THẦN
LINH HỌC và
THÔNG THIÊN HỌC
(Spiritualism and Theosophy)
Tác giả H. S. Olcott
Thuyết
tŕnh trước
diễn đàn của Viện Phục vụ Liên bang Ấn
Độ tại Simla
Ngày
7
tháng 10 năm 1880.
Nhà
Xuất
bản Thông Thiên Học, Adyar, Chennai (
Cách
đây 13 năm, một
trong những thẩm phán lỗi lạc nhất của
nước Mỹ hiện đại – John W. Edmonds, Chánh thẩm
Ṭa Tối cao New York – có tuyên bố trong một tạp chí ở
Luân đôn rằng vào lúc bấy giờ ở nước Mỹ
có ít ra là 10 triệu nhà Thần linh học. Lúc bấy giờ
không ai có đủ tư cách hơn ông để nêu ư kiến
về đề tài này, v́ chẳng những ông có liên lạc
thư tín với mọi người ở khắp nơi
trong xứ ấy, mà v́ đức tính cao cả của con
người cùng với học thức, ḷng vô tư về
luật pháp và tính bảo thủ của ông đă khiến
ông trở thành một nhân chứng có thẩm quyền nhất
và đầy sức thuyết phục nhất. C̣n một
người có thẩm quyền khác nữa, một nhà tuyên
truyền nổi tiếng cả trong giới công luận lẫn
tư luận không có t́ vết, Đức Ông Robert Dale Owen,
trong khi ủng hộ ước tính của Thẩm phán
Edmonds, đă nói thêm rằng ít ra trong giới Ki Tô giáo c̣n lại
cũng có một số người tương
đương như thế. [Vùng đất c̣n Tranh chấp
giữa Thế giới này và Thế giới bên kia, trang 174, ấn bản Luân
đôn, năm 1874]. Tuy nhiên để tránh mọi nguy cơ
thổi phồng sự thật, ta chỉ suy diễn một
phần tư của mỗi bên rồi cộng lại th́
(đến năm 1874), tổng số người
được gọi là nhà Thần linh học đă lên tới
15 triệu người. Nhưng dù có bao nhiêu người
được qui cho là tin vào sự giao tiếp công khai hiện
nay giữa thế giới vật chất của ta với
thế giới u hồn th́ vẫn có một sự thật
mà ai cũng biết là trong số đó có một số trí
thức sắc xảo nhất thời nay. Bây giờ không
c̣n là vấn đề của những kẻ quê mùa và những
cô thôn nữ nô t́ ưa động kinh lừa gạt ḿnh.
Những kẻ nào chối bỏ sự thật của những
hiện tượng đương đại này ắt phải
đối đầu với đông đảo những
nhà khoa học tài ba nhất đă từng dốc hết sức
lực chuyên nghiệp của ḿnh để xác định
bản chất của lực đang tác động để
rồi bâng khuâng đi t́m bất cứ lời giải thích
nào khác hơn là một loại tác nhân siêu mộ phần nào
đó. Bắt đầu từ Robert Hare (người phát
minh ra ống thổi Hydro Oxy) cho tới Nestor của ngành
Hóa học nước Mỹ và cuối cùng là Fr. Zollner, Giáo
sư Vật lư Thiên văn ở Đại học Leipzig,
danh sách những nhà thực nghiệm đă cải giáo này
bao gồm một loạt các chuyên gia về Khoa học Vật
lư thuộc hạng chuyên nghiệp nhất. Có lẽ ngoại
trừ Zollner – ông muốn kiểm chứng lại thuyết
của ḿnh về chiều đo thứ tư trong không gian
– mỗi nhà khoa học đều bắt đầu nhiệm
vụ khảo cứu với mục đích rành rành là lật
tẩy điều bị nghi là lường gạt để
phục vụ lợi ích đạo đức của công
chúng; thế mà mỗi người lại bị biến
thành một kẻ rơ ràng tin vào sự thật về các hiện
tượng đồng cốt do cái luận lư không thể
cưỡng lại được của sự thật.
Những
nhà khoa học
này đă phát minh ra những dụng cụ tinh xảo bậc
nhất để trắc nghiệm quyền năng của
giới đồng cốt. Các khí cụ ấy thuộc bốn
loại (a) – máy móc để xác định xem liệu có một
ḍng từ hoặc điện nào đang tác động hay
chăng, (b) – liệu chuyển động của những
đồ vật nặng (chẳng hạn như những
cái bàn) do người đồng cốt chạm vào có do sự
co cơ hữu ư hoặc vô ư hay chăng, (c) – liệu một
người tham gia buổi lên đồng có thể giao tiếp
một cách thông minh hay chăng trong những t́nh huống
đă pḥng ngừa được bất kỳ mánh khóe có
thể nào của người đồng cốt, (d) –
đâu là điều kiện để biểu hiện cái
dạng năng lượng mới và giới hạn cực
độ của các tác động của nó. Dĩ nhiên
trong một bài thuyết tŕnh kéo dài một tiếng đồng
hồ tôi chẳng thể miêu tả tới 1/10 của các
máy móc ấy, nhưng tôi xin đưa ra hai thứ máy để
minh họa cho hai ngành khảo cứu nêu trên. Máy thứ nhất
được miêu tả trong tác phẩm của giáo sư
Hare. Người đồng cốt và người điều
tra ngồi đối diện với nhau, tay người
đồng cốt được đặt lên trên một
tấm bảng được treo lủng lẳng và điều
chỉnh sao cho dù y có ấn lên cái bảng hay không th́ y cũng
chỉ làm di động được cái bảng chứ
không c̣n ǵ khác nữa. Trước mặt người tham
quan là một mặt đồng hồ chung quanh đó có bố
trí các chữ cái trong bộ mẫu tự, 10 con số, những
từ “có”, “không”, “chưa chắc” và có lẽ một số
từ khác. Một cái kim chỉ gắn liền với một
đ̣n bẫy, đầu kia của đ̣n bẫy
được bố trí sao cho nó tiếp nhận bất cứ
ḍng lực nào chạy xuyên qua hệ thống của người
đồng cốt nhưng không chịu ảnh hưởng
bất kỳ áp lực cơ học nào mà y có thể tác
động lên điểm tựa để kê cái kim chỉ,
qua đó chạy ṿng ṿng trên mặt đồng hồ chỉ
vào một chữ cái hoặc các từ mà sinh linh thông tuệ
đang giao tiếp muốn viết ra. V́ mặt sau của
mặt đồng hồ hướng về người
đồng cốt cho nên dĩ nhiên y không thể nh́n thấy
kim chỉ đang chỉ vào đâu và nếu người
điều tra giấu nhẹm không cho y thấy tờ giấy
ghi tốc kư lại buổi giao tiếp th́ thậm chí y cũng
chẳng phỏng đoán được người ta nói
chuyện ra sao.
Một
khí cụ khác
được miêu tả và minh họa trong sách chuyên môn mang
tựa đề Khảo
cứu về Hiện tượng Thần linh học của
ông William Crookes, hội
viên Hội Hoàng gia, Tổng biên tập tạp chí Khoa học
Tam cá nguyệt và là một trong những nhà hóa học thực
nghiệm thành công nhất đương thời. Một tấm
bảng bằng gỗ gụ, dài 36 phân Anh, rộng 9,5 phân
Anh và dày một phân Anh, tựa một đầu trên cái bàn,
bên trên một dải giấy cắt bằng mép dao; đầu
bên kia của nó được treo vào một cái cân ḷ xo
được cải tiến dùng làm dụng cụ ghi
đo tự động, treo lơ lửng từ một
cái kiềng ba chân vững chắc. Trên mép bàn của cái bảng
ấy, ngay bên trên điểm tựa có đặt một
cái b́nh lớn chứa đầy nước. Một lọ
bằng đồng nhúng ch́m trong nước tới độ
sâu 1,5 phân Anh tính từ mặt nước, đáy b́nh bằng
đồng được đục lỗ để cho
nước tràn vào; b́nh bằng đồng này được
đỡ bằng một vành đai sắt cố định
hàn cứng vào một cái đế bằng sắt vững
chăi trên nền nhà. Người đồng cốt phải
nhúng tay vào nước ở bên trong b́nh bằng đồng,
và v́ b́nh bằng đồng được nâng đỡ vững
chắc bằng cái đế và vành đai của chính nó chứ
không đụng chạm ǵ tới cái b́nh bằng thủy
tinh chứa nước, cho nên ta thấy rằng nếu có
xảy ra một sự đè lên kim chỉ của cái cân ḷ
xo ở đầu bên kia của tấm bảng, th́ điều
này dứt khoát cho thấy rằng có ḍng lực (cân
được tính bằng cân Anh nhân với lại bộ
Anh), lực ấy đang chạy xuyên qua cơ thể của
người đồng cốt. Thật vậy, cả Tiến
sĩ Hare với khí cụ của ông lẫn ông Crookes với
máy móc của ḿnh đều đạt được mục
đích như mong muốn chứng tỏ rằng một
vài hiện tượng đồng cốt có xảy ra mà
không có sự can thiệp, dù là trung thực hay không trung thực
của người đồng cốt. Dựa trên lời
gợi ư của ông Serjeant Cox đă quá cố, ông Crookes đặt
tên cho cái năng lượng được biểu lộ
ấy một cái tên thỏa đáng là Lực Tâm linh, cho nên
từ đây về sau trong bài thuyết tŕnh này tôi cũng
xin gọi nó như thế.
Tôi
đề cập tới
hai loại máy móc này chỉ để cho những người
có lẽ chưa bao giờ điều tra về vấn
đề này, đừng có sa vào cái lỗi lầm thông
thường nghĩ rằng các hiện tượng lạ
toàn là chuyện lừa gạt bởi v́ các nhà khoa học
khôn khéo nhất đă cực kỳ cẩn thận pḥng ngừa
khả năng bị lừa bịp trong quá tŕnh thí nghiệm.
