WELCOME TO




KINH TÁN TỤNG ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ

trong Đạo Cao Đài là bài Kinh giải rơ Thiên Cơ, Thiên văn học, các Định luật trong Càn Khôn Đại Thiên Thế Giới, Ḷng Từ Bi của Đức Chúa Trời hay Đấng Sáng Tạo đă và đang giáo dục
các loài trong Vũ Trụ Càn Khôn.


Hà Phước Thảo, M.A., ĐHVK Saigon, 1974
Sinh viên viết sơ thảo Luận án Tiến sĩ về Tôn giáo học thuộc Khoa Nhân Chủng Tôn giáo học
Ban Nhân Văn, Đại Học Văn Khoa Sái G̣n, tháng 3 năm 1975 bỏ dở, cất dấu v́ bị cấm.
mới ghi:
Bị tù 2 lần (3 năm), trốn thoát, dùng thuyền bỏ nước ra  biển liều chết t́m tự do (Boat People), được tàu Cap Anamur của nước Đức vớt, tị nạn tại CHLB Đức,
ghi danh Promotion tại LMU 1 năm, bỏ học, học và viết Thesis tại A.U. nhận Ph.D., ngày 15.10.2003 tại Washington D.C.


Chưa có tôn giáo nào mở trước năm 1926 trên thế giới và cả ở Việt Nam có bài Kinh bằng chữ NHO như bài Kinh này. Việc sử dụng chữ NHO là v́ theo truyền thuyết của giống Lạc Việt, v́ Nhị vị Quốc Tổ Việt Nam là Đức Lạc Long Quân và bà Âu Cơ là tác giả sơ đồ tạo lập Vũ Trụ là Tiên Thiên Bát Quái hay Hà Đồ do Đức Thượng Đế viết và vẻ trong Thiên Thơ để tạo ra các cơi Tiên Thiên tạo Nhật, Nguyệt và Tinh mà con cháu của hai vị về sau là vua Phục Hi t́m thấy h́nh vẽ những chấm đen trên lưng con Long Mă hay ngựa có lông xù quá huyền bí lạ lùng, cho các quan đại trí khảo cứu; Hậu Thiên Bát Quái là đố án thành lập Hậu Thiên Bát Quái gồm những gạch dài, ngắn theo luật Âm Dương vua Văn Vương t́m thấy trên lưng con rùa, mang về triều nghiên cứu. Măi về sau đến đời sau có Đức Lăo Tử hay Thái Thượng Lăo Quân tức Tiên Ông Thái Cực viết cuốn Đạo Đức Kinh diễn giải và có Đức Khổng Tử, giáo chủ Nho giáo san định ra kết thúc bằng cuốn Kinh Dịch. Chữ NHO là chữ tượng h́nh do Quốc Tổ Lạc Việt là Đức Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ dùng những nét tượng trưng h́nh thể vạn vật để viết thành chữ và đất nước của hai ngài chiếm khu vực từ Động Đ́nh Hồ tức vùng tỉnh Quảng Đông ngày nay qua phía Tây là Quảng Tây, Vân Nam và vùng Delta hai con sông Hồng Hà và Thái B́nh, tức Miền Bắc nước Việt Nam ngày nay. Giống Hán là con cháu của Quốc Tổ Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ lên phí Bắc làm du mục săn bắn kiếm sống nhị vị quốc tổ c̣n sanh tiền đang xây dựng đời và hành đạo pháp, bọn Hán là con cháu bỏ tổ tiên đi lang thang du mục không chịu học canh nông, chưa biết canh tác lai giống sanh đẻ đông và lấy số đông tràn xuống chiếm đất của tổ tiên là quốc tổ nước Lạc Việt và 100 giống Việt lai giống. Đức Lạc Long Quân là con Trời giáng thế, được linh điển của Đức Cha Trời dạy qua linh cảm giác quan thứ sáu hay trực giác vẽ ra Bát Quái Đồ Thiên để biết pháp tu luyện là nấu đơn dược luyện đơn để hoá khí đem khí Hư Vô lấy hào Dương dư ở thận bên trái chiết từ Thận thủy là KHẢM điền lên cung LY hay tâm hỏa để Khảm thành Khôn và LY thành CÀN như lúc mới giáng thế tức là CÀN và KHÔN. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ chỉ có dân Lạc Việt và 54 dân tộc vùng cao nguyên mới nhớ trong trí, dạy cho con cháu đời này qua đời khác nhớ măi trong tâm. Ngày nay Đức Diêu Tŕ Kim Mậu trong Đạo Cao Đài có nhắc truyền thuyết và gọi bằng danh từ chưa có tự điển nào ghi ra. Đó là "Trùng quang Tâm Sừ" hay là bộ sử chỉ nhớ trong trí chứ không viết ra, giống như văn chương b́nh dân khi chữ NHO bị quên lăng khi bọn Hán tộc hay lũ cháu chắt bất hiếu với Quốc Tổ Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Giống Hán không có truyền thuyết này là v́ chúng cướp nhà và đất của ông bà cha mẹ như những đứa cháu bất hiếu, vô tông v́ vô minh.
Khi bị bọn Hán tràn càn quét và tận diệt giống Lạc Việt để chúng cướp của th́ Đức Lạc Long Quân ban Sắc lệnh cho các
nhà luyện kim cổ thời đó kiếm đồng đen, nấu với nhiệt độ cao bằng than củi cây lâu năm, g̣, đập thành trống đồng Ngọc Lữ, vẽ h́nh tượng trưng như đàn chim bay t́m đất sống, những con lăng quăng hay tinh trùng để rán sanh đẻ cho đông mà tồn tại, khi bị Hán đánh th́ đánh báo động để chạy về vùng rừng núi sống theo bà Âu Cơ phá rừng làm rẫy, cấy bắp, ngũ cốc vùng cao nguyên để sống. Số người con là 50 cặp nam nữ cũng do Bát Quái Đồ Thiên bà viết ra; Ông cha của Tổ giống Lạc Việt là Đức Lạc Long Quâm dẫn theo 50 cặp nam nữ về vùng đồng bằng đất thấp có nước để ngài dạy trồng lúa nước. Ngài dặn nhớ khi một năm hết th́ đến Mùa Xuân năm mới th́ tổ chức Đại Lễ kỷ niệm lúc Giao Thừa từ giả năm cũ, bước qua năm mời mà lịch của ngài viết là Âm Lịch theo chu kỳ mặt trăng. Bọn Hán cướp nước Lạc Việt, cướp bùa Bát Quái và chúng học và nước Lỗ nghĩ ra bùa khác như bùa Lổ Ban, c̣n giống Lạc Việt có dựng nêu 7 ngày đầu năm là Lễ TẾT để nhớ truyền thuyết hay "Trùng quang Tâm Sử".
Các tôn giáo khác như Ấn độ giáo, Phật giáo, Lăo giáo và Khổng giáo chưa có bài kinh nào nói về Thiên cơ, Thiên văn học, Vũ Trụ, và v́ Đức Chúa Jesus Christ bị vua Herodes giết hại v́ theo lệnh Đế quốc La-mă là César giết hết trẻ con sanh lúc Chúa Hài Đồng giáng thế vỉ Thánh gia thất đă trốn ra nước khác, đáng lẽ ngài dạy cách công phu "chiết Khảm điền Ly" và khử trược lưu thanh trong 40 ngày mà ngài đă học theo Phật pháp tại Vương Quốc Kaschmir rồi từ lúc mới giáng sanh đến năm 31 tuổi trở vê Do Thái, là pháp nhịn ăn. Khi NHỊN ĂN, chỉ uống, thiền định theo pháp Chiết Khảm điền Ly th́ có thần thông trị mọi bệnh tật. Thực tế, sau khi ngài luyện xong th́ ngài xuống núi Zion ở Sinai để trước hết chữa bệnh cho dân Do Thái, dạy dân Israel ăn chay trường và học thiền, nhưng rủi thay! Vua Do Thái phát hiện là chính Đức Chúa Jesus đă mất tích 31 năm nay trở về Do Thái và xử tử ngài bằng cách đày ngài vác cây thánh giá nặng cho đến chết, do đó Dân Do Thái không có cơ duyên may để học!
Đức Chúa Trời lần chót trong thời đại này là vào năm 1926, ngài không gởi CON MỘT của ngài là Chúa Jesus xuống nữa, mà chính ngài dùng phương pháp thông linh như thần linh học (Spiritism) để xây bàn, cầu cơ hay xuất thần nói ra hay chấp bút như các Tiên tri để ngài cho viết thánh giáo, Sắc lệnh để mở Đạo Cao Đài tại Việt Nam, tên ngài th́ ngài không dùng tiếng Hy-bá-lai (Hébreux hay Hebräisch) như Do Thái dùng là tên Jehova nữa , mà là chữ như CAO là trên cao tột, ĐÀI là cái Đài cao.
Ngài nhắc Bát Quái Đồ Thiên mà ngài đă dạy cho ông Lạc Long Quân và bà Âu cơ lúc nhị vị QUỐC TỔ này lập quốc, ngài đă dạy pháp thiền "Chiết KHẢM điền LY" rồi. Bà Âu Cơ đắc Tiên lên núi (人 + 山 = 仙), c̣n ông Lạc Long Quân trầm ḿnh xuống BIỂN ĐÔNG để xây Bát Quái Đồ Thiên và lập Đồ Trận của Trời là trận hiện nay sắp xảy ra tại Hoàng Sa, Trường Sa mà nước nào bấm nút hỏa tiển mang bom nguyên tử trước tiên th́ chính nước đó tự sát, v́ các nước khác bao vây và phóng "dàn chắn" tức hỏa tiển cho nổ hỏa tiển mới bắn ra và nổ trên không phận nước đó. Ngài đă tiên tri lúc mở Đạo lá ngài cho dân Việt Nam từ Nam chí Bắc sẽ đi ra các nước khác (để phổ hoát Đại Đạo của ngài mà phương tiễn rẻ tiền, cả nghèo cũng đi được, đó là vượt biển và các nước chia nhiệm vụ nhận lănh du học bằng cách cho lũ hổ mang cắn xé và dắt voi dày xéo Thánh Địa Viêt Nam khi thành h́nh chữ S để chuẩn bị cuộc thi cuối cùng lúc Hạ Nguơn trước đổi qua đới Thượng Nguơn Thánh Đức.
Đạo Cao Đài không chỉ là Tôn giáo của Đức Chúa Trời tại Việt Nam và Thiên Cơ để cứu dân Lạc Việt mà thôi, nhưng ngài c̣n cứu cả nhân loại mà cả thế giới chỉ biết Đại Đạo của God mới có vài nước như Pháp, Hoa kỳ, Đức và nơi nào có người Việt Nam tị nạn đang tạm ở đớ để mang sứ mạng phổ biến Đạo của Đấng Sáng Tạo, Cha Chung của loài người.
Đạo Cao là Đại Đạo, là Résumée (bài học ôn) của các Tôn giáo hay đạo có trước, cho nên trong mọi bài Kinh trong Đạo Cao Đài đều nói đến Thiên cơ huyền bí tạo lập VŨ TRỤ, Thiên văn học và các ngành khoa học khác mà Kinh DỊCH là sơ đồ tuyệt diệu và huyền bí mà các nước khác đang nghiên cứu để học huyền bí học.
Sau đây là bài KINH đọc lúc đầu mỗi thời cúng trong Tứ Thời, dù là chữ Hán, nhưng có chư vị đă giải nghĩa rơ ràng theo tiếng NÔM hay chữ Quốc ngữ của Viêt Nam hiện nay. Khi chư Tiên Vương của Việt Nam là hậu duệ của Đức Lạc Long Quân và bà Âu Cơ bổ túc chữ Nho theo giọng của giống Lạc Việt là chữ NÔM và dân tộc Việt Nam c̣n có sứ mạng thêm nữa, là hoàn thành h́nh thể của thánh địa mới thay thế cho thánh địa Israel cũ và phải làm sao cho thành h́nh cong chữ S để chia ṿng Thái Cực của Mẹ Vũ Trụ là Đức Diêu Tŕ Kim Mẫu và mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ. V́ thế mà dân tộc Việt Nam phải bị cộng nghiệp khi các anh em theo bà Âu Cơ đă lập ra những lănh thổ riêng như Champa (Chiêm Thành) và Thủy Chân Lạp (Khmer) phải chịu xuôi tay giao nước quá nhanh mà không cho họ học lịch sử chung từ lúc chạy đi tị nạn đúng con số 50 cặp trai gái đi tị nạn duy tŕ ṇi giống, do đó chiến tranh kéo dài 100 năm giặc Tây để học nền văn minh Tây phương và 36 năm sống trong chủ nghĩa ngoại lai vô thần để trả quả.
Khi chủ nghĩa vô thần bị trừng phạt do Tam Giáo Ṭa xử th́ dân Việt Nam mới trở thành giống dân làm chủ thế giới về đạo đức, Đại Đạo học với Chúa Giê-su tái lâm với danh xưng là Đức Di Lạc Phật Vương Cứu Thế và thiên điển của ngài đă ban Sắc Lệnh cho ngài Bùi Hà Thanh, Chưởng Giáo Chiếu Minh Giáo Ṭa tại B́nh Minh tổ chức Đại Lễ Mừng Long Hoa Hội Khai Diễn tại Vĩnh Long cuối năm 1974 mà ngài đă tiên tri và dạy chư tín đồ là "Không được cúng Vía ngài vào Mùng Một Tết nữa, về nhà tu và đừng cho ai biết ḿnh tu, không được mặc áo tràng nữa th́ mới khỏi bị khảo đảo" vá Đức Cao Đài Thượng Đế có nói trước:"THẦY cho lũ hổ mang cắn xé các con, nhưng các con có bộ thiết giáp, chúng không dám đến gần, đó là đạo đức của các con"
Bài Kinh này khi được dịch ra nhiều ngôn ngữ th́ nhân loại trên thế giới mới biết Đại Đạo của God=Dieu=Gott=Đức Thượng Đế=Đức Jehova=Đức Chúa Trời=Đức Cao Đài là đấng nào, và khi hiểu th́ mới chịu tu, làm lành, lánh dữ, ăn chay trường, luyện Đạo để đắc Đạo, thành Tiên như bà Âu Cơ và tác Phật như Đức Lạc Long Quân và sau này là Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn-độ, thoát khỏi luân hồi nội trong kiếp này.

