http://antruong.free.fr/CoDDTKPD.jpg

LỜI TIÊN TRI TRONG CUỐN "VẠN PHÁP QUI TÔNG"
hay
VẠN PHÁP QUY TÔN


               Về khoa Bùa Chú và Bí thuật có bộ sách gọi là Vạn Pháp Quy Tôn, sưu tập rất nhiều những phương pháp kỳ bí cần phải luyện tập nhiều công phu đòi hỏi một tinh thần Đạo Đức căn bản. Người học sách đó phải nhằm mục đích cứu đời, hoàn toàn bất vụ lợi. Nếu có tư tưởng tham tàn hoặc ích kỷ hại nhơn, tự nhiên phải rước lấy kết quả vô cùng tai hại, tức là bị tiêu diệt.

           Thời Pháp thuộc, trong số những người luyện Bút Chú Mật pháp theo Vạn Pháp Quy Tôn có hai nhân vật

điển hình là Ông Trần Cao Vân (tác giả cuốn sách về KINH DỊCH) và tướng cướp Ba Tín , tuy là tướng cướp theo lối Lương Sơn Bác, nhưng vẫn là tướng cướp lấy của người giàu cho kẻ nghèo ; Hai người đều có thuật tàng hình, có thần thông biến hóa, nhưng một người tên nêu sử sách, đời sau trọng

vọng là ông Trần Cao Vân , còn một người lại bỏ mạng trong bóng tối.

         Vạn Pháp Quy Tôn chỉ bày đủ các phương pháp luyện tập của các bực tu Tiên và các Đạo sĩ du phương bên

Tàu, góp nhặt từ đời Trần, đời Hán trở về sau. Tương truyền sách về Bùa Chú và bí thuật đầu tiên do Hiên Viên

Huỳnh Đế cảm ửng với Thần Thánh viết ra. Sở dĩ thần thánh mật truyền cho Huỳnh đế những bí pháp đó là bởi

ông có lòng thương dân rất bi thiết, muốn vì dân cứu khổ cứu bịnh. Nhờ những bí pháp của Thần Thánh truyền cho,

vua Huỳnh Đế trừ khử tà ác, làm sáng tỏ những điều Thiện. đem lại Thái bình cho nhân dân.

               Những bí pháp của Huỳnh Đế được ghi chép trong một quyển sách như truyền lại cho vua Hạ Vũ. Nhờ vậy, vua Hạ Vũ biết phép của nạn lụt sông Hoàng Hà là một thiên tai lớn nhất trong thời cổ Trung quốc. Người thứ ba được quyển sách là Tần Thủy Hoàng , nhờ sách này, Thủy Hoàng trừ diệt sáu nước phong kiến , thống nhất Trung Nguyên, nhưng vì lòng tham quá độ, Thủy Hoàng bị ảnh hưởng tai hại trở lại, bịnh chết ở Sa Khâu. Người thứ tư được sách quý là Huỳnh Thạch Công trao dạy cho Trương Lương , ông này đem ra áp dụng, giúp Lưu Bang tiêu diệt được kẻ  tham tàn.

   Người may mắn được Trương Lương ( chỉ thổi ồng tiêu mà làm quân lính của Hạng Võ chán đời bỏ ngũ hết, Hạng Võ phải tự cắt đầu tự tử tặng đầu cho ông lái đò đi lãnh thưởng) Trương Lương truyền  quyễn sách cho Trương Đạo Lăng , các Đạo Sĩ gọi là Trương thiên Sư . Ông nầy tuy có thâu đệ tử , đem những bí pháp ra giúp đời , nhưng lại sợ đời sau kẻ ác lợn dụng làm bậy , nên giấu mất quyễn sách đi , Ông chôn nó vào một cái hang , lấy tảng đá lớn lấp lại .

            Đến đời Đường có người tên Viên Thiến Cương vào núi tìm Tiên học Đạo, gặp con rắn to nằm  khoanh trên

tảng đá, nghĩ rằng có vật lạ. Ông bèn lật tảng đá ra, thấy bí quyển sách của Trương Đạo Lăng. Về sau Viên Thiến Cương

truyền thụ cho Cao Sĩ hiệu là Thanh Ngưu. Cao Sĩ truyền cho Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc truyền

cho Đông Hoa Đế Quân, ông này truyền cho Lư Tiên Sinh. Ông này muốn cho đời biết tài lạ của mình, từng

đến kinh đô thí nghiệm trước mặt nhà vua, mỗi phép đều hiệu nghiệm. gây chấn động trong dân gian một thời.

Nhưng cũng vì óc hay khoe khoang mà họ Lư  phải chịu kết quả tai hại.

