Theo
CAO ĐÀI TỰ ĐIỂN :
Thiên: Ông
Trời, từng Trời, cõi Trời. Thiên thượng:
trên trời, tức cõi trời. Thiên hạ: dưới trời
tức chỉ nhơn loại. Duy: chỉ có. Ngã:
Ta. Độc: một mình. Tôn: kính. Tương truyền câu nói trên là của Đức Phật Thích Ca khi Ngài giáng sanh nơi nước Ấn Độ. Nhiều người hiểu câu nầy theo nghĩa thông thường là: Trên Trời, dưới Trời, chỉ có một mình Ta là tôn kính nhứt. Vì hiểu như thế nên
nhiều người cho rằng Đức Phật quá tự cao tự đại, xem
Trời Đất không có ai bằng. Đó là một cái hiểu hết
sức sai lầm, hết sức mê muội, Như vậy, chúng ta phải hiểu câu nói đó có một ý nghĩa khác hẳn, bởi vì Phật nói về Tâm pháp, ý nghĩa rất cao siêu, do nghĩa của chữ: NGÃ. NGÃ là gì? Ở đây, Ngã không
phải là cái Ta tầm thường thấp kém, mà là cái BẢN
NGÃ của mỗi người, là sự CHẤP NGÃ (cố chấp cái Bản
Ngã). Cái Bản Ngã ấy, sự Con người vì Chấp
Ngã nên coi thường mọi người mọi vật, coi thường cả
Trời Phật, nên si mê ám muội, không học hỏi được
điều gì nên không tiến hóa được Cho nên, Đức Phật Thích Ca nói ra câu ấy là để Phá Chấp, Phá Mê, thố lộ Tâm pháp Thượng thừa. Người nơi thế gian
thường chấp cái Ta Phàm ngã, vì dục vọng trần gian,
vì tất cả những cái hư giả phù phiếm, vì lục dục
thất tình đeo mang trong xác trần Vì chấp cái Ta Phàm
ngã hữu hình nên không thấy được cái Ta Chơn ngã vô
hình. Chính cái Chơn ngã nầy mới thật là Ta, vĩnh
viễn là Ta, chớ cái Phàm ngã Khi biết được cái
Chơn Ngã báu trọng ấy thì ta mới lo trau giồi cho nó
tinh anh, đặng thấy rõ đạo pháp cao siêu mầu nhiệm,
để trở về với chơn lý thâm uyên _________________________________________________________________________________________________________________________ Theo các nhà
nghiên cứu Phật học: Tổ tư vấn báo Giác ngộ giảu thích trong Hỏi đáp Phật pháp : DUY NGÃ ĐỘC TÔN Khiêm Cung sưu tầm Trong lễ Mộc
Dục, nói nôm na là lễ Tắm Phật, chúng ta thấy chùa đặt
một tượng Phật Thích Ca sơ sanh, một tay chỉ trời, một
tay chỉ đất, đứng trong một cái Theo Kinh A Hàm, khi đản sanh, Đức Phật đã nói một bài kệ bốn câu như sau: Thiên thượng
thiên hạ Có người hiểu
rằng chữ “ngã” là tôi, ta hay mình ám chỉ Đức
Phật, chỉ có Đức Phật là bậc đáng được tôn sùng nhất,
vì Ngài đã thoát vòng luân hồi sanh tử, Giáo lý phân biệt bản ngã hay vọng ngã với chơn ngã. Phàm phu và ngoại đạo cho rằng ngã là chúa
tể của cái thân, nó là thường trụ, trường tồn, cho
nên sinh ra mê chấp, yêu mến thân mình và cái gì
thuộc về Theo Phật giáo thì không có
gì trong thế gian là tuyệt đối,mọi sự vật (pháp) đều
giới hạn, tương đối và phụ thuộc lẫn nhau. Đó là
nguyên tắc của luật Duyên
Cái này có thì cái kia có, Toàn thể sự sanh tồn và tiếp tục sanh tử hay chấm dứt sanh tử đều được giải thích theo một chu trình gọi là Duyên khởi gồm 12 yếu tố :
( Nhân quả chuyển lưu) 12 nh ân duyên như là một chuõi dây
xích, nếu một nhân duyên không sanh thì những nhân
duyên khác không sanh. Vô minh diệt thì hành diệt,
hành diệt thì Vọng
ngã cũng thường thay đổi vì duyên theo sáu trần. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đòi
hỏi chúng ta phải cung phụng đầy đủ, sắc là thức ăn
của mắt, âm thanh Vua Trần Thái Tông là một vị vua chơn tu,
đã đặt ra nghi thức Sám Hối Sáu Căn, nói lên những
điều sai trái mà sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý gây ra. Đức Phật Thích Ca qua các kinh Kim Cang,
Lăng Nghiêm và nhiều kinh khác đã phá chấp, dạy mọi
người không chấp ngã, không chấp nhơn hay chúng sanh
« Niết bàn chính là từ bỏ
ba độc tham, sân, si do ngã chấp gây nên. Vô ngã
là niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ
phút đó là niết bàn. Cho nên Khi hàng thanh văn đã đắc lý vô ngã
thì tu lên Đại thừa, tu tập cái ngã của Phật, Bồ
