Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh ( Lão Tử) - Cao Đài không Cao Đài mới thật là Cao Đài ( Đức Lý Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo)



Nhãn thi chu Tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả ngã giả




sơ đồ nguồn gốc loài người    Hình ảnh  

http://caodaigiaoly.free.fr/NhiToCuaNhonLoai.jpg

               
Giống da vàng là Mồ Kỷ Thổ, là Trung Tâm của Ngũ Hành nên giống dân Lạc Việt với Nhị Tổ của Nhơn loại dạy co dân Lạc Việt Tứ Thư, Ngũ Kinh và KINH DỊCH là quan trọng nhứt, vì là bản đồ của Càn Khôn Thế Giơí và của Tiểu Thiên Địa cho loài người học về Tam Thể Thượng, Tam Tài, Ngũ Khí, Cửu Trù, Tiên Tri, Toán học, Truyền thông học ( Informatiques = Informatik, computer dùng Âm Dương, 64 quẻ, số 5 luôn luôn ở  giữa và tứ thời, tứ Tổ qui gia, ruột cùn mà các Bác sĩ Tây Y chưa biết công dụng, chỉ có ai tu luyện mới biết tam bửu, Đạo hay Prana = Hư Vô chi khí, Tử Vi, hai bàn tay có nhơn điện và xin keo, chỉ tay, bói bài, bốc Quẻ Dịch, Bát Quái, Đồ Trận lúc Biển Đông Thái Bình Dương nổi sóng hiện nay, phóng xạ và việc ăn chay không bị phóng xạ ảnh hưởng, Điạc chất học va Phong thủy học, huyệt đạo của thân xác và Long huyệt của trái đất ... là những đề tài trong Đạo Cao Đài mà nhơn loại học sau Long Hoa Đại Hội hay Ngày Phán Xết cuối cùng của chu ký Tiến hóa hay nền văn minh trên trái đất nầy.
         

Giống  Bách Việt hay dân tộc Lạc Việt là tác giả KINH DỊCH


Bản đồ Quốc Gia Việt Nam tại vùng Đông Nam Á
          
                                                                            Bản đồ nước Việt Nam          Bản đồ giống Bách Việt hay Lạc Hồng, Lạc Việt
                                                                                                                         do người Hán vẽ, hiện còn tại Museum Peking.


NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI và NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM

Hà Phước Thảo  

 1. NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI.
Khi tìm hiểu về  NGUỒN GỐC DÂN TỘC, chẳng hạn, NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM hay giống BÁCH VIỆT, LẠC HỒNG, LẠC VIỆT, GIAO CHỈ thì các nhà Nhân chủng học, khảo cổ học và Dân tộc học phải biết qua loài người từ đâu đến? Lịch sử thế giới chỉ có tài liệu ghi ra khi loài người có tiếng nói và chữ viết. Khi mới bắt đầu có tiếng nói thì mỗi dân tộc đều có truyền thuyết, văn chương thì truyền khẩu và khi có chữ viết thì nền văn chương truyền khẩu mới được ghi lại đầy đủ chi tiết, vì trí nhớ con người không sao, chép y nguyên bổn, mà quên một phần hay thêm thắt theo ý riêng, do đó, tam sao thất bổn hay vạn bổn và các truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc để nói lên sự xuất phát, tiến hoá , di cư và định cư ở đâu, thuộc giống nhân chủng nào, pha trộn như thế nào... thì không bao giờ đúng 100% theo tinh thần hoa học. các nhà khảo cổ tìm thấy những xương sọ rồi suy luận ra, nếu dùng phương pháp Carbonne 14 như ngày nay với máy tính điện tử để do thời gian thì chỉ biết số tuổi chớ không biết rõ sự thật về đời sống của thời xa xưa đó. Gần đây, các nhà khoa học đã làm chương trình cho máy điện tử rồi P.C diễn tả theo trí thông minh từ con người đưa vào, chứ P.C. hay Software không có sáng tạo nào mới, do đó nguồn gốc hàng triệu triệu năm qua không diễn tả rõ được. Khi khoa học chính xác đến mức độ giới hạn gọi là " bất khả tri" thì các khoa học gia mới đưa ra lý thuyết để giải thích hay định lý chưa có chân lý tuyệt đối mà chỉ tương đối thôi. Hiện nay khoa học chính xác tiến khá cao, nhưng chưa chắc cao bằng nền khoa học đã bị chôn vùi trong dĩ vãng theo chu kỳ Recycling thành, trụ, hoại, diệt hay theo đường biểu diễn Parabol đến cực điểm rồi trở lại số không để bắt đầu lại hay là sắc tức thị không, không tức thị sắc, cho nên các nhà khoa học cố gắng vào Kim Tự Tháp ở Ai cập hay ở vùng Trung Mỹ nghiên cứu thì cũng chỉ biết đại khái mà thôi, nhất là khi Bộ lạc Koji ở trên núi của nước Columbia Nam Mỹ cho phép loài người văn minh vào để nhắn tin báo động gởi cho Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới tại Chicago thì  phóng viên tham dự mới biết rằng chư vị Huynh trưởng nầy không học, không đi đâu mà biết hết mọi sự trên thế giới vì đã ngồi trong núi, chỉ thiền định bằng nhìn vào đá xanh 9 năm ( cửu niên diện bích ) mà có thần nhãn hay lục thông. Cũng có chư vị có thần nhãn do sự tự thôi miên như ông Edgar Cayces ở Mỹ qua sự tự thôi miên mà đã thấy nguồn gốc loài người qua thần nhãn, thấy những cuốn phim của cuộc đời các bệnh nhân, nguồn gốc của một giống dân, của một chính trị gia đầu thai trở lại làm đổi đời, đổi ý thức hệ cả thế giới là gốc thuộc người Atlanter là ông Gorbatschov và Đặng Tiểu Bình. Cũng có nhiều vị chết đi, sống lại kể lịch sử của linh hồn mình, của vòng luân hồi, của thiên cơ như bà  Betty J. Eadie và cũng có chư vị có thần nhãn nhờ thiền định mà thấy nguồn gốc của linh hồn mình, nguồn gốc của nhân loại như bà H.P. Blavatsy và viết bộ sách gồm 6 Tom như quyển The secret doctrine = la doctrine secrète = Die Geheimlehre = Giáo lý Bí Truyền; cũng có vị lịch sử của linh hồn trải qua các giống dân như Đức Giám mục C.W. Leadbeater ở Anh quốc viết nhiều cuốn sách như L'occultisme dans la nature, claivoyance..., ông Gefrey Hudson viết nhiều cuốn sách diễn tả các cõi vô hình vv., cho nên các nhà khoa học muốn hiểu thêm hay muốn giải đáp những bất khả tri trong trí thì đọc những cuốn sách huyền bí học để so sánh chứ không mài miệt vào khoa học chính xác để chứng minh nữa, vì chứng minh không được, khoa học giới hạn  nầy người Tây phương gọi là Esoterik (huyền bí học) hay Grenzwissenschaft (khoa học hạn chế mức hiểu biết). Tất cả những bí mật về loài người được viết trong những cuốn sách đã được đưa lên mạng Lưới Toàn Cầu bằng đủ các thứ tiếng hoặc đang dịch ra và sẽ đưa lên, hoặc dùng tiếng Anh, nhờ Hãng Altavista dịch trực tiếp ra tiếng nước khác.
                                          http://www.altavista.com       http://babelfish.yahoo.com/