Nếu có một sự kiện mà khoa học đă chứng
minh được là có một loại lực nào
đó mới lạ và rất bí
hiểm
đă từng biểu lộ từ tháng 3 năm 1848, khi cái
tṛ hiển thánh hiện đại này đă bộc lộ
ra với một loạt những cú gơ ở một thôn hẻo
lánh tại Tiểu bang New York. Bắt đầu bằng những
âm thanh phản kích này, từ đó trở đi nó đă phô
trương năng lượng của ḿnh qua hàng trăm
hiện tượng lạ khác mà bất kỳ giả thuyết
đă biết nào của khoa học đều không giải
thích được và các hiện tượng ấy xảy
ra hầu hết (nếu không phải là hoàn toàn) ở mọi
xứ trên quả địa cầu. Để dễ dàng
cho việc nghiên cứu nó, phô diễn các định luật
của nó, phổ biến những biểu lộ thông minh của
nó, cứ chốc một lại có hàng trăm tạp chí và
quyển sách được xuất bản bằng nhiều
thứ tiếng khác nhau; phong trào này có những trường
phái và giáo hội, những pḥng hội họp, những
người thuyết giảng và giảng dạy, một
đoàn thể gồm những người nam và nữ ít
ra lên tới hàng ngàn người đang dồn hết thời
giờ và sức sống cho cái nghề đồng cốt.
Đi đến đâu ta cũng đụng phải những
người đồng cốt hay “thông linh” này, ở các
cung điện của hoàng gia cũng như trong mái lá của
người nông dân, đều thấy có những năng
khiếu đồng cốt hoặc thông linh đa dạng
chẳng khác nào cá tính của họ.
Điều
ǵ đă gây
ra một sự lan tràn trên khắp thế giới của
phong trào mới này làm cho công chúng phải tốn khá nhiều
tiện nghi, thời giờ, tiền bạc và gây ra hậu
quả xă hội rộng lớn như thế? Điều
ǵ đă thôi thúc biết bao nhiêu người thông minh nhất
thuộc mọi xứ sở, mọi giáo phái và mọi dân tộc
tiếp tục khảo cứu như thế? Điều
ǵ đă giữ cho sống động măi đức tin của
biết bao triệu người, bất chấp vô số
những sự lật tẩy ngao ngán về tṛ xỏ lá của
đám đồng cốt, về khuynh hướng vô luân của
nghề đồng cốt không ai kiểm soát cũng
như nói chung là các cuộc giao tiếp mà ta nhận
được đều mang tính ấu trĩ và thường
xuyên tạc bịa đặt? Đó là v́ trong ḷng người
đă dâng lên một niềm hi vọng cuối cùng người
ta cũng có được bằng chứng thực nghiệm
về việc sống sót sau khi cái xác đă chết và thoáng
nh́n được (nếu không phải là khải huyền
trọn vẹn được) số phận tương
lai của ḿnh. Giống như người chết đuối
vớ được cọc, tất cả hàng triệu
người này đều bám lấy một hi vọng duy
nhất là giờ đây vấn đề xưa như trái
đất “con người là cái ǵ, từ đâu đến
rồi đi về đâu” sẽ được giải
quyết một lần cho dứt khoát. Chỉ cần liếc
nh́n qua kho tài liệu của Thần linh học là ta ắt
thấy niềm vui, niềm an ủi và sự an dưỡng
đời đời đang khích lệ cho những hiện
tượng quái đản thường hay làm điên tiết
người ta trong buổi lên đồng. Nước mắt
đă ngừng chảy từ hàng tỉ đôi mắt khi
người thân đă quá cố phải tử biệt, chuyện
sinh ly giữa những người yêu thương nhau và bạn
bè chí cốt của nhau không c̣n bị những tín đồ
này coi là chuyện măi măi nữa. Cơn băo tố không c̣n làm
ai sợ sệt, những cuộc khủng bố trên chiến
trường và dịch bệnh đă mất đi quyền
lực ghê gớm nhất đối với nhà Thần linh
học thời nay. Việc giả định rằng có thể
giao tiếp được với người chết cùng
với thông điệp của người chết đă
làm xói ṃn thẩm quyền không thể sai lầm của thần
học theo giáo điều. Nhà Thần linh học nhắm
vào tín ngưỡng mới giờ đây lờ mờ thấy
được những nét phác họa của một Thế
giới Trường hạ nơi chúng ta sinh hoạt bận
bịu chẳng kém ǵ trên Trần thế. Thay v́ dường
như là cái miệng há hốc ra nuốt chửng vào một
cơi hư vô u ám th́ ngôi mộ phần đâm ra chỉ có vẻ
là ngưỡng cửa u linh đưa tới một xứ
sở với ánh sáng thanh thiên bạch nhật không ngừng
tiến bước về trạng thái tột đỉnh
có thể toàn bích được. Không đâu, những nét
phác họa hoang tưởng của Thế giới Trường
hạ này đă trở nên xác định đến nỗi
người ta thường đọc thấy chuyện
trong thế giới vong linh, con nít lớn lên thành người
lớn, có cả những trường đại học
và hàn lâm viện để hướng dẫn kẻ phàm
phu mà chủ tŕ là các nhà hiền triết trên thế giới
đă quá cố; thậm chí có những cuộc hôn nhân giữa
những người nam nữ c̣n sống sờ sờ với
đám công dân của thế giới vong hồn! Một
trường hợp điển h́nh là Đức Ông Thomas
Lake Harris – người sáng lập ra Công đồng xă hội
chủ nghĩa ở Hồ Erie mà Laurence Oliphant và mẹ ông
đă gia nhập – công bố rằng ông kết hôn môn
đương hộ đối với một vong linh nữ
và một đứa trẻ con đă ban phước cho cuộc
hôn nhân ấy! C̣n một trường hợp khác là cuộc
hôn nhân của hai vong linh trước sự hiện diện
của các nhân chứng c̣n sống, do một tu sĩ c̣n sống
làm phép; chuyện này được tường tŕnh năm
ngoái trong những tờ báo của phong
trào Thần linh học:
một ông tên là Pierce, con của một vị cựu Tổng
thống Mỹ và đă chết từ lâu rồi, nghe
đâu “hiện h́nh” ra (nghĩa là tạo ra cho ḿnh một
h́nh dáng trông thấy được và sờ thấy
được) ở nhà một người đồng cốt
Mỹ nào đó; một giáo sĩ được triệu
thỉnh tới trong dịp này đă làm phép kết hôn ông ta
cho một vong hồn phụ nữ chết yểu lúc mới
tṛn 7 tháng nhưng giờ đây đă lớn bổng lên trổ
mă thành một thiếu nữ xuân th́ và cũng hiện h́nh
ra trong lễ cưới! Hai bên trao đổi lời thệ
nguyện và tiếp nhận bí tích hôn nhân, tân lang và tân giai
nhân ngồi vào bàn vui vầy với bạn bè được
mời tới; sau khi uống cạn một hai chén rượu
mừng, cả hai biến mất thành mây khói, kể cả
xiêm y, găng tay trắng, vải sa tanh, đăng ten và
đủ mọi thứ khác! Ắt hẳn quí vị gọi
đây là chuyện vớ vẩn của Thần linh học
và quí vị đúng thôi; tuy nhiên điều này cho thấy rơ
ràng rành rành rằng nếu không muốn nói là duy vật thô
thiển th́ cái quan điểm của trật tự thế
giới bên kia cửa tử đă thay thế cho nỗi niềm
lo sợ mơ hồ xưa cũ đă đè nặng trĩu
lên chúng ta với những lo âu thấp thỏm. Trong một
chừng mực nào đó th́ tâm trạng này dứt khoát là thắng
lợi, nhưng tôi rất tiếc là phải nói rằng các
nhà Thần linh học đă thừa thắng xông lên để
trở thành những kẻ giáo điều mới. Dần
dần một đoàn thể những kẻ cuồng nhiệt
đang được h́nh thành, họ đă khoác một hào
quang thánh thiện lên cho người đồng cốt và bằng
cách dẹp đi những điều kiện thử thách họ
đă mời gọi việc thực hiện những tṛ lừa
đảo thô thiển. Quả thật, người ta
đă từng bắt tại trận đám đồng cốt
dùng mánh khóe xung quanh toàn là đạo cụ tư trang, gỗ
ván giả, tóc giả và con rối để có thể lừa
bịp khiến người ta coi họ là thánh tử v́
đạo làm cho đám đa nghi phải lồng lộn
lên; bằng chứng đầy tội lỗi của họ
đă được bí mật cung cấp qua những kẻ
không tin và giáng một đ̣n chí tử cho chính nghĩa thiêng
liêng của họ! Sự cả tin hau háu của một
đoàn thể đông đảo những nhà Thần linh học
đă làm nảy sinh ra 90% các mánh khóe thiếu trung thực của
đám đồng cốt. Trong bài đề tựa cho Tam
cá nguyệt san Khoa học, ông
Crookes có nhận xét trung thực
rằng: “Trong vô số những điều quan sát mà tôi
đọc được biên bản phúc tŕnh, dường
