Germany
English Nhạc
Thơ
Tin Tức
Video
Francais
Thư Viện in ra
sách THU VIEN 1
2
3
4 5 Thiên Cơ
Bất Khả Lậu khi Thiên thời chưa đúng lúc (1974)
Nay (2010) Quả Cầu 68 sắp chuyển trục nên Trời dạy: lộ Thiên Cơ! Trời báo: Nguơn mạt hạ, rán tu! Chớ chần chờ! Long Hoa Hội: Kỳ Thi nầy là lần chót.
Ông Đạo Nhỏ Nguyễn văn
Hiệp ( đăng
báo ngày 30/12/2007 Năm
1968 sau trận Tết Mậu Thân, vị Tư lịnh Quân đoàn IV
bấy giờ là Thiếu Tướng Nguyễn viết Thanh có rước một
ông Đạo từ trên Hồng Ngự xuống. Ông Đạo nầy
lúc đó chỉ 8 tuổi nên được gọi là Ông
Đạo Nhỏ. Ông là con của ông Trần kim Qui, Hiệu
trưởng một trường học ở quận Hồng Ngự, người theo đạo Phật Giáo
Hòa Hảo. Buổi chiều nọ, khi tới dự bữa cơm tối tại tư dinh Thiếu
Tướng Tư lịnh Quân Đoàn IV tôi thấy ngồi ở đầu
bàn là một người còn nhỏ tuổi, quanh đó
có mặt các ông Đai tá và Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh Tư lịnh phó lãnh thổ của Quân
đoàn. Trong chín ông Đại tá có cả Đại
tá Nguyễn văn Ánh là Tư lịnh Sư Đoàn 4
Không Quân (ông nầy sau đó lên Thiếu
Tướng và bị tử nạn máy bay). Khi mọi nguời vào
bàn ăn thì được ông Tư lịnh Quân đoàn
giới thiệu :“Đây là Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự được
mời tới đây để ăn cơm với chúng ta”. Tiếp theo, ông
giới thiệu từng thực khách với Ông Đạo Nhỏ một cách
hết sức trân trọng. Chỉ với người khoảng 8 tuổi mà
tôi thấy Tướng Nguyễn Viết Thanh đối xử trang trọng lắm. Mọi
người đều dùng cơm chay vì Ông Đạo Nhỏ không
ăn mặn. Sau khi cơm nước xong xuôi, mỗi người được
phân
phát một tờ giấy và một cây viết chì. Tướng
Thanh nói rằng :“Ông Đạo Nhỏ biết rất rành
quá khứ vị lai (tức chuyện về trước, chuyện về sau) nhưng
vì không nói chuyện được nên chỉ trao đổi
bằng giấy viết”. Vậy là mỗi người viết câu hỏi mà
mình muốn hỏi lên tờ giấy rồi chuyền tay đưa tới Ông
Đạo Nhỏ. Đầu tiên là ông Tư lịnh Quân
Đoàn Nguyễn Viết Thanh viết một câu hỏi đưa qua, Ông
Đạo Nhỏ cầm viết, viết rào rào (nghiã là
viết rất nhanh) bằng chữ Quốc Ngữ, xong rồi đưa lại cho ông
Thanh. Ông Thanh coi xong bèn úp tờ giấy xuống mặt
bàn. Sau đó là tới lượt ông Chuẩn tướng
Nguyễn hữu Hạnh vì ông và ông Thanh ngồi hai
bên Ông Đạo Nhỏ …Ông Đạo Nhỏ viết câu trả lời
toàn bằng thơ, tôi ngồi gần nên liếc thấy hầu hết
là thơ ngụ ngôn (mỗi câu năm chữ) sau ông Đai
tá Ánh, Tư lịnh Sư đoàn 4 KQ là các
ông Đại tá khác trong đó có Đại
tá Huỳnh văn Lạc Tham mưu trưởng (sau nầy cũng lên Tướng
và đang sống ở Sacramento, CA.). Tôi nhường hết cho mọi
người chờ đến lượt cuối cùng, tôi viết trong giấy
là :“Xin Ông Đạo Nhỏ cho biết tương lai vận mệnh của
tôi trong cuộc chiến tranh nầy ?” Tôi đưa cho ông
Thanh, ông Thanh coi qua một chút rồi chuyển cho Ông
Đạo Nhỏ. Ông Đạo Nhỏ viết xuống mấy chữ chuyền tới lui thì
ra ông viết rằng “đưa về nhà rồi sẽ cho sau”; ông
không cho liền trong khi mấy ông kia thì trả lời
ngay. Sau
đó, Ông Đạo Nhỏ tỏ ý muốn đi ra đằng sau chơi,
ông Tướng đích thân dẫn Ông Đạo Nhỏ ra
phía sau hàng ba để Ông đi lại nơi cái
bàn có cái ghế và ngồi chơi một
mình. Số người còn lại trong nầy chuyền tay nhau những tờ
giấy có câu trả lời của Ông Đạo Nhỏ, không ai
dấu diếm. Tôi đọc bài thơ của ông Thanh thì
câu cuối cùng mà Ông Đạo Nhỏ viết là “Tu mau đi kẻo muộn !”.
