xin bấm vào hình xem Video Slide
Tóm lược về Ðạo Cao Ðài
Hà Phước Thảo Nguồn gốc các Tôn giáo : Nhân loại ở thời Thượng cổ sống đời Thượng nguơn Thánh Ðức, ngây thơ, vô tội. Người và thúđối xử và thương nhau như bạn. Người và người không ghét nhau và không giết hại nhau. Ðức Chúa Trời dạy trực tiếp cho loài người mọi việc theo luật đồng thanh tương ứng, đòng khí tương cầu như sự diễn tả của Ðức Mose trong Kinh Thánh. Sau biến cố đổi thay của các lục địa nên có đại hồng thủy, loài người phải mưu sanh thoáthiểm để tồn tại. Sau những trận cháy rừng, loài người tìm thấy xác thú bị cháy nướng, ăn thử thấy ngon rồi ăn mãi thành thói quen. Về sau loài người mới chăn nuôi để thú nhà sanh sản thêm mà giết để ăn. Loài người sanh sản ngày càng đông, giành nhau miếng ăn, giết hại nhau bằng chiến tranh. Ðức Chúa Trời sai chư Tiên Tri giáng thế viết Cựu Ước với 10 điều răn và cấm giết người để dạy dỗ (ở Trung Ðông). Ngài cho Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật giáng thế ở Ấn Ðộ mở Phật Ðạo dạy dân, đồng thời Ngài cũng cho chư Thánh giáng trần ở Trung Hoa mà cai trị dạy dân cho hiền lương.Ðó là Nhứt Kỳ Phổ Ðộ. Nhân loại dữ nhiều lành ít, chánh giáo bị sai lạc đi và thất truyền, nên Ðức Chúa Trời sai chư Giáo Tổ giáng thế mở Ðạo, chỉnh đốn lại các Tôn giáo có từ trước. Ðó là Nhị Kỳ Phổ Ðộ. Hai Kỳ Phổ Ðộ trước : do chư Tiên Tri và chư Giáo Chủ thay mặt Ðức Thượng Ðế mở Ðạo dạy dân tại từng vùng: Nhứt Kỳ Phổ Ðộ vào thời Thượng Cổ : -Trung Hoa : có Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ mở Tiên Ðạo, Ðức Văn Xương Ðế Quân mở Thánh Ðạo và Vua Phục Hi mở Nhơn Ðạo. Ấn Ðộ : có Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật mở Phật Ðạo. Ở Trung Ðông : có Ðức Mose mở Thánh Ðạo. Nhị Kỳ Phổ Ðộ vào thời Trung Cổ, các Ðấng phục sinh lại, mở Ðạo lần thứ hai : Ở Ấn Ðộ : có Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni mở Phật Ðạo, Ở Trung Hoa : có Ðức Lão Tử mở Tiên Ðạo, Ðức Khổng Tử mở Thánh Ðạo và Ðức Khương Tử Nha mở Thần Ðạo, truyền sang Nhựt Bổn là Shintoism (Shintoismus, Shintoisme). Ở Do Thái có Ðức Giê-su mở Thánh Ðạo. Tiếp theo sau đó có Ðức Mohammed mở Ðạo Hồi cũng ở Trung Ðông, cũng làÐấng Tiên Trisau cùng trong Thánh Ðạo. Tam Kỳ Phổ Ðộ : do chính Ðức Chí Tôn Thượng Ðế mở cơ tận độ cho nhơn loại bằng huyền diệu cơ bút chớ không giao cho tay phàm như trước. Ðấng Giáo Chủ Ðạo Cao Ðài : do chính Ðức Thượng Ðế khai mở Ðạo Cao Ðài trong Tam Kỳ Phổ Ðộ. Nơi khai mở Ðạo Cao Ðài : Thánh Ðịa Việt Nam - vào năm 1926 - Tổ Ðình tại Tòa Thánh Tây Ninh. Dân tộc Việt Nam là giống dân được Ðức Thượng Ðế chọn mà dạy trước tiên vì dân tộc và đất nước Việt Nam nhỏ nhoi trong bốn biển mà biết tin tưởng Trời Phật. Phương tiện truyền thông qua ba thời kỳ : Thời Thượng cổ : Chư Tiên Tri mặc khải viết ra Thánh Giáo : Chấp bút. Thời Trung cổ : Chư Giáo Chủ dạy trực tiếp các đệ tử và cácđệ tử hoặc Thánh Tông Ðồ viết Tam tạng Kinh hoặc Kinh Thánh. Thời hiện đại : Ðức Thượng Ðế sử dụng huyền diệu Cơ bút với đồng tử như máy Telefax vậy.Ðức Thượng Ðế truyền thông điển quang của Ngài cho loài người qua đồng tửtrong trạng thái mê như một máy Fax và ngòi bút viết ra chữ là Cơ Bút hay Thần Cơ , Diệu Bút chớ không qua trung gian Ðấng Tiên Tri chấp bút trong trạng thái tỉnh có chen phàn ý mà viết Thánh giáo như xưa hoặckhông giao cho Ðấng Giáo Chủ mang xác phàm dạy trực tiếp cho đệ tử hayTông Ðồ như hai lần Phổ Ðộ trước. Mục đích của Ðạo Cao Ðài : Thứ nhứt : Vì lòng đại từ, đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà Ðức Thượng Ðế dựng mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ để : Vớt những kẻ hữu phần vào địa vị cao thượng để tránh khỏi số mạng luân hồi ( Ðức Thượng Ðế dạy bửu pháp cho Ðức Ngô Minh Chiêu hành để trở về cựu