
Ngọc
Dịch Hoàn Đan
(Phụ Ngọc Dịch
Luyện Hình, Thai Tiên, Tiểu Hoàn Đan,
Đại Hoàn Đan, Thất Phản Đan, Cửu Chuyển Đan)
[Ngọc thư] nói:
Chân Âm Chân
Dương, tương sinh tương thành. Hiện ra ở trên, tích
Dương thành Thần, trong Thần có hình mà
treo trên trời là nhật nguyệt. Hiện ra ở dưới, tích
Âm thành hình, trong hình có Thần
mà ở dưới đất là kim ngọc. Chất của kim ngọc ẩn ở sơn
xuyên, tú mị khí, nổi lên bên
trên. Với nhật nguyệt giao quang, thảo mộc nhận được nó
thì trinh tường , điểu thú được nó thì
thành dị loại .
[Chân
nguyên] nói:
Dương thăng đến trời,
thái cực sinh Âm, Âm không đủ mà Dương
có dư, vì thế tích Dương sinh Thần. Âm
giáng đến đất, thái cực sinh Dương, Dương không đủ
mà Âm có dư, vì thế tích Âm
sinh hình. Trên thì nhật nguyệt, dưới thì
kim ngọc, Chân Dương có Thần, Chân Âm
có hình, Khí đó giao nhau, mà
trên dưới chiếu xạ nhau, ánh sáng trùm trời
đất, thì kim ngọc có thể thành quý
giá, chính vì như vậy.
Thường biết Khí của kim
ngọc ngưng ở trên không, thì thành thụy
khí tường yên , nhập vào đất, thì biến
thành lễ tuyền chi thảo , nhân dân nhận được
nó thì thành anh kiệt, điểu thú được
nó thì sinh kỳ dị. Vì chất của kim ngọc, tuy sinh
ở hình của tích Âm, mà bên trong
ôm ấp Khí của Chân Dương, lại cảm nhiễm nhật nguyệt
của tích Dương thành Thần, Chân Âm Chân
Dương bắn xuống mà bảo vật ngưng kết vậy.
[Bỉ dụ]
nói:
Tích Âm
thành hình, bên trong ôm ấp Chân Dương
mà thành kim ngọc, như là tích Dược
ôm ấp Chân Khí mà thành Thai
Tiên. Khí của kim ngọc nhập vào đất, thì
thành lễ tuyền chi thảo, như Ngọc Dịch hoàn Đan Điền vậy.
Khí của kim ngọc ngưng trên không, mà
thành thụy khí tường yên, như Khí luyện
hình chất vậy. Thường thì Khí của kim ngọc xung
lên trời, theo Dương thăng mà khởi. Thường thì
Khí của kim ngọc nhập vào đất, theo Âm giáng
mà hoàn. Đã theo Âm Dương thăng
giáng, thì tự có bốn mùa, có thể
Dịch hoàn Đan Điền, Khí luyện hình chất, như bốn
mùa gia giảm, một ngày đổi thay.
[Chân
quyết] nói:
Thái bổ kiến nghiệm,
trong năm chọn tháng, trong tháng chọn ngày, trong
ngày chọn giờ. Có ba thời gian dụng sự: 100 ngày
thì Dược lực đầy đủ, 200 ngày thì Thánh
Thai kiên cố, 300 ngày thì Chân Khí
sinh, Thai Tiên tròn. Cẩn thận tỉ mỉ dụng công, gia
giảm theo thời, sau 300 ngày số đủ, mới thi hành
phép Hoàn Đan Luyện Hình.
Phàm dùng quẻ Cấn
phi kim tinh nhập não, chỉ đến quẻ Tốn mà thôi,
đây là nói về phi kim tinh, 300 ngày sau.
Quẻ Li thôi thái Dược, quẻ Khôn thôi siết
Dương Quan, riêng chỗ này thì quẻ Đoài hạ
thủ siết Dương Quan, đến quẻ Càn mới dừng. Đã thôi
quẻ Li thì thêm vào phép nuốt Luyện
Hình. Yết pháp-phép nuốt, dùng lưỡi khua
khoắng giữa hàm trên và hai cằm, đầu tiên
nuốt hết nước bọt ố trọc, tiếp đó lui đầu lưỡi lại để đầy
tràn Ngọc Trì mà sinh nước bọt, không nhổ ra
mà nuốt vào.