như ít có một trường hợp hội họp nào
được tổ chức với mục đích rơ rệt
là đặt những hiện tượng lạ đó
trong t́nh huống trắc nghiệm được”. Thế
nhưng, mặc dù đúng như vậy, hầu như cũng
chắc chắn là trong ṿng 32 năm vừa qua, những
người điều tra về các hiện tượng lạ
này đă kiểm chứng được hàng ngàn chứng cớ
cho thấy các hiện tượng lạ xảy ra trong t́nh
huống hoàn toàn độc lập với tác nhân vật lư
của những người có mặt; có một trí thông
minh, đôi khi cá tính nổi bật, đang được
phô diễn qua việc kiểm soát các lực huyền bí tạo
ra hiện tượng lạ ấy. Niềm tin không thể
lay chuyển được của hàng triệu nhà Thần
linh học vốn dựa trên cái kho bao la những sự kiện
đă được trắc nghiệm này, v́ nó vững
như bàn thạch. Số lớn những kinh nghiệm cá
nhân này là thành lũy mà các nhà Thần linh học ẩn núp
sau đó bất cứ khi nào thế giới bên ngoài gồm
những kẻ đa nghi xục xạo t́m xem liệu cái “ảo
giác” tập thể ấy có sụp đổ tan tành trước
sự công kích của một kẻ phê phán sắc
xảo mới mẻ nào đó,
hoặc
là cái việc lật tẩy mới nhất tṛ bịp bợm
giả dối của đám đồng cốt có làm họ
xấu hổ hay chăng. Đến lúc này th́ ta mới khám
phá ra rằng thật c̣n tệ hơn nữa khi cố gắng
chế nhạo bằng chứng hiện thực của các
giác quan con người khi thấy một vật rất nặng
tự ḿnh được nhấc bổng lên treo lơ lửng
trên không trung hoặc thấy chữ được viết
ra mà không có ai tiếp xúc, hoặc thấy một h́nh người
tan biến đi trước mắt ḿnh, để rồi
tin vào cái thuyết cho rằng mọi hiện tượng
đồng cốt chỉ là do “sự co cơ bắp”, do
“sự chú ư đầy mong ước” hoặc do “tác động
trí năo vô ư thức”. Chính v́ thử làm như thế cho cả
đoàn thể khoa học gia đă bị nhà tâm lư học
lăo luyện tỏ thái độ vừa coi thường vừa
thương hại. Ông Wallace cho ta biết rằng sau khi
điều tra kỹ lưỡng, ông chưa bao giờ thấy
có một người nào, sau khi đă tự ḿnh hiểu biết
nhiều về các giai đoạn chính yếu của hiện
tượng lạ mà sau đó lại không tin vào sự thực
ấy. Kinh nghiệm của tôi th́ cũng thế thôi. Một
số người không c̣n là “nhà Thần linh học” nữa
và cải đạo thành Ki Tô hữu Công giáo, nhưng họ
chưa bao giờ nghi ngờ sự thực về các hiện
tượng lạ. Sẽ có một ngày đẹp trời
mà mọi kẻ yêu chuộng khoa học chân chính hân hoan chào
đón khi các giáo sự thời nay vứt bỏ được
cái ư tưởng ngông cuồng cho rằng chỉ có thời
nay mới đầy hiểu biết để hạ ḿnh
khiêm tốn không c̣n nghi vấn các tài liệu ghi chép lại
của khoa học cổ sơ.
Chúng
ta đă thấy rằng
các thí nghiệm của Tiến sĩ Hare và ông Crookes chứng
tỏ được sự tồn tại của một
ḍng lực; v́ vậy ta chẳng cần phải bận tâm
thêm nữa với nhiều phỏng đoán thô thiển cho
rằng sự chuyển động của cái bàn, sự
bay bổng của cái ghế và những tiếng gơ nhịp
là kết quả của năng lượng cơ bắp
thuộc người đồng cốt hay khách viếng
thăm; ta nên chuyển sang chú ư tới một dạng nào
đó của loại thần lực này khi nó phô diễn
động năng của ḿnh. Ta có thể phân loại nó ra
thành các hiện tượng lạ biểu thị trí thông
minh cũng như trao truyền thông tin và hiện tượng
lạ thuần túy biểu lộ năng lượng vật
lư. Thuộc lớp thứ nhất và xếp hàng đầu
ta có cái gọi là “tiếng gơ của vong linh”. Chính những
tín hiệu đơn giản này đă làm bộc phát cái
phong trào hiện đại mà ta gọi là Thần linh học.
Những tiếng phản kích nghe thấy được
này biến thiên mức độ từ âm thanh của một
tiếng tích tắc nho nhỏ cho đến tiếng gơ búa
hoặc gơ vồ đủ mạnh để làm tan nát một
cái bàn bằng gỗ gụ. Ḍng lực tâm linh tạo ra
chúng dường như tùy thuộc vào trạng thái của
người đồng cốt kết hợp với t́nh
h́nh điện khí và độ ẩm của bầu khí quyển.
Khi một trong hai thứ đó bất lợi th́ những
tiếng gơ nếu có nghe được cũng chỉ nhỏ
thôi, khi cả hai hài ḥa th́ những tiếng gơ lớn nhất
và dai dẳng nhất. Tự bản thân chúng th́ hiện
tượng tiếng gơ này cũng đủ kỳ diệu
rồi, thế nhưng chúng c̣n cả trăm lần hơn
thế nữa khi ta thấy nhờ có chúng mà các sinh linh thông
tuệ tự xưng là bạn bè đă quá cố của ta
có thể giao tiếp được với ta. Cuộc giao
tiếp ấy thường tiết lộ những điều
bí mật mà chỉ có kẻ điều tra mới biết
thôi c̣n chẳng ai khác đang có mặt biết được;
trong những trường hợp hiếm hoi, thậm chí nó
c̣n cung cấp những sự kiện mà chẳng có người
nào hiện diện trong pḥng lúc bấy giờ biết và măi
sau này người ta mới kiểm chứng được
bằng cách tham khảo những tài liệu ghi chép thời
xưa hoặc tham vấn những nhân chứng ở xa. Có
một dạng tiếng gơ thanh lịch hơn, đó là tiếng
nhạc giống như cú gơ trên một cái ly bằng thủy
tinh hay một cái chuông bằng bạc mà ta nghe thấy
được hoặc là phát ra từ bàn tay của người
đồng cốt hoặc là giữa không trung. Người
ta đă thường lưu ư thấy hiện tượng
lạ đó ở nhà của ông Stainton Moses tức “M. A.
Oxon” và ông Alfred R. Wallace cũng mô tả nó xảy ra ngay tại
nhà của ông Wallace trước sự có mặt của cô
Nichol, nay là bà Volckmann. Người ta đặt một ly
để uống rượu vang trống rỗng trên bàn
do cô Nichol và ông Humphrey vịn chặt để ngăn ngừa
nó rung rinh. Ông Wallace cho chúng tôi biết rằng “sau một thời
gian ngắn im lặng, người ta nghe thấy một âm
thanh cực kỳ thanh bai giống như tiếng gơ vào cái
ly, nó tăng âm lên những nốt lanh lảnh giống
như tiếng leng keng của cái chuông bằng thủy tinh.
Những tiếng này tiếp tục ở các mức độ
khác nhau trong một vài phút v.v. . .” Ông Wallace lại bảo rằng
khi một ḿnh phụ nữ người Đức hát lên một
bài ca bằng tiếng Đức th́ kèm theo tiếng hát của
bà có “một âm nhạc tinh tế nhất giống như một
thùng nhạc cụ tuyệt hảo . . . Điều này xảy
ra trong bóng tối nhưng lúc nào cũng có thể có đồng
lỏa”. Bà Blavatsky có cho phép nhiều người hiện diện
trong thính pḥng hôm nay được nghe những tiếng
chuông leng keng du dương như kiểu thần tiên từ
khi bà đến Simla. Nhưng họ nghe tiếng ấy
trong ánh sáng thanh thiên bạch nhật không có người
đồng lỏa và ở bất cứ nơi đâu mà bà
chọn để phục vụ họ. Hiện tượng
này chẳng khác ǵ hiện tượng cô Nichol nhưng t́nh
huống th́ khác hẳn và tôi sẽ c̣n nói thêm một điều
ǵ nữa về nó.
Ông
Crookes thấy ḍng thần
lực biến thiên rất nhiều nơi cùng một
người đồng cốt vào những ngày khác nhau và
nơi người đồng cốt biến thiên từ
phút này sang phút khác th́ ḍng thần lực chạy rất lung
tung. Trong tác phẩm của ḿnh ông có tŕnh bày một số bản
in khắc gỗ để minh họa những sự biến
thiên ấy cùng với khí cụ tinh xảo mà ông dùng để
ḍ t́m các biến thiên.
Trong
số nhiều ngàn
cuộc giao tiếp được gán cho là giao tiếp với
các vong hồn vốn được công khai phổ biến,
hầu hết chỉ chứa đựng những thông
điệp tầm thường về gia đạo hoặc
chuyện cá nhân, chi tiết của chúng ít ra th́ người
điều tra cũng có biết được và ta có thể
gán cho đó là đọc tư tưởng của người
điều tra; đôi khi chúng tôi gặp một số
trường hợp cần phải giải thích khác đi.
