Tóm
tắt Thiên Cơ huyền bí theo Giáo
Lý các Tôn Giáo
Hà Phước Thảo
Thiên
cơ
huyền bí Tạo lập Vũ Trụ là những nguyên
lý đầu tiên trong Trời Đất và con người
bình thường bị giới hạn trong việc giải thích
rõ ràng nên cũng là đề tài cho
triết lý của nhân loại để đưa những ý niệm mơ
hồ bị sự bất khả tri che lấp mất những ý niệm về Huyền
môn học và người ta cứ hỏi ai sanh những ngươì
đời trước, ai sanh ra ông Phật? Ai sanh ra Chúa
Giê-su? Ai sanh ra Đức Chúa Trời? Ngoài bầu
Trời va cứ đi ma mãi còn gì nữa? Khi Đức
Thượng Đé nói rằng khí Hư Vô sanh ra
Ngài , vậy ai sanh ra khí Hư Vô? vân
vân và vân vân ...
Triết lý các Tôn Giáo giải
thích những câu hỏi trên, nhưng không
làm thoả mãn các nhà khoa học vô
thần. Chúng ta thử rút từ giáo lý
các Tôn Giáo để so sánh và
phân tích, hầu đua ra một câu giải đáp
hợp lý chung cho tất cả mọi người ở mọi Tôn
giáo, nhất là trong giai đoạn hiện tại sắp qua kỷ
nguyên thứ 21, một thời điểm mà các dân
tộc đều mang một hy vọng hay một chờ đợi một sự kinh khủng
nào đó sẽ xảy ra như Kinh Thánh và Sấm
Giảng có nói đến.
đạo phật
Đức Phật Thích Ca dạy : Vũ Trụ từ không mà
có, từ có rồi không. Chu kỳ Thành, Trụ,
Hoại, Diệt liên tục giáp mối nhau nên hằng hữu
(sắc tức thị không, không tức thị sắc, Pháp
giới duyên khởi).
đạo lão
Đức Lão Tử dạy : Trong Vũ Trụ có sẵn Khí Hư
Vô và nguyên lý Âm Dương.
Lý và Khí là huyền năng vô
biên, không có danh từ nào để gọi,
nên Đức Lão Tử mượn tạm chữ Đạo (TAO) mà gọi.
Chữ Đạo gồm hai nét Âm, Dương, ranh Thiên
và Địa, Nguyệt hay Địa và Thủy. Đạo hay Hư Vô
chi Khí. Luật Âm Dương tác động vào
Khí Hư Vô nổ tung ra hay Thái Cực mà
người ta gọi là Thái Cực Thánh Hoàng
hay Thượng Đế, rồi Thái Cực phân TAO ra hai
nguyên tố là Âm và Dương. Âm Dương
phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng phân ra Bát
Quái, Bát Quái phân ra 16 Quái,
rồi 32, 64... và vạn vật.
đạo thiên chúa
Đức Chúa Trời có ba Ngôi, Ngài dạy
nhân loại về Vũ Trụ qua Sáng Thế Ký do
Tiên Tri Mô-se viết: Ý Chúa nghĩ
gì thì có nấy vì Ngài
Toàn Năng Toàn Thiện. Ngài tạo lập Vũ Trụ
trong 6 ngày. Khi xong, ngày thứ bảy là
ngày để con cái Ngài tưởng đến Ngài.
Bảy ngày là thời gian để tính tuần lễ, theo
Huyền môn học là thời gian tạo lập 7 cõi trong
Càn Khôn Thế Giới. Ngài hà hơi
vào mũi thì đứa con đầu tiên của
Ngài là Adam mang xác thân vật chất hay
Tứ Đại gồm Đất, Nước, Gió, Lửa có sự sống : Atem hay
hơi thở của Thiên Chúa là Khí Hư
Vô theo Đức Lão Tử. Khí Hư hay Vô
Cực sanh ra Thái Cực. Vô Cực tượng trưng là
vòng tròn hay Đức Mẹ Diêu Trì. Adam
tượng trưng cho Dương. Có Dương mà không
có Âm thì không sanh hoá được.