Còn bài thơ của ông Đại
tá Ánh, của ông Đại tá Trưởng phòng
Nhì cũng viết là “Tu
mau đi kẻ muộn !” (cả ba ông
đều có một câu kết như nhau). Riêng của ông
Hạnh thì Ông Đạo Nhỏ cho một bài thơ Đường luật gồm
8 câu 7 chữ, câu cuối cùng là “Thân bại
danh liệt tướng miền Tây” tôi chỉ nhớ câu chót
thôi không thể nhớ hết nguyên bài. Mấy người
còn lại trong đó có một ông Đại tá
người Huế làm bên Tiếp vận Vùng 4 cũng được một
bài thơ nhưng bình thường thôi, không
có gì đặc biệt. Sau khi bàn luận qua lại một hồi
rồi giải tán. Thiếu tướng Thanh nói với tôi
là Ông Đạo Nhỏ muốn về nhà của tôi và
sau đó nhờ tôi đưa Ông Đạo Nhỏ về Hồng Ngự.
(vì tôi có một chiếc trực thăng riêng muốn sử
dụng lúc nào cũng được). Tôi chở Ông Đạo Nhỏ
về nhà rồi kêu chú lính trực đem một
cái ghế bố với đầy đủ mùng mền cho ông nghỉ ngơi
ngay tại phòng khách (ban tối, chú lính mở
ghế bố ra rồi đến sáng thì thu dọn lại sạch sẽ). Khi
tôi xuống Cần Thơ làm việc, vợ tôi giao cho
tôi đứa con gái lớn đang học lớp Bảy nên phải xin
chuyển trường cùng với ba đứa con trai nhỏ nhứt (còn mấy
đứa lớn đang học ở Saigon) gồm đứa 7 tuổi, 6 tuổi và 5 tuổi. Mỗi
ngày, đứa con 7 và 6 tuổi thì đi học còn
đứa 5 tuổi vẫn còn ở nhà chơi với Ông Đạo Nhỏ nhưng
Ông nầy lại không thích chơi giởn. Sáng dậy,
tôi và Ông Đạo điểm tâm bằng cháo
trắng, trong khi tôi ăn với đường hay thịt cá thì
Ông ăn ba chén đàng hoàng nhưng với muối.
Đặc biệt là dù trời lạnh hay nóng Ông cũng
đều thích ra ngồi phiá sau nhà, nơi nầy tôi
có che một cây dù nhà binh, ông huớng
mắt về phía Nghiã trang Quân Đội ngồi yên,
không nói gì cả cho tới trưa khi tôi đi
làm về thì vào
ăn cơm chay với tôi. Sau bữa
ăn cơm tối, tôi viết mấy câu nhắc lại câu hỏi của
tôi lúc trước thì Ông trả lời là
“hãy đợi đến ngày Rằm” tức là khoảng 7, 8 bữa nữa.
Trong thời gian lưu ngụ đó, nhiều khi con tôi đi học về
đến nắm tay, nắm chân kéo ra ngoài chơi giỡn nhưng
Ông cứ ngồi im thin thít không nói,
không rằng và không thích vui đùa như
mấy đứa con nít cùng trang lứa. Đến
ngày Rằm, tôi cho mấy đứa con đi ngủ sớm, đóng cửa
phòng không cho ra ngoài, rồi chuẩn bị vào
phòng khách để đàm đạo với Ông Đạo.