Một số lớn những nhà nghiên cứu bằng khoa học chính xác hay khoa học thiên nhiên trong nhân loại không tin những gì không chứng minh được cụ thể và vẫn tin tưởng theo thuyết tiến hoá của ông Darwin, cho rằng loài người do vượn mà thành, vì loài vượn có hình thể gần giống như thân thể con người hơn các loài khác.
Khoa nh
ân chủng học chỉ nghiên cứu về con người, còn nguồn gốc thì khoa khảo cổ cho biết loài người đã có lâu rồi, nhưng chưa biết chắc khởi điểm là bao lâu, và cũng cho rằng đã có hằng triệu năm rồi, trong khi Tiên tri Moses viết ra thì thời gian ngắn quá, do đó tôn giáo chưa nói rõ về nguồn gốc loài người theo tinh thần khoa học như khảo cổ học và nhân chủng học, thí dụ kinh thánh nói hai người đầu tiên do Đức Giê-hô-va tạo ra bằng cách tạo ra bằng đất, ngài hà hơi vào lổ mũi  thì có sự sống, còn Đức Lão Tử thì cho biết con người là một trong Tam Tài (trong chữ THIÊN  có tam tài là Thiên Địa Nhơn), do Âm Dương, ngũ khí, ngũ hành tạo ra theo sơ đồ do hai vị Vua trong Tam Hoàng Ngũ Đế tìm thấy trên hai con vật linh mà vẽ ra Bát Quái đồ hay Sơ đồ Sanh Hóa Vũ Trụ qua quyển Kinh Dịch chứ chưa nói về nguồn gốc chính xác là hồi nào có loài người, như vậy khoa học vẫn đang tìm nguồn gốc loài người và nguồn gốc các dân tộc vì chưa tin tôn giáo. Khoa học và tôn giáo tuy đứng ở hai vị trí khác nhau trong kiến thức của loài người, nhưng cũng bổ túc cho nhau ở giai đoạn mà trình độ của loài người tiến hóa đến khá cao, khi người ta biết thực hành phương pháp thiền định mà mở lục thông. Khi có lục thông như Đức Phật Thích Ca thì ngài cũng không nói thời điểm có loài người trên trái đất, mà ngài chỉ nói cái chu kỳ kín cứ luân lưu mãi do 12 nhân duyên mà có nhân loại. Ngài cũng không đề cập Đấng Tối Cao sanh hóa vạn vật như Độc Thần đã dạy. Như vậy Đức Phật đã dạy khoa học chứ không dạy tôn giáo như các giáo lý của các Đạo đã có trước như Bà-la-môn giáo. 543 năm sau, Đức Chúa Giê-su mới trở lại Độc Thần, nhưng cũng không nói rõ nguồn gốc con người theo tinh thần của khoa học.
Vào năm 1926 Đức Thượng Đế mở Đạo mới ở Việt nam thì ngài nói rõ hơn về sự tiến hóa và được thánh giáo diễn tả ra để được vẽ sơ đồ về sự tiến hóa chung cho nhân loại qua hằng triêu triệu năm mới có sự chuyển cấp từ loài thú lên hàng nhân loại như tiến trình là Thực vật tiến lên thú cầm, thú cầm tiến lên loài người ( Nhất bổn tán vạn thù) và từ loài người trở về với nguồn gốc nơi đã đi ra là Đại Linh Hồn của Vũ Trụ. Xin quí vị đọc bài "Nhơn vật tiến hoá" trong quyển Đại Thừa Chơn giáo thì rõ.
Người Việt nam muốn tìm hiểu rõ nguồn gốc của dân tộc mình nào là qua truyền thuyết, nào là do các nhà nhân chủng học đưa ra lý thuyết cho rằng dân tộc Việt nam từ Tây Tạng lần xuống phía Nam (do các nhà nhân chủng học <Pháp), nào là do giống Melanesien hay Indonesien ngoài các đảo tiến vào đất liền sanh sống, vì khi nghiên cứu ngôn ngữ của các Nhóm chủng tộc Miền Cao Nguyên Trung phần thì có những âm thanh giống như những giống người ở các đảo Thái Bình Dương, nào là sự khảo cứu qua lịch sử của Trung quốc thì cho rằng người Việt là một trong một trăm giống Việt ở phía nam sông Dương Tử và về sau nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng có sáng kiến là cho rằng ngưòi Việt thuộc giống Indonesien và đã viết sách chứng minh, nhưng tất cả không có một sự hợp lý theo đa số tuyệt đối làm nền tảng thoe tinh thần khoa học, nên không được các sử gia và các nhà nhân chủng học chấp nhận. và vẫn cứ chờ đợi một tài liệu nào khác hay lý thuyết nào đúng hơn. Để đưa ra một dẫn chứng khả dĩ do sự so sánh mà lấy phần trung dung hợp lý, chúng ta có thể dựa vào sử ký Việt nam được viết ra từ trước làm tài liệu cho việc tìm hiểu nguồn giốc dân tộc Việt nam, chúng ta thủ nói về Nguồn gốc dân tộc Việt nam qua lịch sử.

2. NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM THEO LỊCH SỬ HAY NGUỒN GỐC GIỐNG BÁCH VIỆT

Tại Việt nam có 54 dân tộc thiểu số mà các nhà dân tộc học đã nghiên cứu về lich sử, đời sống, ngôn ngữ, văn hoá , nghệ thuật nhất là truyền thuyết về sự khai sanh của dân tộc. Mỗi dân tộc trong các Nhóm nầy từ Bắc chí Nam đều có một truyền thuyết riêng như khởi nguyên ở đâu, sanh ra thế nào, phát triển ra sao. Những huyền thoại nầy được xem như là những tài liệu truyền khẩu trong Nhóm dân tộc đó chớ không coi như lịch sử truyền miệng chung của dân trên cả lãnh thổ hình cong chữ S, nhưng suy đoán ra thì người ta biết được vùng đã phát nguyên nhóm người đó. Riêng dân tộc Việt nam là một giống dân chiếm đại đa số trên lãnh thổ thì nguồn gốc rất cần thiết để làm bằng chứng cho quốc tế về địa dư trong những sự tranh chấp biên giới. lãnh thổ, các đảo ngoài khơi, nhất là trong giai đoạn một mất một còn đối vơí nước to lớn nằm phía Bắc đang muốn chiếm cứ các nước nhỏ hiện nay. Trung quốc dùng lịch sử để chứng minh rằng  các nước chung quanh đều là người từ Trung quốc đi ra, chẳng hạn nước Nhựt có nguồn gốc là từ nội địa thời ThầnThủy Hoàng đi tìm thuốc truờng sanh bất tử, đi thuyền ra các đảo hoang tìm dược thảo, thấy cảnh đẹp, tự do và dễ sống nên ỏ lại lập nghiệp làm nước riêng và hiện nay vẫn giữ thứ chữ giống như thứ chữ tuợng hình của nhà Hán đã viế và họ có 4 loại chữ cho ngôn ngữ khác nhau, nhưng cùng viết một thứ chữ phổ thông và học chung một tiếng, như vậy họ là người Nhật bản gốc Trung Hoa sáng mở mắt ra là thấy mặt trời lên từ phương Đông nên làm cờ hình mặt trời; còn Tây tạng viết theo kiểu khác, Mông cổ viết và nói theo ngôn ngữ và chữ viết khác, Việt nam lại có lịch sử chữ viết qua 3 giai đoạn Hán+Nôm+Quốc ngữ và hiện nay viết theo quốc tế với mẫu tự La-tinh. Do đó, Việt Nam có lòng tự hào là một dân tộc luôn luôn TỊ NẠN để đi một ngày đàng học một sàng khôn mà tiến bộ luôn : Từ ít dân nên sức yếu nằm trong cái nôi với nền văn minh "Trống Đồng" và "Hoà Bình, Đông Sơn", Bách Việt dân số ít ỡ giữa dân số đông phải đi ra tị nạn và tìm đất sống, khi dân số đông quá thì khai khẩn chung quanh mà nới rộng đất mà sinh sống hay làm cuộc Nam Tiến. Khi chấp nhận lịch sử do ngưòi Trung Hoa viết theo bản đồ đã in giống Hán tộc công nhận giống Bách Việt đã từng sống trên hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thuộc Trung quốc theo bản đồ nầy của Trung quốc vẽ từ xưa còn lưu trong Bản Tàng Viện Bắc Kinh thì ý chí hồi hương lấy lại cứ ở trong đầu óc giuống Lạc Hồng, cho nên Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã chuẩn bị đánh lấy lại quê hương xưa.

          

3. Lịch sử của Trung quốc có từ thời nào thì lịch sử của dân tộc Bách Việt cũng có từ thời đó.

Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.

Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881).

Hùng Vương. Dựng nước gọi là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu

Hồng Bàng thị. Đầu là Kinh Dương Vương, tương truyền là vua trước tiên của nước Việt ta. Kinh Dương Vương sinh Lạc Long Quân. Hùng Vương là con Lạc Long Quân.

Nguyên xưa, Đế Minh, cháu ba đời Viêm đế Thần Nông thị , đi tuần sang Nam, đến Ngũ Lĩnh , lấy Vụ tiên nữ, sinh con là Lộc Tục có đức tính hoàn toàn. Đế Minh yêu Lộc Tục lắm, muốn truyền ngôi cho, nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh là Nghi. Bấy giờ mới lập Đế Nghi làm vua nối ngôi, thống trị phương Bắc (Trung Quốc), phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, thống trị phương Nam.

Kinh Dương Vương sinh con là Sùng Lãm, gọi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh trăm con trai. Ấy là tổ tiên của Bách Việt , suy tôn người trưởng lên làm Hùng Vương, nối ngôi vua, dựng nước gọi là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu; truyền nối mười tám đời đều gọi là Hùng Vương.

Thời bấy giờ, cư dân khi xuống nước, hay bị loài giao long làm hại, Hùng Vương dạy dân lấy mực vẽ hình loài thủy quái xăm vào mình. Từ đó mới tránh khỏi nạn. Nước ta cái tục xăm mình có lẽ bắt đầu từ đấy.