Tát. Đó là đại ngã, chơn ngã mà trong bài kệ
trên, Đức Phật coi như Chơn ngã còn gọi là chơn tâm và còn
nhiều tên khác, tùy theo kinh : « …
Phật dạy trong Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay
phát sanh muôn việc thiện. Ai cũng có chơn ngã, tức là có phật tánh,
nhưng từ trước đến nay, bị vô minh, phiền não che
khuất, cho nên không thấy được. Chơn ngã có đủ bốn
đức thường, -Các ngươi là Phật sẽ thành, còn ta là Phật đã thành. Phật và chúng sanh chỉ cách nhau một bờ
giác, nhưng muốn đến bờ giác đó không phải dễ dàng
lắm đâu, có mấy ai tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời. Đức
Phật Để tìm chơn ngã hay chơn tâm, Phật tánh, thầy tổ thường dạy tu theo Giới, Định, Huệ. Giới là những qui định để
người tu hành nói chung phải tuân theo, thường là
những điều cấm kỵ, không được làm. Giới luật đặt ra
là vì lợi ích cho bản Định là để tâm quán sát, chuyên chú vào một sự
việc, không lăng xăng chạy theo vọng niệm. Pháp môn
tu thiền (tọa thiền) cũng như pháp môn tịnh độ Còn huệ, theo Phật Học Từ Điển của
Đoàn Trung Còn, là cái đức dụng sáng suốt, thông
hiểu sự và lý, dứt điều lầm lạc và mê muội, có lòng
quyết định, Thầy tổ cũng có lời khuyên phải biết buông
xả, không chấp trước. Không nhìn ra ngoài, tránh
chuyện thị phi, sanh tâm phân biệt, mà phải nhìn vào
trong · Văn huệ : Tụng kinh và nghe kinh hoặc nghe lời thầy bạn mà phát huệ ; · Tư huệ : nhờ quán chiếu mà phát huệ ; · Tu huệ : nhờ tu thiền định mà phát huệ. Tóm lại, trên mặt tương đối, người ta phân
biệt có hai cái ngã: một cái nên chừa là bản ngã
hay vọng ngã ; còn một cái là chơn
ngã phải nên phát huy, Tài liệu tham khảo :
_________________________________________________________________________________________________________________________ THIÊN THƯỢNG THIÊN HẠ,
DUY NGÃ ĐỘC TÔN
(Đạo sư Duy Tuệ giảng ngày
24/01/2010)
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, là câu nói của con người. Câu nói này có lợi cho người nghe, để cho người nghe thức tỉnh về giá trị làm người của họ. Cho nên câu nói trên có thể giải thích như sau: Trên trời dưới đất này, đời sống của con người đặc biệt có giá trị, đặc biệt hay. Vậy chúng ta tìm hiểu giá trị đặc biệt của mình như thế nào ? Trước nhất, phải tìm hiểu giá trị đặc biệt nơi chính mình trước, chứ đừng tìm hiểu giá trị đặc biệt gì nằm ngoài con người của mình. Khi mình thấy giá trị đặc biệt nơi chính mình rồi, hãy đem giá trị đặc biệt ấy, mà ứng dụng vào cuộc đời của mình đang hiện hữu. Nếu mình không hiểu giá trị đặc biệt của chính mình, thì mình sẽ quờ quạng trong cuộc sống, mình sẽ rắc rối trong cuộc đời. Về “độc tôn” mình có thể hiểu, nếu không có mình hiện hữu, thì cũng không có Phật, không có Chúa, không có quả địa cầu này, cũng không có thiên đàng, cũng chẳng có địa ngục. Như khi chúng ta vào phòng xác ở bệnh viện, nhìn những xác chết ấy và quí vị hãy tự hỏi rằng, sự sống của người này đã biến rồi và không còn hiện hữu nữa. Vậy, ở thiên đàng có người này không ? Địa ngục có người này không ? Trên thế giới này, cũng như trước cảnh giàu hay nghèo, đúng hay sai có người này không ? Và tất cả những gì trong cuộc đời này còn có người này không ? Đối với bản thân chúng ta cũng vậy, khi còn sống, chúng ta bàn và nói chuyện nhiều thứ, trên trời dưới đất, nào thiên hạ đúng sai… Khi có sự cố (dữ kiện) đột xuất (thình lình), đùng một phát một, chúng ta bị hở mạch máu não, nằm đó nhưng chưa chết, thì toàn bộ sự hiện hữu ở thế giới này, như Chúa, Phật, Triết gia với thuyết này, chủ nghĩa nọ có còn giá trị gì nữa không ? Rồi sách này, kinh điển kia, tôn giáo này, tôn giáo nọ, hay đúng sai trên đời có còn giá trị gì nữa không ? Tất cả đều chấm hết. Khi nào mình còn tỉnh