vi. Ðức Ngô Minh Chiêu truyền lại cho những người sau, tu cầu giải thoát luân hồi sanh tử) Thứ hai : Nâng những kẻ có tánh đức bước vào cõi nhàn cao hơn phảm hèn khó ở nơi trần thế nầy (Mọi người có thể tu từ dễ đến khó, hành Tân pháp Cao Ðài để khi thoát xác lên quả cầu 67, người ở giai cấp ở đẳng thấp nhứt còn sung sướng hơn bực đế vương của cõi trần nầy). Tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài : Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi phục nhứt : Tam Giáo Qui Nguyên : Tam Giáo gồm Thánh giáo (Nho), Tiên giáo (Lão) và Phật giáo ở Ðông phương. Ba Tôn giáo lớn ở Á Châu tiêu biểu cho vạn giáo trên hoàn cầu. Qui nguyên : Trở về nguồn gốc là Ðạo hay Hư Vô chi Khí, hay Nhân tính, Thiên lương, qui Tâm, hay trở về Phật tại tâm hay Chúa tại Tâm hay từ hữu hình sang hư vô, vì Vạn Giáo đồng nguyên hay Vạn Giáo Nhất Lý. Ngũ Chi Phục Nhứt : Ngũ Chi gồm 5 cấp bực tu học do Ðức Thượng Ðế lập ra trong Tam Kỳ Phổ Ðộ vì nhơn loại căn trí, trình độ tiến hoá khác nhau. Họ có thể dễ dàng đi từng bước từ thấp lên cao: Nhơn Ðạo : Tùng khổ(tu thân giữ Tam Cang, Ngũ Thường để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) Thần Ðạo : Thắng khổ ( tu thân giữ Tam cang , Ngũ Thường để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, sống trong hoà bình, công bằng giữa các nước) Thánh Ðạo : Thọ Khổ (mở lòngbác ái, tha thứ, khoan dung, hy sinh cho tha nhân) Tiên Ðạo : Thoát khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, luyện Huỳnh Ðình) Phật Ðạo : Giải Khổ ( giữ Tam Qui, Ngũ giới, mở lòng từ bi, thiền định) Ðặc điểm của triết lý ( Giáo lý) Ðạo Cao Ðài : 1.Cách lập giáo : Tôn giáo Cao Ðài được truyền bá ở thế gian do một Ðấng Giáo Chủ Vô Hình. Ngài là Ðấng Toàn Năng, Toàn Giác, Hằng Hữu và thanh quang điển lành của Ngài chiếu phóng khắp nơi trong Vũ Trụ. Tôn Giáo Cao Ðài hay Ðạo Cao Ðài là một Tôn Giáo (Religion) chớ không phải một Giáo Phái (Secte) như một số người nước ngoài hay những người Việt nam chưa hiểu Ðạo Cao Ðài đã dùng sai danh ttrong sách hay trong Internet. Sự hiểu lầm nầy là một sự vô minh tai hại, vô lễ vớiÐấng Cha Lành. 2.Cách truyền giáo : Ngài là Ðấng Hóa Công hay Ðấng Sáng Tạo Vũ Trụ Vạn Vật hay Cha Trời hay Thiên Chúa hay Thượng Ðế...trực tiếp mở Ðạo trong Tam Kỳ Phổ Ðộ một cách thần diệu và nhanh chóng phi thường đó là ‘Thiên Linh Ðiển’. Ngài trực tiếp giáng cơ dạy Ðạo, lập Hiến Pháp nền Ðạo, tổ chức Tôn giáo Cao Ðài thuộc hữu hình chớ không do Ðấng Giáo Chủ mang xác phàm mở Ðạo như hai lần Phổ Ðộ trước. Chư vị Tiền Khai ÐạiÐạo là chư vị từ trên do Ngài cho đầu thai làm người để tiếp tay với Ngài tổ chức nền Ðạo ở cõi trần. Còn chức Giáo Tông thì trong giai đoạn đầu có 4 vị, nhưng khi chư vị nầy qui liễu thì Ðức Giáo Tông Vô Vi Ðại Ðạo là Ðức Kim Tinh Lý Thái Bạch trên Tam Giáo Toà và lẫn vô vi tại thế. Chư vị ở cõi phàm là Quyền Giáo Tông cho đến ngày đổi đời vào 30.4 năm 1975 thì Co Ðạo trong tình trạng chờ đợi Ơn Trên chớ chưa có vị nào làm Quyền Giáo Tông cả, vì Hội Ðồng Chưởng Quản hiện tại là những vị do Chính Quyền chọn ra , phải tuân lệnh của Chính Phủ. 3.Phương tiện truyền thông mới và huyền diệu được Ðức Thượng Ðế chuẩn bi trước từ lâu: Ðức Phật Thích Ca đã thông báo trước là‘Phật tương lai là một vị Bồ Tát’ và trong Ðạo Cao Ðài Ðức Thượng Ðế hạ mình mang danh hiệu là Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Ðức vàÐức Di Lạc Bồ Tát sẽ là Ðương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật, là Long Hoa Giáo Chủ và thời Mạt Pháp để chuẩn bị Thời Thượng Nguơn Thánh Ðức ( Ngày nay trên nóc Tòa Thánh có tượng Ðức Di Lạc và tại Trước Lâm Thánh Ðức Thiền Ðiện hay Chùa Di Lạc ở Vĩnh Long có thờ tượng Phật Di Lạc và vào ngày mùng 8 tháng 10 năm Giáp Dần(21.11.1974) tại Vĩnh Long có cuộc Ðại Lễ Mừng Long Hoa Hội khai Diễn, sau đó đến 30.4.1975 là có xảy ra cuộc sàng sảy thật sự để đổi đời, khảo đảo). 