Eva là Âm. Dương và Âm tương hợp sanh ra
mãi mà sanh con đẻ cái cho đầy quả đất nầy
mà phục vụ Đức Chúa Trời. Tuy Đức Mô-se diễn
tả bằng huyền thoại, nhưng cùng ý nghĩa như Đức
Lão Tử dạy.
đạo khổng và kinh dịch cuả chư tam hoàng ngũ đế
Đức Khổng Tử soạn và giải thích Quyển Kinh Dịch do
Vua Phục Hi và Vua Văn Vương tìm thấy trên
lưng hai con vật linh. Chư vị nào vẽ Bát Quái
Đồ (Tiên Thiên Bát Quái và Hậu
Thiên Bát Quái) không ai biết được.
Nhưng khi diễn dịch ra thì Bát Quái Đồ
là bản đồ Tạo lập Càn Khôn Thế giới và
cả huyền cơ trong sự sống ở mọi ngành: Vũ Trụ học, Vũ Trụ
tuyến và ảnh hưởng sự sống qua cái nghiệp (Karma)
của cá nhân mà tính ra vận mạng
(Horoskop), biến dịch về chính trị (Cửu trù)....
và các biến dịch khác như bói
toán, bấn độn, phép tính để biết trước thời
gian ngắn suy kết quả chắc chắn như Phép Độn Khổng Minh
Thần Toán, áp dụng vào y khoa như suy
đoán bịnh, tìm bịnh, phòng ngừa, trị liệu, về
quân sự như hành quân biết trưpc thắng hay bại
mà tiến hay thối, biết chỗ đóng quân an
toàn, các thế trận, về đạo đức, giáo dục, gia
đình, xã hội, gaio tế, bang giao quốc tế, thương
mãi, vật lý, địa chất, võ thuật vv.
Đức Khổng Tử học về khoa học từ đứa bé Hạng Thác qua
những câu hỏi hóc búa (Thiên văn học ,
quang hoc: mặt trời to, nhỏ tùy buổi sáng hay
trưa..khi hạng Thác hỏi Ngài tại sao mặt trời biổi
sáng to mà trưa lại nhỏ. sau nầy khoa học mới
thí nghiệm trong quang học để chứng minh)
Ấn Độ Giáo
Theo Kinh Vệ Đà và Ba-da-ga-vi-ta thì Đấng
Sáng Tạo có ba ngôi là Bhrama, Shiva
và Vishnou giống như giáo lý Thiên
Chúa Giáo đã diễn tả . Đấng Bhrama hay
Ngôi Thứ Nhứt Thượng Đế là Tình Bác
Ái, Sanh hoá, giáo dục, Ngôi Thứ hai
Tiếp tục biến hóa sanh hoá và giáo
dục, Ngôi thứ Ba vận chuyển hay phá hoại để
hoàn tất chu kỳ sanh hoá, hiện hữu, và
tiêu diệt để giáp mối chu kỳ tức là hằng
hữu vì vô thỉ vô chung.
Các Tôn Giáo tuy
khác biệt về phần ngoại dung, nhưng phần triết lý
cốt tủy thì giống nhau, nên Vạn Giáo Nhất
Lý và vào thời hiện đại bắt đầu vào
năm 1926 Đức Thượng Đế không gởi Chơn Linh Ngài xuống
thế mượn xác phàm làm chư Giáo Tổ như
hai thời kỳ trước nữa mà chính Ngài
dùng linh điển giáng cơ dạy Đạo và mượn chư
Tiền Khai khai Đạo về phần hữu hình. Giáo lý
của Đạo cao Đài là nền tảng của các
ngành khoa học trong tương lai, nên liên hệ với
các ngành Khoa học thuộc lãnh vực
nguyên tử, điện tử, vi tính...