I. PHẦN HÁN VĂN:


Caodai3

Đại La Thiên Đế
Thái Cực Thánh Hoàng
Hóa dục quần sanh
Thống ngự vạn vật
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh
Nhược thiệt, nhược hư
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa
Thị không, thị sắc
Vô vi nhị Dịch sử quần linh
Thời thừa lục long
Du hành bất tức
Khí phân tứ tượng
Oát triền vô biên
Càn kiện cao minh
Vạn loại thiện ác tất kiến
Quyền phạm quảng đại
Nhứt toán học phước lập phân
Thượng chưởng tam thập lục thiên
Tam thiên thế giái
Hạ ốc thất thập nhị địa
Tứ đại bộ châu
Tiên thiên, hâu thiên
Tịnh dục Đại Từ Phụ
Cỗ ngưỡng, kim ngưỡng
Phổ Tế Tổng Pháp Tông
Năi nhựt nguyệt tinh thần chi quân
Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ
Trạm tịch chơn Dạo
Khôi mịch tôn nghiêm
Biến hóa vô cùng
Lủ truyền bửu kinh dĩ giác thế
Linh oai mạc trắc
Thường thi Thần Giáo dĩ lợi sanh
Hồng oai, hồng từ
Vô cực, vô thượng
Đại thánh, đại nguyện
Đại tạo, đại bi
Huyền Khung Cao Thượng Đế
Ngọc Hoàng tích phước
Hựu tội Đại Thiên Tôn.


II. – PHẦN THÍCH NÔM


1. Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng:
Đấng vua Trời trên cơi Đại La, Đức Thái Cực Thánh Hoàng.

2. Hóa dục quần sanh:
Ngài là Đấng sinh hóa, giáo hóa và dưỡng dục muôn loài chúng sanh.

3. Thống ngự vạn vật:
Ngài vừa thống trị vạn vật, vừa ngự trong vạn vật để duy tŕ sự sống.

4. Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết:
Ngài ngự nơi cửa Huỳnh Kim Khuyết chiếu diệu vô cùng

5. Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh:
Nơi đó là kinh thành Bạch Ngọc ṿi vọi nguy nga

6. Nhược thiệt, nhược hư:
H́nh trời dường như dày đặc, dường như trống không lặng lẽ. Dường như có, dường như không.

7. Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa:
Chẳng nói năng chi (không lời, lặng lẽ, không bày tỏ ra) Mà sinh hóa, biến hóa, giáo hóa vô cùng tận.

8. Thị không, thị sắc:
Thiệt không không, thiệt sắc sắc (Không và Sắc là hai h́nh thái của Đại Đạo, của Thượng Đế).

9. Vô vi nhi Dịch sử quần linh:
Vô vi (không thấy làm ǵ hết) mà sử khiến toàn linh sanh chúng bằng Dịch Đạo

10. Thời thừa lục long:
Thường cỡi sáu rồng

11. Du hành bất tức:
Vận chuyển đi khắp vũ trụ không ngừng nghỉ

12. Khí phân tứ tượng:
Nhất khí Thái Cực phân ra Bốn Tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái âm, Thiếu Âm).

13. Oát triền vô biên:
Xây chuyển vô cùng vô tận

14. Càn kiện cao minh:
Ngôi càn (Trời) cứng mạnh, cao vọi, sang suốt

15. Vạn loại thiện ác tất kiến:
Việc lành dữ của muôn loài đều thấy hết

16. Quyến phạm quảng đại:
Quyền năng, phép tắc, rộng lớn vô biên

17. Nhứt toán họa phước lập phân:
Trong một toán (một cái tính) mà họa phước đều phân rành

18. Thượng chưởng tam thập lục thiên:
Trên (Thượng Giới) th́ cai quản 36 tầng trời

19. Tam thiên thế giới:
Ba ngàn thế giới

20. Hạ ốc thấp thập nhị địa:
Dưới (Hạ Giới) th́ tóm cầm 72 quả địa cầu.

21. Tứ Đại Bộ Châu:
Bốn Bộ Châu lớn

22. Tiên Thiên, Hậu thiên:
Cơi Tiên Thiên, cơi Hậu Thiên

23. Tịnh dục Đại Từ Phụ:
Đấng Cha Cả trọn lành lặng lẽ nuôi nấng thương yêu muôn loài

24. Cỗ ngưỡng, kim ngưỡng:
Đời xưa ngưỡng mong, Đời nay ngưỡng mong

25. Phổ Tế Tổng Pháp Tông:
Tổng quản Pháp Tông, tế độ rộng khắp

26. Năi Nhựt Nguyệt, Tinh, Thần chi quân:
Là vua của tất cả Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần (làm chủ tất cả sự vận hành của Nhật, Nguyệt, Tinh tú, ngày giờ)

27. Vi Thánh, Thần Tiên, Phật chi chủ:
Làm Chủ Tể tất cả các v́ Thần, Thánh, Tiên, Phật.

28. Trạm tịch chơn Đạo:
Chơn Đạo (của Thượng Đế) trong trẻo, lặng lẽ

29. Khôi mịch tôn nghiêm:
Rộng lớn, yên lặng và tôn nghiêm

30. Biến hóa vô cùng:
Biến hóa không cùng tột

31. Lủ truyền bửu kinh: dĩ giác thế:
Hằng truyền kinh báu đánh thức người đời

32. Linh oai mặc trắc:
Oai linh không thể đo lường được

33. Thường thi Thần Giao1di4 lợi sanh:
Thường thực thi Thần Giáo dể làm lợi ích cho chúng sanh

34. Hồng oai, hồng từ:
Oai đức rộng lớn, ḷng tứ ái tột cùng

35. Vô cực, vô thượng:
Cao tột độ, lớn tột cùng, không c̣n chỗ để so sánh (tuyệt đối)

36. Đại Thánh, Đại nguyện:
Thánh đức vô biên, Hạnh nguyện vô cùng.

37. Đại Tạo, Đại Bi:
Đức Tạo Hóa rộng lớn, ḷng từ bi cao cả

38. Huyền Khung Cao Thượng Đế:
Đấng Thượng Đế nơi cơi huyền vi

39. Ngọc Hoàng tích phước:
Đấng Ngọc Hoàng hay ban phước

40. Hựu tội Đại Thiên Tôn:
Đấng Thiên Tôn cao cả hăy tha tội cho chúng con

DamSen



III. CHÚ GIẢI DANH TỪ


Đại La Thiên Đế: Vua Trời cơi Đại La Thiên

Đại: lớn
La: tấm lưới
Thiên: trời

Ư nói: Đây là cơi trời bao la, rộng lớn mênh mông, giống như tấm lưới vô tận bao trùm khắp cả càn khôn vũ trụ.

Bầu vũ trụ bao la dược ví như tấm lưới thiên nhiên bao trùm hết cả từ cái hữu sắc tướng và vô sắc tướng đang vận chuyển trong đó. Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần, Thánh, Tiên, Phật đang vận chuyển trong không gian ví như hằng hà sa số cái mắt lưới bao la, mà giềng mối của tấm lưới ấy do Đấng Tạo Hóa Tức là Thái Cực Thánh Hoàng nắm giữ trong tay.

Thiên Đế: Tiếng thông thường gọi là ông vua cơi trời.


Thái Cực Thánh Hoàng: Ông Vua cơi Thái Cực

Hồi thời ḱ nguyên sơ, chưa có ǵ trong vũ trụ, chỉ có một Khí Thái Sơ hỗn độn, độn độn, gọi là “Tiê Thiên Hư Vô Hạo Nhiên chi Khí”. Thời kỳ đó, trạng thái đó gọi là “Vô Cực”.

Khí Tiên Thiên xây vần lâu dời nhiều kiếp, hợp lại thành một khối duy nhứt có hai nguyên năng: Nguyên Lư và Nguyên Khí. Hai nguyên năng đung đẩy nhau nổ tung một tiếng kinh thiên động địa. Từ đó xuất hiện ra một Đấng “Thái Cực” Sáng suốt vô cùng, nhiệm màu vô tận. Đó là Đấng Chủ Tể Càn Khôn Vũ Trụ, cầm giềng mối Đạo Tạo Hóa muôn loài vạn vật.

V́ Ngài đứng trên hết vũ trụ vạn vật, nên người đời tôn xưng bằng nhiều tên: “Thiên Phụ, Thiên Vương, Thượng Đế, Lăo Tổ, Lăo Mẫu, Như Lai Chân Tể, tức là Đạo Lớn (Đại Đạo)”.

Trong bài kinh này, người ta tôn xưng Ngài là “Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng”, Kỳ thực Ngài là Đấng “Vô Danh”.

Trong kinh Đại Thừa Chơn Giáo, Thầy có dạy như sau:

“…
Trong vũ trụ càn khôn lấy “Lư Thái Cực” làm Chủ Tể của muôn triêu ức sanh linh và chưởng quản vật chất hữu h́nh (linh hồn và xác thịt). Trong Trời Đất có cái Lư nhứt định thanh quang là “Thái Cực” làm trung tâm điểm cho vũ trụ càn khôn muôn loài vạn vật. Cái Lư độc nhất ấy toàn tri, toàn năng, biến hóa vô cùng, vô tận, dưỡng dục cả sanh linh, bảo tồn vạn loại.

Lư dộc nhất ấy bao quát thần thông, quay chuyển bánh xe vô h́nh mà làm nấc thang tiến hóa chung cho tinh thần vật chất, mở mang cái trí huệ cho mọi người noi theo Thien Lư vận hành mà tăng tiến măi, lên cho dến chỗ kỳ cùng mục đích là nơi nhứt định.