 

Tuy nhiên, để trở về nguồn gốc xa xưa thì chúng ta biết rằng các lục địa bị sụp xuống và biển đã trồi lên nhiều lần tạo nên các lục địa có hình thể khác nhau. Do khí hậu khác nhau mà hình thể, màu da cũng khác nhau để thích ứng với thiên nhiên và qua cả bao ngàn năm thì loài ngươì ngày nay mơî có hình dáng khác nhau như thế theo sự thích hợp và ảnh hưởng bởi Ngũ Khí, ngũ hành. Cổ sử đã chứng minh có lục địa Lemurien và những người đầu tiên từ Phi châu mà đi ra, di cư đến Âu châu, Á châu, còn giống dân da đỏ là giống còn sót lại của dân của lục địa Atlantis có một nền văn minh rất cao bị chìm sâu dưới Đại Tây Dương, các kiến trúc còn lại là những Kim Tự Tháp.

Những giống di dân từ Phi châu qua hướng Đông gọi là giống Mông cổ. Giống nầy có hậu duệ là giống Hán tộc và Bách Việt. Như vậy lý thuyết về sự di dân và tị nạn là từ lục địa đi ra, chứ lý thuyết của các nhà nhân chủng học hay của nhà văn Bình Nguyên Lộc cho rằng tư các đảo giữa Thái Bình Dương hay từ Nam Dương vào lục địa hay vào bán đảo Đông Dương thì không hợp lý, khi chứng minh rằng đảo hoang thi do người từ lục địa ra lập nghiệp chứ khôg có dân tộc nào mà tự nhiên mà có từ các đảo nhỏ.

Các nhà nhân chủng học nghiên cứu về giống người Pygmée thì mới thấy sự tiến hoá là do sự học hỏi, tức cách vật trí tri như lý thuyết của Đức Khổng Tử, nghĩa là học khoa học được là do sự tìm tòi trong thiên nhiên. Trí khôn từ đâu mà có? Đó là học và kinh nghiẹm trong thiên nhiên: Tiên tri Moses đã cho tấy rất rõ khi kể huyền thoại A-Đam và Ê-va, trái cấm hay thức ăn tinh thần, Con rắn hay sự tò mò, bị đuổi ra khỏi Địa Đàng hay tự lo lấy, tự học, tự tìm. Nếu chúng ta lấy nhân chủng học với tâm lý học và mượn Kinh Thánh giải thích thì thấy rất hợp lý.

Tóm lại loài người sống nhờ di dân, tìm nơi nào có nước hay những con sông. Do đó, lịch sử loài người là sự tiến hóa lâu dài.

Lịch sử của dân tộc, của Nhóm chủng tộc là sư kéo dài của nền văn minh và sự tiến hóa.

 


Theo t
ác giả .D.V.N. trên TCNL:

“Vài nét về lịch sử Bách Việt
Bách Việt là tiếng của người Hán dùng để chỉ tập hợp các sắc dân chủng Việt (phần lớn cư ngụ tại miền nam sông Dương Tử) mà người Hoa Hán gặp gỡ và tranh đấu khi họ bành trướng từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam. Lãnh thổ của bộ tộc Bách Việt, theo huyền sử, là nước Xích Quỷ 
dưới quyền vua Kinh Dương, bắc giáp Hồ Nam, nam giáp Chiêm Thành, tây giáp Tứ Xuyên, đông giáp biển Đông. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch (TTL), sử sách ghi nhận các nước Hồ Việt (ở Hồ Nam), U Việt (ở Triết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Âu Việt (ở Quý Châu & Quảng Tây), Điền Việt (ở Vân Nam), Lạc Việt (bắc Việt Nam), Chiêm Việt (đảo Hải Nam), v.v...  Các nước này nằm kế tiếp nhau từ miền nam sông Dương Tử, qua lưu vực sông Hồng, xuống tận bình nguyên sông Mã. Đó là chưa kể những tổ hợp người Việt sống rải rác miền tây nam Trung Quốc chưa tổ chức thành quốc gia, có khi còn gọi là dân Bách Bộc. Nhưng cũng có nhà nghiên cứu lại cho rằng Bách Bộc hay Bộc Việt là tiếng người Hoa Hán dùng để chỉ chủng tộc Việt ở phía bắc sông Dương Tử. 