Đạo Cao Đài và sự liên hệ với thuyết
nguyên tử trong việc giải thích cuộc Sáng Tạo
trong Trời Đất
Theo triết lý Đạo Cao Đài thì đầu tiên
trong Vũ Trụ chỉ có Khí Hư Vô. Không ai
biết được Khí Hư Vô từ đâu mà có
và chính Đúc Thượng Đế cũng nói rằng
không có Khí Hư Vô thì
không có Ngài và không có
Ngài thì không có Phật, Tiên,
Thánh, Thần và vạn vật trong Càn Khôn
Thế Giới. Khí Hư Vô theo Đức Lão Tử là
Khí có sẵn trong Trời Đất cùng với Lý
là huyền năng vô biên nên
không có danh từ nào để gọi cho đúng
và Ngài tạm dùng chữ TAO (Đạo) để đặt
tên. Theo Bà Blavatsky, nhà huyền môn
người Nga và là Hội trưởng Hội Thông
Thiên Học Thế Giới tại Adyar, Madras, Ấn Độ, gọi Khí
Hư Vô là Nguyên tử đầu tiên trong
Càn Khôn Thế Giới. Theo sự giải thích của chư
Tam Hoàng Ngũ Đế, cuả Đức Lão Tử và Đức Khổng
Tử thì Khí Hư Vô tưọng trưng là
vòng tròn, giống như tượng trưng của cái
trứng, ở Tây phương gọi là cáo ao ( mare)
nên sau có sự trùng hợp trong tên Maria,
bên Đông Phương thì gọi là Đấng Vô
Cực, trong Đạo Cao Đài gọi là Phật Mẫu hay Đức Mẹ
Diêu Trì Kim Mẫu ( mare=ao ; Maria=Đức Mẹ Maria ;
Trì = cái ao) hay Đức Mẹ Diêu Trì
Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn, dù chỉ là tượng
trưng, nhưng có sự trùng hợp giữa Đông
và Tây phương nên chứng minh được cái
trứng phải có trưóc con gà, Đấng Vô Cực
phải có trước và Ngôi Thái Cực
hay Đức Thượng Đế từ Khí Hư Vô hay từ Vô Cực
mà có. Tuy nói rằng trước và sau,
nhưng giữa vòng tròn lại có một điểm ở giữa
tức là Thái Cực. Thái Cực là Một,
nhưng lại chia Vô Cực hay vòng tròn ra hai
phần là Thái Dương và Thái Âm.
Tất cả mọi vật trong Trời Đất đều từ Âm và Dương
mà được sanh hóa ra. Nguyên tử thứ nhứt
trong cõi Tiên Thiên nhẹ và thanh
vô cùng, nhưng so với nguyên tử của nước
(Hydro=H) thì có một hạt nhân ở giữa và
một điện tử quay chung quanh. Muốn hoá sanh các
nguyên tử khác thì phải có sự va chạm
cũng như dây điện Dương mà không chạm với
dây điện Âm thì không là xẹt lửa
hay nổ hay chạm điện. Sự nổ đầu tiên trong Vũ Trụ là
sự phân Thái Cực ra Thái Dương và
Thái Âm. Theo khoa học, gọi vụ nổ đầu tiên
trong Vũ Trụ như trái bôm nguyên tử nổ
dây chuyền và Đấng Thái Cục từ vầng lửa vĩ đại
xẹt ra, nhân loại gọi Ngài là Đấng Sáng
Tạo hay Đức Chí Tôn hay Đức Thượng Đế. Ngài
phân Ngài ra Lưỡng Nghi và từ Lưỡng Nghi sanh
ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh ra Bát Quái, 16,32,64 ...
Quái và vạn vật trong Càn Khôn Thế
giới. Khí Hư Vô và Nguyên Lý
trong Vũ Trụ biến hóa ra mãi thành ra Vũ Trụ
hay Tiên Thiên do Khí hoá sanh.