                   Sách Vạn Pháp Quy Tông ngày xưa  từng mang nhiều tên khác nhau , như trong  truyện Tây Hán gọi là Thiên Thư . Lúc đầu thì sách tên là Cửu Thiên Huyền Nữ ẩn Thư , đến Tần Thủy Hoàng tên là  Kim Tỏa Ngọc Dược Chủy  nghĩa là cái ống khóa và cái chìa khóa bằng vàng ngọc ,  Trương Lương gọi là Huỳnh Thạch Công Bí Thư , Trương Thiên Sư gọi là Toàn Thư Ngọc Triện , Viên Thiên Cương gọi là  Thạch Hàm Ký , nghĩa là sách gởi trong đá. Đông Phương Sóc gọi là Sạ Phức Quyết ; Truyện Tây Hán gọi là Thiên Thư  , Đông Hoa Đế Quán gọi là Tử Phủ Linh Chương . Mỗi người được sách đó đều thề nguyền không truyền thụ cho kẻ phàm nhân tục tử mà chỉ trao cho bực Cao Sĩ Đại Đức.

         Chính vì thế mà sách đó bí truyền .

          Tài  liệu quý giá đặc biệt này đăng tải trong nhật báo Đại Chúng số 231  tại Sài Gòn trước năm 1975 ( Qua loạt bài  Khoa Học Với Phù Chú ).

QUA QUỶ MÔN QUAN NGHE PHÁP CỦA VẠN PHÁP TÔNG MÔN

Phật Sng Tế Công xuất hồn lên Thiên Đàng hỏi chư Tiên tại Thánh Hiền Đường, Đài Loan, có nói về cách thiền và nói về các pháp qui về một sau nầy, tức QUI TÔNG hay QUI TÔN mà chỉ có Đức Thượng Đế mới QUI TÔNG được, tức Đạo Cao Đài QUI TAM GIÁO , HIỆP NGŨ CHI và qui cả các pháp thành một bửu pháp ĐỘC NHẬT VÔ NHỊ mà sau năm 1926 có bửu pháp CHIẾU MINH VÔ VI TAM THANH.

Giáng ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn (1976)

 Thơ:

Nhất phiến tiên tâm độ hữu tình

Bồ đoàn (1) vị toạ hạ hồng doanh

Thu phong bất giác đơn y lãnh

Viên nhiệt từ hoài vị chúng sinh.

  (1) Bồ đoàn là cáo gối tròn bằng rơm để ngồi công phu thiền định.

Dịch:

 

Một tấm lòng tiên chan chứa tình

Giờ thiền chưa toạ đã băng mình

Gió thu áo mỏng quên thân lạnh

       Sưởi ấm niềm thương bởi chúng sinh.

 

Tế Phật:  Bữa nay chuẩn bị dạo âm phủ, Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh:  Thưa vâng, con đã sẵn sàng, xin thầy khởi hành...

Tế Phật:  Đã tới nơi, mau xuống đài sen.

Dương Sinh:  Phía trước có một cái thành, trên cửa đề ba chữ Quỷ Môn Quan, cửa ải quỉ là đây rồi, cớ sao cửa thành lại không mở, chỉ nghe tiếng động của nhiều thứ khí cụ va chạm ở bên trong.

Tế Phật:  Cửa Quỷ vốn không mở, người đời đều tự nhiên bước vào, ta dùng quạt bồ quạt một cái, tự nhiên nó mở liền.

Dương Sinh:  Thật hay quá, thầy phất nhẹ quạt Phật, cửa quỉ mở lớn ngay. Nếu như kẻ mới chết, không có quạt Phật, làm sao vào được cửa ải quỉ này.

Tế Phật:  Người chết làm quỷ, đi hết đường trần đến nơi đây, cửa ải quỷ tự nhiên khai thông. Cửa trần đóng, cửa quỷ mở, đó là lẻ kỳ diệu của tạo hoá âm dương. Đi lẹ lên, thầy đưa con tới coi nơi này. Đừng lo nghĩ vẫn vơ nữa.

Dương Sinh:  Xin vâng. Nhưng trong cửa ải quỷ tại sao lại đông đúc người ta quá vậy, y như một cái chợ, không rõ họ còn muốn đi đâu nữa đây?

Tế Phật:  Đó là các hồn quỷ đi thụ án ở mười cửa điện, âm binh đều làm nhiệm vụ dẫn đường, chúng ta hôm nay không cần sem xét kỹ việc này. Hãy mau theo ta.

Dương Sinh:  Dạ dạ, nhưng sao con đường này trắc trở chông chênh quá, và cuối cùng dẫn tới đâu đây?

Tế Phật:  Con đi thêm hai dậm nữa thì rõ liền.

Dương Sinh:  Phía trước có một người đang bị âm binh dẫn đi như thế kia là tại sao vậy?

Tế Phật:  Người đó lúc còn sống là đạo sĩ của phái tu đồng thiếp, nhân vì chưa ngộ được chân lý, huỷ báng cá tôn giáo khác, cho nên bây giờ chết xuống âm ti phải chịu  hình phạt.

Dương Sinh:  Phía trước có một toà lầu, đề bốn chữ "Vạn Pháp Quy Tông" vậy đây là đâu?

Tế Phật:  Bởi nơi đây, hiện thời ngàn "môn" vạn "giáo" mọc lên như nấm, tín đồ không rõ chân lý, công kích lẫn nhau, làm mất ý nghĩa của đạo, nên phạm vào khẩu nghiệp, khi chết phải vào "Vạn Pháp Quy Tông" để tu luyện lại. Phía trước có các thầy dạy đạo tới kìa. Dương Sinh mau đến vái lạy đi con.

Dương Sinh:  Xin cúi lạy quý thầy.

Tông Chủ:  Hoan nghênh Phật Sống Tế CÔng và thánh bút Dương Thiện Sinh từ Thánh Hiền Đường tới thăm. Chúng tôi đã sớm nhận được lệnh phải tiếp đoán quý vị, Miễn lễ, mời đứng vậy.

Tế Phật:  Hôm nay tôi dẫn Dương Sinh tới đây, nhờ Tông Chủ đưa đi thăm các nơi cùng giảng giải cho y hiểu.

Tông Chủ:  Xin chớ khách sáo, mời nhị vị vào trong sảnh. Mời ngồi.

Dương Sinh:  "Vạn Giáo Quy Tông" thật là có ý nghĩa, nhưng tôi chưa hiểu tường tận, mong Tông Chủ giảng rõ nghĩa cho.

Tông Chủ:  Thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: Nho, Đạo, Thích, Gia, Hồi có thể nói đó là các chính giáo nổi tiếng, nhưng nguồn gốc sâu xa của năm tôn giáo đó cũng xuất phát từ "Đạo". Từ thượng cổ vốn không có danh xưng "tôn giáo". Về sau Trời giáng xuống những bậc thánh triết, chia ra ở các nước, thay Trời mà lập ngôn, dạy người hành đạo theo phép của Trời, nhân loại vốn có cùng một tôn giáo, không hề chia rẽ. Nhân các giáo chủ về trời, môn đồ hiểu sai, phân chia nhiều ngã khác biệt, tạo ra cảnh các phe phái chống đối nhau. Họ không hiểu rằng trăm sông đổ về một biển, ngàn cửa đều thuộc một nhà, nên mới tranh giành không tương nhượng nhau, lập môn phái riêng, tự khen là tôn giáo mình cao siêu, dám nói là tôn giáo khác thấp kém . Do đó sau khi chết, linh hồn không thoát khỏi được khí số, rơi hết xuống đây. Ngọc Hoàng vì không nỡ để chúng sanh truỵ lạc, do đó mới mở pháp môn "Vạn Pháp Quy Tông" tại đây để dạy dỗ các tu sĩ u tối giác ngộ chân lý, rồi sau mới được siêu thăng.

Bí Truyền Vạn Pháp Quy Tông

Bí Truyền Vạn Pháp Quy Tông là 1 cuốn sách nổi tiếng trong Giới Huyền Thuật Việt Nam, nội dung chép và các loại phép thuật của tất cả các môn phái, đây là cuốn sách lưu truyền trong dân gian nổi tiếng nhất tại Trung Hoa và Việt Nam, hiện nay nó có hàng trăm bản khác nhau, và được dịch ra ít nhất là 4 thứ tiếng, Việt, Nhật, Triều Tiên, Mã Lai, cuốn sách cũng được các pháp sư Việt Nam dấu rất kĩ và coi như bí truyền, tuy nhiên Vạn Pháp Quy Tông là 1 cuốn bí cấp khó đọc nhất trong tất cả các loại sách hiện nay, nhiều người nghĩ là nó không hề có tác dụng gì, và các pháp trong đó rất khó để luyện, thực tế là không phải vậy, nếu biết cách đọc bạn sẽ hiểu rằng cuốn sách này không hề khó hiểu như vậy, tất cả các pháp trong này đều có thể luyện thành nếu người đọc chịu khó nghiên cứu, Vạn Pháp Quy Tông viết theo lối bí ẩn mà tất cả các pháp trong cuốn sách đều liên quan tới nhau, khi ghép chúng lại sẽ thành 1 pháp hoàn chỉnh.

Quyển Vạn Pháp Qui Tông, có cuốn thì tựa sách in lá Vạn Pháp Qui Tôn đưọc kưu truyền hơn mấy trăm năm nay, khi truyền sang Việt Nam thì ông Trần Cao Vân, một đạo sĩ tu theo Đạo Cao Đài vì ông đã tu từ lâu theo bửu pháp của Đạo Lão, trong pháp Huỳnh Đình có dạy luyện Khí và ông có viết cuốn sách Kinh Dịch để chứng minh Đạo Cao Đài là Tôn Giáo riêng của Việt Nam, nhưng chư Giáo Tổ các thời trước vẫn có dạy Đạo pháp. Vì đao pháp huxyền bí nên mới có bùa chú, tức do sức mạnh của tư tưởng mà tạo ra huyền năng mà ngày xưa nước Lỗ có nhiều vị tu tàng hình được, trong sách của một vị chép lại sách xưa thêm ý tưởng mới có câu:" CAO ĐÀI Tiên bút thi văn tự". Điền nầy chứng minh rõ ràng là ở trong Đạo Cao Đài sau nầy có văn thơ của chư Tiên do thần cơ diệu bút viết ra.

Sưu tầm của Hà Phước Thảo