Ông Đao viết lên giấy biểu tôi đốt hai cây
đèn cầy đỏ thật lớn để trên hai cái chân đồng
và tắt hết đèn điện. Sau đó, Ông biểu
tôi lấy ra một tập giấy học trò 200 trương và một
cây viết nguyên tử. Ông bắt đầu viết lên tờ
giấy :“Ông cứ đặt câu hỏi và viết lên
đây mỗi trang giấy là một câu hỏi !” Còn nhớ,
khi Ông cho mấy ông Tướng Tá kia thì mỗi
người chỉ được một bài thơ còn riêng tôi
thì cả một cuốn tập 200 trương. Đại ý những điều
Ông viết về vận mệnh cho tôi như thế nầy là :“Khi tôi về già, cái mệnh của
tôi cũng như Ông Khương Thượng (tức KhươngTử Nha) đời
nhà Châu giúp vua Châu diệt nhà Thương
(hoàn toàn được viết bằng những bài thơ).Về
già, tôi sẽ đảm nhận vai trò giống như ông
Khương Tử Nha ngồi câu trên sông Vị thủy chờ
Châu văn Vương tới rước làm Đại tướng quân cầm
quân đánh vua Trụ chớ không phải như lúc
còn trẻ”. Ông còn viết thêm là
“ông có quyền hỏi tất cả những gì mà
ông muốn biết”. Thế là, tôi lật trang kế tiếp,
tôi hỏi về chuyện quốc gia, đến khi hết chuyện quốc gia là
đã lên tới 100 trương rồi nhưng ông cứ cho hỏi
hoài từ 7 giờ tối tới 12 giờ khuya. Tôi hỏi đâu,
ông cho đó …đặc biệt, tất cả đều trả lời bằng một
bài thơ chớ không phải văn bình thường. Tôi
không hiểu tại sao một người chỉ mới 8 tuổi mà làm
thơ đủ vần, đủ điệu như vậy. Tôi thử ông tới những
bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú
luôn cả bài toàn chữ B. Ông cũng cho
tôi bài thơ Quốc Ngữ khởi đầu toàn là chữ B
mà lại viết liền không cần suy nghĩ, thật là một
người có bộ óc thông minh kinh hồn không thể
tưởng tượng được. Về chuyện trong nước thì cuối cùng
ông phán trong một bài thơ, đại ý là
:“Miền Kế
đó tôi hỏi về chuyện Thế giới thì được trả lời đến
gần 100 bài nữa, trong đó có hai bài hỏi về
Hội Long Hoa. Tôi
hỏi “Hội Long Hoa
thành lập ở đâu, do ai chủ trì và giải quyết
chuyện gì ?”
Vấn đề nầy ông không trả lời
nhưng ông vẽ một cái hình lên trên tờ
giấy. Ông vẽ một khán đài rồi vẽ một cái
vòng tròn, ông vẽ một mũi tên chỉ vô để
“người” (1) tức là nhiều người ngồi
trên đó, rồi phía dưới ông vẽ hình
người mà cả hàng ngàn, hàng ngàn
người ngồi ghế bên dưới. Còn vùng đó
là vùng có núi (2)
mà là núi thấp; ông không nói
địa điểm chỗ nào nhưng nhìn xa xa thấy toàn
là núi, còn chỗ hội họp là giữa hai
cái núi (3), ông vẽ sơ sơ vậy thôi. Sau
đó, ông vẽ cái dấu tròn phiá trước,
kế đó là cái dấu tròn thứ hai; cái
dấu đầu tức là có người ngồi trước, rồi ông vẽ một
mũi tên chỉ vào dấu thứ hai đó, ông viết chữ
“ông” tức là tôi sẽ là người thứ
nhì ngồi ở Hội Long Hoa. Đến nay, khi tôi kể lại
tôi còn cảm thấy run cả người bởi vì Hội Long Hoa
là một chuyện trọng đại và phi thường giải quyết cả một
vận hội thế giới chớ không phải cho riêng nước mình