Tôi
có ư muốn nói những
chi tiết được nhắc đến mà không ai có mặt
trong buổi lên đồng biết. Ông Stainton Moses có ghi
được một số trường hợp như thế
khi một thông điệp đưa ra ở Luân đôn với
ngụ ư xuất phát từ một ông già đă tham chiến
ở Mỹ trong cuộc chiến tranh năm 1812 và đă tử
trận ở đó. Chẳng ai ở Luân đôn đă từng
nghe nói tới nhân vật ấy, nhưng khi người ta
lục t́m trong kho tài liệu ghi chép của Bộ Quốc
Pḥng Mỹ tại
Ngoài
việc giao tiếp
bằng tiếng gơ, cái gọi là các vong hồn c̣n sử dụng
nhiều phương tiện khác để truyền tin cho
người sống. Trong số đó có việc độc
lập viết những thông điệp lên giấy đặt
trên sàn nhà dưới cái bàn hoặc trong một ngăn kéo
đóng kin, giữa những trang sách đóng kín, trên trần
nhà hoặc trên tường hay khăn trải giường;
trong những trường hợp ấy không hề có bàn
tay con người nào ở gần nơi mà chữ viết
hiện ra. Tôi đă thấy tất cả những hiện
tượng này xảy ra dưới ánh sáng thanh thiên bạch
nhật và trong t́nh huống đó th́ không thể dùng mánh khóe
bịp bợm được. Tôi cũng đă có một
kinh nghiệm thỏa thích về năng lực đồng
cốt hiếm có của Tiến sĩ Henry Slade; các bạn
hẳn c̣n nhờ ông đă bị bắt giam v́ một lời
vu cáo ông thiếu trung thực ở Luân đôn, nhưng sau
đó ông đă tŕnh diễn một loạt những cuộc
trắc nghiệm hoàn chỉnh nhất trước mặt
Zollner và các nhà bác học đồng chí ở Leipzig, Aksakof,
Boutlerof và Wagner, ở Saint Petersburg, cũng như Đại
Hầu tước Constantine.
Chính bà Blavatsky và tôi đă biệt phái Tiến sĩ Slade từ
Mỹ đi Âu châu từ năm 1876. Một nhân vật rất
cao cấp đă đặt hàng một cuộc điều
tra của khoa học về Thần linh học, các giáo
sư ở Đại học Hoàng gia Saint Petersburg đă tổ
chức một Ủy ban thực nghiệm; Ủy ban này
đă đặc biệt yêu cầu hai người chúng tôi
tuyển lựa ra từ trong đám đồng cốt
ưu tú nhất ở Mỹ người nào mà chúng tôi có thể
tiến cử đem ra trắc nghiệm. Sau khi nghiên cứu
nhiều lần chúng tôi chọn Tiến sĩ Slade; người
ta đă gửi cho tôi ngân quỹ cần thiết để
chi tiêu cho việc của ông và đến đúng lúc th́ ông
được tiến cử ra nước ngoài. Trước
khi tôi giới thiệu chọn ông th́ tôi yêu sách điều
kiện là ông phải được trắc nghiệm trong
tầm tay của một Ủy ban thuộc Hội Thông
Thiên Học trước đă. Tôi cố t́nh chọn những
thành viên của Ủy ban này là những người là rơ
ràng đa nghi hoặc là hoàn toàn không quen biết với các
hiện tượng lạ của Thần linh học. Slade
được trắc nghiệm rốt ráo trong nhiều tuần
và khi cuối cùng Ủy ban Thông Thiên Học báo cáo th́ người
ta chứng nhận các sự kiện sau đây đă xảy
ra. Các thông điệp được viết ở bên trong
bảng đá gồm hai lớp đôi khi được
dán lại hoặc ép lại với nhau trong khi các bảng
đá ấy hoặc là nằm trên bàn mà ai cũng thấy
được hoặc là đặt trên đầu của
các Ủy viên của Hội đồng, hoặc là nằm
ép bên dưới bề mặt của cái bàn, hoặc là nằm
trong tay một người thuộc Ủy ban mà không có
người đồng cốt chạm vào. Chúng tôi cũng
thấy có những bàn tay rời ra – nghĩa là bàn tay trôi nổi
hoặc lao vọt qua không trung mà không có cánh tay hoặc thân
ḿnh gắn vào đó. Những bàn tay này chụp lấy sợi
dây đeo đồng hồ của chúng tôi, nắm lấy
tay chân chúng tôi, chạm vào bàn tay chúng tôi, giựt lấy những
bảng đá hoặc các đồ vật khác bên dưới bàn, móc lấy những
khăn mùi xoa từ trong túi áo của chúng tôi v.v. . . Và xin quí
vị lưu ư rằng mọi chuyện này xảy ra trong
ánh sáng, nơi mà mọi cử động của người
đồng cốt đều có thể bị nh́n thấy
rành rành giống như bất kỳ thính giả nào hiện
diện có thể thấy được.
Có
một dạng truyền
tín hiệu khác đó là việc người đồng cốt
bị bắt buộc viết ra các thông điệp khi một
quyền năng vô h́nh nào đó kiểm soát bàn tay và cánh tay của
y bất chấp ư chí của y. Chẳng những hàng ngàn mà
c̣n hàng vạn trang giấy đă từng được viết
ra theo kiểu cơ bút này, một số đề tài cũng
đáng được lưu trữ, nhưng phần lớn
chỉ là văn chương ba xu.
Có
một phương
pháp khác là sinh linh thông tuệ vô h́nh gây ấn tượng
lên bộ óc nhạy cảm của một người
đồng cốt bằng những ư tưởng và ngôn từ
ngoài tầm hiểu biết của chính y, chẳng hạn
như ngoại ngữ, tên người chết, hoàn cảnh
chết của họ, yêu cầu thanh lư tài sản, ra lệnh
t́m lại những tài liệu hoặc đồ vật quí
đă bị thất lạc, thông tin về chuyện sát nhân
hoặc bi kịch từ xa mà người chết chính là nạn
nhân, chẩn đoán những bệnh c̣n đang thời ủ
bệnh và gợi ư liệu pháp điều trị v.v. . .
Quí vị ắt thấy có nhiều ví dụ trong mỗi
nhóm hiện tượng lạ này đă được ghi
chép lại và được kiểm chứng thỏa
đáng.
Trong
tác phẩm Vùng đất
c̣n tranh chấp của
Dale Owen có tường
thuật một giai thoại rất thú vị về lai lịch
của một chiếc đàn cổ mà người ta mua
được ở một tiệm bán đồ cũ ở
Nhưng
trong số mọi
sự giao tiếp thông minh của thế giới bên kia với
thế giới của chúng ta, dĩ nhiên không điều ǵ
so sánh được với hiện thực đáng kinh ngạc
về những tiếng nói nghe thấy được. Tôi
đă nghe thấy những tiếng nói thuộc đủ mọi
âm lượng, từ tiếng th́ thào kề sát bên tai nghe
như tiếng ŕ rào của ngọn gió hiu hiu thổi qua cành
cây, cho tới tiếng rền vang như sấm hầu
như làm căn pḥng rung chuyển và cách căn nhà cả chục
thước vẫn c̣n nghe thấy được. Tôi
đă nghe thấy những tiếng nói với ḿnh đi
xuyên qua những cái ống bằng giấy, qua những cái
kèn bằng kim loại và qua không gian trống rỗng. Trong
trường hợp người đồng cốt lừng
danh trên thế giới là William Eddy, th́ những tiếng nói
này nói bằng bốn ngôn ngữ mà người đồng
cốt th́ dốt đặc cán mai. Chẳng bao lâu nữa
tôi sẽ nói tới hiện tượng lạ của Eddy.
Một
trong những hiện
tượng lạ hay ho nhất – tôi xin nói là hấp dẫn
nhất ngoại trừ việc nhớ lại âm nhạc
thần tiên trong các hiện tượng đồng cốt
– là việc mang những đóa hoa c̣n tươi đẫm
ướt sương mai, cây cối và cây nho cùng với các
sinh vật như chim chóc, cá vàng và bướm vào trong các buồng
kín khi người đồng cốt rơ ràng không tự ḿnh
mang chúng vào được. Ở nhà bạn tôi, đích thân
tôi đă giữ tay một người đồng cốt
mà trước đó tôi đă chụp lên đầu y một
cái bao rồi thắt lại ở cổ y bằng dải
rút và trong nhà không có đồng lỏa; trên trọn cái bàn có
phủ đầy những bông hoa, cây cỏ và chim chóc bay phấp
phới vào ḷng tôi, mà chúng ở đâu ra th́ có trời mới
biết được. Chuyện này xảy ra khi mọi cửa
ra vào và cửa sổ đều đóng chặt lại c̣n
được dán kín bằng những dải giấy để
không ai ra vào được. Những hiện tượng lạ
này xảy ra hầu hết là trong bóng tối, nhưng có một
lần tôi thấy một cành cây được mang vào pḥng
giữa lúc thanh thiên bạch nhật. Có một lần tôi hiện
diện ở buổi lên đồng tại nước Mỹ
khi nhà quí tộc yêu cầu “các vong linh mang lại cho ḿnh một
cây nhỏ trồng ở vùng đất đầm lầy
tại Tô cách lan; đột nhiên một cây bị nhổ bật
gốc và đất tươi rói c̣n bám vào rễ rớt
độp xuống bàn ngay trước mặt tôi.
