SƯ
VẢI BÁN KHOAI
giảng dạy LỤC TỰ DI ĐÀ
T́m hiểu
đi con, Pháp Vô
Vi
Sáu chữ
Di Đà, rán học đi
Bao nhiêu
Bộ Pháp nằm trong đó
Ráng học
đi con, ắt thăng
hoa.
Di Đà
Lục Tự, sáu câu
Giải ra
sáu nghĩa, sửa Tâm tu hành
Bấy
lâu chẳng biết cho rành
Nay Thầy
chỉ rơ lư chơn
đặng tường.
Di Đà
hăy niệm
cho thường
Đó
là Sáu Báu, rán đem vào ḷng
T́m đâu
Sáu Nghĩa
cho xong
Đặng mà
Sửa Tánh, Trụ Tâm cho ḿnh.
Nhớ
ghi Sáu Chữ
cho minh
Niệm th́
tầm nghĩa, đặng th́ làm theo
Trước trừ
Sáu Quỷ đùm đeo
Sau là trừ
khử Thất T́nh vấn vương.
Chữ
NAM, giải nghĩa
cho tṛn
Niệm th́
diệt
Hỏa ở Tâm vậy mà
Thường thường
Tánh
Nóng của Ta
Phải mau vụt
tắt,
lần lần
bỏ đi.
Chữ
MÔ, cũng rán làm y
TÂM không
thanh tịnh
thường gây
nợ nần
Ráng mà
trau sửa
ân cần
TÂM không
có PHẬT, đó là
Quỉ Ma
Niệm th́ t́m
nghĩa cho ra
Không gây,
không tạo, đó là chử MÔ
NAM MÔ diệt
hỏa hư vô
Tâm phàm dứt
bỏ, theo ḷng HOÀNG THIÊN.
Chữ A, phải
giữ cho nguyên
KHÍ định nơi
Thận, giữ cho
đủ đầy
Nghĩa đừng dâm
dục, tạo
gây
Đông con,
nhiều vợ, hao ṃn thân ta.
Chữ DI, phải
giữ đó mà
Ba báu, TINH,
KHÍ với THẦN,
đừng hao
Muốn t́m Ba
Báu làm sao?
Ta bỏ Hờn
Giận, Ghét ghen phải
chừa.
Ân cần tu
luyện sớm trưa
Chớ ham Danh
Vị, Giàu Nghèo lo chi
Nếu ai giữ đặng
cho y
Th́ là khỏi bịnh,
Trường Sanh
tới già.
Lại thêm cái
nghĩa chữ ĐÀ
Tấm ḷng sáng
suốt phá mê cuộc
trần
Ráng mà trau sửa
ân cần
Tâm Phàm dứt bỏ,
Độc Sâu
phải chừa.
Ân cần dồi luyện
sớm trưa
Th́ là đúng
nghĩa, khỏi sai, khỏi
lầm
Chữ PHẬT là TÁNH,
là TÂM
Hăy đem trí năo
mà tầm cho ra
Đó là Phật, chẳng
có xa
Tâm cho b́nh
định, cơi Tiên
được về.
Niệm th́ phải phá
Tánh Mê
Tâm đừng vọng
quấy, ǵn ḷng
Từ Bi
Niệm th́ ráng nhớ
làm y
Của
Thầy Sư Vải, đặng mà làm theo.
Niệm Phật
chẳng
luận giàu nghèo
Không tốn
tiền bạc, mà sau
an nhàn
Niệm Phật
sớm
tối ân cần
Ngày đêm
siêng niệm, có ngày siêu sanh.
Niệm Phật
đừng
có đua tranh
Theo đời
duy vật hao ṃn
thân ta.
Niệm Phật
khỏi
đọa yêu ma
Khuyên trần
ráng niệm nơi TÂM cho thường
Niệm Phật
khỏi
đọa vấn vương
Thường thường
xét
lỗi của Ta hằng ngày.
Niệm Phật,
nợ thế
đừng vay
Nợ trần
ráng trả, có ngày
thảnh thơi.
Trả
rồi sau đặng
vui chơi
Hiệp cùng
Tiên Phật, Tớ Thầy âu ca
Đ̣ Trí
Huệ buông neo
t́m Bến
Giác
Chứa đầy
khoang
thơm ngát chữ TỪ BI
Ai muốn
mua, xin mời bước
xuống đ̣
Niệm Sáu
Chữ
A Di Đà mới bán
Đ̣ tuy
nhỏ, nhưng chở oằn Đại Lượng
Khỏe tay
chèo, dù đă tám
mươi
TÂM Chánh
giác, bao
nhiêu người có được?
