thế chiến thảm họa vô cùng.

C̣n ở Việt Nam nội đạo ban truyền thời sinh ra nội chiến nhưng nơi này đầy hồng ân Tạo Hóa bố ban, đất lành linh địa cho dân tộc Việt Nam được ḥa b́nh, an vui phúc huệ, sẽ là nguồn sống, phát khởi nguồn sinh, h́nh thành một thời kỳ tốt đẹp nhất đánh dấu nền văn minh cuối cùng của nhân loại:

Nền văn minh của ḍng Sông Cửu Long .

Thế nên là người Việt Nam rất quư, lại thêm gặp được mối đạo lành ban truyền cứu khổ đem an vui đến mọi người, quả là diễm phúc !

Rồi đây các thế hệ trong tương lai nhờ vào đây dẫn họ đến chân hạnh phúc, tạo dựng cảnh đời tươi đẹp để tưởng thưởng cho những nguyên căn, phúc tử hưởng những ǵ tạo hóa dành sẵn cho họ trên cơi đời này.

Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phồ Độ mới xứng danh đủ đầy thực chất vô lẫn hữu, đời và đạo đem ra ứng dụng với tôn chỉ:

 Từ Bi-Bác Ái-Công Bằng.

Làm phương chăm hành đạo để đến mục tiêu, đạt cứu cánh của chữ tu là giải thoát. Ngoài ra giúp cho họ ở cơi đời được sống an vui, tận hưởng Thiên đàng và Niết bàn tại thế.

Con đường sáng dẫn nhân sinh đến chân hạnh phúc sẽ không c̣n xa vời nữa !

                                                                                             Chưởng Giáo Bùi Trí Dũng

                                                   Ngàn năm kháng chiến chống Tàu,
                                                       Trăm năm chống Pháp đồng bào đứng lên.
                                                            Tứ ân hiếu nghĩa lo đền,
                                                       Cho tṛn nhơn đạo, cứu yên nước nhà.
                                                            Trăm năm trong cơi người ta,
                                                       Tôn giáo, chánh trị khéo là ghét nhau.

                                                  "Tổ Tiên đă đổ máu đào,
                                                        Cũng v́ Hồng Lạc sa vào hố sâu" (Lời Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế)
                                                            Tự do, độc lập, nguyện cầu,
                                                        Lo tu thiền định, đạo mầu sáng soi.
                                                            Từ Bi, Bác ái độ đời,
                                                        Công bằng, liêm chính, đồng thời chí công,
                                                             Trị quốc luôn giúp cộng đồng,
                                                         Th́ dân đâu chống, góp công giúp đời.
                                                             Dân thương th́ được ḷng Trời,
                                                          Dân ghét nghiệp báo tức thời chẳng sai.
                                                             Vua tu, dân tu trong, ngoài,
                                                          Thiên đàng tại thế đâu sai chỗ nào?

                Trở về Thư Viện Đại Học Cao Đài và Tam Tạng Kinh