Sau khi nhà Tần thống nhất được miền bắc Trung Quốc và một số lãnh thổ miền nam sông Dương Tử, các nước Việt nhỏ dần dần bị suy sụp, chỉ có Mân Việt, Đông Việt và Nam Việt nhà Triệu (bao gồm Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt ) là còn tự trị.  Sang đến thế kỷ thứ nhất TTL, các nước này cũng bị nhà Hán thôn tính nốt, tuy rằng các tổ hợp Bách Việt vẫn sống rải rác khắp miền nam Trung Quốc. Trải qua thăng trầm của hai ngàn năm lịch sử, phần lớn lãnh thổ Bách Việt đã bị sát nhập vào bản đồ Trung Quốc và rất nhiều văn minh Bách Việt dần dần bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc.
Tác giả khác là ................ phê phán như sau:
“Đến đây, người viết xin nhấn mạnh ba điểm. Thứ nhất, trong TVTVĐM, học giả PVC có vẻ hàm ý lãnh thổ sinh hoạt của bộ tộc Bách Việt giới hạn vào miền nam sông Dương Tử. Thật ra, các công trình nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học gần đây cho thấy người Bách Việt đã vượt sông Dương Tử rất lâu trước khi văn minh Trung Quốc bắt đầu thành hình.  Gần hơn nữa, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, người Bách Việt sống rải rác trong các vùng Hoa Bắc, điển hình là nước Sở (ban đầu, gồm Hồ Bắc ngày nay), nước Tề (Sơn Đông), nước Tấn (Sơn Tây-Hà Bắc), v.v...

Thứ hai, vì chỉ có nước Việt Nam vẫn còn dùng chữ Việt trong quốc hiệu, có người ngộ nhận cho rằng người Bách Việt đã bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc, ngoại trừ người Việt Nam. Thật ra, như học giả PVC đã nhấn mạnh ngay từ đầu, tất cả các quốc gia ĐNÁ như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Căm Bốt, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v..., đều do hậu duệ của đại chủng Bách Việt thành lập tại những thời điểm khác nhau. Theo học giả, Thái Lan có thể xem là một nước có nguồn gốc gần gũi với Việt Nam hơn cả. Người Thái chính là bộ tộc Lý thuộc nhóm Âu Việt ở Quảng Tây trong nước Nam Việt nhà Triệu cũ. Sau khi Nam Việt nhà Triệu bị nhà Hán thôn tính, người Thái bỏ nước di cư, lập ra nước Nam Chiếu (Đại Lý). Đến thế kỷ 13, Đại Lý bị quân Mông Cổ phá vỡ hoàn toàn. Chính trong dịp này, người Thái lại nam thiên và hội tụ với các sắc dân Thái địa phương, sáng lập ra các vương quốc hùng mạnh, tiền thân của nước Thái Lan và Lào ngày nay. Điểm đáng chú ý là người Đại Lý đã đóng góp xương máu vào cuộc khởi nghĩa chống Hán của Hai Bà Trưng, cũng như đã hai lần chiếm lại thủ phủ Đại La (Hà Nội) từ nhà Đường vào thế kỷ thứ 9.

Thứ ba, học giả PVC cũng không quên nhắc đến hai vương quốc cổ, Chiêm Thành và Phù Nam. Theo học giả, người Chàm đã trở về với khối gia đình Lạc Việt, còn người Phù Nam đã hòa vào tộc Mon-Khmer. Tuy ngày nay Chiêm Thành và Phù Nam không còn chỗ đứng riêng trong tập thể ĐNÁ, hai nước này đã đóng vai trò rất quan trọng trong thời kỳ đầu Tây lịch. Chiêm Thành và Phù Nam từng là gạch nối giữa tổ hợp đã suy sụp (Nam Việt nhà Triệu) và các tổ hợp đang hình thành ở lục địa cũng như hải đảo, cho dòng giống Bách Việt còn mãi mãi nối tiếp“.

Theo các nhà huyền bí học thì giống Mông Cổ ở khắp Á châu trong khi hình thể ngũ châu thành hình như ngày nay. Do sự lai giống mà Á châu có những giống khác nhau, ngôn ngữ khác nhau vì không có phương tiện di chuyển, mỗi nơi nói một thứ thổ ngữ riêng. Giống sống Miền Bắc của Á châu hay nước Trung Hoa mang tên là Hán tộc, các giống ở phía nam gọi là Bách Việt. Giống Bách Việt di tản vì sức ép quá mạnh của Hán tộc mà mở cuộc Nam tiến. Một số về hướng Tây Nam lập nên các nước Thái Lan, một nhóm ít hơn lập nước Lào, còn Nhóm dân có hai ngón chân tréo nhau vì đi bộ, mấu đất bùn mà thành ra hai ngón chân bị cứng như thế nên ngươì Hán gọi là dân Giao Chỉ.