táo, thì mọi thứ nó mới chi phối mình được, mình còn nghĩ đến chuyện này chuyện nọ được. Cho nên việc đầu tiên cần phải biết là, sự tồn tại của mình, sự hiện hữu của mình là trước nhất, đồng thời phải biết làm sao với sự hiện hữu của mình, cái gì trong con người của mình là cơ bản, để sự hiện hữu của mình được hoàn hảo nhất. Từ đó, mình sẽ không bị lầm về mình và tự nhiên mình sẽ nhìn ra bên ngoài tất cả mọi thứ điều sáng suốt, đều rõ ràng. Đây là quá trình làm một con người và phải nắm chắc quá trình này thì mình sống mới yên ổn được. Lời nói “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” muốn ám chỉ điều gì cho người nghe ? Mình phải làm sao thấy được sự hiện hữu của mình, mà mình sống không có nổi lo sợ. Nếu mình sống trong nổi lo sợ, phải quay ngược lại vô chính mình, để khám phá chính mình thì nổi lo sợ sẽ chấm dứt. Cho nên, những câu nói tương tự như trên như là một bí pháp, một phương pháp để giúp cho người nghe tỉnh trí lại, để từ đó khám phá sự thật về mình mà vượt qua sự sợ hải, vượt qua sự hiểu lầm về chính mình. Nó giống như một dấu hiệu đi đường vậy thôi. Mình đừng có chạy vô giải thích sâu câu này. Thí dụ: Trên đường đi mình thấy dấu hiệu đi đường, có vẽ một mũi tên chỉ cho mình đi hướng này. Nếu mình không biết mà mình lại giải thích, đây là cái mũi tên, mũi tên này đầu này to, đầu kia nhỏ, hai cái này giống như lưỡi câu, có móc nhọn nhọn … mình không chạy theo giải thích mũi tên trong cái bảng ấy, hãy nhìn cái mũi tên để biết nó chỉ mình đi đâu. Câu nói này cũng vậy, “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” giống như dấu hiệu đi đường, mình đừng có dạy mà chuôi vô đây giải thích cái này, mất thì giờ, không hiệu quả gì hết. Nếu mình dính vô câu chữ đó, thì mình không biết đường để đi. Như thực tế chúng ta đều thấy biết rất rõ rằng, những bậc đại tiền bối tài ba, những bậc Đại Giác Ngộ, các Chư Phật, đã dùng những câu chữ để tạo dấu hiệu đi đường cho mọi người nhìn vào đó và làm sao để đi an toàn nhất. Chúng ta không giải thích một cách cụ thể, thiên thượng là trên trời, thiên hạ là ở dưới đất, duy ngã là bản ngã của mình, độc tôn là vị Phật trên hết, đại loại là như vậy… đơn giản mình hiểu đây là dấu đi đường, để chỉ cho mình làm sao biết rằng mình đang hiện hữu và khi mình thấy dấu hiệu nầy thì mình biết mình đang đi trên con đường, mình đang sống tức là mình đang ở trên cõi đời này, làm sao mình đi cho nó đúng và an toàn nhất, không nguy hiểm. Và nếu mình giải thích “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là một câu nói cao siêu lắm, nếu giảng hoài thì không bao giờ hết, nó sâu sắc lắm, vi diệu thậm thâm lắm, khó nghĩ khó bàn, có duyên phước lắm mới có thể học được. Mấy chữ này coi vậy, nếu giải thích thì vô lượng vô biên chữ, kinh điển nhiều lắm … Đơn giản chỉ là một dấu hiệu đi đường, mình đang có mặt trên cõi đời này vô cùng rộng lớn mênh mông, không biết đi thế nào cho đúng. Khi có bảng dẫn đường, mình nhìn theo dấu hiệu ấy và cứ thế mà đi. Phương pháp nào để xác định con đường đi tốt nhất ? Muốn sống cho tốt, trước nhất mình thấy người khác và thấy cuộc đời cái gì ra cái đó để mình tỉnh táo, mình ứng xử, vì thế mình phải thấy thật rõ về chính mình, mình hiểu thật rõ về chính mình. Đó là phương pháp để thấy rõ và hiểu rõ bên ngoài. Phương pháp để thấy rõ và hiểu rõ bên ngoài là phương pháp duy nhất để thấy rõ và hiểu rõ chính mình trước. Đó là con đường duy nhất mình phải đi qua, để mình thấy rõ và hiểu rõ con người và cuộc đời bên ngoài, thế giới bên ngoài. Khi mình thấy rõ được chính mình rồi, hiểu rõ về chính mình rồi, mình sẽ không lầm lẫn về chính mình nữa, mình sẽ chấm dứt sự lầm lẫn về con người và cuộc sống xung