Tại
sao Chúa Giê-su không dạy rõ luật Luân
Hồi cho chư Thánh Tông Ðồ như Ðức Phật
Thích Ca đã dạy cho các đệ tử của Ngài ?
Chúa Giê-su có dạy về luật luân hồi nhưng ngài
không dạy tiếp cho các
Thánh Tông Đồ về sự tái sanh nữa, vì
có một thầy Pha-ri-sê của Do Thái
giáo là một người có học thức lãnh đạo tinh
thần cho người Do Thái
không hiểu vể lời dạy của ngài nên hỏi Đức
Chúa Giê Su về sự tái sanh
và Đức Giê Su giảng tiếp thì ông nầy
còn hỏi lại: Làm sao một người già
rồi mà chun vào bụng mẹ một lần nữa để được sanh lại
thì thật là vô lý nên
ông không tin. Khi Đức Chúa giảng về những gì
thuộc nước thì trở về
nước hay sự biến thể của nước : mà phải hiểu ngầm là nước
bốc hơi thành
mây, mây đọng lại thành mưa giống như một người khi
già chết, bỏ xác
đó, linh hồn lên cõi thiên đàng, sau
một thời gian hưởng tại đó sẽ
xuống trần đầu thai lại tức là nhập linh hồn vào
xác của đứa bé khi một
bà mẹ sanh ra thì linh hồn có một xác
thân. Thuộc vật chất hữu hình hay
xác thân còn linh hồn thì không thấy
được. Khi gió thổi thì thấy lá cây
động đậy nhưng không thấy gió được, tức cái
gì thuộc về linh hồn thì vô
hình. Linh hồn cũng giống như thế. Đức Chúa Giê su
bảo Thánh Gioan rửa
tội cho chính Ngài là làm nghi lễ, khi
ngài hụp xuống nước là phải nín
thở và khi trồi đầu lên để thở lại là sống lại một
đời sống mới. Đó là
nghi thức rửa tội hay là sự giải thích cho mọi người về
sự luân hồi ,
tượng trưng cho sự sống lại hay tái sanh . Khi lặn xuống nước
thì phải
nín thở. Không có Atem hay dưỡng khí hay Hư
Vô chi Khí thì gọi là chết
(
Trong
Kinh Thánh Cựu Ước, Thánh Mô-se viết là
Chúa nắn đất thành thân
người rồi ngài hà hơi và lổ mũi thì
có sự sống : có nghĩa là xác thân
là vật chất, cấu tạo bằng tứ đại : đất, nước, gió, lửa;
hà hơi vào là
khi có Hư Vô chi Khí vào xác
thân thì có sự sống). Khi trồi đầu ra khỏi
nưóc thì thở lại, nghĩa là tái sanh hay
luân hồi. Ngày xưa cách nay
1999 năm người ở Do Thái không ai hiểu điều nầy mặc
dù người Ấn Độ và
người Á Châu đã hiểu luật luân hồi trước
đó trên 540 năm rồi bởi đã
thấm nhuần triết lý Đạo Phật và Ấn Độ giáo hay
Bà la Môn giáo. Cả hai
Đấng Giáo Chủ Phật và Chúa cùng dạy một
chân lý mà thôi. Một người gọi
là học thức như ông Ni-cô-đem mà khi nghe
Chúa Giê su dạy điều trừu
tượng không hiểu thì làm sao ngài dạy tiếp
cho những người khác đa số
là người bình thường như làm nghề đánh
cá hay nông dân chẳng hạn, thế
nên khi làm phép lạ ngài biến ra bánh
mì và cá chớ Ngài không biến ra
thịt và cũng không biến ra tàu hủ, vì
Ngài có dạy đừng nên vấy máu mà
ăn. Sau nầy một số người cử không ăn huyết hay truyền máu
mà nói rằng
được phép ăn thịt. Một giáo sư Đại học không thể
dạy Hình học không
gian hay đại số hay Tân Toán học hay vật lý
nguyên tử học... thật quá
trừu tượng cho một học sinh lớp một, lớp hai hiểu được, thế nên
Đức
Chúa Giê Su không nhắc lại cho các
Thánh Tông Đồ về sự tái sanh hay
sống lại nữa. Tuy nhiên trong Kinh Tin Kính có
câu : ??...Tôi tin xác
loài người ngày sau sống lại...?? và đây
là niềm tin rằng Đức Chúa Cha
toàn năng, có quyền phép nên ngài
làm gì cũng được chớ người ta khó có
thể giải thích theo khoa học mà hiểu được. Nếu cắt nghĩa
theo luân hồi
thì rất hợp lý vì triết lý Đạo Phật rất
khoa học để giải thích các bất
công khác cho loài người chấp nhận chớ không
dùng đức tin suông. Ðức
Chúa Giê-su còn hỏi các Thánh
Tông Ðồ khi chỉ một người bị mù rằng có
phải người nầy làm tội nên mới sanh ra bị mù
không? Con nít mới sanh
thì làm gì làm ra tội? Phải chăng
Ngài muốn nói là kiếp trước đứa bé
đã
móc mắt người khác nên bây giờ mới ra như
thế? (Dân Âu châu ít có người
tin Luật Luân hồi vì bì cấm dạy, còn
dân tộc Mỹ cũng là dân Âu châu di
dân qua, nhưng có một „Bác sĩ“ không học y
khoa nhờ tự thôi miên, trị
hằng chục ngàn người khỏi bịnh làm các bác
sĩ nhà trường bái phục đó là
Ông Edgar Cayce. Ông đã dẫn chứng về Luật Luân
Hồi cho người Mỹ qua
trên 30.000 hồ sơ bịnh trạng do tiên kiếp mà mang
nghiệp).