Khí Hư Vô màu Đen huyền hay Huyền Khí.
Sau vụ nổ huyền khí phân tích ra thành
nhiều nguyên tử khác và có ngũ
khí với 5 màu : đen ở giữa. Khí nặngcủa Huyền
Khí lắng xuống thành Thái Âm
có màu đỏ hay là Lửa ở phương Nam hay
Ngôi Khôn. Huyền Khí nhẹ hơn bay lên
trên hoá thành Huỳnh Khí màu
vàng hay Ngôi Càn là Nước. Tác
dụng của Hồng Khí và huyền Khí bay qua hướng
Tây hay Cung Đoài có màu Trắng
là Kim khí. Tác dụng của Huỳnh Khí hay
Thủy từ phương Bắc tức Ngôi Càn bay qua hướng
Đông là Thanh Khí hay Mộc. Từ Thủy và
Mộc và sanh hoá ra chúng sanh (Mộc Thủy khởi
nguyên).
Sự biến hóa hay Dịch theo con số 1 là Dương
và số 2 là Âm. Theo khoa Vi tính
thì trong điện tử cũng có sự thông minh tương
tự khi biến hóa mà nhà vi tính học
có thể tạo ra vô số chương trình, từ đơn giản
đến phức tạp và sau cùng người ta viết được chương
trình cho Internet. Từ 5 màu chánh: đen,
vàng, đỏ, trắng, xanh mà biến hóa ra 1.500.00
màu khác nhau trên màn ảnh Monitor. Vạn
vật cũng vậy : một loại hoa hồng người ta có thể cho phấn
hoa màu nầy với phấn hoa màu khác trộn lộn
với nhau mà thành rất nhièu loại hồng
khác nhau. Các loài vật cũng như thế.
Những gì biến dịch trong giai đoạn đầu tiên gọi
là Tiên Thiên, được diễn tả vẽ ra trong
Tiên Thiên Bát Quái: Các Tinh thể
như Nhựt, Nguyệt, Tinh trong Càn Khôn Thế Giới. Những
gì được Mộc và Thủy hoá sanh và
có sự sống thuợc Hậu Thiên được diễn tả trong Hậu
Thiên Bát Quái.
Các định luật phối hợp các nguyên tử của Ngũ
Khí tạo thành 7 cõi nặng, nhẹ khác
nhau : Cõi Tối Đại Niết Bàn hay cõi
Thái Cực (cõi trên là nơi Đức Thượng Đế
ngự), cõi Đại Niết Bàn, cõi Niết
Bàn(hai cõi nằy là nơi chư Phật, Tiên
ngự hay cõi Lưỡng Nghi ) , cõi Bồ Đề (là
Tiên Thiên Di ảnh hay cuốn phim Vũ Trụ có
tên A-ka-sha, chụp tự động tất cả việc làm, lời
nói, hành động của con người và các
loài khác theo luật công bằng của Vũ Trụ
là Luật Nhân quả và Luân hồi mà
vận chuyển linh hồn tiếp tục học hỏi và thăng hoa để phản
bổn hoàn nguyên , nhưng nếu chư ah hoàn
nguyên được thì tạm ở tại cõi mà theo
Đức Cao Đài Thượng Đế gọi là cõi Tứ Tượng
mà Ngài giáng cơ dạy trong Quyển Đại Thừa
Chơn Giáo), cõi Thượng giới (là cõi
chót khi linh hồn bình thường lên
đó rồi trở xuống đầu thai lại. Cõi nầy là
các hình tư tưởng hay siêu sắc giới),
cõi Trung giới (là cõi của những người mới
chết là cõi sắc giới: Tình cảm con người tạo
ra các màu sắc khác nhau tương ứng vời 7
giọng trầm bổng của âm thanh hay 7 âm giai : sol, la
si, do,re, mi,fa và tương ứng với 7 màu : đỏ,cam,
vàng,lục,xanh,chàm,tím như ánh
sáng chiếu qua lăng kính hay móng cầu
trên Trời) và cõi phàm trần vật chất
mà các lòai đang sống phải chịu định luật
thành, trụ, hoại, diệt hay sanh, lão, bịnh,tử hay
cây cối phải chịu ảnh hưởng do 4 mùa Xuân, Hạ,
Thu, Đông và trong ngày có tứ thời
Tí, Ngọ, Mẹ, Dậu là bốn giờ linh để người tu
hành thiền định cho có kết quả theo chu kỳ biến dịch
trong cơ thể.Đại Thiên Địa và Tiểu Thiên Địa
biến dịch theo luật đồng thanh tương ứng đồng khí tưưng cầu
hay luật Cảm Ứng.