quanh mình. Như vậy, mình sẽ làm chủ được cuộc sống mà mình đang hiện hữu. Mình có thể làm kinh tế, nhưng không bị chuyện làm kinh tế này hành hạ mình. Mình có thể kiếm tiền nhưng không thể bị đồng tiền này hành hạ mình. Mình có thể cưới vợ, lấy chồng nhưng không có bị người vợ, người chồng hành hạ mình. Mình có thể sống một cách hồn nhiên, thoải mái, không đổ thừa kiếp trước, không sợ kiếp sau. Chuyện kiếp trước, kiếp sau… chẳng qua là một trong những kĩ thuật để người ta làm cho cái đầu con người bớt nóng thôi, để từ đó dẫn nó đi tiếp. Nhiều người không thấy rõ, hiểu rõ, từ đó bị lầm cái này. Thí dụ, mình vô tình hoặc cố ý gặp một vị xem bói toán. Ông ấy nói, ta thấy con biết con kiếp trước là một con của một nhà vua có tiếng trong một xứ đó, con đã từng làm công chúa rồi, nhưng con bị hất hủi, con bị hiểu lầm, cho nên mặc dù là công chúa nhiều khi bị đau khổ lắm… Thế là, tưởng mình là công chúa thiệt, và nói, trời ơi sao thầy thấy tiền kiếp con rõ quá vậy! Nhiều lúc con bị hiểu lầm, con buồn lắm thầy ơi! Rồi mình xúc động, mình khóc lên, mình chảy nước mắt… thế là mình sa vô cái bẫy. Tính biết của mình, mình muốn làm cái gì , nó cho mình làm cái nấy. Muốn làm công chúa, làm hoàng hậu, làm vua, làm tổng thống … nó có khả năng cho mình tất cả, kể cả muốn làm tướng cướp, kẻ lừa đảo nó cũng cho mình có khả năng làm tướng cướp, kẻ lừa đảo người khác cho thật là siêu. Tính biết nó làm như vậy, có khả năng như vậy. Cho nên, mình không nắm vững nguyên tắc này, mình sẽ bị người ta dẫn mình đi vào thế giới hoang đường. Khi nào chấm dứt sự lầm lẫn về chính mình, quí vị sẽ hoàn toàn tự tại. Có biết bao người trên thế gian này không bị lầm lẫn về chính mình, thử quí vị đếm đi, có được bao nhiêu người ? Vậy, chúng ta thấy rõ và hiểu rõ ra sao để không lầm lẫn ? Là hiền giả Minh Triết đang trên con đường để nhìn thấy rõ về mình, hiểu thật rõ về mình, thấy thật rõ về mình, không thể thấy lầm lẫn được, quí vị thấy người khác cũng như vậy Thí dụ, khi quí vị thấy rõ về mình rồi, thấy rõ sức mạnh vô tướng, vô hình rồi, quí vị thấy người ăn cướp, người chuyên môn ăn trộm những gì ? Mặc dù người ấy đang ăn trộm, mình thấy rõ nó đang ăn trộm. Quí vị thấy, thằng này là kẻ ăn trộm, cuộc đời thằng này chẳng ra gì. Hỏi lại, quí vị có thấy rõ, hiểu rõ về người đó không ? Mình mới thấy mới có một chút xíu thôi, là mình thấy nó đang ăm trộm của người khác, mình chưa thấy cái còn lại của nó. Cho nên quí vị biết, có ba cái nhà, thầy dùng khái niệm này để quí vị ghi nhớ trong đầu của mình. Đó là, nhà tù, nhà chùa, nhà thờ, đều kêu là nhà hết. Ba cái nhà này mang hình tướng bên ngoài và nội dung bên trong. Quí vị thấy nhà chùa là thấy đạo đức, nhà thờ là thấy đạo đức, thấy nhà tù là thấy những người có tội. Hình tướng của nhà tù là chứa những người có tội, hình tướng của nhà thờ và nhà chùa là chứa những người đạo đức. Bên trong hình tướng là cái gì ? Có chắc gì nhà thờ, nhà chùa đó hình tướng đạo đức ấy, bên trong có đạo đức không ? Có chắc không ? Còn nhà tù kia, liệu ở bên trong ấy có chứa những con người có tâm hồn cao thượng hay có giấc mơ, có lí tưởng không ? Chúng ta xem lại liệu có không ? Thầy chỉ gợi ý cho quí vị, thế nào thấy không lầm, hiểu không lầm, thấy cái gì ra cái đó. Việc thấy không lầm, hiểu không lầm đó sẽ đưa chúng ta tới một trạng thái của bộ não, không thể nào bản ngã hiện hữu được. Thế nào là bản ngã hiện hữu ? Ôi chao, ngôi chùa kia to quá! Trong đó đúng là đạo đức thật. Ôi chao, nhà thờ kia vĩ đại quá! Trong đó đúng là đạo đức thật. Cái nhà tù kia kinh khủng quá! Đúng là cái nhà tù đó, chứa những người nguy hiểm thật. Nếu chúng ta nói như vậy , là hoàn toàn bản ngã, do sự thấy lầm hiểu