Sau
nầy Đức Giáo Hoàng Konstantinople vào thế kỷ thứ VII cấm các linh mục
giảng về luân hồi trong sách Thánh Gioan. Lý do : Sự tương hợp giữa
Thần học, khoa học và sự trùng hợp giữa Kinh Thánh và triết lý Phật
giáo. Thời đó chưa ai hiểu rằng Đức Chúa Giê- su đã bí mật sang Kashmir
học thiền trong Đạo Phật. Ngày nay một học giả, ông Holger Kernsten ở
Freiburg C.H.L.B. Đức , nguyên giáo sư môn Tôn giáo học (Religion,
Religionswissenschaft) và Đức Dục (Ethik) đã nghiên cứu lịch sử Đức
Chúa Giê su và chứng minh rằng trong thời gian trước năm 31 tuổi và sau
khi bị nạn ( Các Thánh Tông Ðồ viết Kinh Thánh nói rằng Ngài sống lại
và lên Trời ) Đức Chúa Giê-Su đã sống ở Ấn Độ trong thời niên thiếu và
khi bị đóng đinh trên thanh cây, bị chôn vào hang đá và bí mật được cứu
sống đưa về bắc Ấn Độ, nơi ngài đã học thiền trước đó, về sau ngài bỏ
xác và được quấn vải lịm chôn tại đó) ( trong khi trong cuốn Ðông
Phương huyền bí và theo tái liệu Thông Thiên Học thì cho rằng Ngài cũng
như các Chân Sư còn giữ xác phàm tại vùng Hi-mã-lạp-sơn).
Khi
ngài còn tại thế lúc năm 31 tuổi Ngài đã dùng pháp khử trược lưu thanh
bằng cách không ăn trong 40 ngày, chỉ uống nước và thiền định trên núi
Sinai mà Kinh Thánh do các Thánh Tông Đồ viết lại là cầu nguyện Chúa
Cha cũng như trong khi thiền bị quỉ cám dỗ ( Trong Đạo Cao Đài trong
khi thiền, hành giả phải ngồi trước Thiên bàn và đọc chú Kim quang để
quỉ ma không phá hay cám dỗ bằng cách cho thấy huyền diệu để dụ theo,
còn các hành giả Phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi trong Cao Đài Đại Đạo
khi xin keo được Đức Chí Tôn Thượng Đế cho keo thì Ngài phái một vị
Long Thần Hộ Pháp ở trong nhà có thượng tượng bảo vệ đệ tử của ngài
không cho tà ma phá khuấy).
( Xin quí vị đọc cuốn Đức Giê-su
đã từng sống ở Ấn Độ được dịch ra nhiều thứ tiếng, bằng Đức ngữ tựa là
: Jesus lebte in Indien để biết thêm chi tiết về đời sống của Đức Chúa Giê Su sau khi thọ nạn).
Trong Đạo Phật, khi Thái Tử Sĩ-đạt-ta giảng hỏi các đệ tử về
phương pháp khử trược lưu thanh bằng cách đưa hoa sen lên. Đa số đệ tử
ngài và thính giả không hiểu gì cả, chỉ có ông Ca-Diếp hiểu s và cười.
Ðức Phật cũng cười vì thầy trò đồng khí tương cầu. Ý nghĩa là : Hoa
sen dưới bùn dơ mà khi vươn lên không khí thì trở thành tinh khiết, mùi
hương thơm thoảng nhẹ. Sau nầy hoa sen tượng trưng cho thiền định để
khử trược lưu thanh và bánh xe luân hồi tượng trưng cho Phật giáo.