Có
một ví dụ rất
thú vị về loại hiện tượng không thông minh
mà tôi lưu ư trong quá tŕnh t́m kiếm một người
đồng cốt để biệt phái đi Nga. Một
bà đồng cốt tên là bà Youngs lừng danh v́ đă khiến
cho cây dương cầm bốc lên khỏi sàn nhà, đu
đưa ăn nhịp với việc bà chơi
dương cầm. Có một buổi chiều bà Blavatsky và
tôi đến viếng thăm bà đồng cốt, thế
là ngày hôm sau trên báo chí ở Nữu Ước có tường
tŕnh chuyện xảy ra. Khi bà đồng cốt ngồi
chơi dương cầm th́ nó chắc chắn là nghiêng
đi trên hai cái chân ở phía ngoài (hai cái chân ở cách xa bà
nhiều hơn) c̣n hai cái chân ở gần bà nhấc cao lên
khỏi mặt đất từ 6 tới 8 phân Anh và đu
đưa ăn nhịp với tiếng nhạc. Thế rồi
bà Youngs đi tới một bờ mép của chiếc
dương cầm, đặt chỉ một ngón tay vào mặt
bên dưới của thùng đàn và dễ dàng nhấc bổng
cái trọng lượng khổng lồ ấy lên. Nếu bất
kỳ ai trong quí vị thử tính toán khối lượng
lực tâm linh cần phải dốc vào đó th́ quí vị
hăy thử nhấc một bên của cái đàn dương cầm
có bảy bát độ rưởi xem nó có bổng lên
được 6 phân Anh tính từ sàn nhà hay chăng. Để
trắc nghiệm sự thực của hiện tượng
lạ này tôi đă mang theo một quả trứng c̣n tươi
mà tôi nắm trong ḷng bàn tay rồi t́ nhẹ nó vào một
đầu ở mặt bên dưới của thùng đàn
dương cầm. Sau đó tôi yêu cầu bà đồng cốt
đặt ḷng bàn tay của bà lên trên mu bàn tay đang nắm
giữ quả trứng của tôi, rồi bảo bà ra lệnh
cái đàn dương cầm bay bổng lên. Chỉ cần
một lúc ngưng lại là tôi sửng sốt khi thấy một
đầu đàn dương cầm bốc lên mà không có bao
nhiêu áp lực đè lên quả trứng nhằm làm bể vỏ
trứng. Với tư cách một cuộc trắc nghiệm
về tính chân thực của lực tâm linh, tôi nghĩ rằng
đây hầu như là một cuộc thực nghiệm
mang tính thuyết phục chẳng kém ǵ cái bồn chứa
nước và cái cân ḷ xo của ông Crookes. Ít ra th́ đó cũng
là điều chứng nhận đối với bản
thân tôi v́ tôi có thể đoan chắc rằng người
đồng cốt không gây một áp lực lên mu bàn tay tôi
nhiều hơn trọng lượng một ounce (gần 30
gr) và hoàn toàn chắc chắn rằng chỉ cần một
áp lực khoảng 100 gr là đă làm vỡ vụn cái vỏ
mỏng tanh của quả trứng.
Một
trong những biểu
lộ không thể chối căi được của lực
độc lập là việc nhấc lên hoặc làm di chuyển
một trọng lượng nặng nề mà không có người
tiếp xúc với nó. Cùng với nhiều nhà khảo cứu
khác tôi đă chứng kiến điều này. Khi ngồi tại
một cái bàn ở giữa căn pḥng khách của ḿnh
được chiếu sáng, tôi đă thấy chiếc
đàn dương cầm bốc lên và di chuyển rời
xa bức tường một bộ Anh, một cái tay ghế
nặng nề bằng da phóng từ một góc ở xa
hướng về phía chúng tôi rồi chạm vào người
khi không có ai ở trong ṿng cả chục bộ Anh cách xa
chúng. Vào một dịp khác, người bạn đă quá cố
của tôi và là giáo sư hóa học, ông Mapes, vốn là một
người rất lực lưỡng cùng với hai
người khác cũng cường tráng như vậy
được yêu cầu ngồi lên trên một bàn ăn
làm bằng gỗ gụ. Thế là tất cả được
nhấc bổng lên khỏi mặt đất, người
đồng cốt chỉ đặt một tay trên nóc của
cái bàn. Ở nhà của bà Youngs vào buổi chiều tối
mà ta đă nêu trước kia cũng có nhiều người
như vậy ngồi trên nóc của cái đàn dương cầm
được nhấc bổng lên cùng với nhạc cụ
ấy trong khi bà đang chơi một bản waltz. Trong tài
liệu ghi chép có đầy những ví dụ mà các căn
pḥng hoặc ngay cả trọn căn nhà bị một lực
huyền bí làm cho chấn động và rung chuyển dường
như thể có một cơn băo đang thổi qua mặc
dù bầu không khí vẫn yên tĩnh.
Và
ta có bằng chứng
của các ngài Lindsay, Aberdare, Dunraven và những nhân chứng
khác không thể bác bỏ được; họ công nhận
sự kiện cơ thể của một người
đồng cốt trôi nổi xung quanh căn pḥng rồi
bay lướt qua một cửa sổ cách mặt đất
70 bộ Anh để lại đi vào một cửa sổ
khác. Điều này xảy ra trong ánh sáng mờ mờ,
nhưng trong ánh sáng nhá nhem tôi có thấy một người
bị nhấc bổng ra khỏi cái ghế ngồi cho
đến khi đầu bà ta cao bằng những quả cầu
trên cái đế đèn, thế rồi lại từ từ
hạ xuống.
Quí
vị ắt thấy
tôi đang kể cho quí vị nghe những câu chuyện kỳ
diệu đến nỗi nếu không được bổ
chứng bằng kinh nghiệm cá nhân của ḿnh th́ chẳng
ai có thể hoàn toàn tin được. Quí vị hăy tin tôi
đi, tôi ắt chẳng kể cho quí vị nghe – v́ đâu
có ai muốn bị người khác nghi ngờ lời của
ḿnh – nếu tôi không hoàn toàn biết rơ là những hiện
tượng như thế đă được chứng kiến
hàng trăm lần ở hầu hết mọi xứ sở
dưới ánh mặt trời, và bất cứ ai dành thời
giờ khảo cứu chúng đều có thể thấy
được. Mặc dù tôi chối bỏ nhưng quí vị
có thể nghĩ rằng tôi đang coi là chuyện hiển
nhiên quí vị hoàn toàn thỏa măn giống như bản thân
tôi về tính chân thật của các hiện tượng
đồng cốt, nhưng tôi đoan chắc rằng tôi
không có ư đó. Tôi luôn luôn nhớ rằng cho dù thính giả
có thể tôn trọng sự liêm khiết và tài khéo của
tôi, cho dù rơ ràng là y có thể thấy tôi chẳng có động
cơ thúc đẩy tối hậu nào nhằm lừa gạt
y; thế nhưng y không
thể tin được
nếu bản thân y chưa có những bằng chứng thuyết
phục mà chính tôi đă có. Y ắt hẳn – bởi v́ y nhất
định phải – suy nghĩ rằng những chuyện
như thế nằm ngoài tầm kinh nghiệm thông thường
của con người và theo cách diễn tả của Hume
th́ thật là hợp lư hơn khi tin rằng người ta
nói dối thay v́ tin rằng lộ tŕnh bằng phẳng của
định luật thiên nhiên bị xáo trộn. Quả thật
điều đó giả định một tiêu đề
phi lư là người b́nh thường biết được
đâu là giới hạn của định luật thiên
nhiên, nhưng chúng ta chưa bao giờ coi ư kiến ḿnh là phi
lư, bất chấp người khác nghĩ như thế nào
đi chăng nữa. Như tôi vừa mới nhận xét,
v́ biết rằng điều mà tôi miêu tả đă từng
được hàng ngàn người chứng kiến và bất
cứ lúc nào khác hàng ngàn người khác cũng có thể chứng
kiến được, cho nên tôi tiến hành kể chuyện
với vai tṛ là người nói sự thật và cây ngay không
sợ chết đứng. Thật là một chuyện kỳ
diệu khi điều mà chúng tôi đă được chứng
kiến hiện nay độc lập với sự quan tâm
trịnh trọng gắn liền với vấn đề
liệu người chết có giao tiếp với chúng ta
hay chăng v́ ta không thể đánh giá thấp tầm quan trọng
của sự kiện này về mặt khoa học. Ngay từ
đầu – nghĩa là trải qua suốt 28 năm mà tôi
quan sát – tôi đă từng đeo đuổi cuộc điều
tra theo tinh thần ấy v́ tin rằng con người ắt
thấy tầm quan trọng tối cao của nó khi nhận
biết được mọi điều mà ta có thể biết
về quyền năng của con người và các lực
thiên nhiên xung quanh ḿnh.
Bây
giờ điều
mà tôi sẽ tường tŕnh về cuộc phiêu lưu ở
Eddy Homestead tại
Sau
một thời gian
hát ḥ và kéo vĩ cầm (đôi khi 5 phút, đôi khi tới 20
phút hoặc 30 phút) chúng tôi ắt thấy cái khăn lay động
rồi bị vén lên và từ bục giảng bước ra
một h́nh người nào đó. Có thể là đàn ông,
đàn bà hoặc con nít, một cựu chiến binh già lụ
khụ hoặc một em bé sơ sinh do một người
phụ nữ ẵm trên tay. H́nh người này tuyệt
nhiên chẳng có điều ǵ là siêu tự nhiên hoặc ma
quái. Một người lạ bước vào đầu
bên kia của căn buồng ắt chỉ tưởng
tượng rằng một kẻ phàm phu c̣n sống nào ấy
đang đứng ở đó sẵn sàng thuyết tŕnh
trước thính giả. Quần áo của nó cũng giống
như y phục sinh hoạt hàng ngày, mặt mũi, tay chân,
dáng vẻ của nó hoàn toàn tự nhiên thoải mái. Đôi
khi nó c̣n gọi tên người bạn đang sống mà nó
tới để hội ngộ. Nếu nó khỏe mạnh
th́ giọng nói ắt có âm lượng tự nhiên, nếu
nó yếu th́ lời nói nghe cứ như tiếng th́ thào; nếu
nó yếu hơn nữa th́ chẳng nghe nói ǵ hết mà chỉ
thấy h́nh người đứng dựa vào ống khói
hoặc tay vịn cầu thang trong khi đám thính giả lần
lượt hỏi “có phải bạn của tôi không?” và nó
hoặc là cúi đầu hoặc là gơ nhẹ tạo một
âm thanh trên bức vách khi đúng người nó cần gặp
nêu lên câu hỏi. Thế rồi một khách viếng
thăm băn khoăn ắt nhô người về phía
trước, căng mắt ra nh́n vào dáng vẻ của h́nh
người dưới ánh sáng mờ mờ để rồi
chúng tôi thường nghe thấy một tiếng hét thất
thanh mừng rỡ “ôi mẹ, cha, chị, em, con trai, con gái của
tôi” hoặc không biết chừng là “tôi biết ông rồi”.