lầm, thấy không rõ hiểu không rõ, chúng ta đang phát biểu theo cái hướng của bản ngã. Khi thấy lầm hiểu lầm, tự nhiên bản ngã nó thật, nó hình thành trong đầu chúng ta, và nó bắt chúng ta phải làm việc theo sự hiện hữu của nó. Quí vị nên nhớ một điều là khi đọc một câu chữ ở đâu đó, thì phải chú ý, người xưa dùng chữ nghĩa như là những dấu hiệu đi đường thôi nhé! Đừng đi sâu vô phân tích, làm bí hết, hay cải nhau suốt ngày, không có hiệu quả gì hết, rồi nói mình hơn, mình cao, mình thấp. Minh Triết không có con đường cao thấp, người Minh Triết chỉ theo con đường thấy rõ, hiểu rõ. Thấy rõ cái đầu của mình, thấy rõ con tim của mình, thấy rõ cơ thể của mình, thấy rõ những gì thuộc về thế giới vô hình của mình… Khi mình thấy rõ, bản ngã của mình không có lên được, mình hành động không có lầm lẫm được. Thí dụ, quí vị làm ăn phát tài, khi chưa học Minh Triết chỉ thấy mình có tài, chỉ thấy mình có thời thôi, còn người học Minh Triết lại thấy khác. Nếu quí vị đang học Minh Triết, thấy rằng là quí vị đang làm ăn được, hoặc mình đang làm ăn được mà còn học Minh Triết nữa, mình lại thấy khác. Thứ nhất thấy mình có may mắn, thứ hai thấy mình là sức mạnh cái đầu óc, sức mạnh vô tướng của mình can thiệp đến sự may mắn này rất là lớn, mình không đề cao kiến thức mình làm được, mình không đề cao hữu tướng mình làm được, làm sao mình tự cao tự đắc được. Quí vị chú ý như vậy, để khi mình có đọc sách hay nghe thấy đâu đó thì mình nhận biết cho rõ… Nếu chạy theo và giải thích theo từng câu chữ, quí vị có tái sinh đến một ngàn kiếp cũng không giải thích hết đâu. Nếu ai đó hiểu theo kinh sách đã học mà thấy là hạnh phúc thì hãy theo hướng đó, còn nếu nhận được một điều gì đó có giá trị hay có lợi cho mình theo phương pháp hướng dẫn của Thiền Minh Triết, hãy theo phương pháp này ứng dụng. Hãy căn cứ vào quyền lợi của mình để mà học. Mình đi theo tôn giáo, mình đi học ở đâu cũng vậy, phải căn cứ vào lợi ích của mình, căn cứ vào sự thỏa mãn của mình. Lợi ích là phải nói đến sự thỏa mãn, tôi thỏa mãn hoàn toàn. Nếu theo phương pháp hướng dẫn của Thiền Minh Triết mình tập luyện, mình thấy thỏa mãn thì phương pháp này có lợi cho mình, cách giải thích này có lợi cho mình. Ngược lại, nếu mình hiểu theo cách hiểu trong kinh điển mà nó hoàn toàn đáp ứng, hoàn toàn thõa mãn cho mình thì mình theo cái đó. Vấn đề là mình thỏa mãn và mình sống đừng có lầm lạc trong cuộc đời, mình sống lúc nào cũng vui, mà vui thật tình chứ không vui đóng kịch. Vui thực tình là vui không điều kiện. Có hai niềm vui: Vui có điều kiện và vui không điều kiện. Mình luôn nhớ như vậy. Tất cả quí vị nhớ một điều, đừng có bỏ quên việc cầu nguyện hàng ngày. Cầu nguyện là quan trọng, quí vị hãy ráng giữ việc cầu nguyện. Trong Minh Triết, thường xuyên cầu nguyện cũng là một pháp để giúp cho cái đầu chúng ta, bộ não chúng ta tốt hơn. (Phiên tả theo bài giảng ngày 24/1/2010) ____________________________________________________________________________________________________________ Duy ngã độc tôn và ngãCâu kệ phổ
thông được các sách vở hiện tại
thường dẫn dụng là: "Thiên thượng
thiên hạ Duy ngã độc tôn, Vô
lượng sinh tử Ư kim tận hỷ". Toàn bộ ý
nghĩa của câu kệ trên đều tập trung
ở một chữ vô cùng quan trọng là
chữ “Ngã”. Để bào chữa cho cái
hiểu nông nỗi này, có nhiều “Ngã” ở đây
hiểu theo nghĩa nào? Nếu Phật
chỉ là người thoát khỏi bốn thứ chấp
Ngã si, Ngã mạn, Ngã kiến, Ngã ái
thì Ngài chỉ là một Thực ra,
đối với triết học hiện đại, luận đề
về Ngã không còn là vấn đề để phải
tốn nhiều giấy bút, nhưng đối với
2500 năm trước trong Trước hết,
chúng ta truy nguyên chữ "Ngã" trong
triết học Ấn Độ và quan niệm diễn
tiến của nó qua các tông phái.