4.Ðức Chúa Giê-su thông báo là trong tương lai sẽ có Ðấng Thánh Linh dạy Ðạo (Trong Kinh ThánhÐức Chúa Giê- su có nói cơ duyên chuyển Ðạo Kỳ Ba là Thánh Linh Giáo :’Nếu các người thương Ta thì các người hãy nhớ lời Ta dạy bảo, rồi ta sẽ xin Cha Ta sai Thần Cứu Khổ khác xuống đây ở luôn với các người. Ðó là Thần Chơn Lý mà người ở thế gian không thể nào rước được, vì không thấy được, vì bởi Thần ấy sẽ ở với các người...Nhưng Ðấng an ủi tức là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính người sẽ dạy cho chúng con mọi sự và sẽ nhắc lại cho chúng con tất cả những điều Thầy đã nói với chúng con’ (-A. Elchinger et J. Dheilly, Tìm hiểu Kinh Thánh, quyển I, Tân Ước, Sách Thánh Gioan, do Trần Ngọc Thụ, Lê Trung Thịnh, dịch ra Việt Ngữ, Nhà Xuất Bản Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo Comitium, Sài Gòn,1960,trang 126). Ðức Thượng Ðế cho Ðức Victor Hugo, Ðại Văn Hào Pháp mở đầu phương pháp truyền thông giữa cõi vô hình và hữu hình bằng cách xây bàn. Ðức Thượng Ðế còn cho ông Allan Kardec , Flammarion ở Pháp và các Hội Thần Linh Học bên Anh quốc sử dụng cơ bút để chư Thần Minh giáng cơ dạy về khoa huyền môn (Esoterik) cho các nhà khoa học. Bên Nhựt Bổn có Ðạo Oomoto và Hinomoto sử dụng cơ bút mà viết Thánh giáo và trong cơ bút Ơn Trên có cho vị Chưởng Quản của Ðạo nầy liên lạc với Tòa Thánh Tây Ninh. chuẩn bị cho thế giới còn tiếp diễn thêm để người các dân tộc khác tin vào phương tiện thông linh nầy : Ở Thánh Thiền Ðường bên Ðài Loan cũng có cơ bút và có đồng tử xuất thần viếng các cõi thiêng liêng và viếng cả Ðịa ngục, viết ra Thánh giáo răn đời. Hình dáng cơ bút giống hình Chòm sao Bánh Lái hay hay Ðại Hùng Tinh và Tiểu Hùng Tinh tức chòm sao con gấu lớn và con gấu nhỏ hay Thất Tinh. Ngòi bút là mõ chim Loan, ngay tại địa điểm của sao Bắc Ðẩu, nơi Ðức Thượng Ðế ngự, cũng là trục của quả cầu 68 mà loài người nhìn lên Trời vào lúc ban đêm sẽ thấy. 5.Luật Ðạo và Nghi Lễ : Luật Ðạo giống như Hiến Pháp của nền Ðạo do chính Ðức Thượng Ðế ban Sắc cho Ðức Giáo Tông Vô Vi Ðại Ðạo giáng cơ vẽ sơ đồ Tòa Thánh, viết dự luật,Ðức Cao Ðài chuẩn y để ban hành mà tổ chức nền Ðạo( Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ) . Nghi Lễ như cách thờ phượng, cách lạy, Thánh Tượng, Lễ vật... do chính Ðức Thượng Ðế giáng cơ dạy và giải thích rõ ràng, chớ không do người phàm hay chức sắc trong Giáo Hội trong các Tôn giáo đã có đặt ra theo phong tục địa phương hay ý riêng như hai thời kỳ Phổ Ðộ trước.Nghi Lễ và Lễ Vật mang một ý nghĩa huyền nhiệm về Huyền Môn Học như , Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tam tài, Ngũ Khí, Bát Quái, cách bắt Ấn ở bàn tay theo vị trí của Cơ sanh Hóacủa Tiên Thiên và Hậu Thiên trong Càn Khôn Vũ Trụ ( Tý và Dần trong bàn tay). Thánh tượng không là tượng của Ðấng Giáo Chủ hay Thập Tự Giá như xưa mà là Thiên Nhãn, tượng trưng cho Chúa Tể Càn Khôn . Ngài dạy : ‘Nhãn thị chủ tâm Lưỡng quang Chủ tể Quang thị Thần Thần thị Thiên Thiên ngã giả ngã’ (TNHT trg. 11) 6.Thiên bànlà cái bản đồ của Càn Khôn Thế giới : Vị trí của Thánh Tượng, đèn, hương, hoa, trà, quả, lư hương, ly rượu, tách trà... là tượng trưng của Càn Khôn Vũ Trụ và Tiểu Thiên Ðịa trong xác thân Tứ Ðại. 7.Mục đích và Tôn Chỉ của Ðạo Cao Ðài : mang tính chất quyết định, nhất thiết và kịp lúc trên con đường giải thoát hay hợp nhứt với Thượng Ðế hoặc tiến hoá nhanh trên con đường phản bổn hoàn nguyên : Cứu chư vị linh căn xuống thế độ trần mà quên đường về, tự tu kỷ và thiền định mà trở về ngôi vị cũ. Giúp những linh hồn đang tiến hóa tiến nhanh hơn, tự tu kỷ, học thiền và hành thiền theo Pháp Môn Tam Công trong Cơ Phổ Ðộ để có tánh đức mà tiến nhanh kịp lúc khi quả cầu 68 nầy đến ngày tàn, lên quả cầu 67 sống trong cõi nhàn tiếp tục tu hành trên con đường phản bổn hoàn nguyên. 