thôi đâu. Rồi
khi tôi hỏi đến chuyện thế giới chiến tranh thứ III thì
ông cho bài thơ trả lời, đại ý là chuyện
đó sẽ phải xảy ra và thế giới cũng bị tận diệt rồi sau
đó mới lập Hội Long Hoa (nghiã là khi chiến tranh
Thế Giới thứ III chấm dứt mới có Hội Long Hoa). Sau
đó
tôi kêu chú lính chạy đi lấy cho tôi
một bản đồ Thế Giới rất lớn mang đến và cả bản đồ Việt Còn
bên Âu châu
thì quốc gia nào cũng bị
thiệt hại một phần hết. Nước nào ông cũng bôi
bỏ chỗ
nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại
hai chỗ là Úc châu và Tân Tây
lan. Tôi hỏi ông về phần đất Úc châu
thì ông cho một bài thơ cho biết đó
là Thánh địa không có bị động chạm gì
tới và Tân Tây Lan cũng như Úc Châu đều
còn nguyên vẹn. Các quốc gia con con ở gần
Bắc băng
dương và Đến
đây, tôi nói với ông là cũng đã
khuya rồi, chú lính đã giăng mùng sẵn, mời
Ông đi nghỉ.(Về chuyện hậu vận của tôi, tôi cũng
có hỏi và được giải đáp đầy đủ nhưng vì
thuộc về cá nhân nên tôi không thể
nói được, ngoại trừ việc về già giống trường hợp
ông Khương Thượng như đã nói ở phần trên. Bởi
vì tin vào vận mệnh đó mà tôi mới
dám qua Cam-pu-chia ở 10 năm và chiến đấu bên
đó từ năm 1984 đến năm 1994). Sáng
hôm sau ông viết lên giấy đòi về nhà,
tôi cho gọi trực thăng tới để đưa ông đi, ông viết
cho tôi là “tôi biết ông có đủ khả năng
để xây cất một cái Miếu đường cho tôi để tôi
có chỗ ở mà thờ phượng”. Tôi trả lời “Được,
tôi sẽ giúp ông Đạo nhỏ”, ông cầm tờ giấy
đó xếp lại và bỏ vào túi. Tôi đưa
ông ra trực thăng bay lên núi Sam (Châu Đốc)
kiếm ông Thiếu tá Công binh của tôi đang bắn
đá ở đó, tôi gọi Radio trước cho ông nầy
nên trực thăng vừa tới là ông leo lên
cùng bay về Hồng Ngự với tôi và Ông Đạo Nhỏ.
Khi trực thăng đậu ngay sân Chi khu là có sẵn chiếc
xe Jeep chờ sẵn chở chúng tôi đến nơi mà Ông
Đạo Nhỏ muốn xây cất miếu. Nhà ông ở cũng gần chợ
Hồng Ngự, ông viết giấy đưa cho tôi nói đây
là đất nhà của ông. Tôi nói với
ông Thiếu tá :“Thiếu tá cố gắng giúp
Ông Đạo Nhỏ xây cái Miếu ở đây còn
phương tiện hay cần vật liệu gì, Thiếu tá cứ viết giấy về
Liên đoàn lãnh vật liệu lên làm”, tức
là tôi cung cấp toàn bộ và cho các
anh em CB gồm cả một tiểu đội để việc xây cất càng nhanh
càng tốt. Ông Đạo Nhỏ lấy giấy viết vẽ sơ sơ ra cái
nền vuông rồi ngăn vách phân biệt nơi nào để
thờ phượng, nơi nào là chỗ ngủ của ông, chỗ để quần
áo, nơi thay quần áo, rồi chỗ ở của người tu chung với
ông, rồi cái bếp, cái nhà tắm, cầu
tiêu… Nơi nào ông cũng có viết chữ trong
đó, ông vẽ khéo lắm như một kiến trúc sư
vậy. Ông còn cho cả chiều ngang khoảng 12 thước còn
chiều xuôi chừng 16-18 thước. Diện tích cũng giống như một
căn nhà chớ không nhỏ lắm, còn trên
cái nóc thì muốn làm sao cứ làm.