Theo PHẬT QUANG Ngã còn chỉ
chung cho chủ thể độc lập vĩnh viễn,
tiềm ẩn trong nguồn gốc của tất cả
sự vật và chi phối cá thể thống
nhất. Từ thời Lê-câu Như trong Bách
Đạo Phạm Thư (Phạn:
Satapatha), các hiện tượng sinh mạng
như ngôn ngữ, thị lực, thính lực…
lấy "Ngã" làm cơ sở để Đến thời
đại Áo Nghĩa Thư (Phạn:
Upanisad, từ năm 800 - 600 trước
TL), tức cùng thời đại Đức Phật,
"Ngã" được xem là cái sáng tạo ra Tiến xa
hơn, thời kỳ này còn chủ trương chỉ
có "Ngã" mới là chân thực tại, ngoài
ra đều là hư huyễn (Phạn: Màyà). Tóm
lại, có bốn quan Trong các
kinh Nikàya và Àgama đều phủ nhận
bốn quan niệm về Ngã trên. Đức Phật
cho các quan niệm trên là Ngã sở và
Ngã sở kiến. Độc Tử Bộ,
Chính Lượng Bộ chủ trương Ngã và Ngũ
uẩn bất tức bất ly. Kinh Lượng Bộ
thì có thuyết Bổ-đặc-già-la thắng
nghĩa… Còn Tiểu thừa
chủ trương nếu diệt trừ hết phiền
não thì đạt đến cảnh giới Niết-bàn;
còn Đại thừa thì chủ trương tất cả
sự tồn tại là Không, Kinh Niết
Bàn 23 viết: Niết-bàn có bốn
đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Giác ngộ
được cảnh giới Niết-bàn này thì vĩnh
viễn bất biến, đó gọi (Trích nguồn từ web phattuvietnam) _____________________________________________________________________________________________________________ Trong các Kinh điển Phật Giáo
có ghi lại câu chuyện Đản Sanh của
Thái Tử Tất Đạt Đa mà sau này là 1
vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Câu
chuyện kể về Originally Posted by
B-E-T-R_U_E
THIÊN THƯỢNG
THIÊN HẠ DUY NGÃ ĐỘC TÔN
Trong các Kinh điển Phật Giáo có ghi lại câu chuyện Đản Sanh của Thái Tử Tất Đạt Đa mà sau này là 1 vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Câu chuyện kể về sự Đản Sanh của 1 BỒ TÁT sẽ THÀNH ĐẠO VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC cứu độ chúng sanh đang ngụp lặn trong VÔ MINH được thoát mê hoát ngộ - Ngài vừa ra đời đã tuyên bố 1 câu làm RUNG CHUYỂN THIÊN ĐỊA. 1 câu tuyên bố khác của Phật : Ta là Phật đã thành Chúng sanh là Phật sẽ thành" Nhiều Kinh sách lý giải : Duy Ngã độc tôn là Đức Phật nói : "Ta là cao quý nhất" - có ý kiến khác thì cho rằng con người với ngã chấp tự cho mình là cao quý nhất - như vậy là kiêu ngạo. _____________________________________________________________________________________________________________ Phật dạy vô thường ,vô ngã ,tại sao lại nói :"thiên thượng ,thiên hạ ,duy ngã độc tôn"? Có phải lời Phật nói ? Có rất nhiều bạn giải thích nhiều về vô Ngã ..., và thú thực là càng rối rắm khó hiểu. Nên tôi đã cố tìm hiểu và đã tôi nhận thấy như sau: Về câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" Câu này CHỈ LÀ MỘT PHẦN, được ghi trong Kinh Sơ-Đại Bản-Duyên, trong bộ Kinh Trường A hàm - Quyển Một, một quyển kinh ngắn lược thuật nhân duyên giáng sinh, thành đạo và giáo hóa của đức Phật trong thế giới Ta Bà. Nguyên văn đầy đủ là: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn, Nhất thiết thế gian, Sinh Lão Bệnh Tử" Và như vậy tòan câu có nghĩa: "Trên trời dưới trời, duy chỉ mới có mình ta là biết được nguyên do Sinh, Lão, Bệnh, tử, nay ta muốn cứu độ chúng sanh khỏi vòng sinh già bệnh chết". Và do hạnh nguyện này mà Ngài đã trụ lại thế gian 49 năm để thuyết pháp. Như vậy nguyên văn lời nói trên là muốn nhắc đến nguyên do Phật Gíáng Sinh, Thành Đạo và Giáo hóa chúng sanh. Ko hiểu do cố tình hay vô tình người ta thường chỉ nhắc đến vế đầu (tức nửa câu nói) rồi mang ra bàn luận thế này thế kia, thật là dễ làm người mới tiếp cận Phật học hoang mang. Rõ ràng ý của câu là "Từ vô thỉ đến thời điểm đó chỉ có duy nhất mình ta là thấy rõ cội nguồn của Sinh Lão Bệnh Tử..." Vậy mà người ta lại chỉ chú tâm vào vế 1 "Từ vô thỉ đến thời điểm đó chỉ có duy nhất mình ta..." rồi bàn luận..., thật