Thế là người ta thấy người khách viếng
thăm quái đản ấy cúi rạp đầu xuống
hoặc dang rộng tay ra để rồi dường
như thu hết tàn lực cuối cùng lướt trở
lại vào trong buồng kín khi tấm khăn lại phủ
xuống trước cặp mắt hau háu đăm
đăm nh́n của khán giả. Nhưng có khi h́nh người
ấy tồn tại lâu hơn nhiều. Lắm lần tôi
đă thấy từ trong buồng kín bước ra một
bà già mặc đồng phục của phái Quaker có mũ vải
phin và khăn quàng gài kim trên ngực, áo dài màu xám, yếm nội
trợ, bà gọi con trai của ḿnh lên bục giảng, ngồi
kế bên y trong một cái ghế dựa rồi sau khi âu yếm
hôn nó, bà nói chuyện vài phút với nó bằng giọng th́
thào về chuyện gia đạo. Lúc nào bà cũng có vẻ
đăng trí vân vê đường viền của cái yếm rồi
lại thả nó ra và cứ tiếp tục như vậy
làm đi làm lại đúng hệt như - theo lời con
trai bà kể lại với tôi – bà vẫn có thói quen làm
như thế trong lúc sinh tiền. Có nhiều lần
đúng ngay khi bà sẵn sàng biến mất th́ nhà quí tộc
này lại níu tay bà dắt ra tới tận lan can và bảo
rằng ông được mẹ già – người mà chúng
tôi thấy ở đó mặc dù bà đă qua đời nhiều
năm rồi – yêu cầu chứng nhận đó chính thật
là bà chứ không phải chuyện lừa gạt để
cho người ta hiểu ra rằng con người vẫn
c̣n sinh hoạt bên kia cửa tử và v́ vậy khi sống
trên dương thế phải sống
sao cho bảo đảm
được hạnh phúc ở thế giới bên kia.
Trong
một vài phút của
bài thuyết tŕnh này tôi không thể toan tính cung cấp cho quí
vị ngay cả chỉ phác họa sơ lược về
những quan sát của tôi trong những tuần lễ đầy
sóng gió ấy. Chỉ cần nói rằng tôi đă thấy một
buổi có khoảng 17 người đội
mồ sống
dậy và từ đầu
chí cuối tôi đă thấy chừng 500 người. Chỉ
có một ít người dường như đặc biệt
gắn bó với phạm vi ảnh hưởng của
người đồng cốt, kỳ dư là bạn bè của
những người xa lạ xuất hiện trước
những kẻ hằng ngày bu đông đảo nơi ấy
xuất phát từ những địa phương xa nhất
– một số địa phương xa tới tận hai
ngàn dặm Anh. Có những người Mỹ và người
Âu châu, người Phi châu và người Á châu, người
da đỏ sống ở vùng đồng cỏ và người
da trắng, mỗi người đều mặc quần
áo quen thuộc, một số người thậm chí c̣n
mang theo cả những vũ khí quen thuộc. Có một buổi
chiều, h́nh một người Kurd – một người
mà bà Blavatsky có quen biết ở Kurdistan – bước từ
pḥng kín ra, đội một cái mũ vải cao, chân đi
giày bốt cao, quần áo bảnh bao. Trong cái khăn quấn
chặt quanh thắt lưng của y có giắt một
lưỡi gươm cong và những vũ khí nho nhỏ khác.
Tay y thoạt đầu trống rỗng nhưng sau khi chào
mừng bạn tôi theo kiểu dân địa phương
th́ xem ḱa tay phải của y đang cầm một ngọn
giáo dài 12 bộ, ở bên dưới mũi nhọn bằng
thép c̣n có cả một chùm lông vũ. Thế mà giả sử
rằng người đồng cốt nông dân ấy đă
từng bịp bợm th́ ở cái thôn xóm hẻo lánh này y kiếm
đâu ra bộ quần áo người Kurd đó, thắt
lưng, vũ khí và nhất là cái ngọn giáo vào lúc mà chúng
tôi vừa nhắc tới – bởi v́ bà Blavatsky chỉ mới
đến Chittenden cho nên cả bản thân tôi lẫn
người nào khác chẳng ai biết lai lịch của bà
cũng như bà từ đâu đến. Tôi đă từng
miêu tả mọi kinh nghiệm của ḿnh ở đó,
trước hết là trong một loạt những bức
thư gửi cho một tờ báo ở New York, rồi sau
đó là dưới dạng sách [Tác phẩm Người
về từ
Thế giới bên kia] và tôi khuyên kẻ nào ṭ ṃ hăy tham khảo
tài liệu ấy để có chi tiết cả về những
ǵ tôi đă chứng kiến lẫn những điều
pḥng ngừa của tôi để khỏi bị lừa gạt.
Chắc chắn là có hai điều nảy ra trong trí quí vị
khi tôi đang nói (a) có một kẻ đồng lỏa hoặc
nhiều đồng lỏa tiếp cận với người
đồng cốt qua cửa sổ của căn pḥng riêng
hoặc là quần áo, búp bê đă được tuồng
cho y từ phía dưới thông qua một nắp hầm hoặc
một tấm ván kéo trượt. Cố nhiên bất cứ
ai chẳng mất công suy nghĩ cũng có thể giả
định như vậy. Tôi cũng đă từng nghĩ như
thế và làm như sau. Tôi kiếm một cái thang rồi leo
lên phía bên ngoài căn nhà, may lược một tấm vải
mùng trùm lên toàn bộ cái cửa sổ, kể cả khung cửa
kéo nữa rồi niêm phong những chỗ may lược ấy
bằng sáp đóng dấu ấn bằng ấn triện
trên cái nhẫn đeo tay của tôi. Việc này sẽ
ngăn cản hữu hiệu bất cứ chuyện lẩm
cẩm nào xuất phát từ cái góc đó. Thế rồi tôi
cầu viện tới một kiến trúc sư, một
người Mỹ tài khéo phát minh về máy móc cùng với
tôi khảo sát tỉ mỉ thực tiễn ống khói, sàn
nhà, bục giảng, những căn pḥng ở tầng trệt
và mái gỗ phía trên đầu. Tất cả chúng tôi hoàn
toàn thỏa măn khi thấy nếu trường hợp này mà
có mánh khóe ǵ th́ chỉ mỗi một ḿnh William Eddy là thủ
phạm chứ không có đồng lỏa và nếu y dùng bộ
y phục trên sân khấu hoặc các tư trang khác th́ y phải
mang kè kè theo ḿnh. Trong cái lỗ nhỏ xíu của căn buồng
kín không hề có một ngọn nến, cái gương soi,
bàn chải, tóc giả, quần áo, bồn nước,
khăn mặt, son phấn trang điểm, cũng chẳng
có đạo cụ nào khác của diễn viên; mà nói thật
ra th́ người nông dân nghèo đào đâu ra tiền để
mua sắm. Y không đ̣i tiền thù lao cho buổi lên đồng
và khách viếng thăm chỉ trả một số tiền
rất nhỏ là được bao ăn ở tại chỗ.
Tôi đă ngồi hút thuốc với y ở dưới bếp
cho đến khi bắt đầu buổi lên đồng,
đi kè kè theo y lên buồng trên, khảo sát căn buồng
kín trước khi y bước vào, lục soát người
y; thế mà tôi vẫn cứ thấy chính những h́nh
người kỳ diệu ấy xuất hiện như
thường lệ với đủ thứ y phục. Tôi
nghĩ rằng ḿnh có thể tự cho là đă tiến hành
rất thận trọng v́ trong một bài tranh căi gần
đây với giáo sư W. B. Carpenter, ông A. R. Wallace, hội
viên Hội Hoàng gia, đă trích dẫn và ca ngợi quyển
sách của tôi. Bản thân ông Carpenter đi Mỹ để
điều tra xem coi tính t́nh tôi có ngay thật không rồi cũng
phải công khai thừa nhận là không thể nghi ngờ
được. Giáo sư Wagner ở Saint Petersburg đă duyệt
công tŕnh ấy trong một tập sách nhỏ đặc biệt
– trong đó ông đă khẳng định rằng tôi đă
hoàn thành mọi yêu cầu về nghiên cứu khoa học –
c̣n ba hội Tâm lư học Âu châu th́ đă bầu tôi làm hội
viên Danh dự. Ta cũng nên lưu ư rằng với 4 năm
khảo sát nhiêu khê và rất có trách nhiệm phục vụ
cho Bộ Quốc pḥng – trong trận chiến tranh vừa
qua ở Mỹ mà chính nhà cầm quyền da đỏ
đă chứng nhận cho việc phục vụ của tôi
– tôi có đủ tư cách để tiến hành việc
điều tra với ít ra là mức chắc chắn có thể
nếu tôi không bị áp đặt điều ǵ. Như vậy,
sau khi đă thấy mọi điều được phác
họa cho ḿnh th́ liệu quí vị có lấy làm ngạc
nhiên chăng khi tôi hoàn toàn tin chắc vào sự thực của
một số lớn các hiện tượng tâm linh mà khoa học
đang cố gắng một cách tuyệt vọng để
đưa ra lời giải thích. Liệu quí vị có lấy
làm lạ chăng khi bất cứ nhà khoa học nào từ
năm 1848, sau khi đă kiên nhẫn nghiêm chỉnh điều
tra về Thần linh học hiện đại đều
trở thành một kẻ được cải giáo bất
kể đức tin tôn giáo hoặc khuynh hướng nghề
nghiệp của y?