Duyên gặp
gỡ, xin mời
qua bể khổ
Đắc Đạo
quả,
đường dài không ngại khó
THAM, SÂN SI,
trút bỏ, SẮC là KHÔNG
THẬP NHỊ NHÂN
DUYÊN, mau thoát khỏi
ṿng
Qua BẾN GIÁC,
bước lên bờ cơi
Phật.
HẾT
Do vậy, chúng ta hiểu cái nguyên lư nầy, tự động chúng ta niệm PHẬT, đó
là đường duy nhất
để t́m về nguồn cội..., nếu không dám nói là văng
sanh miền Cực Lạc...
Phật tử TỪ TÂM ĐẠO sưu tầm.
A-di-đà hay A Di Đà (zh. 阿彌陀) là danh từ phiên âm có gốc từ hai chữ trong tiếng Phạn: amitābha và amitāyus. Amitābha dịch nghĩa là "vô lượng quang" - "ánh sáng vô lượng"; amitāyus có nghĩa là "vô lượng thọ" - "thọ mệnh vô lượng".
Đây là tên của một vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Đại thừa. A-di-đà trụ tŕ cơi Cực lạc (sa. sukhāvatī) ở phương Tây. Phật A-di-đà được tôn thờ trong Tịnh độ tông tại Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Tây Tạng, tượng trưng cho Từ bi và Trí huệ.
Trong lịch sử đạo Phật, việc tôn xưng A-di-đà là một mốc phát triển quan trọng. Phép niệm A-di-đà là một cách tu dưỡng mới của Phật tử, không phải trải qua vô số kiếp. Đây là cách tu dưỡng dựa vào Tha lực, dựa vào đại nguyện của một vị Phật-một phép tu "nhanh chóng, dễ dàng" hơn chứ không phải dựa vào tự lực của chính ḿnh. Đó là phép tu nhất tâm niệm danh hiệu "Nam-mô A-di-đà Phật" lúc lâm chung để được
Lục
tự Di-Đà:
theo
CAO ĐÀI TỰ ĐIỂN
六字彌陀 P: Six mots d'Amitabha.
Lục:
Sáu, thứ sáu. Tự: chữ. Di-Đà: Đức Phật
A-Di-Đà. (A-Mi-Ta-Ba là
phiên âm của chữ Phạn, Trung hoa và Việt Nam dịch là: A-Di-Đà Phật). Lục
tự Di Đà là sáu chữ niệm danh Đức Phật A-Di-Đà mà người tín đồ Phật
giáo Tịnh Độ Tông luôn luôn tŕ niệm, để cầu sự hộ tŕ của Đức Phật
A-Di-Đà ở cơi CLTG. Nam mô A-Di-Đà
Phật có nghĩa là: đầu cúi lạy Đức Phật A-Di-Đà, hay đầu cúi lạy Vô
Lượng Quang Phật. Phái
tu Pháp Lư Vô Vi do Cụ Đỗ Thuần Hậu sáng lập dạy tu thiền định, cũng
niệm Lục tự Di-Đà, để khai mở sáu Luân xa trong cơ thể con người. Khi
niệm th́ niệm trong tâm, chớ không niệm thành tiếng v́ hao Khí, niệm
một cách sốt sắng, không bị chi phối lo ra, giữ tâm thanh tịnh, th́ sáu
chữ nầy sẽ làm rung động bản thể, phát ra các luồng sóng điện chạy
quanh sáu luân xa, nhờ đó, sáu luân xa từ từ khai mở, sau cùng sẽ giúp
hành giả đạt được Lục thông. Khi
niệm th́ phải niệm trong tâm, miệng th́ ngậm lại, răng kề răng, lưỡi co
lên, để cho hai mạch Nhâm Đốc giao nhau, làm cho luồng điển trong cơ
thể chuyển động liên tục, không bị thoát ra ngoài theo cửa miệng.
Lục tự Di- Đà là sáu chữ:
Nam mô A-Di-Đà Phật,
hay
Nam mô A-Mi-Ta-Ba.
Niệm Lục Tự trong Hội Ái Hữu PLVVKHHBPP của Ông Tám Lương Sĩ Hằng
Co lưỡi, răng kề răng, miệng ngậm, dùng ư niệm trên đỉnh đầu Nam Mô A Di Đà Phật.
Niệm liên tục càng nhiều càng tốt. Có thể Niệm Phật bất cứ lúc nào trong lúc đi, đứng, nằm, không bắt buộc phải nhắm mắt.
Nếu thuận tiên, có thể ngồi như lúc công phu, nhắm
mắt niệm Phật.
|
|