8.Các bài Kinh chứa nội dung huyền nhiệm : Không như các Tôn giáo có trước, các bài Kinh là sự tán tụng Ðấng Thiên Chúa hay Mantra hay Chơn ngôn Măt Tông hay lời Phật dạy không thôi , mà lời Kinh trong Ðạo Cao Ðài mang đủ các tính chất : vừa tán tụng công đức Ðấng Sáng Tạo, chư Giáo Tổ mà còn giải thích lịch sử Ðấng Giáo Tổ , tóm tắt lời dạy Ðạo, mỗi danh từ là một ý nghĩa sâu xa. Người hành Ðạo đọc Kinh để cầu lý, lần lần sẽ hiểu thêm ra, hiểu cách hành thiền để tự giải thoát. Các bài Kinh đều có dạy về các nguyên lý Vũ Trụ và cách vận chuyển Ðạo hay Nguơn Khí khi thiền. 9.Ðức Thượng Ðế và Ðức Lão Tử dạy thiền trực tiếp : Ðấng Cha Lành là Ðức Cao Ðài truyền pháp cho Ðức Ngô Minh Chiêu để Ngài tu luyện Ðạo và truyền bửu pháp tiếp cho chư đệ sau . Ðức Lão Tử cũng như Ðức Ngô Minh Chiêu và chư vị tu theo Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi đã qui liễu giáng cơ dạy trực tiếp cho các hành giả tại thế . Ðiều kiện thọ pháp rất gắt gao ( trường chay, tuyệt dục, nhập môn, xin Thầy bằng keo) nhưng cũng dễ dàng ( ai quyết chí cũng được Thầy Thượng Ðế ban ơn) khẩu khẩu tâm truyền, chớ không viết ra sách hay chép ra, mà phải học thuộc lòng, tránh cho người khác đọc mà tự hành, để giữ chân truyền, tránh thất truyền như hai lần Phổ Ðộ trước. 10. Các Pháp Môn được Ơn Trên dạy cho mọi trình độ tiến hóa. Tùy theo cơ duyên mà thọ pháp hoặc hành theo tịnh tiến ( từ dễ và thấp đến cao) hoặc luyện Ðạo theo cơ giải thoát ( giải thoát khỏi luân hồi sanh tử nội trong kiếp nầy. Khi qui liễu sẽ được Ðức Chí Tôn Cao Ddài Thượng Ðế chấm điểm và quyết đ. Ai muốn tu giải thoát thì phảixin keo, và khi được Thầy Thượng Ðế cho keo thì mới học do người hành trước chỉ kiểu để hành cơ giải thoát khi qui liễu). 11.Giáo lý Ðại Ðạo là cơ tận độcho toàn nhân loại chớ không riêng cho dân tộc Việt nam ( TNHT trang ......). 12.Thánh giáo Ðạo Cao Ðài là lời dạy của chính Ðức Thượng Ðế, Ðức Diêu Trì 13.Kim Mẫu, chư Phật, chư Giáo Tổ, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, chư vị liễu đạo đắc quả, chư vị Anh Hùng, chư Hiền, chư Chơn Nhơn... chớ không do một Ðấng Tiên Tri mặc khải chấp bút viết ra hay do Ðấng Giáo Chủ giảng cho đệ tử hay Tông Ðồ và chư vị nầy viết lạiKinh sau khi chư vị Giáo Tổ đắc đạo như hai thời kỳ Phổ Ðộ trước. 14.Giáo lý Ðạo Cao Ðài do các Ðấngdạy thế nào ? Do chính Ðức Thượng Ðế, do Ðức Diêu Trì Kim Mẫu, chư Giáo Tổ trong hai thời Kỳ trước giáng cơ nhắc lại lời dạy khi xưa, do chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, chư vị tu đắc quả...giáng cơ dạy chi tiết từng li từng tí rất khoa học và thực tế. Giáo lý Ðạo Cao Ðài không phải là giáo lý vay mượn hay sự tổng hợp của các giáo lý Tôn giáo khác mà là bài học ôn tập trong kỳ thi cuối khoá trong cuộc tuần huờn tiến hoá. 15.Giáo lý Ðạo Cao Ðài là những tóm lược hay sự ôn bài của chư vị Thầy để học sinh dự kỳ thi cuối khóa hay Long Hoa Ðại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng ( chớ không phải giáo lý tổng hợp, góp nhặt, vay mượn từ các Tôn giáo khác có trước... như nhiều học giả Tây phương lầm tưởng mà đặt ra danh từ syncrétisme như các sách đã in). 16.Cách xưng hô của Ðấng Giáo Chủ rất thân mật trong tình Cha con trong Ðại Gia Ðình Càn Khôn Vũ Trụ , tình Thầy trò trong Trường Ðời trần gian trên quả cầu mang số 68 trong số 72 quả cầu. Ðức Thượng Ðế xưng là THẦY. Ngài không dùng danh từ của ngôn ngữ địa phương do loài người đặt ra để gọi Ngài như trước ( Thí dụ như Giê-hô-va , Allah ...) mà Ngài mượn danh từkhông mang tên hay vô danh có ý nghĩa tượng trưng trong ngôn ngữ Việt Nam là CAO ÐÀI .