là tội lỗi...tội lỗi vậy. ___________________________________________________________________________________________________________________________ Theo tác giả : Hà Phước Thảo: 我 Ngã (đọc theo chữ Nho hay Hán Việt) = ngộ (đọc theo tiếng Quảng Đông)= chính Đức Thượng Đế Cao Đài xưng NGÃ hay THẦY hay TA = bản ngã vô hình tánh linh=> Phàm Ngã hữu hình (mình mẫy. thân xác)=> Chơn Ngã => Chơn Như Bản Thể = Như Lai bản tánh = Phật tại Tâm = Lương Tâm = Chúa tại Tâm = Tiểu Linh Quang = chiết hồn của Đức Chúa Trời hay Đức Thượng Đế ở trong xác thân hay Chủ Nhơn Ông của Tiểu Thiên Địa => Tiểu Thiên Địa rất quí ! Quí hơn cả Thiên 天 vô hình (Nhật+Nguyệt+Tinh) vì Con người sống động,làm việc được => tu luyện được để thành Phật! Còn Địa hữu hình (hành tinh, sông, núi, thảo mộc...tuy thuộc Tiên Thiên mà đứng yên luôn, chỉ khi nào thay đổi lục địa, quy nhưng không tự chỉ huy quay theo hướng mà trái đất muốn quay, mà theo lực hấp dẫn của mặt Trời, không tự ý, tự nguyện vì thuộc vật chất hữu hình mà không có hồn, không có cảm giác: buồn thương ghét.... dù trái đất sụp = động đất mà trái đất không có tình cảm thương con người đang chôn vùi chết rất nhiều như ở Chilie (Chile), Haiti, Thổ Nhĩ Kỳ.. Còn con người thì có phàm ngã và Chơn Ngã chung nhau thành một Tiểu Thiên Địa: có ghét, thù hận muốn giết nhau, nhưng thấy đồng bào hay dân tộc khác chết thì động lòng trắc ẩn, muốn cứu giúp, (các tỉ phú) muốn bỏ cả tỉ bạc giúp nạn nhân của thiên tai, dám cho hết tài sản để làm người nghèo (xả phú cầu bần), muốn tu thành Thần, Thánh, Tiên, Phật và làm cả Ông Trời hay làm Thượng Đế, như vậy trong ba báu của Vũ Trụ là THIÊN - ĐỊA - NHƠN thì Nhơn ỏ giữa, chỉ huy cả ở trên là Thiên 天 và ở dưới là Địa 地 và dứng giữa chỉ huy tức vi nhơn = làm Người 人 , mà làm người t1ưc là gồm thâu hai gạch: gạch trên là ranh giiớ của Trời, gạch dưới là ranh giới của người và Địa bằng chữ Nhơn đạo 仁 道 Như vậy có phải chăng cái NGÃ là độc tôn không? Chính Ông Trời hay Đức Chúa Trời còn không dán ngăn cản NHƠN đnừg làm ác và chính con người cứ làm ác mãi. Thượng Đế thấy con cái ngài khổ mà không cứu được, vì cứu chúng nó thì nó giết ngay ( King Herodes bắt con nít giết hết vì sợ Vua Trời xuống chỉ huy và 31 năm sau phát giác ra Chúa Jesus Christ thì ra lệnh cho quan Phi-la-tồ xử cho Chúa cho lên cây chữ thập đóng đinh cho chết). Chữ "Duy ngã độc tôn" mà Phật Thích Ca nói rất đúng chứ không sai chút nào, cả Đức Chúa Trời cũng bằng lòng như thế! Đó là lời Đức Phật ( lúc ngài đắc Đạo chứ không phải lúc ngài mới sanh ra mà biết nói) muốn thay Đức Chúa Trời (vì Đức A-Di-Đà Phật hay Đức Thượng Đế vô hình không dạy được) để dạy chúng sanh nên hiểu ý nghĩa của chữ NGÃ đúng nghĩa, biết để lo tu luyện thành Phật và thành Chúa. Không có con người (hay NGÃ) ở thế gian thì Đức Thượng Đế làm sao có những Đức Thượng Đế đồng thể với ngài, toàn giác, toàn thiên như ngài mà ngài sai đi cai quản các Thái dương hệ mới trong Vũ Trụ vô biên, cứ lớn mãi mà óc con người không quan niệm được con số 8 nằm ngang là gì (infini = Unbegrenz = vô cực). Không có Tiểu Thiên Địa thì không thể luyện Đạo tạo Kim Thân bất hoại được. Phàm Ngã thuộc Hậu Thiên và là có hai Hào quang trọng là KHẢM hay Thận Thủy là Âm (hay vợ), LY hay Tâm Hỏa (là chồng) trong Tiểu Thiên Địa. Phàm ngã theo Tử Lộ (sanh-tử-lộ có 2 đường: đi lên gọi là Sanh Lộ, cho tinh phóng xuống gọi là Tử Lộ) thì tạo phàm thai => luân hồi trong lục đạo. Chơn Ngã bị che lấp bởi thất tình lục dục. Khi hiểu phàm ngã là tạm mượn cõi Hậu Thiên để luyện thành Tiên Thiên thì phải cướp Khí Hư Vô đem thần lực và Tinh lực biến phàm Tinh thành Nguơn Tinh thì hai trái thận hay Cung Khảm ( sẽ thành Khôn ) Thận có hai đường thông lên trên sẽ mang Nguơn Tinh như bốc thành khí lên Nê huờn và đến chỗ đốc giọng choa Âm (Nhâm mạch =vợ) và Dương là Đốc mạch =chồng giao cấu tại cầu ô hay chỗ nối Nhâm và Đốc tại cuốn họng xuất Nguơn Tinh thành nước Cam Lồ = Đề hồ nuốt xuống qua Tâm hay Ly mang Hào Dương dư của Khảm ráp vàm Hào khuyết của Ly để biến Ly thành CÀN , như vậy Đề hồ mang xuống Ruột dư hay Tử Cung (đàn bà và đàn ông đều có ruột cùng) mà thành Thánh Thai, nhờ nuôi Thai nầy mà thành Kim Thân lúc lên Trung Cung (Ngũ Khí triều nguơn) mà ngự tại đó chờ cứng cáp (trưởng thành) mà theo Thiên môn trên đỉnh đầu ( đó là phương thứ 10 trong câu: " Chín phương Trời (hay 9 cửa cho linh hồn ra các cõi trời là 2 lổ tai, hai mát, 2 lổ mũi, miệng, lổ tiểu và hậu môn), mười phương Phật (là cửa lên Nirwava tức lên Niết Bàn". Vì sự quan trong của Chơn Ngã, cả của phàm ngã ô trược khi khử trược được thì lưu thanh mới trở thành Tiên Thiên được. Quan trọng là nhờ có NGÃ mà tu luyện mới đắc Phật. Câu nói nầy của Phật không phải ngài nói lúc mới sanh bước lên 7 hoa sen mà ngài nói lúc ngài đ1ăc Đạo, có huệ nhãn. Chu đệ tử viết rằng lúc miớ sanh thì xét theo khoa học ít ai tin. Cũng như khi nói kiếp chót của Đức Phật là thú (con voi) thì chư tăng làm thinh chứ không phản đối, còn việc tin ngài Thái tử Siddharta lúc Đản sanh mà nói được là chuyện hi hữu, tin thì cũng toôt, nhưng các nhà khoa học tôn giáo cho rằng sự thần quyền hóa để gây đức tin cho người bình dân, còn các nhà khoa học tin ở triết lý Phật giáo là do triết ý siêu diệu của Đức Phật, bác bỏ những mê tín. Nội câu nói "duy NGÃ độc tôn" thì Đức Phật cũng đã cho chư đệ tủ biết là nếu biết biến phàm ngã hay lau chùi tam độc, lục căn lục trần, thất tình thì thấy Chơn NGÃ và sẽ thành Phật không khó khăn gì. Đức Phật nói chúng sanh là Phật sẽ thành, có nghĩa là ngài nói:"người tu sẽ làm cho Thi6n Nhơn hiệp nhứt, tức "Tu là học để làm Trời ( hay làm Thượng Đế chứ không chỉ thành Phật mà thôi, nghĩa là ngài mặc nhiên công nhận có Thượng Đế chứ không phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Vậy mà có người cắt nghĩa là không có Thượng Đế, chỉ có Phật mà thôi khi họ kể ra thí dụ Phật nói:"Khi bị thương phải lo băng bó, đừng hỏi lôi thôi, máu ra sẽ chết ngay" tức thì chỉ học Tứ Diệu Đế và Bát Chánh ạo, đừng hỏi có Thượng Đế hay không. Khi có huệ nhãn thì thấy và biết Thượng Đế. Chữ "độc tôn" có một nghĩa lớn lao ở chỗ đó mà ít ai hiểu. Câu hỏi: Đấng nào sanh ra ông Phật? Đức Phật có nói có vị Phật có trước ngài, lớn hơn ngài là Đ1ưc S-Di-Đà hay Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, tức ấng làm phát khởi nguyên tử đầu tiên trong Vũ Trụ chạm nhau Proton và Electron khi bắng trung hòa tử vào, giống như khi cho nổ TNT kích thích Uranum235 va Phutonium chạm nhau khi cho nổ nguyên tử. Đức Thái Nhứt Hư Vô còn gọi là Hắc Bì Phật Tổ hay ấng Vô Cực hay Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu, tức Đấng Sáng Tạo cơ thể Tinh (Âm hay hột gà chưa có khí ấm lúc ấp nên chưa nở. Khi ấp hay khi cho nổ BIG BANG thì Đức Thượng Đế mới xuất hiện. Đó là Đại Linh Quang, còn con người hay Chơn NGÃ là Tiểu Linh Quang. Tại sao Đức Phật bước lên 7 bông sen? Chưa ai giải thích việc nầy. Đó là 7 cõi trong Vũ Trụ. Khi ngài bước lên 3 bông sen đầu tiên là 3 cõi Niết Bàn theo hình vẽ sau đây:
LUẬT
TIẾN HÓA
Vòng tròn tỏa
ánh sánh bên trên là Đại Linh Quang tức
Thượng Đế ( Nhất bổn tán vạn thù)
=> Ngài chiết thân xuống Hậu Thiên qua
hằng triệu năm thành
cây cỏ thảo mộc (rễ ăn xuống đất) => tiến hóa nữa thành thú (đầu ngó ngang) => tiến hóa thành người ( đầu hướng lên) và VẠN THÙ QUI NHỨT BỔN tức học để làm Trời thánh giáo Đức Lê Đại Tiên giáng: "Tu là học để làm Trời, Chớ đâu luôn kiếp làm người thế gian? ____ |