Riêng phía trước chỗ phần thờ phượng thì chiếm 1/3
căn nhà có xây một cái trang ở trên,
rồi có cửa trước và có cửa ra vô hai
bên hông. Công tác nầy do anh em Công
Binh hoàn thành khoản 20 ngày dưới sự chỉ huy
của Thiếu tá Hoàng bá Hải (Ông nầy có
lẽ là người Nha trang nhưng nói giọng miền Nam, rất lanh
lợi, làm Giám đốc hầm đá núi Sam khoảng 7-8
năm). Sau khi hoàn tất, ông Thiếu tá nầy có
mời tôi lên ăn Khánh Thành nhưng lúc
đó rất bận nên tôi không thể đến dự.
Chính ông và Ông Đạo Nhỏ cùng mọi
người làm lễ Khánh thành trước khi Ông Đạo
Nhỏ dọn vào ở. Còn tên miếu là gì
thì tôi không biết. Tôi
cứ cầm tập thơ viết đầy 200 trương nầy coi đi coi lại hoài,
nghiền ngẫm những điều ghi trong đó, sau đó tôi cầm
về Saigòn cẩn thận cất vô tủ sắt trong nhà.
Tôi có người bạn là Bác sĩ Nguyễn bá
Khả (có người em là Bác sĩ Nguyễn bá
Tín), người Bắc di cư năm 1954, cha mẹ vẫn còn sống
và đang ở chung với ông ở Cư xá Lữ Gia, Đến
tháng sau, tôi trở về Saigon thăm vợ con, tôi mở tủ
sắt ra coi lại thì quyển sách của tôi đã bị
mất, luôn cả bản đồ vẽ đủ thứ trên đó cũng bị mất.
(Tôi nhớ Bs.Nguyễn Bá Khả cũng có coi qua bản đồ
nầy !). Tôi hỏi Bác sĩ Khả có nói với ai về
quyển sách nầy không, ông trả lời :“Tôi với
anh là bạn mà, tôi coi xong rồi thôi,
có nói với ai đâu !” Tôi cố tình
tìm kiếm vẫn không ra rồi từ từ cũng không
còn nhắc tới nữa, nhưng tôi tiếc lắm. Lâu lâu
tôi cũng muốn giở ra coi để biết thời cuộc, vì đây
là sách thiên cơ mà tôi tin tưởng. Đến
năm 1975 khi tôi sang được Hoa Kỳ, ở thành phố Đầu
năm 1978 có hai vợ chồng ông Thiếu tá gốc Phật
Giáo Hòa Hảo ở Nam Cali lên Ông
Thiếu tá nầy quê ở Rạch giá có vợ ở Hồng
ngự, ông là Tiểu Đoàn trưởng Sư đoàn 9 BB
nhưng sau biến cố 1975, vợ chồng ông trở về Hồng Ngự trốn
lánh, nhờ bà con chung quanh che chở không ai tố
giác thành ra ông không phải đi học tập cải
tạo. Nhà bên vợ có một miếng ruộng ở giữa đồng
nên vợ chồng ra đó làm ruộng từ năm 1975 đến năm
1977 mà không bị bắt. Ông nói, ông
có đến gặp và biết Ông Đạo Nhỏ ở Hồng Ngự.