‘Cao
Ðài
là cái đài cao,
Vượt trên tất cả cách rào ngăn che (Ðức Quảng Ðức Chơn Tiên) cũng là nê huờn cung, trên đỉnh đầu của con người. Người đời thường gọi ‘Chín Trời, mười Phật tức là cửu khiếu hay 9 cửa để hồn xuất ra khi chết mà lên không gian (lên trời) là 2 mắt, 2 tai, miệng, hậu môn, 2 lổ tai, lổ tiểu còn con đường thứ 10 là nê huờn cung. Người luyện Ðạo thì khi chết hồn lên đỉnh đầu mà xuất ra mới về cõi Phậthay Niết Bàn được. 17. Giáo lý Ðạo Cao Ðài mang tính cách khoa học và hiện đại và là nền tảng cho các ngành khoa học trong tương lai. Giáo lý Ðạo Cao Ðài khai mở trí người tín đồ khi đọc kinh mà hiểu nghĩa lý sâu xa trong các danh từ trong lời kinh. 18. Giáo lý Ðạo Cao Ðài duy trì Ngũ Giới Cấm trong Ðạo nhưng Phật được chính Ðức Thượng Ðế giải thích rất rõ ràng nguyên do tại sao cấm, nhờ đó nhân loại hiểu rõ nguồn gốc của tội lỗi mà tránh vấp phải hoặc lần lần giảm tội lỗi, hoàn thiện hơn cũng là điều kiện cần thiết để tu và hành pháp môn trong Ðại Ðạo. 19.Các danh từtrong Thánh Giáo Ðạo Cao Ðài là những từ căn bản, phong phúlấy từ chữ Hán Việt, chữ Nôm, chữ Pháp có dấu ngoặc và các Thánh giáo sau nầy trong Thánh Giáo Sưu tập được chư Thiên Liêng dùng rất khoa học, chính xác đúng theo trình độ tiến hoá của nhân loại trong giai đoạn khoa học kỹ thuật cao tột nầy ( Thí dụ như các danh từ do Ðức Di Lạc Thiên Tôn gọi Ngọn đèn từ huệ và Ngài cho mở dấu ngoặc transistor ( TGST năm 19.....)hay Ðức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy về thiền...(TGST năm 19.... ) hay Ðức Thượng Ðế dẫn chứng bằng thí dụ như kỹ sư....(TGST năm 19....). 20.Giáo lý Ðạo Cao Ðài dạy về Thiên Nhơn Hiệp Nhứt : Từ Một mà tán ra vạn thù và từ vạn thù qui về Một. Bửu pháp là cách tịnh luyện, luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thàn huờn Hư, luyện hư hòan Vô và khi Tam Bửu qui lên nê huờn Cung như ba cái bông, sẽ được Thầy Cao Ðài Thượng Ðế tiếp sức rút lên mà hành giả hợp nhứt với Ngài. 21.Thánh giáo của Ðức Cao Ðài là sự bình đẳng giữa Thiên và Nhơn : Ðức Cao Ðài dạy :’các con là chư Phật, chư Phật là các con. Có Thầy mới có các con. Có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên , Phật’ (TNHT trg.43). 22.Người tín đồ Ðạo Cao Ðài là con và là đệ tử của Ðức Chí ôn hay Ðấng Cha Trời. 23.Người tín đồ Ðạo Cao Ðài đãnh lễ Ðức Chí Tôn và Ðức Diêu trì Kim Mẫuhằng này trong tứ thời như người con hiếu thảo viếng cha mẹ tại nơi Thiên bàn ở nhà mình, trực tiếp hành lễ, cúng, đọc kinh, dâng lễ ( Tam bửu Tinh, Khí, Thần tượng trưng bằng hoa, trà, rượu) lên Ðức Chí Tôn chớ không qua trung gian của linh mục, tăng sĩ hay thầy lễ như trong các Tôn giáo có trước đây. 24.Thiên Nhãn có tác dụng như điểm tựa hay antenne để cho người tu luyện nhận điển lành của Ðức Thượng Ðế. Trong lúc luyện Ðạo mượn đó để Ðức Chí Tôn tiếp sức (trợ lực) cho hành giả chuyển Ðạo lên nê huờn cung mà Thiên Nhơn hiệp nhứt trên đỉnh đầu, nơi Ðức Cao Ðài ngự ở Tiểu Thiên Ðịa. 25.Các cựu pháp bị thất truyền và biến ra tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhiều người hành mà không đắc quả duy có một vị mà thôi. Ðến năm Dậu (1919) chính Ðức Cao Ðài truyền chánh pháp cho Ðức Ngô Minh Chiêu và Ðức Ngô Minh Chiêu truyền tiếp cho chư đệ tử. Các Ðàn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi lập đàn cơ để Ðức Thượng Ðế Cao Ðài giáng cơ chỉnh đốn, sửa cách hành cho đúng để hành giả công phu đạt kết quả trên đường giải thoát khỏi luân hồi sanh tử trong một kiếp nầy. 26.Ðức Ðông Phương Lão Tổ cũng giáng cơ truyền dạy từ chút Tân Pháp Cao Ðài cho những ai chưa có cơ duyên hành pháp Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thì hành theo tiệm tiến để tiến hoá từ từ, tu kỷ tập cho có tánh đức và công phu thiền định để thăng hoa, khi chết lên cõi nhàn hơn là quả cầu 67. 