Sách Đạo Học Chỉ Nam giải rằng:

Thái Cực ban sơ là Nguyên Lư của cuộc sanh hóa. Mầm sanh hóa đó khởi dậy, th́ nó sẽ diễn đạt qua nhiều giai đoạn, để cho người người có một ư thức liên hệ giữa Trời Đất và chúng sanh. Vũ Trụ là h́nh thể của Trời Đật. H́nh thể được xây dựng bởi một Âm một Dương”.

Cơi Đại La Thiên: là cơi Trời cao hơn hết trong 36 cơi trời “Tam Thập Lục Thiên”, nơi đó có cửa Huỳnh Kim Khuyết, có Ṭa Thiên Các Bạch Ngọc nơi đó có Thượng Đế ngự.

Thái Cực Thánh Hoàng: Ngôi Thái Cực Thánh Hoàng, tức là Thượng Đế thị hiện nay là Thượng Đế ngoại tại. Ngài là khối Đại Linh Quang Chủ Tể, Toàn Tri, Toàn Năng, trọn lành, trọn tốt, xuất hiện từ hư Vô Chi Khí (thuộc ngôi Vô Cực) mà ra. Sau khi hiện ra rồi, th́ ngôi Thái Cực bèn phân định Âm Dương hay là Lưởng Nghi. Dương Nghi và Âm Nghi lại phân ra Tứ Lượng thuộc ngôi Hoàng Cực Đại Trung là Thái Dương có ẩn Thiếu Âm, Thái Âm có ẩn Thiếu Dương. Ngôi Tứ Tượng lại biến thành Bát Quái (tám quẻ đơn) là: Càn.Khảm,Cấn,Chấn,Tốn,Ly,Khôn,Đoài. Rồi Tám quẻ đơn lại biến thành 64 quẻ kép hay là Tùng Quái, cộng tất cả là 384 hào,và từ đó cứ biến hóa ra mại mà thành Tam Tài (Thiên Địa Nhơn) và Ngũ Hành (Kim Mộc Thủy Hoả Thổ) và hóa hóa sanh sanh muôn loài vạn vật.

Vậy cơ tạo dựng càn khôn vũ trụ, hóa sanh muôn loài vạn vật bắt nguồn từ Ngôi “Thái Cực”.

Bởi thế cho nên khi mới mở Đạo tại Việt Nam, Đấng Chí Tôn, tá danh là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” mới nói rằng:

Khí Hư vô sanh ra có một Thầy… Nếu không có Thầy th́ không có chi trong Càn Khôn thế giới nầy; mà nếu không có Hư Vô Chi Khí th́ không có Thầy”.

Thầy lại nói:

Thầy vốn là Hư Vô Chi Khí (énergie consmique), không giống cái chi hết các con chớ nên tạo h́nh Thầy mà thờ”.

Để làm biểu tượng thiêng liêng cho Đại Đạo Cao Đài, Thượng Đế dụng huyền linh cho Ngài Ngô Văn Chiêu thấy “Thiên Nhăn” hiện lên ba lần tại đảo Phú Quốc, và sau đó Thượng Đế mới dạy cho môn đồ hiểu lư do v́ sao phải thờ “Thiên Nhăn” và từ đó mới truy nguyên con đường trở về hiệp nhứt cùng Thầy.

Thật ra, môn đồ Đạo Cao Đài đều cho rằng thờ “Thiên Nhăn” là thờ Thầy, kỳ thật “Thiên Nhăn” cũng chưa phải là Thầy mà chỉ là một thị hiện huyền vi của Thầy để giác ngộ cho môn đồ và chúng sanh mà thôi.

* * * * *



Hóa dục quần sanh:

Hóa: là sanh hóa và giáo hóa.
Dục: là dưỡng dục và giáo dục.

Đấng Tạo Hóa sanh hóa môn loài vạn vật, c̣n tạo đủ điều kiện sinh phát để dưỡng dục và giáo dục cho môn loài được tiến hóa.

Quần sanh: muôn loài chúng sanh.

Chúng sanh nói chung, gồm ba hạng:

Hạ sanh: chỉ có sự sống mà chưa có giác hồn và linh hồn như loài: kim thạch, thảo mộc, côn trùng.
Trung sanh: có sinh hồn và giác hồn, nhưng chưa có linh hồn như: cua ốc,tôm cá,rùa rắn,chim chóc,súc vật.
Thượng sanh: có đủ 3 hồn là sanh hồn, giác hồn và linh hồn như: loài người.

Tất cả muôn loài chúng sanh đều được Đấng Tạo Hóa sanh hóa và nuôi dưỡng trong bầu sinh khí của Tiên Thiên Hư Vô để tiến hóa không ngừng.

Nói riêng về loài có sự sống th́ người ta phân ra 4 loại sau đây:

Thai sanh: loài sanh đẻ ra con như loài người và loài hạ thú.
Noản sanh: loài đẻ ra trứng như loài thượng cầm.
Thấp sanh: loài do sự ẩm thấp của hơi đất với nước mà hóa sanh ra, như các loài cá, loài thủy tộc nói chung.
Hóa sanh: loài do thời tiết biến đổi, do trợ duyên trong vũ trụ biến đổi mà đột nhiên sanh ra như: lá cây hóa sanh côn trùng, loài sâu bọ, châu chấu đột nhiên hóa sanh ra muôn trùng gây tai hại cho nhơn sanh.

Bốn loài nói trên gọi là tứ chúng (bốn loại chúng sanh). Ngoài ra c̣n có loài thảo mộc, hoặc sanh trên đất, trên đá, gởi trên nhánh cây khác, hoặc ở dưới sông dưới biển.

* * * * *



Thống ngự vạn vật:

Thống: quản lư tất cả mọi việc, tóm thâu quyền uy cai quản.
Ngự: thống trị, trị v́; đối với vua thường gọi là ngự trị.

Thống ngự vạn vật: vừa thống lănh việc cai quản, vừa ngự trị vạn vật.

Thượng Đế ban sự sống cho vạn vật vừa ở trong sự sống của môn loài. Ở trong sự sống của vạn vật đều có Thượng Đế ngự trong đó.

Trong một Thánh Giáo dạy tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lư, Thầy nói rằng:

Thầy ngự trong ḷng mỗi chúng sanh,
Chúng sanh giác ngộ biết tu hành,
Thương yêu mựa tách người khôn dại,
Điều độ đừng chia kẻ dữ lành.
Tiên Phật không riêng quyền với tước,
Thánh Thần chẳng lựa lợi và danh.
Đạo tâm mới hiểu xuân tâm quư,
Xuân ở xuân tâm Đạo sớm thành.

* * * * *


Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết:

Diệu diệu: chiếu sáng ḷa, chiếu diệu huy hoàng.
Huỳnh Kim Khuyết: Cửa Khuyết đưa vào Bạch Ngọc Kinh chiếu sáng như vàng ṛng.

Huỳnh Kim: vàng ṛng toàn một màu vàng rực rỡ. Hai chữ nấy cũng c̣n có nghĩa là cơi Trung Ương của bầu Càn Khôn Vũ Trụ (Trung Ương Mồ Kỷ Thổ, màu vàng).

Khuyết: cũng đọc là “quyết” là cửa đền vua.

Diệu Khuyết: cái cửa huyền diệu, nhiệm mầu.
Kinh Khuyết: cửa kinh thành.

* * * * *


Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh:

Ṭa Thiên Các Bạch Ngọc Kinh cao vời vợi, nguy nga, hùng tráng, lộng lẫy vô cùng.

Nguy nguy: cao đẹp tuyệt vời, nguy nga lộng lẫy vô cùng.
Nguy lâu: lầu cao.
Nguy nga: cao vời vợi và tráng lệ vô cùng.
Bạch Ngọc kinh: Kinh đô Cơi Trời, hào quang chói sáng, màu trắng trong như ngọc vậy.

Toàn thể câu kinh: Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh mô tả kinh thành Bạch Ngọc, nơi Đức Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng ngự, thật cao ṿi vọi, hùng tráng, uy nghi, vĩ đại khủng khiếp, không thể tưởng tượng được.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có bài thơ tả Bạch Ngọc Kinh như sau:

Một ṭa Thiên Các ngọc làu làu,
Liền bắt cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then cài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng, đoanh đở nổi,
Vững bền muôn kiếp chẳng hề sao.

Trong kinh Thiên Đàng Du Kư, Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn có dạy như sau:

Ở cơi Thái Cực c̣n phân chia nam nữ âm dương; một sớm tu tới quả vị Vô Cực ắt trừ khử hết chất âm dương, cho nên “Thượng Đế” chỉ là một bầu “Hư Linh” trống rỗng thiêng liêng, không nam, không nữ, không già, không trẻ, nay tôn là “Lăo Mẫu” để biểu thị khả năng có thể sinh đẻ, nuôi dưỡng Trời Đất cùng vạn vật. Lại c̣n h́nh dung “Thượng Đế” như ḷng Trời từ ái, có đức hiếu sinh, giống hệt như Bà Mẹ thương con ở cơi thế gian. Mong người đời giác ngộ lẽ nầy.

Cơi Tam Thanh thuộc vùng trời Đại La, chính là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, tấ cả vạn vật đều bao la. Đây là “Tổ Khí” của Trời Đất thuở hỗn mang ban đầu cho nên hào quang Đạo Khí vô địch.Bầu khí toàn một vẽ mịt mờ, tức là “Đạo Lớn” (Đại Đạo), cũng là một khí Tông Chủ vậy, cũng c̣n tôn xưng là “Phật Tổ Vô H́nh, Hồng Quân Lăo Tổ, Hỗn Nguyên Thánh Tổ, Tiên Thiên Lăo Tổ”.

* * * * *



Nhược thiệt, nhược hư:

Nhược thiệt: ví bằng dày đặc, như dày đặc.
Nhược hư: ví bằng trống không, như trống không.

Câu này có ư nói: Thiên Thể Chất, Đạo, hay Thượng Đế không thị hiện, hoặc là ngưng đọng lại mà tạo ra Nhựt, Nguyệt, Tinh Tú trong vũ trụ.Càn khôn, hoặc là hết sức loảng đến chỗ hư tịch (yên lặng trống không), đúng theo lư “Khí chi khinh thanh, thượng phù giả vi Thiên, khí trọng trược hạ ngưng giả vi Địa”. Nghĩa là: Khí trong trắng nhẹ nhàng th́ bay lên mà làm Trời; khí nặng nề trọng trược th́ ngưng kết ở dưới của vũ trụ mà làm Đất (các v́ tinh tú, các quả địa cầu).

* * * * *



Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa:

Không nói ra mà yên lặng thể hiện sự tạo hóa vĩ đại vô biên.

Về điểm nầy, trong sách Luận Ngữ, Đức Khổng Tử có nói: “Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên, vạn vật sanh diện, Thiên hà ngôn tai!” Nghĩa là: Trời có nói ǵ đâu! Bốn mùa há không vận chuyển sao? Muôn vật há không sanh sản sao? Trời có làm ǵ đâu!

Bất ngôn: không nói năng ǵ, lặng lẽ.
Mặc tuyên đại hóa: âm thầm thể hiện quyền năng đại tạo, đại hóa của Ngài.

* * * * *



Thị không, thị sắc:

Rằng trống không, rằng có sắc tướng.

Đạo thị hiện qua hai h́nh thái: trống không hư tịch gọi là Chơn Không, hoặc là ngưng đặc lại để tạo ra các sắc tướng (các hiện tượng và muôn loài).

Trong Đạo Đức Kinh, Đức Lăo Tử mô tả cái Đạo là:

: danh Thiên Địa chi thủy, nghĩa là ở trạng thái “Không” đó là nguồn đầu của Trời Đất.
Hữu: danh vạn vật chi Mẫu, nghĩa là ở trạng thái “Có hay là Sắc” đó là Mẹ đẻ của muôn loài.

Ngài cũng có nói: “Hữu xuất ư Vô” nghĩa là cái “Có” do từ cái “Không” mà sanh ra.