Ông Đạo ở đó lo tu hành và chữa bịnh. Những
bịnh nhẹ và ma quỷ thì ông làm hay lắm
còn về nóng lạnh hoặc sốt rét thì chữa
không được khá, đặc biệt, bịnh thuộc về ma hành quỷ
bắt hay điên loạn thì ông chữa đươc hết. Vào
một buổi sáng sớm vào năm 1977, trong lúc vợ chồng
ông đang nhổ mạ để sửa soạn cấy thì thấy có một
người mặc áo dài đen, mặc quần trắng, đầu trần tóc
hớt chải coi trẻ lắm và mang dép da từ trong chợ Hồng Ngự
đi ra (từ đó cách chợ Hồng Ngự mấy cây số). Sau
đó, hai vợ chồng đứng dậy chào vì biết người vừa
tới đó là Ông Đạo Nhỏ. Ông Đạo
lúc bấy giờ đã 17 tuổi rồi. Thấy hai người đứng dậy
chào thì ông chỉ vô thúng xôi
(khi họ đi đồng thì thường đem theo một cái thúng
trong đó có đựng cơm nếp, muối mè và nước
uống…). Ông chồng hiểu ý, lấy một chén xôi
rắc muối mè rồi đưa cho ông Đạo, ông Đạo ngồi xuống
bờ đất ăn ngon lành. Ăn xong chén xôi, ông
chỉ hủ nước. Ông chồng lấy cái chén sạch rót
cho một chén nước đưa cho ông. Uống xong, ông đứng
lên chắp tay xá một xá rồi băng ngang đồng đi về
hướng Cao lãnh. Hai vợ chồng lui cui nhổ mạ để kịp cấy nên
lơ là, lúc đó chỉ độ 8 giờ sáng, nên
ông Đạo mất dạng lúc nào cũng không ai hay
biết. Từ đó, Ông Đạo Nhỏ không còn trở về
ngôi miếu của ông nữa. Sự
việc nầy, theo tôi nghĩ là do cái linh ứng của Đức
Phật Thầy đã chuyển kiếp qua Đức Giáo Chủ Huỳnh
Phú Sổ rồi sau đó lại chuyển qua Ông Đạo Nhỏ. Sở dĩ
tôi nghĩ như vậy vì khi tôi hỏi Sư phụ của
tôi, ông đã cho tôi biết. Sư
phụ tôi là một vị Hòa thượng người Quảng
Ngãi. Năm 1974, ông đã được 104 tuổi rồi.
Lúc còn trẻ, ông tu ở Quảng Ngãi rồi sau
đó đi ra Hà Nội và qua bên Tàu.
Ông lại đi theo các ông sư Miến Điện về tu ở Miến
Điện 5 năm, học ngôn ngữ và chữ viết Miến Điện rồi lại đi
theo mấy ông sư nầy hành hương qua Sư
phụ tôi có thể nhịn đói 3, 5 năm mà
không chết và có thể chết 100 ngày hay 50
ngày rồi sống lại, ông đã biễu diễn nhiều việc
làm tôi phải hết hồn. Bất cứ ngôn ngữ nào
trên thế giới ông đều biết cả. Tôi đã đưa một
ông Đại tá người Đức tới thăm ông, lúc
đó ông đang ở trong Chợ lớn được mấy người Tàu cất
cho một cái am nho nhỏ để tu hành cùng với một
tiểu đồng, khi người Đức tới hỏi tiếng Đức thì ông cũng
trả lời ngay bằng tiếng Việt. Lúc trước, tôi có dẫn
một đồng bào người Thượng gốc Rhađê biết nói tiếng
Việt tới hỏi chuyện với ông bằng tiếng Rhađê thì
ông trả lời bằng tiếng Việt liền, người nầy hỏi cái
gì ông lền trả lời ngay cái nấy. Có lần,
tôi đem ông Đại úy người Anh đến thì cũng
được trả lời rất rành rẽ bằng tiếng Việt, khi ông nghe
thì hiểu ngay nhưng không nói được thứ tiếng
đó mà trả lời bằng tiếng Việt. Tôi đưa nhiều người
ngoại quốc tới gặp ông đều được trả lời bằng tiếng Việt rồi
tôi thông dịch lại bằng tiếng Anh và đều được thỏa
đáng. Sau đó tôi còn đưa một ông Đại
úy Ấn độ tới thì cũng như mấy lần trước nghĩa là
khi hỏi bằng tiếng Ấn thì được trả lời bằng tiếng Việt. Sau
đó ông khuyên tôi là đừng mắc
công đưa người ngoại quốc tới nữa. Ông tu đến mức là
đọc được ngôn ngữ xuất phát từ tư tưởng con người. Người
ta nói gì mặc kệ nhưng ông đọc được tư tưởng của họ
nên biết họ muốn hỏi về việc gì vì tư tưởng họ
phát ra lời nói ấy. Rõ ràng là Sư
phụ tôi đã tu đến cái mức cao thâm rồi. Sư
phụ đã chỉ dạy cho tôi cái pháp gọi
là “Ngũ hành tương sanh tương khắc” để đở đạn,
không bị đạn vô trong người. Sư phụ còn cho
tôi biết, khi mình khấn vái cái gì
mình không cần phải nói ra bằng miệng, mình
chỉ nghĩ trong tư tưởng rồi chấp tay làm thinh khấn vái
thì cái lời khấn cầu của mình sẽ tới người nghe
liền, chỉ nhìn cái tư tưởng của mình là
người ta biết ngay chớ không cần phải nói ra bằng lời.