Lịch sử Việt nam được viết khi có thứ chữ mượn của Hán tự, chế biến ra chữ Nôm mà viết ra. Những cuốn sử bằng chữ Nôm cũng chỉ ghi lại truyền thuyết của thời lịch sử truyền miệng vì chưa có tài liệu chính xác, tuy nhiên phần cổ vẫn đáng tin cậy hơn những cuốn sử do người đã học thuyết lạ và bị ảnh hưởng mà iết ra. Nếu đã dịch thì người đọc cũng nên lưu ý là phải so sánh với bản chánh chữ Hán thì mới chắc chắn không bị bẻ quẹo, thêm thắt, phê bình theo quan niệm của chế độ.

Một chế độ kéo dài mà các sử gia chưa viết kịp thì thời gian sẽ xoá mờ những sự kiện lịch sử. Việc tìm kiếm các sự kiện lịch sử rất cần thiết để giúp các sử gia viết cho chính xác.

Nguồn gốc của giống Bách Việt không chỉ riêng dân tộc Việt nam mà cả những dân tộc thuộc giống Mông Cổ đi ra khắp nơi ở Vùng Đông Nam Á, kể cả các Đảo như Mã lai, Nam Dương, Guinée, Philippines, Nhật bản... khi các sử gia và các nhà nhân chủng học so sánh và tìm hiểu khởi nguyên lịch sử của các dân tộc nầy.

4. Giống  Bách Việt hay dân tộc Lạc Việt là tác giả KINH DỊCH.

Một sự kiện quan trọng để chứng minh Giống Lạc Việt là tác giả KINH DỊCH với Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái là dùng truyền thuyết nguồn gốc dân tộc là Lạc Long Quân với Bà Âu Cơ, và còn có thêm truyện bà Nữ Oa mà luật Âm Dương giải thích bằng tượng trưng qua truyền khẩu chứ không viết thành văn cùng với bửu pháp tu theo Tiên Đạo thời Thượng Cổ là Thượng Nguơn Thánh Đức lúc có Tam Hoàng Ngũ Đế cai trị với cảnh thái bình của Minh Quân Nghiêu và Thuấn dùng Kinh Dịch như là Thiên Thư để tu học, là cái bản đồ Càn Khôn Vũ Trụ và bản đồ luyện đơn dược với thời Hạ Nguơn Mạt Kiếp nầy qua Kinh Dịch trong Đạo Cao Đài, chính do Đức Thượng Đế dạy luyện Đạo. Nhứt bổn tán vạn thù và Vạn thù Qui Nhứt Bổn là điểm gặp nhau của khởi điểm và cuối điểm để nối vòng chu kỳ kín lại trùng hợp nhau. Như vậy chúng ta chắc chắn như Tam Đoạn Luận:    1) These: Đức Thượng Đế dạy dân Bách Việt tu Tiên ( Lão giáo) bằng Kinh Dịch vào thời Thượng Cổ.
                      2) Antithese: Đức Thượng Đế dạy dân Việt Nam  tu theo Cao Đài Đại Đạo ( Chiếu Minh) bằng Kinh Dịch vào thời Hạ Ngưon Mạt Kiếp.
                      3) Thượng Ngươn và Hạ Ngươn đều được Đức Thượng Đế dạy tu luyện theo Kinh Dịch và nối thành chu kỳ kín. Vậy Kinh Dịch do dân tộc Việt Nam là tác giả đầu tiên lúc chưa có thứ chữ riêng nên vẽ sơ đồ trên lưng hai con vật linh là con Long Mã và con Linh Qui.
Tam Đoạn Luận kế:
1) Thèse : Truyền thuyết Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ hay giốmng Bách Việt :  Vua thuộc nam là DƯƠNG hay Yang ( +) hay Thái Dương, lại ở dưới nước tức dưới Động Đình Hồ, nước là thủy hay Âm (-), Trong Âm có Dương (vua).
Hoàng Hậu là Bà Âu Cơ là nữ Yin (-) lại ở trên núi, núi là Dương  hay Yang (+) = Thái Dương. như vậy Trong Dương có Âm.