Trong kinh Thiên Đàng Du Kư, Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn giảng dạy về lẽ “Sắc Không” như sau:

Chúng sanh mê muội nhận lầm cái “Có”. Đạo vốn là “Không”. Cũng có loại chúng sanh nhận lầm cái “Không”.Đạo lại vốn không cả cái “Không”. Chẳng “Có” chẳng “Không”, là “Có” là “Không”, thấu được lẽ đó vượt lên tất cả.

* * * * *



Vô Vi nhi Dịch sử quần linh:

Câu này có thể hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.

Theo sát nghĩa, nghĩa hẹp, câu này muốn nói:

Cái Đạo Vô Vi, không bày làm, không thấy làm chi hết mà vận dụng và sai khiến toàn linh (tất cả chúng sanh và tất cả Đấng Thiêng Liêng, nguyên linh cùng tàn linh trong vũ trụ).

Từ ngữ “Vô Vi” phải được hiểu là cái “Đại Đạo” hay là “Thượng Đế”.

Trong vũ trụ vạn vật này, không ai thấy “Thượng Đế” để tay vào đâu, làm ra việc ǵ cả, mà vũ trụ vạn vật xây chuyển không ngừng, sanh hóa, biến đổi vô tận. Bởi vậy mới có câu “Vô Vi nhi vô bất vi”, chẳng thấy làm cái ǵ hết mà thực ra không có ǵ là không làm, đâu đâu, mỗi mỗi đều có bàn tay vô h́nh nhiệm mầu tuyệt diệu của Tạo Hóa trong đó.

Tại Ṭa Thánh Định Tường , xưa kia Đấng Chí Tôn có ban cho 3 bài thi sau đây:

Hai chữ “Vô Vi” mối Đạo Thầy,
Bốn mùa luân chuyển cứ vần xây,
Chim bay, cá lặn, hoa đua nở;
Nào thấy Thợ Trời có để tay?

Để tay sao gọi Đạo Vô Vi,
Mấy trẻ lầm nghe, nghĩ cũng kỳ,
Lộn xộn, lăng xăng, lo tính tính;
Rằng đua công quả xuống trường thi.

Trường thi ai lập ở nơi nao?
Nào thấy đâu là cái bảng rao?
Nếu có bảng rao là vật chất;
Khuyên đời khá tỉnh giấc chiêm bao!

Như trên đă nói, Đức Đại La Thiên Đế Thái Cực Hoàng sai khiến toàn linh (tất cả nguyên linh và tàn linh) không phải bằng lời nói, bằng việc làm cụ thể, mà bằng mănh lực của tư tưởng của tinh thần. Khối Đại Chơn Thần của Ngài được thị hiện ra bằng Thiên Lư, bằng Luật Thiên Điều, bằng định luật thiên nhiên tượng trưng một trật tự thiên nhiên tuyệt hảo, tuyệt công minh.Quần linh, dù hữu vi hữu tướng, hay vô vi vô tướng, đều phải tuân y. Tuân theo đó th́ c̣n, nghịch lại đó th́ chết mất, th́ bị tiêu diệt. Sách Nho có câu: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” là như vậy.

Giải theo nghĩa rộng, câu kinh này có thể hiểu như sau:

“Vô Vi” là Đạo Dịch, sử khiến toàn sanh chúng.

Vô Vi: là cái Đạo tự nhiên của Tạo Hóa. Cái Đạo đó chẳng qua là một cái “Dương Ngũ Hành” một cái “Âm Ngũ Hành”, một cái sanh một cái thành mà thôi.

Tuy phân ra Ngũ Hành, kỳ thật là một Âm một Dương vận dụng cái Đạo. Tuy một Âm một Dương, kỳ thật là “Một Khí” qua lại vận dụng cái Đạo. Đạo phát tại Trung Ương, rồi trở vào cũng dứt tại Trung Ương.Ra, vào th́ chẳng chi khác hơn là “Một Khí” chẳng khác chi hơn là “Một Trung”. Trung này là cái gốc lớn của thiên hạ, ấy là “Thổ Cư Trung” ḥa hiệp hết “Tứ Tượng”.

Ḥa là con đường suốt chung cho thiên hạ, ấy là Tứ Tượng tại ngoại (chạy ra phía ngoài), chỉ có Một Khí lưu hành,. Trưng vừa là Ḥa, vừa là Một Khí, cả thảy đều là “Thái Cực”.

Đạo thượng đức Vô Vi, tức là Lư Hà Đồ, và Vô Vi tức là cái Đạo tự nhiên của Tạo Hóa.

Đấng “Thái Cực Thánh Hoàng” không bày làm điều chi (ṛng là vô vi) song các Đấng Thần Linh thiêng liêng đều tuân mạng.

Đạo của Trời Đất không làm ǵ hết, không ai thấy Tạo Hóa để tay vào đâu, nhưng không cái ǵ Nó không làm, cái ǵ cũng có, có muôn trùng vạn hữu, đời đời kiếp kiếp.

Theo Trang Tử “Vô Vi” không phải là ngồi không buông xuôi không làm ǵ hết, mà làm theo Trời (Thiên) không làm theo Người (Nhơn), làm theo “Thiên Tánh” mà không làm theo “Phàm Tánh”.

Theo Trang Tử, “Vô Vi” có hai nghĩa:

Nghĩa tiêu cực: là không làm ǵ sái với cái tự nhiên của Thiên Tánh

Nghĩa tích cực: là dẹp bỏ tất cả những ǵ có thể làm trở ngại cho sự phát triển của Thiên Tánh của ḿnh.

Giáo Lư nhà Phật không nói “Vô Vi” mà nói “Chơn Không”.

Chơn Không nghĩa là thật không. Thật không ở đây chẳng phải là tuyệt nhiên không có ǵ cả, như người đời lầm tưởng. Kỹ thuật “Không” có nghĩa là tuyệt đối, chỉ có một mà không có cái thứ hai để đối đải, để so sánh, và cũng không thể dung lời nói , chữ nghĩa, óc tưởng tượng mà suy luận được. Như vậy “Chơn Không” là một cái ǵ đó thật tuyệt đối, một cái ǵ chỉ có Một trong vũ trụ mà không có cái thứ hai.

Cái “Chơn Không” đó vừa rộng lớn vô biên, vừa nhiệm mầu vô cùng, vừa lâu bền vô tận, bao trùm khap871 cả không gian, thời gian,không thể đem so sánh với một vật ǵ khác được. V́ vậy tưởng rằng không có ǵ, kỳ thật vẫn có, có chắc chắn hiển nhiên. Bởi vậy nhà Phật không gọi cái đó là toàn không, mà gọi là “Chơn Không Diệu Hữu”.

Cũng v́ Chơn Không, Bản Thể, Chơn Tâm, Chơn Ngă của vạn vật là bao la vô cùng tận, không h́nh tướng, không tên tuổi, cho nên mới gọi là “Cái không tướng mới là thật tướng của vạn vật”.

Bản Thể ấy có từ thời vô thủy, không nhân nào sanh ra Nó (Non Né) cho nên Nó không có quả diệt , nghĩa là không bao giờ hư hoại, không bao giờ chấm dứt, cho nên c̣n gọi là “Vô Sanh Bất Diệt”.

Theo Nho Giáo, Đức Khổng Tử phát minh ra cái học thuyết của Ngài, chủ lấy cái sự theo “Thiên Lư” làm căn bản. Ngài lấy cái chủ nghĩa “Thiên Địa vạn vật nhứt thể” làm thống hệ cho học thuyết của Ngài. Ngài tin có “Lư Thái Cực” độc nhứt, tuyệt đối, nhưng v́ Lư ấy cao siêu mầu nhiệm quá, trí phàm con người không thể biết được, cho nên Ngài để cái Bản Thể của “Lư Thái Cực” ra ngoài phạm vi tri thức của con người, mà chủ lấy cái động thể của “Lư Thái Cực” để biết sự biến hóa của Trời Đất vạn vật, tức là tong chỉ của “Dịch” học.

Như vậy, theo quan điểm của Nho Giáo th́ “Dịch” là cái “Vô Vi” biểu hiện ra vạn hữu, rồi từ vạn hữu trở về nguồn gốc hư vô.

Nói tóm lại cũng một danh từ “Vô Vi” nói khác nhau, nhưng chỉ nhằm vào một ư: Lăo Trang nói “Đạo”, nhà Phật nói “Chơn Không”, nhà Nho nói “Thiên Lư” đều là nói đến “Vô Vi” vậy.

* * * * *



Giả nghĩa chữ “Dịch”:

Theo Trịnh Huyền, Dịch gồm có 3 nghĩa:

1. – Biến dịch
2. –Bất dịch
3. – Giản dị.

1. Biến dịch:

Đạo của Dịch là biến măi, biến động không ở yên một nơi nào cả, châu lưu khắp, lên xuống bất thường, cứng mềm thay đổilẫn nhau, cho nên không thể lấy cái ǵ làm chủ yếu điển h́nh cố định, mà chỉ biến để thích ứng hay thích nghi mà thôi.

Nói chung, Đạo của Dịch là Biến: cái ǵ “ở một chỗ” cũng biến; cái ǵ “châu lưu” cũng biến; cái ǵ “vô thường” cũng biến; cái ǵ “đối lẫn nhau” cũng biến. Cái ǵ cũng biến th́ không có cái ǵ dung làm điểm yếu cả.

2. Bất Dịch:

Nghĩa thứ hai của ”Dịch” là “Bất Dịch” hay là “Bất Biến”.

Tại sao vậy?

- Là v́ sự biến hóa ở mọi vật bao giờ cũng diễn biến trong ṿng trật tự theo một qui luật bất di bất dịch. Cái luật bất di bất dịch ấy Dịch gọi là “Thường” nghĩa là thường trụ bất biến.

Dịch truyện có câu: “Động Tịnh hữu thường” nghĩa là Động hay Tịnh cũng đều bị cái luật “Thường” chi phối.

Lại cũng nói: “Ngôn thiên hạ chi chí động, nhi bất khả loạn dă” nghĩa là tất cả sự vật dưới trời đều rất động, nhưng không hề loạn (nhờ có luật “Thường” chi phối mà sự đống ấy không sanh rối loạn). Đạo “Thường” tức là Đạo “Trung”, cái Đạo Quân B́nh. Chính v́ theo luật “Thường” (bất biến) ấy mà vũ trụ vạn vật biến hóa.

Cái Đạo “thường hằng bất biến” ấy chính là cái căn bản của vũ trụ vạn vật, cũng gọi là “Hoàng Cực”.

Cái luật “Thường” chi phối tất cả mọi sự mọi vật, nên gọi là “Bất Dịch”.

Luật “Thường” tuy không thấy làm ǵ hết, nhưng thật sự không có cái ǵ thoát ra ngoài quyền năng của nó. Nó có mặt ở mọi cuộc biến hóa trong Trời Đất. Nó bắt buộc không có sự ǵ, vật ǵ đi đến thái quá bất cập, nghĩa là hễ dư th́ nó bù, thiếu th́ nó thêm (bổ bất túc, tổn hữu dư). Nó chính là luật Quân B́nh. Nó là vô h́nh, nó là Vô Vi, nhưng mà “Vô vi nhi vô bất vi” dường như không làm ǵ cả, kỳ thật không có cái ǵ mà không có cái bàn tay huyền bí nhiệm màu của nó xen vào.

3. Dịch củng có nghĩa là “Dị” (dị giản) không phức tạp.

Bất Dịch và Dị giản tuy cùng một ư, nhưng có chỗ phân biệt.

Bất Dịch: là nói về nguyên lư của Dịch Đạo.
Dị Giản: là nói về chỗ ứng dụng của Dịch Lư.

Nếu biết rơ được cái Lư “Bất Dịch” của Dịch, th́ cũng có thể hiểu rơ được cái Dụng “Giản Dị” của Nó.

Tất cả tinh hoa của Dịch nằm trong 3 nguyên tắc nói trên. V́ Dịch có đến 3 nghĩa, biến hóa 2 chiều ngược xuôi, nhưng tựu trung chỉ có Một. Có thể nói Dịch Một mà Ba, Ba mà Một.