Phàm ba tháng
mùa xuân, Can Khí vượng mà Tì
Khí nhược, yết pháp hàng ngày dùng
quẻ Li.
Phàm ba tháng
mùa hè, Tâm Khí vượng mà Phế
Khí nhược, yết pháp hàng ngày dùng
quẻ Tốn.
Phàm ba tháng
mùa thu, Phế Khí vượng mà Can Khí nhược,
yết pháp hàng ngày dùng quẻ Cấn.
Phàm ba tháng
mùa đông, Thận Khí vượng mà Tâm
Khí nhược; yết pháp hàng ngày dùng
quẻ Chấn.
(Phép phi kim tinh, cũng
có thể nuốt)
Thường tứ quý chi nguyệt
, Tì Khí vượng mà Thận Khí nhược, con người
lấy Thận Khí làm căn nguyên, bốn mùa đều
có suy nhược. 18 ngày sau cùng của quý
nguyệt mỗi mùa, yết pháp hàng ngày
dùng quẻ Đoài, vẫn cùng dùng với yết
pháp trước. Độc có tháng cuối mùa thu chỉ
dùng quẻ Đoài yết pháp, mà ngừng công
phu quẻ Cấn.
Yết pháp trên, đầu
tiên theo phép trước mà nuốt. Nếu như giữa răng
và Ngọc Trì mà không sinh nước bọt, chỉ lấy
lưỡi làm đầy trên dưới mà đóng Ngọc
Trì, thu hai má, lấy nuốt suông làm
phép, chỉ là nuốt Khí, trong Khí tự
có Thủy.
Yết khí như một năm 36
đến 49 lần là số; lại một năm, 81 lần; lại thêm một năm,
181 lần, là kiến nghiệm, mới là phép Ngọc Dịch
Hoàn Đan.
Hành trì
không quá ba năm, tưới tắm Đan Điền, Mộc Dục-tắm gội Thai
Tiên, mà Chân Khí càng thịnh.Nếu thi
hành phép Ngọc Dịch Hoàn Đan này,
mà hơn 300 ngày
dưỡng thành Nội Đan, Chân Khí mới sinh.
Quẻ Cấn phi kim tinh, xung động
Tam Quan, lên đến Nê Hoàn, liền thi hành
phép Kim Dịch Hoàn Đan: từ trong đỉnh đầu hạ xuống
phía trước Kim Thủy rót xuống,
hạ về Hoàng Đình,
biến Kim thành Đan, gọi là Kim Đan.
Thi hành Kim Dịch
Hoàn Đan, cần ở phòng kín tĩnh lặng, nơi
gió ánh sáng người thường không tới được.
Đốt hương, chắp tay ngồi xếp bằng. Để thân thể ngồi mà hậu
thăng, mới cảm thấy Hỏa khởi, chính tọa tuyệt niệm vong
tình, nội quán đích xác, quẻ Cấn phi kim
tinh nhập đỉnh đầu, chỉ bớt nghển đầu ưỡn cổ, thả lỏng để dưới cổ như
lửa đốt, mới gật đầu hướng ra trước, cúi đầu gập cổ,
thoái đầu lưỡi tiến ra sau để chống hàm trên.
Trên có nước trong mát, vị thơm ngọt, trên
thông Đỉnh Môn, dưới thông bách mạch. Trong
mũi ngửi thấy một dạng hương thơm thực sự, trên lưỡi cũng
có vị lạ, không nhổ ra mà nuốt xuống, hạ về
Hoàng Đình, gọi là Kim Dịch Hoàn Đan.
Xuân hạ thu đông,
không phụ thuộc vào thời gian khí hậu, chỉ
là sau khi phi kim tinh nhập não, theo thứ tự thi
hành phép này, từ Cấn đến Tốn mà thôi.
Phép siết Dương Quan
lúc chiều tối, từ Đoài đến Càn mà
thôi.
Phàm thi hành
phép này, cẩn thận tỉ mỉ hơn trước, mới có thể đắc
thành. Cuối cùng dừng ở luyện hình trụ thế, trường
sinh bất tử mà thôi, không thể siêu
thoát.
[Đạo yếu]
nói:
识
取五行根蒂
方知春夏秋冬
时饮琼浆数盏
醉归月殿遨游。
Biết giữ ngũ hành căn đế,
Mới hay xuân hạ đông thu.