Theo luỹ thừa 7 tạo mỗi cõi thành 7 cảnh nặng,
nhẹ khác nhau. Thời gian từ vụ nổ Big Bang đến khi tạo xong
một cõi và 7 cảnh theo Kinh Thánh là
một ngày và khi xong 7 cõi với 7 cảnh
là 7 ngày hay bảy thời kỳ. Ngày nay
nhân loại dùng 7 thời kỳ mà gọi 7 ngày
trong tuần. Tại Triều Tiên gọi 7 ngày trong tuần theo
Âm Dương và ngũ Hành : Ngày thứ hai
là Dương hay mặt Trời(Nhựt), ngày thứ ba là
Âm hay mặt Trăng (Nguyệt). Ngày thứ tư là
Thủy, ngày thứ năm là Hoả, ngày thứ
sáu là Mộc (nước và hơi ấm là
môi trường của sự sanh ra cỏ cây), ngày thứ bảy
là Thổ(cây cháy thành than, đất),
ngày thứ bảy là Kim (Thổ sanh Kim, trong đất
có kim loại).
Sơ-đồ Tạo-lập Vũ-Trụ
do một
hoặc hai vị Tiên đã vẽ trên lưng hai con vật
linh là Rùa và Long Mã
đã được hai vị Vua Trung Hoa thời Thượng cổ là
Vua Phục Hi và Văn Vương tìm ra. Đây là
ý người Hán, sự thực KINH DỊCH là do nhị vị
Quốc Tổ là Lạc Long Quân và Bà Âu
Cơ học trực tiếp với Đức Thượng Đế để tu luyện thành
Tiên (Mẹ Âu Cơ lên núi) 50 người con,
còn Lạc Long Quân tu Thánh Đạo phải xuống
vùng đồng bằng lo cuộc sống của con cái ngài
(50 người con)
Der Plan der Schöpfung im Universum, den von einem
unbekannten Unsterblichen im Altertum auf dem Rücken von den
zwei heilige Tiere gezeichnet und von der Königen Âu Cơ
in den Bergen als Unsterblicher, in den Delta von zwei
Flüßen Hồng Hà+Thái Bình in
Nordvietnam.