Trong Đạo Thiên Chúa thay vì lấy hoa sen thì lấy cây nho và
rượu nho để chỉ sự thanh lọc: dây nho mọc dưới đất, phân, đất dơ,
nhưng cành tươi tốt trong sạch và chưa đủ, nước nho còn phải tự thanh
lọc lần nữa mới thành rượu nho. Trong xác thân tứ đại hay Tiểu Thiên
Địa muốn khử trược lưu thanh phải làm sao ? Chỉ có trường chay, tuyệt
dục, tu tâm sửa tánh ( tu tánh) , tham thiền, làm pháp luân thường
chuyển ( luyện mạng) thì mới khử trược lưu thanh được. Hiện nay những
vị lãnh đạo tinh thần trong Thiên Chúa giáo cũng có tổ chức thiền định
ở các nhà thờ nhưng thuộc về đức tin giống như Baktiyoga.
Như
vậy
thời xưa người ta chưa hiểu ý nghĩa của lời Chúa dạy,
ngày nay nhân
loại tiến hóa rất cao, khoa học phát triển cao tuyệt
đỉnh, ngôn ngữ học
rất đầy đủ các danh từ cho các điển tích trong cổ
ngữ nên Kinh Thánh
được dịch với ấn bản mới ( new translation hay neue Übersetzung ),
có
chỉnh lại nhiều danh từ cổ, nhưng nhân loại còn mang nhiều
thứ bịnh
tinh thần như cố chấp, bảo thủ, tự cao, nên còn chia rẻ,
không tin
những gì người khác nói mà tự nhìn
chính mình để biết mà thôi. Vì lục
dục, thất tình và trọng trược bao quanh, che khuất điểm
linh quang
trong tâm nên Phật tính hay Chúa trong
tâm chưa chiếu sáng để phá tan
cái vỏ vô minh được. Muốn phá màn vô
minh phải làm sao ?
- Trong Đạo Thiên Chúa : Noi gương và làm y như Đức Chúa Giê-su.
- Trong Phật giáo : Phải hành bát
chánh đạo và đường thứ tám là thiền.
- Trong Đạo Cao Đài : Tu tánh, luyện mạng.
Tại sao Đức Phật Thích Ca không dạy các đệ tử về
Thượng Đế hay Đức Chúa Trời như Đạo Thiên Chúa hay
Đấng Brahama như Đạo
Bà-La-Môn (Hinduismus) hay Đấng Allah như Đạo Hồi ?
Nhiều đệ tử thắc mắc tại sao Đức Phật không có dạy về Đấng Sáng
Tạo hay Đức Chúa Trời hay Thượng Đ? hay Đức Chúa Cha hay DER
HERR hay Allah hay Brahma hay Allah hay Jéhova như các Tôn giáo khác ?
Đức Phật đã học Đạo Bà La Môn hay Ấn Độ giáo trong thời niên thiếu,
nhưng khi ngài tu đắc Đạo thì ngài không có giảng cho chư đệ tử về Ðức
Thượng Đế. Không giảng có nghĩa là không phủ nhận mà là không đề cập
đến thôi. Tuy nhiên Ngài dạy các đệ tử không trực tiếp vì ngài kể
chuyện và ví dụ để chư đệ tử hiểu cho nên mới có đến tam tạng kinh.
Trong chư Phật, ngài có nói về Đức A-Di-Đà Phật hay Nhiên Đăng Cổ Phật.
Đức A-Di-Đà hiểu ngầm là ánh Đại Linh Quang tức là Thượng Đế .
Đức Phật dạy là sinh linh sanh ra do thập nhị nhân
duyên, do
nhân quả và luân hồi mãi mà sanh
mãi trong lục đạo và ngài không giảng
ai sanh ra Thượng Đế vì điều nầy quá trừu tượng ( Sau nầy
Đức Thượng Đế
giáng cho đồng tử dùng cơ bút viết Thánh
giáo trong Đạo Cao Đài có nói
rằng Ngài do khí Hư Vô sanh ra). Đức Phật
Thích Ca chỉ dạy những gì
thực tế và khoa học mà thôi. Thời đó
ngài diễn tả vi trùng, ngài nói :
một giọt nước có hằng triệu sinh linh, nhưng thời đó chưa
có kiến hiển
vi khuyếch đại to, hoặc một hạt cát là một vũ trụ :
Ngài so sánh nguyên
tử với Thái Dương hệ, nhưng nhân loại lúc đó
chưa tìm ra nguyên tử.