27.Gíao lý Ðạo Cao Ðài là một siêu triết lý để nhân loại thực hành, hầu tạo một nền hòa bình trên thế giới và một Thiên Ðàng tại thế, trở lại đời Thượng Nguơn Thánh Ðức. 28.Giáo lý Ðạo Cao Ðài đưa nhân loại một nhân sinh quan và một Vũ Trụ quan siêu việt để nhân loại sống cho đúng với Ðạo, trung dung và hòa điệu giữa người với người, người và loài vật, giữa Tiều Thiên Ðịa và Ðại Thiên Ðịa. Giáo lý Ðạo Cao Ðài mang tính chất đại chúng vì thích ứng với mọi trình độ của con người ở mọi mức tiến hóa từ thấp đến cao. Tóm lược triết lý như sau : Ðầu tiên trong Vũ Trụ chỉ có Khí Hư Vô hằng có. Khí Hư Vô do pháp giới duyên khởi hay đúng ngày giờ mà có trận nổ mà khoa học gọi là Big bang. Từ đó Ðức Thượng Ðế, Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ hay Ðấng Sáng Tạo hay Ngôi Thái Cực được sanh ra. Ngài tòan năng, toàn thiện. Ngài phân tánh Ngài ra hai phần Âm và Dương hay Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi mới phân ra Tứ Tượng và Tứ Tượng sanh ra Bát Quái, 16, 32, 64...quái và muôn loài vạn vật. Từ các loài tinh chất hay những nguyên tử khác mà có thêm những nguyên tử mới, những nguyên sinh chất, tế bào... rồi qua hằng triệu năm tạo thành cây cỏ, thảo mộc, các sinh vật nhỏ rồi thú, cầm. Thú cầm tiến hóa hằng triệu năm để thành con người. Sự tiến hóa rất dài. Mỗi phần tử của sự sống hay linh hồn phải tiến hóa hằng triệu năm và sống qua nhiều bầu hành tinh khác nhau với các khí các nhau, từ vật chất đến thanh khí. Loài người trước đây là loài thú trên bầu Nguyệt tinh. Khi tiến hóa qua bầu trái đất nầy là quả cầu thứ 68. Sau đó sẽ tiến hóa lên bầu hành tinh thứ 67, rồi 66, 65... cho đến khi lên đến đệ nhứt cầu. Sự tiến hóa lên thêm để lên đến tam thiên thế giới rồi Tứ Ðại Bộ Châu và sau cùng sẽ về bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn, nơi Ðức Thượng Ðế ngự. xuống trần học hỏi là sự nhập thế hay từ Nhứt Bổn tán vạn thù hay từ Nhứt Nguyên tán ra thành Nhị Nguyên. Trong Nhị Nguyên linh hồn phải gánh mọi nặng trược, các đau khổ của trạng thái vật lý, luân hồi mãi theo chu kỳ thành , trụ hoại, diệt trong chu kỳ kín mà khó thoát ra khỏi vòng tròn của bánh xe tiến hóa. Trong Nhị Nguyên các loài cắn xé, sống trên xác chết của loài nhỏ hơn, mạnh được yếu thua. Khi đến con người thì vẫn còn đấu tranh, ích kỷ. Nhưng khi có sự tiến hóa cao thì con gười hướng thượng hơn, vong kỷ, vị tha và luật hy sinh hay sự công quả để tạo tánh đức mà tiến lên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Khi lên đến phẩm Phật, linh hồn còn phải tiến hóa thêm là hy sinh, hạ mình xuống thế mang sứ mạng của hàng bồ tát mà độ đời tiếp, nhờ thế mà công đày , quả mãn thì mới hợp cùng Ðức Thượng Ðế hay Thiên Nhơn hiệp Nhứt làm một được. Ðó là con đường phản bổn hoàn nguyên. 29.Giáo lý Ðạo Cao Ðài đem lại sự hòa đồng Tôn giáo, tránh ghét nhau, khoan dung , tha thứ, phát triển tình huynh đệ đại đồng, tạo tình thương đến những kẻ ghét mình , nhằm xây dựng một xã hội Thánh Ðức, thanh bình và hạnh phúc dựa trên căn bản ‘Công bình, Bác ái, Từ bi’ , giúp cho nhân loại thương yêu, giúp đỡ nhau với tinh thần thuần chơn , vô ngã, và là cửa ngõ để vào Bạch Ngọc Kinh hay Niết bàn. 30.Thánh giáo Ðạo Cao Ðài thể hiện đức háo sanh và lòng bác ái vô biên của Ðức Chí 31.Tôn Thượng Ðế, Ðức Diêu Trì Kim Mẫu và của chư Thiêng Liêng, là sự hội tụ tất cả các giáo lý đã có từ trước đến nay và là sự thống nhất các triết lý Ðạo trong tinh thần ‘Vạn Giáo Nhất Lý. 32.Thánh giáo Ðạo Cao Ðài là Khoa Học Huyền Môn nhằm nghiên cứu và thực hành các định luật trong Vũ Trụ là : 1*Luật
Âm Dương