Việc
đề cập
đến tôn giáo đưa tôi tới một sự kiện
chắc chắn. Trong khi hiện nay Giáo hội Tin lành cứ
khăng khăng chối bỏ sự thực về những
biểu lộ như thế của các tác nhân huyền bí,
th́ Giáo hội Roma luôn luôn công nhận là đúng sự thật.
Trong tiêu đề của Giáo hội vẫn có những dạng
đặc biệt trục tà, và khi cô Laura Edmonds, con gái
cưng của nhà thẩm phán người Mỹ được
trọng vọng nêu trên, một trong những người
đồng cốt đáng chú ư nhất của phong trào hiện
đại – liên kết với Giáo hội Công giáo th́ linh mục
nghe cô xưng tội là một huynh ở New York theo phái thánh
Phao lô đă trục được “đám ma quỉ” ám ảnh
cô sau khi – theo lời ông kể với tôi – có một trận
thư hùng quyết chiến. Chính Đức Giáo hoàng đă
quá cố nguyền rủa thuật đồng cốt là một
công cụ nguy hiểm của phái Tà, rồi cảnh báo tín
đồ đừng có lân la tới pḥng lên đồng v́
các tác nhân ở đó có thể hủy hoại linh hồn. Ở
Pháp, trong ṿng vài năm vừa qua có xuất hiện một
loạt sách của Hiệp sĩ des Mousseaux đă được
các giám mục Công giáo nhiệt liệt tán thưởng,
chúng đặc biệt được thiết kế
để sưu tầm bằng chứng nổi bật nhất
của tác nhân ma quỉ trong các hiện tượng lạ.
Đó đều là các kho chứa có giá trị về những
sự kiện thông linh mà người ta đặc biệt
nên đọc, nhất là quyển Phong
tục và Phép thực hành của Ma quỉ đối
với mọi
người nghiên cứu Huyền bí học. Tác giả cần
cù này dĩ nhiên là chẳng thuyết phục được
ai chấp nhận các tiêu đề của ḿnh ngoại trừ
trong giới Công giáo, nhưng các sự kiện mà ông nêu ra thật
gợi ư và đáng hoan nghênh. Mặc dù tôi chẳng bao giờ
có chút xíu óc chính thống tôn giáo nào và chẳng hề có thiện
cảm với thuyết ma quỉ, thế nhưng sau khi
đă học được khoa tâm lư học Á đông th́
tôi thấy phái Công giáo c̣n gần sự thật hơn hẳn
phái Tin lành khi họ công nhận và cảnh báo trước
nguy cơ đồng cốt, chứ Tin lành chỉ mù quáng
chối bỏ sự thật của những hiện
tượng lạ này. Đồng cốt thật sự là
nguy hiểm và tôi chưa bao giờ muốn thấy một
người mà tôi quan tâm lại trở thành đồng cốt.
Người Ấn độ - vốn đă biết những
hiện tượng này từ xửa từ xưa rồi
– gọi những nạn nhân này bằng một tên gọi
thích hợp nhất là bhitta
dak tức là tiền
đồn của ma quỉ. Tôi thành thật hi vọng rằng
sớm muộn ǵ th́ người ta cũng sẽ nghiên cứu
kinh nghiệm của Ấn độ về vấn đề
này; và nếu người ta muốn khuyến khích tục
đồng cốt th́ người ta phải đặt nó
vào một khuôn khổ bảo vệ giống như những
bà đồng cốt thời xưa trong các đền thờ
đă từng được các tu sĩ điểm đạo
đồ chăm chú để mắt tới. Đây không
phải là ngôn ngữ của nhà Thần linh học và tôi cũng
đâu phải theo Thần linh học; thật ra th́ tôi tin một
cách không dè dặt và sự thực của các hiện tượng
lạ cùng sự tồn tại của lực tâm linh,
nhưng ở đây tôi cũng đồng ư với các nhà
Thần linh học. Đó là v́ trong hơn 20 năm, tôi
đă đồng ư với họ và chia xẻ cùng với
ông Owen và ông Wallace niềm tin chắc rằng ta không thể
gán cho hiện tượng lạ bất kỳ tác nhân nào
khác hơn là của người quá cố. Tôi không thể
hiểu được làm sao giải thích trí thông minh ẩn
sau những pha tŕnh diễn ấy nhất là trong những
trường hợp mà tôi có nhắc tới khi những sự
kiện được tường thuật chẳng ai có
mặt nơi buổi lên đồng biết được
và chỉ được kiểm chứng măi sau này ở những
xứ xa xôi; nhưng cho đến khi hội ngộ với
bà Blavatsky ở nhà Eddy th́ thậm chí tôi c̣n chưa biết
có một khoa học tên là Huyền bí học Á đông. Tôi
coi những chuyện kể của đám du khách và chuyện
kể trong 1001 đêm chỉ là những lời ngoa ngoắc
hoang đường; và mọi điều được
viết ra về đám sơn đông măi vơ ở Ấn
độ cùng với thần thông của các vị ẩn sĩ
dường như chỉ là tường tŕnh về những
tṛ ảo thuật thành công. Bây giờ tôi nh́n lại th́ mới
thấy cuộc hội ngộ ấy là diễn biến diễm
phúc nhất đời tôi, v́ nó soi sáng cho mọi ngóc ngách tối
tăm, đưa tôi tới sứ mệnh pḥ trợ cho
khoa huyền bí học Aryan vốn đang càng ngày càng
được người ta miệt mài nghiên cứu. Tôi
thật hân hạnh chẳng những góp phần vào việc
mở rộng biên cương của khoa học Âu Tây bằng
cách chỉ ra đâu là chỗ mà người ta có thể
nghiên cứu thực nghiệm về các bí mật của
thiên nhiên và con người để cho những người
Anh Ấn phải kính nễ hơn đối với quốc
gia thần phục mà ḿnh đang cai trị; tôi lại c̣n
góp phần vào việc làm nhen nhúm bên trong ḷng giới thanh
niên Ấn độ sự tự hào về di sản tổ
tiên quang vinh và mong muốn bắt chước tiền nhân
đạt được những thành tựu cao cả về
Khoa học và Triết học. Thưa quí ông, quí bà, đây là
lư do duy nhất khiến cho chúng tôi đến với Ấn
độ; điều này giải thích được mối
quan hệ nồng thấm của chúng tôi với dân tộc
quí vị, ḷng tôn kính của chúng tôi với các đạo sĩ
yoga chân chính. Mỗi một người trong quí vị cứ
mong ngóng đến ngày ḿnh sẽ hồi hương về
quê cha đất tổ là nước Anh, c̣n chúng tôi xin chọn
nơi này làm quê hương nghĩa là xin gửi nắm
xương tàn nơi đây.
Những
tờ bướm
quảng cáo đă loan báo việc tôi đắc cử Hội
trưởng Hội Thông Thiên Học và quí vị tề tựu
nơi đây để học biết xem Thông Thiên Học
là ǵ và nó quan hệ ra sao với Thần linh học.
Thế
th́ tôi xin nói theo
ư nghĩa được sử dụng bởi những
người tiền phong th́ thuật ngữ này có nghĩa
là minh triết thiêng
liêng hoặc hiểu biết về minh
triết thiêng liêng hoặc hiểu biết về việc
thiêng liêng. Những người soạn từ điển
đă gây tù túng cho ư tưởng này bằng cách gợi ư rằng
nó nghĩa là hiểu biết về Thượng Đế
mà Đấng thiêng liêng trong trí óc họ lại là một
đấng nhân h́nh; nhưng đó không phải là ngụ ư của
các nhà Thông Thiên Học tiền phong. Xét về cốt lơi th́
Hội Thông Thiên Học khuyến khích người ta trau dồi
sự hiểu biết mới lạ về những điều
c̣n ẩn tàng trong vũ trụ qua đường lối
giáo dục để hoàn thiện những quyền năng
ẩn tàng nơi chính ḿnh. Thông Thiên Học khác hẳn với
triết học cũng như thần học. Nói thật
ra th́ khi nghiên cứu về bản chất và các thuộc
tính của Thượng Đế, triết học hoàn toàn
tiến hành theo phương pháp biện chứng, đặt
cơ sở cho sự khảo cứu dựa trên những ư
tưởng xuất phát từ lư trí tự nhiên; thần học
vẫn sử dụng phương pháp ấy nhưng thêm thắt
vào các nguyên tắc của lư trí tự nhiên bằng những
nguyên tắc rút ra từ thần quyền và thiên khải.
Ngược lại, Thông Thiên Học công khai loại trừ
mọi tiến tŕnh biện chứng và rút ra mọi sự
hiểu biết về Thượng Đế từ trực
giác và sự nhập định. Ngay từ thời xa
xưa nhất mà chúng ta c̣n bảo tồn được bất
cứ sử liệu nào th́ đă có Thông Thiên Học rồi,
và mọi bậc giáo chủ đều là người
mưu cầu minh triết thiêng liêng bằng tiến tŕnh tự
giác ngộ của Thông Thiên Học. Thời nay liệu ta biết
t́m ở đâu ra phương tiện để theo đuổi
công tŕnh nghiên cứu vinh quang ấy? Ở đâu mà có những
trường huấn luyện xứng đáng được
gọi là kế nghiệp cho các trường của phái Tân
Platon ở Alexandria, phái Đạo trưởng ở Ai cập,
phái được thần linh dạy dỗ ở Hi lạp
và nhất là các bậc thánh triết ở Aryavarta, vốn
là các điểm đạo đồ cao cả nhất ngoại
trừ Đức Phật Thích Ca toàn giác vô nhiễm.