Đại Thiên Địa :
Sự giải thích của các khoa học gia về sự Sáng
tạo Vũ Trụ trùng hợp với hai sơ đồ Tiên Thiên
Bát Quái và Hậu Thiên Bát
Quái của hai vị Vua Trung Hoa và lại còn
trùng hợp với Thánh giáo của Ưức Thượng Ưế
Cao Ưài đã giáng cơ trong các
Ưàn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Lưỡng Nghi
Sự tác dụng của Ngũ Khí (ngũ sắc) trong giai đọan
đầu tiên trong Nguyên lý hay Luật Âm
Dương (Khí và Lý) để biến dịch nguyên
tử thứ nhứt hay Hư Vô chi Khí hay TAO để tạo
thành các nguyên tử khác:
Ngũ Khí :
Huỳnh
Khí
hay
Thủy
Bạch
Khí
hay
KIM
Huyền
Khí
hay
Hư Vô chi
Khí
Thanh
Khí
hay
Mộc
Can
(Mộc)
Tỳ
(Thổ)
Tâm (Hỏa)
(Trung
Cung,
Trung
Ương)
Thận (Thủy)
Ngũ Châu trên Quả Cầu thứ 68 và 5
màu da của nhân loại :
Châu Âu (da trắng thuộc Kim, tiến hóa về
cơ khí, lý trí, khoa học thực dụng)
Châu Á (da vàng thuộc
Thổ, tiến hóa về tâm linh, đạo đức, tình
cảm)
Châu Mỹ (da đỏ/Hỏa/thiên nhiên, trực
giác) giai đoạn đầu chuyên về nông
nghiệp, sau phối hợp về sau có di dân mà
hợp chủng với Tây Kim thành Kỹ
nghệ tiến hoá mọi
ngành nhờ tổng hợp các màu
Úc Châu (dân địa phương thuộc Mộc,
da nâu sậm hay Mộc màu như vỏ cây khô như
chất xám, đa văn...
Châu Phi da đen, thuộc Thủy, sống trong thiên
nhiên, nông nghiệp, nhưng nhiều lúc bị hạn
hán và nhiều lúc những hồ tràn do nước
mưa quá nhiều ngập lụt cả nước.
Sự trùng hợp về Bản đồ nước Việt Nam với Thái Cực Ưồ
:
Nước Việt Nam hình cong chữ S giống như đường chia ranh
giới giữa Âm và Dương trong Thái Cực Ưồ
Nếu lấy compas đặt tại miền Trung nước Việt quay tròn
thì có hình giống như Thái Cực
đồ bên cạnh
màu trắng hay Thái Dương hay đất liền. Màu
đen hay biển hay Thái Âm. Ưảo Hải Nam trong Vịnh Bắc
Việt thuộc nước Trung Hoa là Thiếu Dương.
Biển hồ Ton-lé-sáp của Cao Miên là
Thiếu Âm . Ưây là phát hiện của Ưạo
Huynh Dũng, Chưởng giáo tại CMGT thuộc Quận Bình
Minh tỉnh Vĩnh Long
được thâu trong Video "Phương pháp phát triển
sức khoẻ và Tinh Thần" phổ biến trong chư hành giả
hành thiền tại Việt nam.
Con người trong Trời Đất
Con người là loài tiến hóa nhất trong
các loài ở cõi trần. Chúng sanh gồm
có 8 loài hay có 8 loại hồn : Kim Thạch, Thảo
mộc, Thú cầm, Con Người, Thần, Thánh, Tiên,
Phật. Bát hồn là chiết thân của Đấng
Sáng Tạo hay Đức Thượng Đế hay Đức Chúa Trời hay
Thiên Chúa hay Allah hay Gie-hô-va và
hiện nay Ngài không mượn danh từ của loài
người mà Ngài tạm mưọn Thánh tước của Tam
Giáo là Cao
Đài Tiên
Ông Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát
(công
bình
)
( Bác ái
)
(Từ Bi )
vì Ngài là Đấng Vô Hình.
Chúng sanh là Tiểu linh quang của Đức Thượng Đế (hay
Đại Linh Quang) giống nhu vừng lửa to mồi ra những cây đuốc
nhỏ. Nhũng cây đuốc nhỏ muốn cháy thành vừng
lửa to như lúc ban đầu thì những ngọn đưốc phải được
gom góp nhiều củi, cây khô, chất cháy...
để đốt thêm cháy cho lớn ra. Đây là
thí dụ cụ thể cho dễ hiểu là các Tiểu Linh
Hồn chiết ra từ Đại Hồn của Đúc Thượng Đế giáng
xuống trần gian vật chất nặng nề nầy để góp nhặt những
bài học kinh nghiệm từ trược đến thanh, từ khổ đến sung
sướng, từ vô minh tội lỗi hay từ nơi tối tăm đến nơi
sáng suốt hay đến minh triết thiêng liêng.