2** Luật Nhân Quả, còn gọi là Luật công bằng, luật Thừa trừ, luật Ðồng Thanh Tương ứng đồng Khí tương cầu, luật Hòa Ðiệu hay Luật cảm ứng, luật Ðộng và Phản Ðộng,nguyên lý Bảo Toàn năng lượng, nguyên lý bảo toàn nguyên tổ sánh như nước biến thành hơi, mây, mưa và trở lại nước, không bị mất đi. 3** Luật Luân Hồi 4** Luật hy Sinh 5** Luật Tiến Hóa 33.Cách tổ chức Ðạo Cao Ðài tại Tòa Thánh Tây Ninh rất dân chủ : Cách tổ chức thuộc hữu hình tại thế rất dân chủ vì có sự phân quyền rõ rệt giữa ba pháp quyền của Ba Ðài là : Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài và Bát Quái Ðài như một Chính phủ của một Quốc Gia dân chủ là Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. 34.Cốt yếu của Ðạo Cao Ðài là sự thương yêu: Chơn truyền của Thầy Thượng Ðế tại thế là : Thầy là Cha của sự thương yêu thương yêu là chìa khóa mở Bạch Ngọc Kinh Trọng Ðạo, trọng Thầy là trọng chúng sanh Thương nhau được là thương Thầy. Nếu chưa thương được thì cũng không được ghét nhau. Người lãnh đạo thương dân mình như con đỏ. Thương nhau để hoàn thành sứ mạng Phổ Ðộ Kỳ ba. Quyền pháp Ðạo là tình thương và sự sống. Không thương được kẻ ghét mình thì khó gần được Thầy. Ðạo Thầy là Ðạo cho cả nhân loại để nhân loại hiểu Ðạo mà tìm lại nguồn gốc của tình thương, hầu sớm chấm dứt cảnh tương tàn. 35.Người hành Ðạo hay người tu phải tu học : ‘Tu để sửa, học để hành. Sửa cái u trệ, xấu xa, sai lạc dể trở về đường ngay nẻo thẳng. Hành cho đúng Ðạo để trở nên con người chí thiện, chí mỹ, mới có một xã hội thánh đức , hiền lương’. (Ðông Lâm Tiên Trưởng) ‘ Ðừng vội tin những lời dạy trong Kinh Ðiển xưa của chư Phật , Tiên, cũng như những lời chính Phật nói’ mà hãy xem xét biện, phân coi những lời dạy ấy có hội đủ ba điều kiện tối yếu nầy không ? Lời dạy có chơn chánh vàđúng chơn lý không ? Lời dạy có ích lợi không ? Lời dạy có dịu dàng, hòa nhã, dễ thương, dễ cảm không ? nếu lời dạy xúi giục chia Chi rẻ , xúi giục chia Chi rẻ Phái hoặc cơ bút mà không đủ các điều kiện trên là ma quỉ mạo danh Thầy. 36.Triết lý của Ðạo Cao Ðài dạy Ðạo phải tách rời khỏi chính trị : ‘... chớ chánh trị với Ðạo chẳng buổi nào liên hiệp cùng nhau’ (TNHT, trg. 45 ) 37.Việc nhập môn vào Ðạo Cao Ðài phải có thề : trong hai kỳ Phổ Ðộ trước, người tân tòng rửa tội và nhận Thánh danh để vào Ðạo hoặc người chưa có Ðạo nào muốn trở thành tân Phật tử chỉqui y nhận pháp danh do vị tăng trao thì được vào Ðạo và chỉ có lời nguyện và quyết định thôi, chớ không có thề. Riêng trong Ðạo Cao Ðài, người tân tín đồ phải thề trước Thiên Bàn, hứa với Ðức Chí Tôn Cao Ðài Thượng Ðế rằng : Nếu sau nầy lòng một dạ hai thì xin chịu Luật Thiên Ðiều là Thiên tru Ðịa lục. Việc thề nầy là một quyết định tối hậu, không bao giờ bỏ Ðạo, bỏ dở nữa chừng việc tu thân hành Ðạo. Nếu muốn tu luyện để tiến hóa nhanh thì lời hứa mới như là một lời thề thứ hai là nếu bán đồ nhi phế thì sẽ chịu tam đồ ( ba hình phạt là bị gươm đao, lửa cháy, chết chìm) bất nan thoát tục (khó có thể thoát khỏi luân hồi sanh tử ở cõi trần tục). 38.Pháp Môn Tam Công : Việc tu thân luyện Ðạo phải đủ Tam Công : Công phu, công quả và công trình : Người tín đồ Cao Ðài Giáo phải tu thân , hành Ðạo hay tu tánh, luyện mạng đủ ba điều kiện : Công phu đều đặn, hằng ngày, không bỏ, không gián đoạn. Công quả giúp đời, bố thí công, của cho Ðạo và cho đời. Công trình dày dặn suốt đời, luôn luôn thăng tiến, không lùi, ngày càng tốt, thiện hơn, tình thương rộng hơn, lòng bác ái mở ra khắp chúng sanh. 39.Việc tu thân luôn luôn phải hướng nội và từ hữu vi đi vào vô vi. ‘ Cao Ðài không Cao Ðài, đó chính thị là Cao Ðài ‘ ‘ Cao Ðài không là Cao Ðài, khi nó đạt đến mức chơn Ðạo Vô Vi, giải thoát toàn diện, không còn chấp danh, chấp Kinh, chấp Pháp nữa, thì nó hoàn nguyên cùng Ðại Ðạo, về với Hư Vô ‘( Ðức Giáo Tông Lý Thái Bạch, TGST năm Giáp Dần, 1974, trg. 113 ). . 