Tóm lại, Dịch gồm cả cái Đạo “đi ra” và “đi về” tượng trưng bằng cái h́nh đồ.

Dịch đi ra là Đạo “Biến”. Dịch đi về là Đạo “Bất Biến”.

Dịch Đạo là Một ra, Một vào (một mở, một đóng) như một bộ hô hấp. Cho nên Dịch là nơi xuất phát của hai hệ thống triết học Trung Hoa:Khổng Học và Lăo Học, tuy giống nhau mà bổ túc cho nhau,dùng làm biểu lư cho nhau.

* * * * *



Có nhiều nơi giải thích chữ “dịch” là “sai khiến làm việc”.

Và toàn câu “Vô Vi nhi dịch sử quần linh” có nghĩa là “không làm ǵ cả mà sai khiến các bậc Thần Linh”.

Hiểu như vậy và giải như vậy th́ quá giản dị. Nhưng hiểu một cách sâu xa hơn th́ chữ “dịch” là Đạo Dịch.

Và toàn câu “Vô Vi nhi Dịch sử quần linh” th́ lại có nghĩa là “Đạo Vô Vi” tức là Dịch Đạo, làm chủ chốt, sử khiến toàn linh sanh chúng trong càn khôn vũ trụ.

* * * * *



Dịch: c̣n có 2 nghĩa khác, “Kinh Dịch” và “Đạo Dịch”.

Kinh Dịch:

- là một “Thánh Thư” sâu xa mầu nhiệm chẳng biết có từ bao giờ, nhưng tương truyền rằng đời vua “Phuc Hy” đă bất đầu có kinh Dịch rồi.
Nhiều nhà đại trí giả Trung Hoa đă nghiên cứu kinh Dịch và cho rằng đó quả là một “kỳ thư” gộp nắm được tất cả mọi nguyên lư sinh thành và suy vong của vạn vật. Có người bảo: “Dịch, quán quần kinh chi thủ” (Dịch là quyển sách đầu năo, bao quát tất cả mọi kinh sách của nền văn học nghệ thuật và khoa học của Trung Hoa).

- Người học rộng cho kinh Dịch là bộ sách kỳ ảo, hay là một thứ kinh vô tự. Hạng b́nh dân tưởng rằng kinh Dịch chỉ là bộ sách bói toán.

- Nhiều nhà Đạo gia cho rằng kinh Dịch nói lên cái tinh thông linh diệu của khoa học “tiên tri, tiên giác”.

- Nhiều nhà nghiên cứu kinh Dịch gồm cả hai cái học nhứt nguyên và nhị nguyên. Bởi vậy kinh Dịch chẳng những là một bộ sách triết lư siêu h́nh cũng là bộ sách triết lư khoa học (philosophie de la Science) của bất cứ khoa học nào như: Y Học, Thiên Văn Học, Xă Hội Học, Địa Lư Học, Toán Học,vv… và cả khoa “Huyền Bí” nữa.

- Kinh Dịch không phải là sách luân lư thông thường, cho nên không nói phải quấy mà nói lợi hại. Kinh Dịch biểu dương một thứ triết lí hết sức thực dụng, luôn nhắc nhở con người cái luật “phản phục” tức là cái đạo “tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chánh” (biết tới lui, c̣n mất, nên không để mất đạo chánh) của bậc Thánh Nhân tinh thông Dịch lư.

- Kinh Dịch lấy Thiên Đạo hiểu nhân sự, tức là nói về lẽ “Thiên Nhơn Hiệp Nhứt”.

- Kinh Dịch là bộ sách đa diện và vô tận, cho nên Đức Khổng Tử dặn: “năm mươi tuổi có thể đọc được kinh Dịch”, tức là muốn nói dưới năm mươi tuổi cũng chưa hiểu được kinh Dịch.

Đạo Dịch:

Kinh Dịch dạy về đạo Dịch.

Dịch: chính là cái Đạo ở trong trạng thái biến dịch để thể hiện quyền năng vô cùng vô tận, tân thiện tân mĩ của Hóa Công.

Vô Vi: cũng là cái Đạo, nhưng ở trong trạng thái tịch mịch, yên lặng, nhưng trong trạng thái đó đă tiềm ẩn quyền năng sanh hóa biến dịch vô cùng trong vũ trụ vạn vật.

Vô Vi là Vô Cực, Dịch là Thái Cực.

Đức Lăo Tử mô tả cái “Đạo” từ Bản Thể ra diệu dụng bằng hai câu hết sức thâm trầm và súc tích:

- , danh Thiên Địa chi thủy. Hữu, danh vạn vật chi mẫu.

(Không tên, là nguyên thủy của Trời Đất. Có tên là Mẹ đẻ của muôn loài).

Nhà Phật cũng mô tả cái Đạo bằng hai danh từ “Sắc và Không”.

”Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”.

(Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc).

Những nhà đại trí giả nghiên cứu Dịch, nói rằng:

- Không học Dịch làm ǵ rơ được chỗ đầu mối của Tạo Hóa.

- Dịch mà thông th́ sự lư trong vạn vật tự thông.

Lấy chữ “Dịch” mà suy, có người bảo rằng: “có ǵ lạ đâu”. Dịch tức là chuyển biến, là đổi thay,th́ ai cũng biết vậy. Tuy nhiên, Dịch đâu phải chỉ có thế mà thôi đâu. Dịch c̣n đạt đến những hiện tượng siêu việt hơn, cho ta thấy rơ hơn trong cái “biến” có cái “ bất biến” và chính cái bất biến chỉ huy cái biến. Nghĩa là trong cái “động” có cái “tịnh”, hay nói cách khác, động trong cái tịnh, và tịnh trong cái động, động tịnh không bao giờ rời nhau.

Dịch là thứ tương đối luận, thứ tương đối dẫn vào tuyệt đối: cả hai là một.

Trời Đất biến đổi mà có Xuân, Hạ, Thu, Đông, nhưng luật vận hành không hề thay đổi, nên nhịp vận hành lúc nào cũng như một.

Thế rồi, từ chỗ thấu triệt vận hành trong vũ trụ theo nguyên lư duy nhứt, con người mới thấu được muôn ngàn lẽ về nhân sinh, không phải chỉ thích ứng với vũ trụ để sống, mà c̣n để hiểu lẽ tuần hoàn của sống chế, áp dụng các luật biến động vào từng việc làm của con người, xét đoán tương lai bắt nguồn từ các việc trong hiện tại và quá khứ.

Với vũ trụ quan đặt căn bản trên Dịch, người ta mới nhận ra các khía cạnh cho một nền nhân sinh hợp nhứt với luật vận hành của vũ trụ từ trong nếp sống cá nhơn cho đến xă hội loài người, sống trong cái nhịp sống chung của thiên nhiên vạn vật.

Cũng trên căn bản của Dịch, người ta mới hiểu những khía cạnh bí hiểm trong những khoa thường gọi là huyền bí học như: Y Khoa, Tướng Số, Thiên Văn,v v… của phương Đông huyền bí.

Khi hiểu được rằng “Âm Dương” tuy hai mà một, và trong Âm có Dương,trong Dương có Âm, cũng như trong họa có phúc,trong phúc có họa, hết Bỉ đến Thái, hết thịnh đến suy,… Dịch là Động, mà động trong cái Tịnh,vv… con người bấy giờ mới hiểu ra được cái chân tướng của sự vật, biết hành động đúng mức đúng thời, đúng lư, để đi đến ḥa hợp với thiên nhiên mà đạt chân hạnh phúc.

Dịch không chỉ nêu lên lư ÂM Dương trong vũ trụ, Dịch c̣n đem luật vũ trụ đặt thành “Đạo Sống” cho con người. Chỗ sâu xa siêu việt của Dịch là thế.

Tạm tóm lược ư nghĩa của Dịch:

1. Dịch là biến. Nghĩa chánh là như thế.

2. Dịch có nghĩa là biến, và biến hai chiều xuôi ngược.

3. Dịch có hai bộ phận: H́nh Nhi Thượng và H́nh Như Hạ. Dịch cũng gồm cả hai cái học nhị nguyên và nhứt nguyên.

4. Dich là biến mà cũng là bất biến. Nói cách khác, Dịch là động, mà động trong cái tịnh.

Từ chỗ biến mà biết được chỗ bất biến, mới có thể bàn đến Dịch. Cũng như Âm Dương là căn bản của mọi sự biến động, nhưng Âm Dương lại chẳng phải là hai, tuy trong thực tế rơ rang là hai. Âm là tịnh, DƯơng là động, nhưng Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, th́ trong động có gốc tịnh, trong động có gốc tịnh sẵn rồi. Bởi vậy Đức Lăo Tử mới khuyên ta dè dặt: “Họa trung hữu phúc, phúc trung hữu họ”. Luật nầy có thể gọi là luật quan trọng nhứt tức là “Luật Phản Phục”.

5. Luật căn bản của Dịch là “Vật cũng tắc biến”.

Cái lẽ thịnh suy, trị loạn trong đời tuy do lẽ Trời nhưng mà cũng cốt nơi người. Có Trời mà cũng có ta.

6. Dịch là nói về lẽ sống, cái hằng sống bao trùm lên vũ trụ vạn vật. Người vô minh là kẻ đă chết trong lẽ sống. Người giác ngộ là kẻ từ cái chết trở lại sống trong lẽ hằng sống của Tạo Hóa.

7. Dịch là tương đối luận: Âm tự nó đâu phải luôn luôn xấu. Dương tự nó đâu phải luôn luôn tốt. Tốt xấu kỳ thật do hai chữ “Thời” và “Vị” mà ra.

Thời: là thời gian
Vị: là không gian

Cũng như không có cái ǵ gọi là “Thiện”, cái ǵ gọi là “Ác” một cách tuyệt đối đâu. Tùy công dụng của nó, trật tự vũ trụ nhân sinh mà có chia phần Thiện Ác.

8. Dịch không nói thị phi, chỉ nói lợi hại, kiết hung mà thôi, là v́ Dịch chú trọng đến tự nhiên, gần với Lăo Trang hơn là nhà Nho chỉ chú trọng về mối tương quan giữa con người và con người.

9. Dịch là thứ triết học thực dụng, luôn luôn nhắc nhờ con người về cái “luật phản phục”, tức là cái đạo biết tiến thoái, tồn vong th́ không hề mất chánh đạo.

Ngoài những ư nghĩa chính của Dịch nói trên, c̣n có những luật căn bản sau đây không kém phần quan trọng:

a. – Vật có cùng mới có biến, nhưng biến từ từ (tiệm biến) chớ không biến một cách mau lẹ (đột biến). Phàm nói đến Dịch th́ nên để ư đến luật “Tiêu Trưởng”. Hễ Âm tiêu th́ Dương trưởng, Dương tiêu th́ Âm trưởng.

Luật “Tiểu Trưởng” do luật “Phản Phục” cho nên Dịch không nói tiến mà nói biến.

Biến hóa giả, tiến thoái chi tượng: Biến hóa chỉ là cái tượng cảu sự tiến rồi thôi. Ngày đi, đêm tới; đêm đến, ngày lui: “Nhứt Âm nhứt Dương chi vi Đạo” là thế.

b. – Âm Dương đấp đổi nhau mà tác dụng, cho nên không có việc cô Âm hay quả Dương: Dương dĩ Âm vi cơ; Âm dĩ Dương vi xướng (Dương lấy Âm làm nền, Âm dựa Dương mà theo).

c. – Dịch lấy “Thiên Đạo” để hiểu nhân sự, tức là nói về lẽ “Thiên Nhơn hợp nhứt”. Đạo người và Đạo Trời không rời nhau, luôn luôn tương thông tương hợp ăn khớp với nhau như một (Thiên Nhơn vi nhứt). Cũng như nói “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” tức là nhịp sống của con người phải ḥa đồng cùng nhịp sống của vũ trụ thiên nhiên: “Nhơn pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” (Người theo Đất, Đất theo Trời, Trời theo Đạo, Đạo theo tự nhiên).

d. – Dịch biểu hiên luật “Tiêu Trưởng”. Sự vật hết thịnh đến suy, hết suy đến thịnh. Thịnh cùng cực mới có biến. Cái tốt bắt đầu tang ẩn trong cái xấu. Cái phúc bắt đầu ôm ấp cái họa. Từ Thái qua Bỉ, từ Bỉ trở lại Thái. Bỉ cực Thái lai là vậy. Thái quá bao giờ cũng nguy: “Thái cương tắc chiết” (hết sức cứng th́ găy).

e. – Dịch là tự nhiên, và dù cho con người làm th́ cũng phải làm đúng theo lẽ tự nhiên.
Dịch không phải là luật lệ của con người chế tác, mà là những luật lệ tự nhiên của Tạo Hóa.Trước khi có kinh Dịch, lư của Dịch đă nằm sẵn trong sự vật rồi. Bởi vậy, muốn trở về với Tự Nhiên, với Đạo, con người phải theo sự biến hóa của Âm Dương, phải ư thức rơ cái ǵ thuộc người làm, cái ǵ của Trời làm, để mà sống huyền đồng với Thiên Nhiên Tạo Vật.

f. – Dịch chia làm hai phần: Thượng kinh và Hạ kinh.

Thượng kinh: nói về những nguyên lư của vũ trụ, lấy hai quẻ Kiền và Khôn làm tượng trưng hai khí Âm Dương bàn về Trời.

Hạ kinh: khởi bằng hai quẻ Hàm và Hằng nói về đạo Người, bắt đầu là đạo vợ chồng.

g. – Dịch không có chỗ cuối cùng. Không có chỗ cuối cùng tức là chỗ mà nhà Phật gọi là “ưng vô sở trụ” c̣n Trang Tử th́ gọi là “vô hà hữu chi hương”.

Dịch chung cuộc là “Hư Vô” là “Thái cực”, bởi vậy hco5 Dịch phải t́m cái “vô hạn” trong cái “hữu hạn”.

Học Dịch cần phải hiểu về vấn đề tiên thiên và hậu thiên.

Hà Đồ: là tiên thiên, rất quan trọng trong cái đạo tu thân giải thoát.

Lạc Thư: là hậu thiên, rất quan trọng cho cái đạo xử thế “tu, tề, trị, b́nh”.

h. – Dịch là nhứt nguyên luận, dẫn về “Thái Cực”. Nh́n đồ h́nh Thái Cực ta thấy cái “Đạo đi ra” (thệ), cái “Đạo đi về” (phản).

Đạo đi ra vắt đầu từ Thái Cực qua Lưởng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái. C̣n Đạo đi về bắt từ Lưởng Nghi trở về Thái Cực. Đi ra là Đạo Nhị Nguyên, đi về là Đạo Nhứt Nguyên.

* * * * *



Vô Vi nhi Dịch sử quần linh: Cái “Đạo” từ Vô Cực sanh ra Thái Cực mới làm chủ chốt cho tất cả vạn linh sanh chúng trong Càn Khôn vũ trụ.

* * * * *


Thời thừa lục long du hành bất tức: Thường cỡi sáu rồng đi châu du khắp nơi không ngừng nghỉ.

Ư nói: Đấng Thái Cực Thánh Hoàng theo thời vậy mà đi khắp bầu vũ trụ, trong không gian, không giờ phút nào ngưng nghỉ. Đó là lời nói bong.

Trong kinh Dịch có câu: Thừa thiên, nghĩa là cỡi sáu rồng mà ngự trị cơi trời.

Sáu rồng: là nói về quẻ “Càn”. Quẻ Càn có sáu hào đều thuộc Dương như:

1. – Hào Sở Cửu: Tiềm Long
2. – Hào Cửu Nhị: Hiên Long
3. – Hào Cửu Tam: Tịch Tích
4. – Hào Cửu Tứ: Tại Huyền
5. – Hào Cửu Ngũ: Phi Long
6. – Hào Thượng Cửu: Càng Long.

Ấy là ư nghĩa Sáu Rồng thuộc quẻ “Càn” mà Càn là Đạo Trời. Đạo Trời biến hóa nhiệm mầu, vận chuyển đi khắp nơi trong không gian không hề ngưng nghỉ th́ bầu vũ trụ sẽ bị ngột ngạt bế tắc.

* * * * *



Khí phân tứ tượng: Nguyên Khí của Trời Đất phân ra bốn tượng.

Ngôi Thái Cực, sau khi xuất hiện torng không gian, bèn phân định ra Hai Nghi là Âm Dương. Lưởng Nghi bèn phân ra bốn ngôi gọi là Tứ Tượng.

Tứ Tượng: là Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm.

Kinh Dịch nói: “Dịch hh sinh Lưởng Nghi, Lưởng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái”.

Tuy nói là Bốn Tượng, nhưng cũng gốc ở Hai Nghi. Hai Nghi chồng lên nhau thành chữ Thập (=). Chữ Thập là bảng Hà Đồ mà vua Phục Hy đă vạch ra bằng số để tượng trưng.

Số của Hà Đồ: nguyên là vua Phục Hy thấy con Long Mă hiện lên ở song Mạnh Hà mà vẽ h́nh đồ mô h́nh Đạo Pháp. Long là rồng thiêng biến hóa nhiệm mầu không lường. Đó là tượng h́nh của “Dương Nghi”.

Mă là tượng “Âm Nghi” v́ con ngựa đi trên mặt đất, mà quẻ Khôn gọi là tẩn mă chi trinh. Long Mă ư nói Không Thời hiệp nhứt, vũ trụ đúc kết thành một khối bất phân. Nên h́nh chữ Thập là dồn đốc Hai Nghi thành Bốn Tượng luân hành, làm cơ cấu cho vũ trụ càn khôn. Trời th́ tṛn, Đất th́ vuông. Tṛn vuông phối ngẫu, cho nên h́nh chữ Thập có bốn cánh, chia làm Đông Tây Nam Bắc, phân bổ ra Năm Hành, một dọc, một ngang, một lên, một xuống.

* * * * *



Oát triền vô biên: Xây chuyển vô cùng vô tận.

Oát: chuyển xây đi – Cũng có âm đọc là “quản” nghĩa là chủ lănh lấy cả.

Có nhiều bản dịch để chữ “Hoát” nghĩa là mở mang (hoát nhiên đại ngộ hay là khoát nhiên đại ngộ).

Triền: Xoay lại.

Triền càn chuyển Khôn: Xoay được trời, chuyển được đất.

Có nhiều bản dịch để chữ “Truyền” nghĩa là trao cho.

Truyền giáo: truyền bá Tôn Giáo.

Toàn câu kinh có nghĩa như sau: Ngôi Thái Cực Thánh Hoàng hay là Thượng Đế vốn từ Tiên Thiên Hư Vô Hạo Nhiên chi Khí xuất hiện ra. Ngài phân định Âm Dương Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái, và từ đó biến hóa vô cùng, vô tận trong đại vũ trụ chẳng khác nào một cái trục chuyển xoay đi rồi quay về trở lại, rồi chuyển xoay đi vô cùng vô tận.

Nh́n lên ṿm trời trong đêm tối th́ nhà thiên văn t́m thấy ở Bắc Cực có một v́ sao tỏ rạng hơn hết và ở yên một chỗ, gọi là sao Bắc Đẩu, cũng được gọi là Tinh Chủ, chúa các v́ sao, v́ các v́ sao nầy ngày đêm xoay quanh và chầu về ngôi sao Bắc Đẩu.

Trái lại, ở phía cực Nam cũng có một v́ sao lớn, sang tỏ hơn hết, gọi là sao Nam Tào, cũng ở yên một chỗ như sao Bắc ng972 thẳng trên không gian, đi từ sao Nam Tào đến sao Bắc Đẩu được gọi là Thiên Trục (Axe du monde), cứ ngày đêm xây chuyển măi, từ Đông sang Tây tồi từ Tây sang Đông, không giờ phút nào ngưng nghỉ. Tất cả v́ sao trên Càn tượng (bầu trời) đều chuyển xoay xung quanh trục ấy theo chiều Đông Tây (ban ngày) rồi Tây Đông (ban đêm). Bởi thế nên mới có câu “Oát triền vô biên” là vậy.

* * * * *



Càn kiện cao minh: Ngôi Càn là Kiền (là Trời) rất mạnh mẽ,

Trong quyển Châu Dịch Huyền Giải do Minh Lư Thánh Hội ấn tống ở trang 2 có đoạn như sau:

TỔNG LUẬN:

Quẻ Bát Thuần Kiền là quẻ đầu của Thượng Kinh (Châu Dịch) mà cũng là đầu của Thượng Hạ Kinh (Châu Dịch). Hạ Kiền cũng là Nội Kiền; Thượng Kiền cũng là Ngoại Kiền. Nội, Ngoại đều là Kiền, nên gọi là Bát Thuần Kiền.

Kiền hay Càn là cương kiện. Nói rơ hơn, Kiền là “Cương kiện bất khuất chi nghĩa”. Thế của nó có 6 Hào đều là số “Cơ” (số lẻ). Tượng của Nó là “Thuần Dương”.

Mạnh không chi bằng Trời. Trời là Đạo, một Khí lưu hành, tuần hoàn không giáp mối, trải bao nhiêu thời gian, không gian, không biên giới. Vạn vật không có một vật nào mà không đặng nó che chở, mà cũng không vật nào làm hại nó được.

Ôi! Mạnh mẽ thay! Phương tu là phép tấn dương hỏa, nên học tạo mạng.

Mùa Xuân dương khí sơ sanh. Dương khí sơ sanh mà vạn vật phát sanh, là đức “Nguyên” của Đạo Kiền.

Mùa Hạ dương khí thong sướng (đi suốt qua và đầy đủ) trưởng thành vạn vật. Dương Khí đặng thong sướng và vạn vật được phát vượng là đức “Hanh” của Đạo Kiền.

Mùa Thu, dương khí hiện bày, vạn vật thành tựu, đó là đức “Lợi” của Đạo Kiền, được kết quả thỏa thích.

Mùa Đông, dương khí thâu liểm, th́ vạn vật qui căn. Ấy là đức “Trinh” của Đạo Kiền (Lữ Thuần Dương).

* * * * *



Vạn loại thiện ác tất kiến: Muôn loài lành dữ điều thấy rơ.

Ngôi Kiền (Trời) mạnh mẽ, cao vời, sang suốt vô cùng không chi che lấp được, nên lẽ tất nhiên phải thấy rơ tỉ mỉ điều lành điều dữ của muôn loài.

Nói rơ hơn, ở ngôi Trời (Kiền) Đấng Tạo Hóa (Thượng Đế) có quyền năng mạnh mẽ, cao sâu mầu nhiệm sang suốt để thống ngự vạn vật, cầm cân thưởng phạt công b́nh tuyệt đối, cho nên điều lành, điều dữ của chúng sanh Ngài đều thấy biết rơ hết. Có người hỏi:

- V́ sao Thượng Đế thấy biết rơ hết những điều thiện ác của muôn loài?

Đáp: V́ Thượng Đế là một bầu Hư Linh bao trùm khắp càn khôn vũ trụ. Vạn vật sanh linh đều do Thượng Đế tạo ra và ban cho sự sống chung trong bầu nguyên khí, như ờ ngay trong long Ngài vậy.

Thánh Hiền xưa có nói: “Nhứt nhơn chi tâm, tức Thiên Địa chi tâm, nhứt vật chio lư tức vạn vật chi lư” nghĩa là “cái Tâm của mỗi người là cái Tâm của Trời Đất; cái lư của mỗi vật tức là cái lư của vạn vật”.

Thiệu Khang Tiết Tiên SInh nói rằng:

Thiên thính tuyệt vô âm: Trời tuyệt không nghe tiếng

Thương thương hà xứ tầm: Xanh xanh kia biết Trời nơi đâu mà t́m

Phi cao diệc phi viễn: Chẳng phải cao, mà cũng chẳng phải xa

Đô chi tại Nhơn Tâm: Đều chỉnh ở tại Ḷng Người đó thôi

Nhơn tâm sanh nhứt niệm: Ḷng người sanh một niệm (một ư nghĩ)

Thiên Địa tất giai tri: Trời Đất đều biết cả

Thiện ác nhược vô báo: Nếu thiện ác không có báo ứng

Càn khôn tất hữu tị: Lẽ nào Trời Đất có ḷng riêng?

Trong nhiều Thành Giáo Thầy có dạy:

Nơi long Thầy ngự, động Thầy hay,
Ngặt nỗi ngày xưa chẳng thế này,
Đạo hạnh khuyên con ǵn tánh đức;
Cửa cung Bạch Ngọc cũng gần khai.

Thầy ngự trong ḷng mỗi chúng sanh,
Chúng sanh giác ngộ biết tu hành,
Thương yêu mựa tách người khôn dại;
Điều độ đừng chia kẻ dữ lành.




Quyền phạm quảng đại: Quyền năng và phép tắc rộng lớn vô biên

Quyền: là quyền hành, quyền năng.
Phạm: là khuôn phép, phép tắc

Có nơi giải thích câu nầy như sau:

Huyền: là nghĩa lư sâu kín.
Huyền phạm: phép tắc sâu kín nhiệm mầu.
Huyền phạm quảng đại: phép tắc sâu kín nhiệm mầu, rộng lớn vô biên.

Suy theo nghĩa toàn câu, thử hỏi ta nên dung chữ “Quyền” hay chữ “Huyền”?

* * * * *



Nhứt toán họa phước lập phân: Trong một cái tính (cái đếm) mà Ngài lập ngay được một cách rành rẽ, họa nào th́ tương xứng với ác nấy; phước nào th́ cân phân với thiện nấy, không sai chạy một ly hào nào.

Nhứt toán: sự tính toán nhứt khắc

Họa phước lập phân: điều họa, điều phước cân phân ban bố rành rẽ, công minh tuyệt đối.

Trong lời sấm xưa có nói:

Hóa Công chí thiện cầm cân,
Công b́nh thưởng phạt mà dân không tường.

Thượng Đế tuyệt nhiên là Đấng “Hồng oai, hồng từ, vô cực, vô thượng, đại tạo, đại bi” nào có thưởng phạt ai bao giờ. Tuy nhiên Ngài nắm trong tay “Luật Cảm Ứng” và “Luật Nhân Quả”, cho nên sthưởng phạt tác động vào con người do bởi con người làm ra điều thiện hay điều ác đó thôi.

Đó là sự công b́nh tuyệt đối của Đấng cầm cân Thiên Lư, như sách Nho đă nói:

- Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo… Điều lành có lành báo ứng; điều ác có dữ báo ứng.

- Tử viết: Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa – Đức Khổng Tử nói: Người làm lành Trời ban cho phước, làm chẳng lành Trời báo cho họa.

* * * * *



Thượng chưởng tam Thập Lục Thiên, Tam thiên trên thế giới:

Trên Thượng Giới th́ Ngài chưởng quản ba mươi sáu (36) cơi trời và ba ngàn thế giái.

Tam thập lục thiên: ba mươi sáu cơi trời ở Thượng Giới, nhuần gội khí dương nhẹ nhàng trong sang.

Trong kinh Chơn Giáo Thánh Truyền, Thầy có dạy như sau:

Từ Bàn Cổ sơ khai hỗn độn,
Khí Hư Vô hiệp trọn ngôi Trời,
Là ngôi “thái Cực” tỏ ngời;
Lưởng Nghi sanh hóa phân rời Âm Dương.
Khí khinh thanh thuần dương nhẹ hỏng,
Hiệp Tiên Thiên bay bổng lên trên,
Khí Âm trọng trược chẳng bền;
Hậu Thiên vi Địa nên liền ĺa ngôi.
Ngôi Tiên Thiên phục hồi phẩm vị,
Là ngôi Càn cao quí vô cùng,
Hậu Thiên vốn thiệt quẻ Khôn;
Bảy hai (72) thế giái không trung xây vần.
Thượng Giới ba sáu (36) từng vọi vọi,
Cơi Tiên Thiên nhuần gội khí dương,
Khí Âm bẩm thọ hơi dương;
Âm Dương hiệp nhứt kiết tường Đạo sanh

Trong kinh Thiên Đàng Du Kư, Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn giải thích về 36 từng trời như sau:

“…

… Trời vô cùng tận, trên dưới đều là trời. Trời lấy 36 độ tṛn làm một ṿng, cho nên nói là 36 từng trời… Trời ban đầu là “Vô Cực” được biểu thị bằng một ṿng tṛn (O), rồi Đạo sinh ra Một, Một sinh ra Hai, Hai sanh ra Ba, ba sanh ra muôn loài, cho nên trời có vô số trời; lấy trời sáng trời trong làm tốt , trời tối , trời âm làm xấu.

Người tu Đại Đạo không quan ngại về con số nhiều hay ít; con số từ: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,… biến hóa thành, không ĺa lẽ “Một” của Đạo. Nay lấy con số 12 quan trọng để nói sơ lược về trời, tiếp đến bội số của 12 là 36 trời, v́ các con số về trời thêm bớt, gia giảm, biến hóa vô cùng tận. Kẻ tu hành theo Đại Đạo bao gồm được 3 cơi “Thiên Địa Nhơn” (Trời Đất Người) hẳn là có thể thông suốt được ngay”.

Theo Lăo Giáo th́ có 36 từng trời như sau:

1. – Đại La Thiên
2. – Thanh Vi Thiên
3. – Vũ Dư Thiên
4. – Đại Xích Thiên
5. – Cổ Tiêm Thiên
6. – Phạm Độ Thiên
7. – Ngọc Long Thiên
8. – Thường Dung Thiên
9. – Tú Lạc Cẩm Thượng Thiên
10. – Hàn Sung Diệu Thanh Thiên
11. – Uyên Thông Nguyên Động Thiên
12. – Hạo Đ́nh Tiêu Độ Thiên
13. – Vô Cực Đàm Thệ Thiên
14. – Thượng Thiệt Nguyễn Lạc Thiên
15. – Vô Tư Giang Điền Thiên
16. – Thái Hoàng Ông Trọng Thiên
17. – Thủy Hoàng Hiếu Mang Thiên
18. – Hiến Định Cực Phong Thiên
19. – Thái An Hoàng Nhai Thiên
20. – Nguyệt Tải Không Thăng Thiên
21. – Thái Hoàn Cực Dao thiên
22. – Huyền Minh Cung Khánh Thiên
23. – Quán Minh Đoan Tỉnh Thiên
24. – Hư Minh Đường Diệu Thiên
25. – Trúc Lạc Hoàng Gia Thiên
26. – Diệu Minh Tông Phiêu Thiên
27. – Huyền Minh Cung Hoa Thiên
28. – Xích Minh Ḥa Dương Thiên
29. – Thái Cực Mông Ế Thiên
30. – Hư Vô B́nh Dục Thiên
31. – Thất Diệu Ma Di Thiên
32. – Quang Minh Văn Học Thiên
33. – Huyền Thai B́nh Dục Thiên
34. – Thanh Minh Hà Động Thiên
35. – Thái Minh Ngọc Hoàn Thiên
36. – Thái Hoàng Hoàng Tăng Thiên

* * * * *



Tam Thiên thế giái: Ba ngàn thế giái

Tam thiên thế giái ở cơi nào?

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Thầy có dạy:

“… Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong vật chất mà ra thảo mộc từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn, muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn Phẩm. Nhơn Phẩm c̣n chia ra phẩm giá mỗi hạng. Đứng bực Đế Vương nơi trái địa cầu 68 nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67 nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ Nhứt Cầu Tam Thiên Thế Giái. Qua khỏi tam Thiên Thế Giái th́ mới đến Tứ Đại Bộ Châu. Qua Tứ Đại Bô Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên.

Theo lời Thầy dạy trên đây, chúng ta hiểu rằng trong “Thất Thập Nhị Địa” nghĩa là 72 ngôi địa cầu trong vũ trụ, địa cầu của chúng ta ở số 68, vào bực rất thấp, và địa cầu cao nhứt là “Đệ Nhứt Cầu” thuộc “Tam Thiên Thế Giái”.

Nhưng Tam Thiên Thế Giái c̣n ở dưới Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên nữa.

Trong vũ trụ mênh mông vô cùng vô tận, vị trí cao thấp của các cơi, các địa cầu cũng nói lên tŕnh độ tiến hóa cao hay thấp của loại chúng sanh ở đó.

* * * * *



Hạ ốc thất thập nhị địa: Ở cơi Hạ Giới Ngài nắm giữ 72 quả địa cầu.

Theo kinh Chánh Giáo Thánh Truyền th́ cơi trời là ngôi Càn, thuộc về Tiên Thiên. Cơi đất thuộc quẻ Khôn, Hậu Thiên. Trong cơi Hậu Thiên có 72 quả địa cầu có chúng sanh ở, thuộc phần Hạ Giới.

Lời kinh nói: Ở cơi Thượng Giới, Thượng Đế chưởng quản 36 từng trời. Ở cơi hạ giới Ngài cai quản 72 quả địa cầu và bốn Bộ Châu lớn. Như vậy th́ Thấp Thập Nhị Địa và Tứ Đại Bộ Châu đều thuộc về cơi hạ giới.

Trong kinh Đại Thừa Chơn Giáo Thầy có dạy như sau:

“… Khắp trong vũ trụ biết bao quả linh cầu, có quả trược, quả thanh, có bực cao thấp, có cái sang cái tối, thảy thảy đều tuân theo máy thiên cơ mà tuần tự chuyển luân xây chạy, cái lại, cái qua, cái lên, cái xuống, không bao giờ ngưng nghỉ đặng.

Linh cầu nào cao thanh, khinh phù, th́ vượt qua mấy cơi khác mà lên ngất trên thượng tằng không khí. Vậy quả địa cầu của các con đây, tuy là một quả địa cầu vật chất hữu h́nh, trọng trược, song cũng c̣n thuộc vw62 bực khá, chớ dưới nữa lại c̣n lắm quả địa cầu c̣n trọng trược hơn nữa. Những quả địa cầu như thế th́ nó nặng trầm, ch́m tột dưới đáy sâu của vũ trụ, nên rất tối tăm mờ mịt, âm khí nặng nề, thảm sầu buồn bă gớm ghê, để đày đọa các linh hồn nào phạm tội ở thế gian xuống đó.
…………..

Nói về phẩm trật của các địa cầu cùng sự tiến hóa của chúng sanh th́ Thầy dạy như sau:

“… cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng them hoài, cho tới “Đệ Nhứt Cầu” Tam Thiên Thế Giái. Qua khỏi Tam Thiên Thế Giái th́ mới đến Tứ Đại Bộ Châu, mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên. Vào Tam Thập Lục Thiên rồi c̣n phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh là nơi Đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.


* * * * *



Tứ Đại Bộ Châu: Bốn Bộ Châu lớn trên cơi trời là:

- Đông Thắng Thần Châu
- Tây Ngưu Hạ Châu
- Nam, Thiệm Bộ Châu
- Bắc Cu Lư Châu

Theo lời Thầy dạy ở trên, chúng ta kể theo thứ tự cao thấp th́:

- Đệ nhứt cầu là địa cầu cao nhứt trong 72 ngôi Địa Sát, thuộc Tam Thiên Thế Giái. Nhưng mà trên nữa c̣n có Tứ Đại Bộ Châu. Qua khỏi Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên. Tới đây rồi linh hồn c̣n phải chuyển kiếp tu hành nữa, cho đến công viên quả măn mới được vào bạch Ngọc Kinh hay là Niết Bàn để an nghĩ đời đời kiếp kiếp.

Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, nhân dạy về việc tạo lập “Quả Càn Khôn” Thầy có dạy như sau:

“… Thầy kể Tam Thập Lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức không phải là tinh tú, c̣n lại Thất Thập Nhị Địa và Tam Thiên Thế Giái th́ đều là tinh tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao (3072)”.


* * * * *



Tiên Thiên, Hậu Thiên, tịnh dục Đại Từ Phụ: Ở thời kỳ trước Trời, nghĩa là trước khi ngôi Thái Cực xuất hiện và phân định Âm Dương, và thời kỳ sau Trời, nghĩa là sau khi ngôi Thái Cực xuất hiện và phân định Âm DƯơng, Ngài là Đấng Cha Lành tối cao vĩ đại hằng thương yêu và lặng lẽ nuôi dưỡng muôn loài.

Tiên Thiên: Thời kỳ trước khi lập nên Trời Đất.

Thời kỳ đó toàn cơi vũ trụ trống không, chả có ǵ hết, chỉ có một bầu Hư Linh hỗn độn, mịt mờ, không tối, không sang, không sinh, không trưởng gọi là thời kỳ Hồng Mông, Hồng Nguyên hay là Hỗn Độn sơ khai.

Trong kinh Thiên Đàng Du Kư, Đức Thái Thượng Đạo Tổ dạy rằng:

“… Kể từ thuở mênh mông mờ mịt chưa chia, trời đất c̣n là một khối hỗn độn, mặt trời, mặt trăng chưa phân, lúc đó “Khí Tiên Thiên” vô tận, Phật Thánh Tiên ḥa hợp chung cùng một thể, tỏa chiếu vô lượng hào quang xoay chuyển hư không, được kêu là “Người trên cơi mịt mờ” (Huyền Huyền Thượng Nhơn) hay là “Vua Trời thuở ban sơ” (Nguyen Thủy Thiên Vương). Bởi địa vị tối cao đó nên c̣n kêu là “Thượng Đế” là thủy tổ của muôn loài vạn vật, hoặc Cha Trời Mẹ Đất…

Khí Tiên Thiên: là “Tiên Thiên Hư Vô Hạo Nhiên chi Khí” tức là Khí Tông Chủ, nguồn đầu của vũ trụ vạn vật, thủy tổ của muôn loài.

Cơi Tiên Thiên: Khi Nhứt Khí Thái Cực phân ra Lưởng Nghi Âm Dương, lập nên càn khôn vũ trụ rồi mới phân chia ra hai cơi:

- Thượng phù dă chi khinh Thiên: phần cao nhẹ thăng lên làm Trời gọi là cung Càn, cơi Tiên Thiên.

- Hạ ngưng giáng dă chi vi Địa: phần thấp ngưng đọng ch́m xuống làm Đất gọi là cung Khôn, cơi Hậu Thiên.

Hậu Thiên: Thời kỳ sau khi Trời Đất đă an ngôi, các thế giới , các v́ tinh tú, các quả địa cầu được thành lập.

Khí Hậu Thiên: Khí trọng trược lắng đọng bao quanh quả địa cầu trong đó có lẫn phần thanh của Khí Tiên Thiên cùng Âm Dương Ngũ Hành.

Cơi hậu Thiên: Cơi Hạ Giới, thuộc quẻ Khôn, trong phạm vi đó có 72 quả địa cầu xây chuyển trên không trung.

Theo ngôn ngữ thông thường, danh từ “tiên thiên” chỉ cái thanh cao, nhẹ nhàng, trong sáng.C̣n danh từ “hậu thiên” chỉ cái trọng trược, nặng nề u tối.

Ví dụ: Trong thân người, linh hồn thuộc về tiên thiên, c̣n thể xác thuộc về hậu thiên. Hơi thở tiên thiên là chơn tức, hơi thở hậu thiên là phàm tức.

* * * * *



Tịnh dục Đại Từ Phụ: Đấng Cha Lành, ở trong trạng thái yên lặng, bất động mà vẫn thương yêu, dưỡng dục và giáo dục muôn loài.

Thuở Trời Đất chưa lập, sau khi Trời Đất đă lập rồi, dầu trước hay sau ǵ cũng chỉ do Một Đấng Cha Lành sanh hóa dưỡng dục muôn loài mà thôi.

* * * * *



Cổ ngưỡng, kim ngưỡng: Xưa ngưỡng mong, nay ngưỡng mong.

(Trong kinh xưa, chữ “Cổ” đứng trước “Kim”, như vậy mới đúng với trật tự của thời gian).

Ư nói: Dầu đời xưa, hay dầu đời nay, đời nào trong muôn thuở, chúng sanh cũng đều ngưỡng mong tin tưởng nơi đấng Cha Lành nhờ ơn che chở, dạy dỗ và cứu độ của Ngài.

* * * * *



Phổ Tế Tổng Pháp Tông: Ngài nắm quyền tế độ rộng khắp, tóm thâu cả Pháp và Tông.

Ư nói: Quyền Pháp và các Tông phái Đạo tuy đă được thị hiện dưới nhiều h́nh thức để độ rỗi chúng sanh tùy theo dân tộc, địa phương, phong tục, thời buổi… thảy đều bắt nguồn từ nơi Ngài cả.

* * * * *



Năi Nhựt Nguyệt Tinh Thần chi quân: Ngài là v́ vua làm chủ tất cả sự vận hành của Nhựt, Nguyệt, Tinh tú và ngày giờ.

Thần: là Thập Nhị Thời Thần, mười hai vị vận chuyển của thời gian.

* * * * *



Vi Thánh Thần Tiên Phật chi chủ: Thượng Đế là đấng Cha Lành của toàn linh cho nên Ngài cũng là Đấng Tôn Chủ của tất cả các vị Thiêng Liêng Thần Thánh Tiên Phật. Tất cả các vị Thiêng Liêng đều vâng theo Thiên Ư của Ngài mà giúp vùa trong cơ sanh hóa, giáo hóa, dưỡng dục và cứu độ quần sanh. Dù bất cứ Đạo nào cũng ở trong quyền năng cai quản của Ngài cả.

Trong buổi khai Đạo Thầy có dạy rằng:

Trên trời làm chỉ một ḿnh Ta,
Nhánh nhóc chia Ba cũng một Già,
Phải mượn nhiều ngôi àm giáo Đạo;
Xét coi cho kỹ có ai mà?

Theo lời Thầy dạy trên đây, chúng ta hiểu rằng Thầy là Đấng duy nhứt làm Chủ Tể trong Càn Khôn Vũ Trụ. Để thể hiện quyền năng giáo hóa và cứu độ quần sanh, Ngài lập ra Ba Nhành “Phật Thánh Tiên” (cũng gọi là Nhứt Khí hóa Tam Thanh).

Một số người say mê Giáo Lư nhà Phật, chấp danh từ trong kinh sách, cho rằng chỉ có Đạo Phật là cao hơn hết, và cho rằng Đức Phật là cao hơn Thượng Đế.

Hiểu như vậy là có thiên kiến, không đúng Chơn Lư. Tích Phật nói rằng Đức Phật là Thầy các cơi trời, thuyết pháp dạy chư Thiên.

Nên hiểu rằng “các cơi trời” ở đây là các cơi trời thấp như “Tam Thập Lục Thiên” hay là “Cửu Thiên Khai Hóa” chớ không phải là cơi trời “Thập Nhị Khai Thiên” hay cơi trời “thái Cực” “Vô Cực” nơi đó Thượng Đế hằng ngự.

C̣n chư Thiên là chư vị Thiên Thần, Thiên Thánh, Thiên Tiên, những vị Thiêng Liêng chưa tiến hóa đến cơi tuyệt đối, c̣n tu luyện ở các cơi trời nơi Trung Giới hay Thượng Giới.

Chư Thiên không phải là Đấng Chí Tôn mà chúng ta thường tôn xưng là Đấng Thượng Đế, vô sanh bất diệt, Chân Lư tuyệt đối, làm Chủ Tể tất cả Thần Thánh Tiên Phật trên cơi vô h́nh.

* * * * *



Trạm tịch Chơn Đạo: cái Chơn Đạo trong trẻo lặng lẽ, tịch mịch hư vô.

Trạm tịch: trong trẻo lặng lẽ


Khôi mịch tôn nghiêm: to lớn, yên lặng, tôn nghiêm.

Khôi: to lớn
Mịch: yên lặng, không hơi tiếng ǵ

Cái Chơn Đạo hay là Đại Đạo trong trạng thái tịch tịnh hư vô th́ thật là trang nghiêm lặng lẽ vô cùng.

Đó là thể tịnh, nhưng mà thể động nghĩa là “Dịch” th́ biến hóa vô cùng.


Biến hóa vô cùng: thiên biến vạn hóa, huyền diệu vô cùng.

Kinh Dịch nói “biến” mà cũng nói “hóa”

- Tại Thiên thành tượng, tại Địa thành h́nh, biến hóa kiến dă: Ở Trời thành tượng, ở đất thành h́nh, trông tượng và h́nh ấy mà ta thấy được sự biến hóa vậy.

Hai danh từ “biến hóa” dường như cùng một nghĩa, nhưng kinh Dịch phân tích ra hai giai đoạn:

- Biến giả hóa chi tiệm; hóa giả biến chi thành: Biến là hóa chậm chậm (tiệm biến); hóa là sự thành của biến.

“Biến” là biến lần lần một cách từ từ, khó nhận thấy một cách rơ ràng. C̣n “hóa” là cuộc chuyển biến đă được hoàn thành, đă trở nên hiển nhiên.

Cái Chơn Đạo vận chuyển không ngừng nên có sự biến hóa , và nhân có sự biến hóa mới có sự thay cũ đổi mới liên tục.

Trang Tử nói: “Vạn hóa nhi vị thủy, hữu cục dă” (muôn biến vạn biến mà chưa từng bao giờ cùng).

* * * * *



Lủ truyền cửu kinh dĩ giác thế: Hằng truyền kinh báu để giác ngộ thế trần.

Thượng Đế thường dung phép biến hóa để giáng trần dưới nhiều h́nh thức để dạy truyền kinh báu, thức tỉnh người đời theo đường chánh chơn, thiện mỹ.


Linh oai mạc trắc: Linh hiển, oai nghiêm thật khó đo lường.

Oai linh của Thượng Đế không làm sao mà đo lường cho được.


Thường thi Thần Giáo dĩ lợi sanh: Hằng đem Thần Giáo tế độ chúng sanh mưu cầu lợi lạc cho họ.


Hồng oai, hồng từ: Oai đức và ḷng từ ái rộng lớn vô cùng


Vô cực, vô thượng: Không chi cùng tột hơn Ngài, không chi cao thượng hơn Ngài.


Đại Thánh, Đại Nguyện: Thánh Đức vĩ đại, hạnh nguyện cao vời


Đại Tạo, Đại Bi: Quyền năng tạo hóa vô biên, t́nh thương bao la vô tận.


Huyền Khung Cao Thượng Đế: V́ vua cao vọi, trên hết của cơi Huyền Khung (ṿm trời h́nh bán cầu (khung nhưởng) hay là Càn Tượng).

Đấng Thượng Đế cao cả trên khung trời huyền diệu.

Ngọc Hoàng: Ông Vua Trời hào quang sang chói như ngọc. Vị Thánh Hoàng ngự nơi Bạch Ngọc Kinh, kinh đô cơi trời, nơi đó hào quang chiếu diệu muôn trùng.

Tích phước: (có chỗ đọc là tứ phướng) chất chứa phước lành để ân ban cho chúng sanh.

Tích: chứa lại, dồn lại lâu ngày
Tích đức: chất chứa nhiều công đức
Tích phước: chất chứa phước lành
Tứ: người trên ban cho người dưới
Ân tứ: người trên ban ân cho kẻ dưới tay
Tứ tước: nhà vua ban tước cho kẻ hạ thần.
Hựu tội: tha tội
Hựu: rộng răi khoan thứ

Ngọc Hoàng tích phước hựu tội Đại Thiên Tôn: Đấng Vua Trời, Đấng Thiên Tôn cao cả hay ban phước lành và hay tha tội cho chúng sanh.

Trích: Kinh Tam Giáo Nhựt Tụng Diễn Giải
Biên Soạn: Thiện Trung Nguyễn Xuân Liêm



Trở lại MỤC LỤC