Chúng sanh là loài Kim Thạch tiến hóa
(nhờ lửa cháy trong lòng đất, nhờ luyện kim, pha kim
loại, cây rừng chôn hằng triệu năm biến thành
than đá hay kim cương), Kim thạch qua các
Thiên tai, biến hoá tang thương mà
thành đất thêm nước và hơi ấm mà biến
hóa ra các loài rong, rêu,cỏ, cây
nhỏ, cây to...Thảo mộc tiến hóa thành
loài động vật: có những cây ăn thịt, có
những cây biết cử động như cây mắc cở...Loài
thú tiến hóa hằng triệu năm thành loài
thú khôn hơn như con khỉ, con chó, con
mèo.... sẽ thoát ra khỏi Hồn Khóm hay Hồn
Nhóm Thú mà có cá tánh
riêng để thành người dã man trong rừng
sâu. Những người dã man thời Tiền sử học hỏi với
thiên nhiên theo lịch trình từ thấp đến cao
là Cách Vật Trí Tri ( môn Cách
Trí hay Khoa Học Thường Thức ở bậc Tiểu Học). Nhờ khoa học
mà con người tiến hóa nhanh hơn về Kỹ Thuật ,
ngôn ngữ, khoa học, Thần học, Tôn giáo
học...và sau cùng, loài người sẽ biết về
Huyền Bí Học (Ésotérique, Esoterik,
esoterism) như hiện nay để biết tu thân, hành Đạo
mà tiến hoá lên hàng Thần,
Thánh, Tiên, Phật trên con đường phản bổn
hoàn nguyên hay từ cây đuốc nhỏ trở
thành vừng lửa to hay vân tinh hay ngôi sao hay
mặt Trời như thí dụ trên.
Con đường tiến hoá của linh hồn hay Tiểu Linh Quang theo
những kiếp sống trên những quả cầu trong Càn
Khôn Thế Giới mang những con số từ số 72 rồi lên
quả cầu 71, 70, 69 ... và hiện nay chúng sanh đang
sống trên quả cầu số 68 là Địa cầu nầy con người phải
biết giác ngộ là biết mình từ đâu đến
đây, sống ở cõi trần nầy để làm gì
và khi chết rồi sẽ đi đâu? Biết được như thế
thì con người mới biết làm lành, lánh
dữ, tu sửa tánh tình cho hoàn hảo, vong kỷ,
vị tha, bác ái... và học phương pháp
phát triển tâm linh là tịnh tâm hướng
nội, tập trung tư tưởng và thiền định, tập tánh
không không...để nên người hiền đức hay Thần,
Thánh, Tiên, Phật... (Đức Cao Đài có
nói :
Đạo THẦY có một chữ
Không, Chữ
Không làm được lục thông đắc thành.
Sự tiến hóa hay thăng hoa là phần thưởng vô
giá, vì một người dân thường trên quả
cầu số 67 mà sống sung sướng hơn cả bực đế vương ở
quả cầu 68 như quả đất nầy.
Hiện nay quả cầu 68 nầy ở vào thòi kỳ ân
xá thứ ba nên kỳ thi ân khoa nầy người tu
không còn phải tiến hóa lên từ từ
quá chậm chạp qua hằng triệu năm lên quả cầu 67, 66,
65.... rồi phải mất biết bao nhiêu triệu năm mới lên
Đệ Nhất Cầu. Hết Đệ Nhất Càu còn phải lên Tam
Thập Lục Thiên, rồi Tam Thiên Thế Giới, hết Tam
Thiên Thế Giới còn phải lên Tứ Đại Bộ
Châu, hết Tứ Đại Bộ Châu mới lên đến Bạch Ngọc
Kinh hay Niết Bàn được.