2) Antithèse: Kinh Dịch diễn tả  đồ hình Tiên Thiên BátQuái và Hậu Thiên Bát Quái giống như truyện thần thoại nguồn gốc giống Bách Việt về Âm Dương: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.
3) Kết luận: Bảnđồ Việt Nam hình cong chữ D chia vòng Vô Cực ra làm hai: Thái Dương là đất liền, Thái Âm là biển Đông hay Biển Việt Nam, chứ không phải Mer de Chine như Tàu vẽ, Đảo Hải Nam là của Bách Việt là Thiếu Dương, Hồ Tonlésap của Cao Miên là Thiếu Âm. Lấy compas chấm ngay giữa Miền Trung quay tròn thì hình thể nước ViệtNam chia Vòng V5ô Cực ra đúng y như Lưỡng Nghi, Tứ Tượng. Nhu vậy hợp đề : Kinh Dịch do chính giống Bách Việt viết ra, do chính giống Bách Việt biết tu Tiên ( chữ Nhơn + chữ Sơn = chữ Tiên ), còn ngày nay dânViệt Nam được chính Đức Thượng Đế dạy TU TÁNH + LUYỆN MẠNG cũng bằng Kinh Dịch và cuộc Nam Tiến để vẽ Bản Đồ của Bát Quái Đồ không do ngẫu nhiên mà hình thể giống y như vậy, mà do Thiên định, cho nên việc di dân Việt Nam đi khắp Năm Châu cũng nằm trong Thiên Cơ (Bộ Máy Trời) chứ không phải do con người điều khiển : Mỹ rút quân, Bắc chiếm Nam, Cộng sản cai trị cho cả dân tộc đau khổ để một nhóm người làm giàu mà thôi là luật Nhân Quả tác động.
Đức Thượng Đế tiên tri vào năm 1925 và định sẵn:
                                                      "Từ đây nói giống chẳng chia,
                                                       .........................................
                                                       Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
                                                       ................................................. "
Tại sao dân tộc thái bình mà không tiến hóa nhanh như Nhật Bản và Tây Đức sau chiến tranh? vì  Đức Di Lạc giáng cơ tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện có cho biết:
                                                       " Tổ Tiên đã đổ máu đào,
                                                       Cũng vì Hồng Lạc sa vào hố sâu" (Đàn cơ tại HT Di Lạc, 1974, lúc Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội Khai Diễn) và ngài còn cho biết tại sao có người chiếu đấu cho ai? ai gạt? mắc mưu ai?
                                                       "Thương cộng chú cộng chan dầm,
                                                       Vào sanh, ra tử lại lầm kế ai."  (Đàn cơ tại HT Di Lạc, 1974)
Lầm kế ai? Đó là kế của các dân tộc khác bắt làm gà đá độ cho họ, sau đó học chiếm đất, kho tàng....
Xin chư độc giả đọc trang : Kinh Dịch Cao Đài thì thấy rõ hơn chi tiết.

Khoa Khảo Cổ đã giúp nhiều cho các học giả để chứng minh chính xác Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam. Chẳng những gống Bách Việt tìm ra đồng đen trước tiên ở Châu Á và còn có nghệ thuật điêu khắc tinh vi thể hiện nơi trống đồng Ngọc Lũ, mà còn đã phát minh về phương pháp Nông nghiệp là cấy được lúa xuống nước và công nghệ đá và đã làm rất nhiều món đồ quí hiện còn giữ ở các Bảo Tàng Viện tại Việt Nam (Quí vị có thể tham khảo trang :

Nghiên Cứu Văn-Hóa Tiền Sử : VIỆT-NAM, TRUNG-TÂM NÔNG-NGHIỆP LÚA NƯỚC VÀ CÔNG-NGHIỆP ÐÁ, XƯA NHẤT THẾ-GIỚI của  BS tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh tại Canada và tài liệu của cố Giáo sư Kim Định.
và nhất là tại liệu về Kinh Dịch Cao Đài và Bửu pháp Đại Đạo thì trong các bái thánh giáo đều giải rõ về Kinh Dịch, Tiên Thiên, Hậu Thiên, Bát Quái...như vậy Kinh Dịch do Đức Thượng Đế dạy cho dân Bách Việt (Mở đầu chu kỳ) tức dân Lạc Hồng tộc hay Việt Nam ngày nay (kết thúc cuối chu kỳ tiến hóa, trở lại vòng tròn kín),
như vậy Thiên Ý và Thiên Cơ do Sách Trời đã định rồi, đúng như mấy câu thơ của cụ Lý Thường Kiệt khi đánh Tống tuyên bố:
                                             Nam Quốc Sơn hà Nam Đế cư,
                                             Tiệt nhiên dịnh phận tại Thiên Thư.

                                                                                                                                                                                                  17.4.2006  
        Hà Phước Thảo

updated:  27.11.2008

Ursprung der Menschheit (Nguồn gốc loài người theo Khoa Nhân Chủng Học, hình ảnh bằng tiếng Đức) 

Trở lại trang MỤC LỤC


Webmaster: Hà Phước Thảo, Peter Ha
updated   07:53 Uhr  20. 1. 2011  Bad Aibling, Germany
Số độc giả đọc đến hôm nay là: