http://caodaigiaoly.free.fr/CaoDaiGiaoTrongTamKyPhoDo.jpg


Tại sao Chúa Giê-su không dạy rõ luật Luân Hồi
Why did Jesus Christ  not teach the Reincarnation law clearly?
http://www.anlactemple.org/assets/Animation_gif/bong-sen-banh-xe[1].gif


by PeterHa

Tại sao Chúa Giê-su không dạy rõ luật Luân Hồi cho chư Thánh Tông Ðồ như Ðức Phật Thích Ca đã dạy cho các đệ tử của Ngài ?

Chúa Giê-su có dạy về luật luân hồi nhưng ngài không dạy tiếp cho các Thánh Tông Đồ về sự tái sanh nữa, vì có một thầy Pha-ri-sê của Do Thái giáo là một người có học thức lãnh đạo tinh thần cho người Do Thái không hiểu vể lời dạy của ngài nên hỏi Đức Chúa Giê Su về sự tái sanh và Đức Giê Su giảng tiếp thì ông nầy còn hỏi lại: Làm sao một người già rồi mà chun vào bụng mẹ một lần nữa để được sanh lại thì thật là vô lý nên ông không tin. Khi Đức Chúa giảng về những gì thuộc nước thì trở về nước hay sự biến thể của nước : mà phải hiểu ngầm là nước bốc hơi thành mây, mây đọng lại thành mưa giống như một người khi già chết, bỏ xác đó, linh hồn lên cõi thiên đàng, sau một thời gian hưởng tại đó sẽ xuống trần đầu thai lại tức là nhập linh hồn vào xác của đứa bé khi một bà mẹ sanh ra thì linh hồn có một xác thân. Thuộc vật chất hữu hình hay xác thân còn linh hồn thì không thấy được. Khi gió thổi thì thấy lá cây động đậy nhưng không thấy gió được, tức cái gì thuộc về linh hồn thì vô hình. Linh hồn cũng giống như thế. Đức Chúa Giê su bảo Thánh Gioan rửa tội cho chính Ngài là làm nghi lễ, khi ngài hụp xuống nước là phải nín thở và khi trồi đầu lên để thở lại là sống lại một đời sống mới. Đó là nghi thức rửa tội hay là sự giải thích cho mọi người về sự luân hồi , tượng trưng cho sự sống lại hay tái sanh . Khi lặn xuống nước thì phải nín thở. Không có Atem hay dưỡng khí hay Hư Vô chi Khí thì gọi là chết
( Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Thánh Mô-se viết là Chúa nắn đất thành thân người rồi ngài hà hơi và lổ mũi thì có sự sống : có nghĩa là xác thân là vật chất, cấu tạo bằng tứ đại : đất, nước, gió, lửa; hà hơi vào là khi có Hư Vô chi Khí vào xác thân thì có sự sống). Khi trồi đầu ra khỏi nưóc thì thở lại, nghĩa là tái sanh hay luân hồi. Ngày xưa cách nay 1999 năm người ở Do Thái không ai hiểu điều nầy mặc dù người Ấn Độ và người Á Châu đã hiểu luật luân hồi trước đó trên 540 năm rồi bởi đã thấm nhuần triết lý Đạo Phật và Ấn Độ giáo hay Bà la Môn giáo. Cả hai Đấng Giáo Chủ Phật và Chúa cùng dạy một chân lý mà thôi. Một người gọi là học thức như ông Ni-cô-đem mà  khi nghe Chúa Giê su dạy điều trừu tượng không hiểu thì làm sao ngài dạy tiếp cho những người khác đa số là người bình thường như làm nghề đánh cá hay nông dân chẳng hạn, thế nên khi làm phép lạ ngài biến ra bánh mì và cá chớ Ngài không biến ra thịt và cũng không biến ra tàu hủ, vì Ngài có dạy đừng nên vấy máu mà ăn. Sau nầy một số người cử không ăn huyết hay truyền máu mà nói rằng được phép ăn thịt. Một giáo sư Đại học không thể dạy Hình học không gian hay đại số hay Tân Toán học hay vật lý nguyên tử học... thật quá trừu tượng cho một học sinh lớp một, lớp hai hiểu được, thế nên Đức Chúa Giê Su không nhắc lại cho các Thánh Tông Đồ về sự tái sanh hay sống lại nữa. Tuy nhiên trong Kinh Tin Kính có câu : ??...Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại...?? và đây là niềm tin rằng Đức Chúa Cha toàn năng, có quyền phép nên ngài làm gì cũng được chớ người ta khó có thể giải thích theo khoa học mà hiểu được. Nếu cắt nghĩa theo luân hồi thì rất hợp lý vì triết lý Đạo Phật rất khoa học để giải thích các bất công khác cho loài người chấp nhận chớ không dùng đức tin suông. Ðức Chúa Giê-su còn hỏi các Thánh Tông Ðồ khi chỉ một người bị mù rằng có phải người nầy làm tội nên mới sanh ra bị mù không? Con nít mới sanh thì làm gì làm ra tội? Phải chăng Ngài muốn nói là kiếp trước đứa bé đã móc mắt người khác nên bây giờ mới ra như thế? (Dân Âu châu ít có người tin Luật Luân hồi vì bì cấm dạy, còn dân tộc Mỹ cũng là dân Âu châu di dân qua, nhưng có một „Bác sĩ“ không học y khoa nhờ tự thôi miên, trị hằng chục ngàn người khỏi bịnh làm các bác sĩ nhà trường bái phục đó là Ông Edgar Cayce. Ông đã dẫn chứng về Luật Luân Hồi cho người Mỹ qua trên 30.000 hồ sơ bịnh trạng do tiên kiếp mà mang nghiệp).
     Sau nầy Đức Giáo Hoàng Konstantinople vào thế kỷ thứ VII cấm các linh mục giảng về luân hồi trong sách Thánh Gioan. Lý do : Sự tương hợp giữa Thần học, khoa học và sự trùng hợp giữa Kinh Thánh và triết lý Phật giáo. Thời đó chưa ai hiểu rằng Đức Chúa Giê- su đã bí mật sang Kashmir học thiền trong Đạo Phật. Ngày nay một học giả, ông Holger Kernsten ở Freiburg C.H.L.B. Đức , nguyên giáo sư môn Tôn giáo học (Religion, Religionswissenschaft) và Đức Dục (Ethik) đã nghiên cứu lịch sử Đức Chúa Giê su và chứng minh rằng trong thời gian trước năm 31 tuổi và sau khi bị nạn ( Các Thánh Tông Ðồ viết Kinh Thánh nói rằng Ngài sống lại và lên Trời ) Đức Chúa Giê-Su đã sống ở Ấn Độ trong thời niên thiếu và khi bị đóng đinh trên thanh cây, bị chôn vào hang đá và bí mật được cứu sống đưa về bắc Ấn Độ, nơi ngài đã học thiền trước đó, về sau ngài bỏ xác và được quấn vải lịm chôn tại đó) ( trong khi trong cuốn Ðông Phương huyền bí và theo tái liệu Thông Thiên Học thì cho rằng Ngài cũng như các Chân Sư còn giữ xác phàm tại vùng Hi-mã-lạp-sơn).
     Khi ngài còn tại thế lúc năm 31 tuổi Ngài đã dùng pháp khử trược lưu thanh bằng cách không ăn trong 40 ngày, chỉ uống nước và thiền định trên núi Sinai mà Kinh Thánh do các Thánh Tông Đồ viết lại là cầu nguyện Chúa Cha cũng như trong khi thiền bị quỉ cám dỗ ( Trong Đạo Cao Đài trong khi thiền, hành giả phải ngồi trước Thiên bàn và đọc chú Kim quang để quỉ ma không phá hay cám dỗ bằng cách cho thấy huyền diệu để dụ theo, còn các hành giả Phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi trong Cao Đài Đại Đạo khi xin keo được Đức Chí Tôn Thượng Đế cho keo thì Ngài phái một vị Long Thần Hộ Pháp ở trong nhà có thượng tượng bảo vệ đệ tử của ngài không cho tà ma phá khuấy).
     ( Xin quí vị đọc cuốn Đức Giê-su đã từng sống ở Ấn Độ được dịch ra nhiều thứ tiếng, bằng Đức ngữ tựa là : Jesus lebte in Indien để biết thêm chi tiết về đời sống của Đức Chúa Giê Su sau khi thọ nạn).
          Trong Đạo Phật, khi Thái Tử Sĩ-đạt-ta giảng hỏi các đệ tử về phương pháp khử trược lưu thanh bằng cách đưa hoa sen lên. Đa số đệ tử ngài và thính giả không hiểu gì cả, chỉ có ông Ca-Diếp hiểu s và cười. Ðức Phật cũng cười vì thầy trò đồng khí tương cầu. Ý nghĩa là :  Hoa sen dưới bùn dơ mà khi vươn lên không khí thì trở thành tinh khiết, mùi hương thơm thoảng nhẹ. Sau nầy hoa sen tượng trưng cho thiền định để khử trược lưu thanh và bánh xe luân hồi tượng trưng cho Phật giáo.