Chúng sinh đang bị bịnh trầm kha hay bị bịnh cấp
tính hay bị
thương nặng thì phải cấp cứu ngay, trị bịnh bằng thuốc có
sẵn tại chỗ
hay băng bó ngay cho máu h?t chảy, chớ đứng đó
mà hỏi bịnh nhân hay
người bị thương là ai làm ông gãy tay, bị
thương ? hồi nào ? ở đây hay
đâu ? kẻ gây thương tích đâu rồi ? và
vv... thì còn thì giờ đâu mà băng
bó và có lẽ máu ra hết và người bị
thương chết trước khi băng vết
thương. Thế nên ngài dùng phương pháp trực
tiếp, qui nạp và cấp thời .
Đau khổ từ đâu mà có ?
- Thập nhị nhân duyên, nhân quả, luân hồi.
- Diệt khổ phải làm sao ? Tìm nguyên nhân làm sao ? Ngài có Tứ Diệu Đế
- Hành bát chánh đạo với Thiền định là sau rốt để đạt Đạo.
Phương pháp qui nạp là đi từ thực tế, từ dễ, từ đơn giản đến
nguyên tắc, nguyên lý, để đặt ra định luật hay định lý thực tế của khoa
học ( quan sát, thực nghiệm, kiểm chúng, đưa ra qui luật ). Có định lý
rồi thì áp dụng định lý đó và các trường hợp khác giống như khi làm
xong cây thước hay cái khuôn rồi thì có thể đo bất cứ trường hợp nào mà
tìm chân lý hay biết cái nào đúng cái nào sai.
Phương
pháp diễn dịch là khi đã hiểu các
nguyên lý, các định luật rồi từ đó mà
suy luận thêm, chẳng hạn trong Thần học, muốn tìm hiểu
Thượng Đế thì
phải suy từ Đạo đức học, Lịch sử Kinh Thánh, Ngôn ngữ học,
Tu đức học,
Thần học vv... Vào thời Trung Cổ nhân loại đã tiến
hóa khá cao về khoa
học nên Thần học phát triển nhờ qui nạp và diễn
dịch áp dụng trong các
ngành khoa học.
Ngày nay nhân loại tiến hóa tới tột đỉnh
của tri thức , hệ thống truyền thông nhanh như chớp, Internet
là mạng
lưới truyền thông nhanh như điện, người ta có thể trong vài phút
nghiên cứu mọi vấn đề trên thế giới trước máy tính điện tử, ổ đĩa cứng
chứa hàng triệu cuốn sách ….. Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh, các nhà
Thần
học
quay sang nghiên cứu mọi Tôn giáo và nhất
là một số người
khác nghiên cứu Phật học và thiền. Khi thiền, khi
tập ăn chay được thì
người ta cảm thấy cơ thể thanh nhẹ và khi hành thiền một
thời gian
người ta cảm thấy có ấn chứng như không còn bịnh
thường xuyên như trước
nữa, những gì mới nghĩ trong trí và hỏi người đối
thoại có phải người
đó thắc mắc vấn đề đó không thì người
đó nói tại sao tôi chưa nói ra mà
ông đã biết hết
vv...
Bất cứ người ở Tôn giáo nào khi đến
trình độ nầy thì bớt chấp ngã, có tình thương rộng mở hơn, đọc Thánh
giáo hay Kinh Thánh sẽ hiểu một cách sáng suốt hơn lúc trước, không còn
tự cao như trước mà biết hạ mình học ở người thấp hơn, biết khoan dung
tha thứ.... và đây là bước đầu đi đến trạng thái “Vạn thù qui nhứt
bổn”, biết thương người như mình vậy, thấy mình hòa điệu cùng Vũ Trụ,
thấy mình và vạn vật là một, thấy Vạn giáo nhất lý từ trong tâm chớ
không cần phải học từ bên ngoài nhiều như xưa nữa.
Ngày nay một số
đông ngườI phương Tây tò mò nghiên cứu nền minh triết Ðông phương và
nhiều người hiểu Luật Luân Hồi khi đọc cuốn Thánh Gioan ở Ðoạn III nói
về Ni-cô-đem hỏi Chúa Giê-su tại sao người già rồi mà chun vào bụng mẹ
lần nữa để sanh lại, thì sẽ hiểu rằng Chúa dạy cho Ông Ni-cô-đem về
Luât Luân Hồi đó !
Pièrre Hà Phước Thảo in the Republic of Vietnam, 1975 ( Peter Ha in the Federal Republic of Germany)