Chúng
ta hăy nhớ rằng
việc nghiên cứu Thông Thiên Học đ̣i hỏi người
ta phải thật sự thâm nhập vào các bí pháp để
trở thành một người
giác ngộ chân
chính. Những
tham dục của xác thịt, niềm kiêu hảnh trong cuộc
sống, những thành kiến về gia thế, chủng tộc,
tín điều (đến mức sinh ra giáo điều)
đều phải bị dẹp hết sang một bên. Thể
xác phải phục vụ thuận lợi cho chơn ngă thay
v́ ức hiếp chơn ngă. Những thanh sắt ngục tù
Giác quan đă giam cầm con người Vật chất phải
được mở khóa để cho trong khi vẫn sinh
hoạt đóng một vai tṛ nơi ngoại giới; nhà
Thông Thiên Học vẫn có thể hướng nội, hoạt
động trong đó rồi lại trở ra v́ trong đó
có đầy dẫy sự thật thiêng liêng. Chúng ta thắc
mắc chẳng biết liệu có hay chăng những
người như thế, những bán thần linh như
thế? Có chứ, đă có và đang có. Các huyền thoại
trong quá khứ đối với chúng ta dường như
có vẻ thấm đượm sự sai lầm, hoang
đường và thậm chí hoang tưởng nữa; tuy
nhiên những người như thế đă tồn tại
và hiển lộng thần thông ở nhiều xứ sở,
trong nhiều thời kỳ khác nhau.
Và
không ở đâu
hơn xứ Ấn độ - cái xứ sở được
Mặt trời ban phước – mà lại có người
nghèo khổ, xuống tinh thần, đói khát và suy thoái đến
thế. Đây là nơi chôn nhau cắt rún của Thông Thiên Học
cổ truyền, ở đây trên vùng núi Hi mă lạp sơn
cao sừng sững tít mù đă có sống những con người
đạt vinh dự là được truyền dạy
minh triết thiêng liêng. Minh triết này là một nguồn cội
bồi đấp chảy qua các kinh dẫn của Hi lạp
và Ai cập để hướng về phương Tây.
Dù quí vị có tin tôi hay chăng th́ tôi vẫn hoàn toàn tin chắc
rằng trong những thành lũy này từ bầu không khí
đạo đức bị ô nhiễm của sinh hoạt
xă hội vào thế kỷ 19 xa rời khỏi tai họa và
sự hành hạ của thói ngu tín và mê tín dị đoan thiếu
khoan dung ngày nay, xa rời khỏi ác ư độc hại của
ḷng đa nghi, vẫn c̣n có những người lưu luyến
vốn là các nhà Thông Thiên Học chân chính. Không lạc quan cũng
chẳng bi quan, nhưng tôi không lấy làm hài ḷng trước
việc dân tộc chúng ta có số phận bị hủy diệt
hiện nay hoặc trong tương lai, ư thức đạo
đức của xă hội cũng không thể bị suy giảm
nếu không có sự đổi mới thường xuyên từ
cội nguồn tổ tông. Tôi quan niệm cái cội nguồn
ấy là việc nghiên cứu Thông Thiên Học và sự giác
ngộ tự thân; tôi coi người nào vạch đường
chỉ lối cho kẻ đa nghi, kẻ đang thất vọng,
kẻ mỏi mệt với thế gian, kẻ đói khát
trong ḷng th́ người ấy chính là bậc ân nhân cho đồng
loại v́ những hư danh của thế gian không thỏa
măn được những khát vọng của linh hồn,
và ta chỉ có thể đạt được chân hạnh
phúc nhờ vào việc tự thân phát triển trong nội
tâm thanh tẩy và giác ngộ. Ắt là sẽ không có phù hợp
với những nguyên tắc trừu tượng về
Công bằng khi ta bỏ mặc cho thế gian hoàn toàn không có
gương mẫu nào để noi theo về minh triết
tâm linh. Tôi không tin điều này đă hoặc sẽ măi măi
như thế.
Đối
với kẻ
nào bước theo lộ tŕnh nỗ lực này th́ các hiện
tượng đồng cốt là cực kỳ quan trọng
v́ chúng đưa y vào địa hạt của cơi Vô h́nh, chỉ
cho y thấy một số bí mật kỳ quặc nhất
trong bản chất con người. Cùng với thuật
đồng cốt, y c̣n nghiên cứu từ khí sinh vật,
các định luật và hiện tượng của nó và
Odyle của Nam tước Richenbach cũng đều cho ta
thấy thực chất và tính phân cực của Lực
này; sự thật là nó dường như tương cận
với một lực vĩ đại duy nhất thấm
nhuần trọn cả thiên nhiên. Y sẽ rút ra được
thêm bằng chứng qua thuật trắc tâm của Buchanan
cùng với các thí nghiệm đối với những
người mà y thấy được thiên phú về
năng lực trắc tâm. Nếu có ai ở đây cảm
thấy đó là một từ ngữ mới lạ th́ tôi
xin bảo rằng đây là một tên gọi mà người
khám phá ra nó thời nay dùng để chỉ một quyền
năng nào đó mà cứ bốn người th́ có một
người sở hữu; y có thể nhận được
các ấn tượng trực giác về tính t́nh của
người viết một lá thư hoặc vẽ một
bức tranh bằng cách trực tiếp tiếp xúc với
bản thảo chữ viết tay hoặc bức tranh vẽ.
Mọi người trong chúng ta đều thường
xuyên để lại ấn tượng về tính t́nh của
ḿnh tồn đọng trong mọi vật mà chúng ta có tiếp
xúc, cũng giống như đá nam châm truyền lại một
số đặc tính của ḿnh cho mọi cây kim mà người
ta cạ vào nó. Có một điều tinh vi nào đó – từ
khí tức lưu chất sinh động, tức lực
thông linh – thường xuyên rỉ rịn ra khỏi chúng ta.
Chúng ta để nó tồn đọng lại trên mặt
đất khiến cho con chó t́m thấy chúng ta, nó tồn đọng
trên quần áo của chúng ta khiến cho con chó săn theo
người nô lệ đánh hơi được
đường đi nước bước của kẻ
nghèo khó chạy trốn về nơi trú ẩn. Chúng ta làm
cho nó thấm đẫm những bức tường trong
nhà ḿnh và một nhà trắc tâm nhạy cảm khi bước
vào pḥng khách nhà ta trước khi hội ngộ với gia
quyến vẫn có thể nói không sai lầm liệu đây
là một gia đ́nh hạnh phúc hay một gia đ́nh lục
đục. Chúng ta bị nó vây quanh như một bầu
hơi nhạy cảm và khi chúng ta gặp nhau th́ chúng ta lặng
lẽ tiếp nhận một ấn tượng về việc
chúng ta thích hợp với nhau hay phản cảm với
nhau. Phụ nữ có nhiều ư thức này hơn đàn ông
và đă có nhiều trường hợp khi trực giác tiên
tri của bà vợ đối với một kẻ mới
quen nào đó bị ông chồng chế nhạo và gát bỏ
ngoài tai, th́ sau này được nhớ lại một cách
tiếc nuối v́ lẽ ra ḿnh không nên xem thường nó.
Các nhà trắc tâm học lỗi lạc thậm chí có thể
rút ra được một ấn tượng sống
động về mọi hoạt cảnh trong lịch sử
xuất phát từ một mảnh vật chất vô tri vô
giác chẳng hạn như một chút xíu của ṭa nhà cổ
kính hoặc một mảnh vụn của bộ quần áo
cũ. Khi biểu lộ cao độ th́ khoa trắc tâm trở
thành thần nhăn chân thật; lúc bấy giờ thị giác của
linh hồn thực sự mở ra, con mắt bên trong ta vốn
chưa bao giờ mờ xỉn chỉ cho ta thấy những
điều Bí ẩn của Vũ trụ Vô h́nh.
Thông
Thiên Học cho
người nghiên cứu biết tiến hóa là sự thật
nhưng cơ tiến hóa không phải chỉ riêng phần
và bất toàn theo cách tŕnh bày trong thuyết của
H
Ế T
________________________________________
Hội Thông Thiên Học
Việt Nam, 462 Vơ Di Nguy, Phú Nhuận, Gia Định - Chi
Bộ Dưới Chơn Thầy, số
17 Hùng Vương, Thị Xă (nay là Thành Phố) Vĩnh Long. Thư Viện Thông
Thiên Học - Sách cũ bị mất, cân kư lô bán giấy cũ vào năm 1975, nay thu
góp từ các bạn đạo khắp nơi, cơ sở bị tịch thu, bị cấm hoạt động, chỉ
c̣n hoạt động bằng Vô Vi, không hội họp thuyết tŕnh học môn Tôn Giáo
Học tỉ giảo nữa, mà Chat, đọc trên Internet, copy từ Thự Viện e-Book
nầy.
Tài
liệu sưu tầm từ
Hội Thông Thiên Học Việt Nam, 482 Vơ Di Nguy Phú Nhuận,
Gia Định + Hội Thông Thiên Học
Hoa Kỳ (Việt ngữ) + Hội
Thông Thien Học Thế giới (Anh ngữ) ở Adya, Madras, India, sách lưu
giũ tại Chi Bộ Dưới Chơn Thầy, số
17 Hùng Vương, Thị Xă Vĩnh Long. cố Chi Bộ Trưởng
: Vương Kim Liêng, Phó CHT: Hà Phước Thảo, Thơ
kư: Nguyễn Thành Hổ, Thuyết Tŕnh viên: cố Học giả
Nguyễn Minh Tâm, nhà nghiên cứu viết nhiều sách và dịch
sách của Krisnamurti.
Thư Viện Viện
Đại Học Cao Đài Học Hàm Thụ miễn phí,
in kinh, sách, tài liệu miễn phí, khỏi đăng kư, khỏi
Password.