          Trong Đạo Thiên Chúa thay vì lấy hoa sen thì lấy cây nho và rượu nho để chỉ  sự thanh lọc: dây nho mọc dưới đất, phân, đất dơ, nhưng cành tươi tốt trong sạch và chưa đủ, nước nho còn phải tự thanh lọc lần nữa mới thành rượu nho. Trong xác thân tứ đại hay Tiểu Thiên Địa muốn khử trược lưu thanh phải làm sao ? Chỉ có trường chay, tuyệt dục, tu tâm sửa tánh ( tu tánh) , tham thiền, làm pháp luân thường chuyển ( luyện mạng) thì mới khử trược lưu thanh được. Hiện nay những vị lãnh đạo tinh thần trong Thiên Chúa giáo cũng có tổ chức thiền định ở các nhà thờ nhưng thuộc về đức tin giống như Baktiyoga.
Như vậy thời xưa người ta chưa hiểu ý nghĩa của lời Chúa dạy, ngày nay nhân loại tiến hóa rất cao, khoa học phát triển cao tuyệt đỉnh, ngôn ngữ học rất đầy đủ các danh từ cho các điển tích trong cổ ngữ nên Kinh Thánh được dịch với ấn bản mới ( new translation hay neue Übersetzung ), có chỉnh lại nhiều danh từ cổ, nhưng nhân loại còn mang nhiều thứ bịnh tinh thần như cố chấp, bảo thủ, tự cao, nên còn chia rẻ, không tin những gì người khác nói mà tự nhìn chính mình để biết mà thôi. Vì lục dục, thất tình và trọng trược bao quanh, che khuất điểm linh quang trong tâm nên Phật tính hay Chúa trong tâm chưa chiếu sáng để phá tan cái vỏ vô minh được. Muốn phá màn vô minh phải làm sao ?
         - Trong Đạo Thiên Chúa : Noi gương và làm y như Đức Chúa Giê-su.
          - Trong Phật giáo : Phải hành bát chánh đạo và đường thứ tám là thiền.
         - Trong Đạo Cao Đài : Tu tánh, luyện mạng.
  Tại sao Đức Phật Thích Ca không dạy các đệ tử về Thượng Đế hay Đức Chúa Trời  như Đạo Thiên Chúa hay Đấng Brahama như Đạo
Bà-La-Môn (Hinduismus) hay Đấng Allah như Đạo Hồi ?
        Nhiều đệ tử thắc mắc tại sao Đức Phật không có dạy về Đấng Sáng Tạo hay Đức Chúa Trời hay Thượng Đ? hay Đức Chúa Cha hay DER
HERR hay Allah hay Brahma hay Allah hay Jéhova như các Tôn giáo khác ?
      Đức Phật đã học Đạo Bà La Môn hay Ấn Độ giáo trong thời niên thiếu, nhưng khi ngài tu đắc Đạo thì ngài không có giảng cho chư đệ tử về Ðức Thượng Đế. Không giảng có nghĩa là không phủ nhận mà là không đề cập đến thôi. Tuy nhiên Ngài dạy các đệ tử không trực tiếp vì ngài kể chuyện và ví dụ để chư đệ tử hiểu cho nên mới có đến tam tạng kinh. Trong chư Phật, ngài có nói về Đức A-Di-Đà Phật hay Nhiên Đăng Cổ Phật.
Đức A-Di-Đà hiểu ngầm là ánh Đại Linh Quang tức là Thượng Đế .
          Đức Phật dạy là sinh linh sanh ra do thập nhị nhân duyên, do nhân quả và luân hồi mãi mà sanh mãi trong lục đạo và ngài không giảng ai sanh ra Thượng Đế vì điều nầy quá trừu tượng ( Sau nầy Đức Thượng Đế giáng cho đồng tử dùng cơ bút viết Thánh giáo trong Đạo Cao Đài có nói rằng Ngài do khí Hư Vô sanh ra). Đức Phật Thích Ca chỉ dạy những gì thực tế và khoa học mà thôi. Thời đó ngài diễn tả vi trùng, ngài nói : một giọt nước có hằng triệu sinh linh, nhưng thời đó chưa có kiến hiển vi khuyếch đại to, hoặc một hạt cát là một vũ trụ : Ngài so sánh nguyên tử với Thái Dương hệ, nhưng nhân loại lúc đó chưa tìm ra nguyên tử.