Những Đại Căn từ cõi Niết bàn với tổng số 96 ức
nguyên nhân (9.600.00 linh hồn) được Đức Chí
Tôn Thượng Đế cho xuống thế mang sứ mạng giúp
nhân loại trên con đưòng tiến hoá thuộc
hàng Tiên, Phật hay chư Giáo Chủ hay chư
Thánh sửa đổi vận mạng chính trị thế giới thí
dụ như Gorbartchov chẳng hạn. Nhưng khi xuống trần bị tiền
tài, danh vọng,sắc đẹp làm mê hoặc nên
quên đường về. Nếu chư vị nầy biết thức tâm lo tu theo
Thiên Tiên là lo luyện Đạo thì khi qui
liễu sẽ trực tiếp về cõi Niết Bàn hay Bạch Ngọc Kinh
chớ không phải qua đoạn đường quá dài nữa.
96 ức nguyên nhân xuống thế biết tu hành
và trở về được 4 ức nguyên nhân, còn lại
92 ức nguyên nhân còn kẹt lại. Tam Kỳ Phổ Độ
nầy là Kỳ Ân Xá Thứ Ba nên Thầy Thượng
Đế mượn xác phàm của Đức Ngô Minh Chiêu
tức Ngôi Hai Giáo Chủ ( Nhị Thiên Giáo
Chủ) để chứng minh việc đắc quả Đại Tiên (Phật) tại tiền
và truyền bửu pháp cho chư vị khác để
ngài rút về 92 ức nguyên nhân nầy về
cùng Ngài.
Mục đích của đời sống trên các quả cầu trong
72 quả cầu trong Càn Khôn Thế Giới
Cõi trần là một trường Thi Công Quả và
là Trường Tiến Hóa. Vì là thuộc vật
chất vật lý hữu hình nên linh hồn phải mang
xác thân tứ đại và phải chịu ảnh hưởng của
sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ và tử khổ. Các
giác quan như những bộ máy huyền bí,
tác dụng hổ tương giữa Tinh, Khí, Thần mà
có sự sống giống như cái máy xe hơi khi đổ
xăng (Tinh) nhờ dưỡng khí (bộ gió= l'air hay
Luftfilter để hút dưỡng khí) và Thần
là điện hay bougie nẹt lửa thì máy mới nổ xe
mới chạy. Khi ngưng nổ thì máy tắt hay người chết.
Khi sống thì mắt mới có thần lực tức mắt sáng
rực lên hoặc Thần lực mạnh thì có hào
quang tỏa ra trên đầu. Linh hồn nhờ xác thân
làm phương tiện để tiếp xúc với ngoại vật, như
cái áo mặc che thân, như cái nhà
để con người hay linh hồn ở. Nhờ tai, mắt, mũi,thân
và ý nên linh hồn mới biết nghe, thấy,
hiểu,nhận và nhớ giống nhu cái Hard dish. Kinh
nghiệm học hỏi ghi vào óc như ghi vào dĩa
cứng đó là a-lại-da-thức. Tất cả những bài
học ghi vào Datenbank làm bộ nhớ cho kiếp sau, nhưng
có điều trở ngại là những cuốn băng Video của kiếp
trước khi bỏ vào máy Video recorder hay thân
xác đứa bé của kiếp sau không tương ứng nhau
vì tần số khác nhau thí dụ như CTNT, PAL
SECAM... nên những archiv không hiện ra hết được,
đôi khi chỉ mọt phần thôi và trường hợp nầy gọi
là Thần Đồng, tuy nhiên rất hiếm, cũng có một
số ít người nhớ lại kiếp trước vì máy Video
recorder (thân xác mới) hợp với tần số của băng Video
(ba hột nguyên tử trường tồn của cái vía,
cái trí và xác thân kiếp trước).
Dù kiếp trước là bác sĩ y khoa. nhưng kiếp
nầy muốn thành bác sĩ cũng phải học lại, tuy
nhiên học nhanh hơn người kiếp trước chưa học. Đó
là sự thông minh vậy.