40. Sự hiểu lầm của các học giả Tây Phương viết sách về Ðạo Cao Ðài, các nhà giáo dục viết sách giáo khoa cho môn Ðức dục (Ethik) ở các trường Trung Học tại Ðức cần được giải toả để nhân loại thấy rõ Ðạo mà lo tu, mang lại đức tin và tìm đường giải thoát hay tự cứu cho chính mình : Có ba nghi vấn chưa được giải thích rõ là : 1). Các học giả viết về Tôn giáo học, các nhà báo, các nhà nghiên cứu, các sinh viên ban Tiến sĩ của nước ngoài đến Việt nam viết luận án về Ðạo Cao Ðài , các bài trong Internet của những người chưa hiều Ðạo Cao Ðài đã dùng sai danh từ và sử sụng chữ secte, Sekte cho Tôn giáo Cao Ðài. -Theo định nghĩa, chữ secte có nghĩa là Chi Phái nhỏ của một Tôn giáo đã có trước hoặc một nhóm tín ngưỡng mới chưa có Tổ chức thành Giáo Hội có hệ thống từ trên xuống. Ngày nay chữ secte , Sekte mang một nghĩa xấu, vì hiện nay trên thế giới có nhiều Sectes , Sekten gây những việc tự sát hay giết người như ở Nhật, Thụy sĩ, Canada, Hoa Kỳ hay có sekte bị Chánh Phủ cấm như ở Ðức ... - Tôn giáo Cao Ðài hay Ðạo Cao Ðài không phải là một secte, Sekte vì Ðạo Cao Ðài khi khai nguyên đã có Thánh Giáo căn bản như Thánh Kinh mới về Triết Lý Ðạo là quyển Thánh NgônHiệp Tuyển, về Luật Ðạo là Tân Luật và Pháp Chánh Truyền để có nền Nghi Lễ, Lễ Phục, Chức sắc từ trên xuống là Giáo Chủ là Ðức Thượng Ðế vô hình, Giáo Tông Vô Vi, 1 Quyền Giáo Tông tại thế, 3 Ðầu sư, Chưởng Pháp, Hộ Pháp, 12 Phối sư, 72 Giáo sư, 3.000 Giáo hữu, lễ sanh thì chọn lựa người có hạnh thì vô số. Tổ chức Ðạo Cao Ðài thì có Ba Ðài, phân quyền rất dân chủ vừa có tính cách thiêng liêng, vừa có tính cách thế Thiên hànhb hóa. Nghi lễ mang triết lý huyền nhiệm, cờ Ðạo tượng trưng cho Tam Giáo : màu xanh tượng trưng cho Lão Giáo, màu đỏ tượng trưng cho Khổng giáo và màu vàng tượng trưng cho Phật giáo Ðạo Cao Ðài mở ra trong vòng ngắn mà số tín đồ tăng lên nhanh chóng và hiện nay được hoằng hóa trên khắp thế giới , lý do là người Việt nam hay thuyền nhân đi tị nạn khắp thế giới do Cao Ủy Tị nạn UNHCR phân phối và ấn định chỉ số cho các nước, và sau đó Gorbatschow, những người Ðức ở Ðông Ðức thấy rõ thảm trạng tị nạn mà đi vào con đường tự do dân chủ. Ðây cũng do Thiên Cơ dĩ định vì Ðức Cao Ðài đã nói trước vào năm 1926 như sau: Từ đây nòi giống chẳng chia ba,
Thầy hiệp các con lại một nhà, Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc, Chủ quyền chơn Ddạo một mình Ta. (TNHT, trg. 44) 3) Sự hiểu lầm về Tổ chức Quân Ðội : Nước Việt nam vào năm 1926 bị dưới quyền thống trị của thực dân Pháp. Người dân Việt nam có lòng yêu nước và tín đồ của bất cứ Tôn giáo nào ở Việt nam đều tham gia kháng chiến chống Pháp. Nhiệm vụ của người dân trong khi quốc gia nghiêng ngửa cầm súng hay tổ chức quân đội để chống thực dân với tư cách của một công dân trong một nước bị trị, nổi lên giành độc lập, đó là tính cách cá nhân của người công dân. Nhưng có những vị nhân danh Tôn giáo mình mà gọi Quân Ðội Ðạo là sự sai lầm của cá nhân đó, chớ Ðạo không bao giờ có Quân Ðội, vì Thánh giáo có dạy là thương người , hành thuyết Trung Ðạo, Trung Hoà , chớ không có bảo cầm súng giết người. Có ai bảo rằng Tổ chức IRA ở Bắc Ái Nhỉ Lan là do Ðạo Thiên Chúa tổ chức đánh nhau với Tin lành Giáo đâu ? Ở Việt nam thì những vị tướng lãnh, sĩ quan, lính mang quân phục của chính phủ chớ không mang lễ phục của Ddạo chung với cấp bực mà ra trận đánh nhau. Như vậy bất cứ Tôn giáo nào và bất cứ ở đâu trên thế giới cũng có những người trong Tôn giáo đó cầm súng giết người như ở Ái Nhỉ lanhay ở các nước khác nhơn danh Thánh chiến hằng trăm năm ở Âu Châu chẳng hạn, chớ Tôn giáo của họ không chủ trương gây chiến tranh. |