         Chúng sinh đang bị bịnh trầm kha hay bị bịnh cấp tính hay bị thương nặng thì phải cấp cứu ngay, trị bịnh bằng thuốc có sẵn tại chỗ hay băng bó ngay cho máu h?t chảy, chớ đứng đó mà hỏi bịnh nhân hay người bị thương là ai làm ông gãy tay, bị thương ? hồi nào ? ở đây hay đâu ? kẻ gây thương tích đâu rồi ? và vv... thì còn thì giờ đâu mà băng bó và có lẽ máu ra hết và người bị thương chết trước khi băng vết thương. Thế nên ngài dùng phương pháp trực tiếp, qui nạp và cấp thời . Đau khổ từ đâu mà có ?
     - Thập nhị nhân duyên, nhân quả, luân hồi.
     - Diệt khổ phải làm sao ? Tìm nguyên nhân làm sao ? Ngài có Tứ Diệu Đế
     - Hành bát chánh đạo với Thiền định là sau rốt để đạt Đạo.
          Phương pháp qui nạp là đi từ thực tế, từ dễ, từ đơn giản đến nguyên tắc, nguyên lý, để đặt ra định luật hay định lý thực tế của khoa học ( quan sát, thực nghiệm, kiểm chúng, đưa ra qui luật ). Có định lý rồi thì áp dụng định lý đó và các trường hợp khác giống như khi làm xong cây thước hay cái khuôn rồi thì có thể đo bất cứ trường hợp nào mà tìm chân lý hay biết cái nào đúng cái nào sai.
          Phương pháp diễn dịch là khi đã hiểu các nguyên lý, các định luật rồi từ đó mà suy luận thêm, chẳng hạn trong Thần học, muốn tìm hiểu Thượng Đế thì phải suy từ Đạo đức học, Lịch sử Kinh Thánh, Ngôn ngữ học, Tu đức học, Thần học vv... Vào thời Trung Cổ nhân loại đã tiến hóa khá cao về khoa học nên Thần học phát triển nhờ qui nạp và diễn dịch áp dụng trong các ngành khoa học.
          Ngày nay nhân loại tiến hóa tới tột đỉnh của tri thức , hệ thống truyền thông nhanh như chớp, Internet là mạng lưới truyền thông nhanh như điện, người ta có thể trong vài phút nghiên cứu mọi vấn đề trên thế giới trước máy tính điện tử, ổ đĩa cứng chứa hàng triệu cuốn sách ….. Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh, các nhà Thần
học quay sang nghiên cứu mọi Tôn giáo và nhất là một số người khác nghiên cứu Phật học và thiền. Khi thiền, khi tập ăn chay được thì người ta cảm thấy cơ thể thanh nhẹ và khi hành thiền một thời gian người ta cảm thấy có ấn chứng như không còn bịnh thường xuyên như trước nữa, những gì mới nghĩ trong trí và hỏi người đối thoại có phải người đó thắc mắc vấn đề đó không thì người đó nói tại sao tôi chưa nói ra mà ông đã biết hết
vv...
     Bất cứ người ở Tôn giáo nào khi đến trình độ nầy thì bớt chấp ngã, có tình thương rộng mở hơn, đọc Thánh giáo hay Kinh Thánh sẽ hiểu một cách sáng suốt hơn lúc trước, không còn tự cao như trước mà biết hạ mình học ở người thấp hơn, biết khoan dung tha thứ....  và đây là bước đầu đi đến trạng thái  “Vạn thù qui nhứt bổn”, biết thương người như mình vậy, thấy mình hòa điệu cùng Vũ Trụ, thấy mình và vạn vật là một, thấy Vạn giáo nhất lý từ trong tâm chớ không cần phải học từ bên ngoài nhiều như xưa nữa.
Ngày nay một số đông ngườI phương Tây tò mò nghiên cứu nền minh triết Ðông phương và nhiều người hiểu Luật Luân Hồi khi đọc cuốn Thánh Gioan ở Ðoạn III nói về Ni-cô-đem hỏi Chúa Giê-su tại sao người già rồi mà chun vào bụng mẹ lần nữa để sanh lại, thì sẽ hiểu rằng Chúa dạy cho Ông Ni-cô-đem về Luât Luân Hồi đó !

Pièrre Hà Phước Thảo in  the Republic of Vietnam, 1975 ( Peter Ha  in the Federal Republic of Germany)

 




Số độc giả đã đọc đến hôm nay là :