Lúc uống Quỳnh Tương vài chén,
Say về Nguyệt Điện rong chơi.
Giải nói:
Biết giữ ngũ hành căn đế là đảo ngũ hành tương
sinh tương khắc, mà thời điểm dùng quẻ để thi hành
yết pháp không giống nhau. Mới hay xuân hạ
đông thu là việc thay đổi thì có thời hậu.
Quỳnh Tương là Ngọc Dịch. Nguyệt điện là Đan Điền. Say về
là nuốt nhiều.
东
望扶桑未晓
后升前咽无休
骤马邀游宇宙
长男只到扬州
Hướng đông mặt trời chưa sáng,
Sau lên trước nuốt không ngừng.
Ngựa phi rong chơi vũ trụ,
Trưởng nam chỉ đến Dương Châu.
Giải nói:
Hướng đông mặt trời chưa sáng là mặt trời chưa
lên, là lúc của quẻ Cấn. Sau lên là
phi kim tinh. Trước nuốt là Ngọc Dịch Hoàn Đan. Ngựa phi
là khởi Hỏa, là Ngọc Dịch Luyện Hình. Rong chơi vũ
trụ là tràn khắp tứ chi. Trưởng nam là quẻ Chấn.
Chỉ đến Dương Châu là quẻ Li. Ngọc Dịch Luyện Hình
bắt đầu từ quẻ Chấn, đến quẻ Li mới dừng.
Trực giải nói:
Ngọc Dịch là Thận Dịch, đi lên đến Tâm, hai
Khí tương hợp mà quá Trùng Lâu,
thì nước bọt mãn Ngọc Trì, gọi là Ngọc
Dịch. Nếu nuốt xuống thì từ Trung Điền mà vào Hạ
Điền, nên nói Hoàn Đan. Nếu thăng lên
thì từ Trung Điền mà vào tứ chi, thì gọi
là Luyện Hình, kỳ thực là một vật mà
thôi.
Thái Dược 300 này số đủ Thai tròn, mà phi
kim tinh thì giảm một quẻ, siết Dương Quan như cũ. Thôi
thái Dược, thêm vào yết pháp, yết
pháp tùy theo bốn mùa mà thôi.
Đây là Luyện Hình Pháp. Sau khi dùng
quẻ, thêm vào Luyện Hình, bắt đầu từ quẻ Chấn,
lấy quẻ Li làm kỳ hạn, không giới hạn năm tháng
ngày, kiến nghiệm mới thôi:
- Thể sắc sáng láng, thần khí tú mị,
- Dần sợ tanh hôi, mà kị ăn uống,
- Phàm tình phàm ái, tâm cảnh tự trừ.
- Chân Khí sắp đủ mà như thường đầy, ăn không
nhiều, ẩm tửu vô lượng.
- Trần cốt đã đổi mà biến đổi cả Thần thức.
- Bước nhanh như ngựa chay, đi như bay.
- Mắt đen sâu thẳm, thân thể như mỡ đông, mọc lại
tóc xanh,nếp nhăn trên mặt biến mất,
già lão đi mất mà mãi giữ vẻ đồng nhan.
- Ngửa mặt nhìn lên trăm bộ mà thấy được sợi
lông tơ.
- Trong thân thể, sẹo cũ cùng các chỗ bị tật, tự
nhiên tiêu trừ.
- Nước mũi nước mắt nước dãi mồ hôi, cũng không thấy
có.
- Thánh Đan sinh mùi vị, Linh Dịch tỏa hương thơm.
- Trong miệng mũi, thường có chân hương kỳ vị.
- Nhổ nước bọt thành sữa, có thể trị tật bệnh của người.
- Toàn thân đều thành bạch cao.
Các thứ trên đều là hiệu nghiệm của Ngọc Dịch
Hoàn Đan Luyện Hình, kiến nghiệm liền dừng. Cần cẩn thật
tỉ mỉ dụng công phu, theo pháp theo thời, mà thi
hành hậu sự.

THỦ KHẢM ĐIỀN LY
Hống thị Thanh
Long tủy
Nữ đan hiệp tập
Giáp
Tích Quan Chỉ Huyền
Cao Đài đại
thụ
-Thiên Thượng
Trở
lại trang chánh Thư Viên Cao Đài Đại Đạo
|