Luyện pháp “Ngũ hành tương sanh tương khắc” là để
khi đạn bắn vô người thì nó bị trợt ra
ngoài, nhưng muốn luyện cái pháp môn nầy
phải mất công phu nhiều lắm. Sư
phụ tôi là người không những biết pháp
mà còn biết bùa chú nữa. Chẳng hạn như
có hôm, đang ngồi nói chuyện trong bàn
tròn trước sân am của ông thì có một
anh du đảng người Tàu say rượu bước vô nói bậy,
nói bạ rồi tự kéo ghế ngồi. Sư phụ tôi nói
:“Chú đi ra ngoài chơi !” Nó nói : “Ngộ
không có li !” Ông đưa cái tay lên như
vầy (giống như tung chưởng ra) tức thì tên nầy bật ngữa ra
sau lăn mấy vòng, hoảng hồn chạy tuốt ra ngoài.
Còn bên trong am, tôi có cho ông một
cái bàn viết bằng sắt của Mỹ với cái ghế
còn rất mới, ở phiá sau lưng ông có một
cái tượng Phật bằng vàng do người Tàu đem
cúng nặng năm lượng để lộng trong một cái hộp bằng kiếng,
khiến ai nhìn cũng ham muốn. Nhiều đứa ăn trộm tới định
đánh cắp nhưng khi vừa đưa tay ra thì đứng ngay tại
đó luôn cho tới sáng, đợi ông thức dậy xin
tha mạng. Ông đưa tay giải bùa cho nó, nó
té xỉu xuống đất nằm một hồi rồi tỉnh dậy chay đi, nên
thấy ông Phật bằng vàng mà không ai ăn cắp
được. Còn
tiền của ông để hai bên hộc bàn không bao giờ
khóa mà không ai dám ăn cắp. Ông
chuyên môn chữa bá bịnh, bịnh nào ông
chữa cũng hết. Tuy nhiên, bịnh nào không chữa khỏi
thì ông nói chữa không được, ông
nhìn mặt bịnh nhân là biết chữa được hay
không (người Tàu trong Chợ lớn tin ông ghê
lắm), bịnh mà mấy Bịnh viện chê đều đem tới cho ông.
Tôi đã chứng kiến việc nầy nhiều lần, ông hỏi người
bịnh đang nằm ngáp ngáp, ông vừa hỏi vừa lấy tay rờ
lên trán rồi ông để hai ngón tay dưới
lòng bàn chân bấm vô một lúc là
thấy hết ngáp ngáp. Ông nói :“Ngồi dậy !”
là bịnh nhân tức thì ngồi dậy. Kế đó,
ông hỏi thẳng bịnh nhân bịnh tình thế nào rồi
viết cho mấy toa thuốc, căn dặn kỹ lưỡng cách cho uống như thế
nào. Nhưng trước khi chữa bịnh, ông thường đặt vần đề
tiền, ông bảo đảm bịnh nầy có thể chữa sống hai năm nữa
hay sáu tháng nữa hoặc một năm nữa. Ông thường
nói thẳng vấn đề tiền bạc nếu thân chủ đồng ý
là ông chữa, tùy theo căn bịnh mà ra
giá, có thể là năm trăm ngàn hay tám
trăm ngàn hoặc hơn nữa và cũng tùy theo kinh tế
của gia đình người đó. Mà hễ khi nói đến
tiền là phải chạy ngay về nhà đem tiền đến thì
ông mới chịu chữa, thường thì người giàu lấy nhiều
còn người nghèo thì lấy ít. Khi nhận tiền,
ông không cần đếm lại cứ thẩy vô hai hộc tủ
đó. Số tiền nầy ông không xài, ông
có một lô đệ tử nghèo khổ đang làm
thuê vác mướn, nếu vợ con gặp đau yếu thì tới
ông, ông chữa trị giúp cho mà còn đưa
tiền để về nhà lo chạy gạo hoặc mua thuốc. Đám
nghèo khổ tới chữa bịnh đều được ông cho tiền. Có
một việc ông làm cho tôi sợ là từ năm 1970
đến 1974, mỗi sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy
là tôi phải đi vô am của ông, đem ông
vô nhà sau tắm rửa cho ông. Lúc bấy giờ
ông già lắm rồi, người của ông còn chừng hơn
hai mươi ký lô còn cái vòng bụng của
ông từ đằng trước ra phía sau lưng thì không
bằng một gang tay. Thân thể ông chỉ như bộ xương vì
từ năm 1970 đến năm 1974 ông không còn ăn gì
nữa nhưng đi đứng vẫn bình thường, mỗi ngày chỉ uống mấy
tách nước trà vậy thôi. Mỗi
sáng sớm ngày Rằm tháng Bảy từ năm 1970 tới năm
1974 là tôi phải vô tắm cho ông (mỗi năm chỉ
tắm một lần). Tôi kỳ rửa bằng sà bông sạch sẽ rồi
đưa quần áo cho ông mặc vô, sau đó ông
nằm lên “đi-văng” đặt ở phòng khách rồi đắp mền
lên người. Ông nằm dài ngay ngắn ra đó thẳng
hai tay hai chân rồi niệm “Nam mô A Di Đà Phật” ba
lần, rồi từ từ làm thinh luôn. Ông đã dặn
tôi trước đó, là :“Thầy sẽ chết giả 49
ngày”. Việc nầy bắt đầu từ năm 1970, thành ra tôi
phải cho người nhà tới canh chừng 24 trên 24 giờ và
giữ nhà cho ông. Tôi sợ bị chuột cống lên cắn
ông nên phải lấy mùng giăng cho ông trong thời
gian nằm đó. Khi ông nằm như vậy một lúc, tôi
rờ thử lổ mũi thì thấy ông đã hết thở, còn
thân thể tới chiều thì xám xịt và đến
ngày hôm sau là lạnh ngắt như cái xác
chết. Đúng
49 ngày sau lúc 12 giờ trưa thì người trực ở
đó cuốn mùng lên, lấy mền ra thì xác
ông vẫn nằm nguyên đó, nhưng từ từ tôi thấy
mấy ngón tay ngón chân của ông bắt đầu
nhúc nhích. Sau đó, ông ngồi bật dậy, lấy
hai bàn tay chà lên mặt mấy cái rồi cười “hả
hả” trở lại tươi tỉnh bình thường như cũ. Lúc ông
chết giả, tôi có đưa Bs. Khả tới thử nghiệm. Ông Khả
đem máy móc y khoa tới, ông dùng máy
đo áp suất máu (tâm động đồ) thì chỉ thấy
một đường chạy ngang tức là tim không còn đập,
nhưng khi dùng máy đo Encephalogram kiểm soát bộ
óc coi có còn làm việc hay không
thì thấy nó chạy bình thường giống như người đang
nằm ngủ. (Bác sĩ Khả lúc bấy giờ cũng là đệ tử của
ông). Tới
tháng Giêng năm 1974 thì ông nói trước
:“ Ngày Rằm tháng Bảy nầy, Thầy sẽ về núi”. (về
núi tức là chết thiệt). Ông nhắn cho 12 người Đại
đệ tử phải có mặt đầy đủ ở bên ông. Đến chừng
đó, tôi mới biết tôi là người Đại đệ tử thứ
12. Ông hẹn 10 giờ mới được gặp mặt, ai tới trước cũng
không được vô. Đúng 10 giờ, chúng tôi
bước vô thì ông ngồi dậy với tư thế xếp bằng.
Ông nhắn nhủ rằng :“Cái
đời khổ sắp tới rồi ! Các
con phải rán giữ gìn tâm ý, làm điều
thiện và lo tu hành”. Ông còn
nói
thêm một câu nữa :“Trước khi đi về thế giới khác,
các con nên biết là 49 ngày của 4 năm sau
cùng nầy, Thầy đã đi về cõi khác (Thầy để
cái xác nằm ở đây nhưng linh hồn về cõi
khác), đường đi nước bước là Thầy rành lắm, nơi
cõi khác đó, nơi thế giới khác đó
đều có mặt những vị đã tu thành chánh quả. Qua sang năm (tức năm 1975)
thì miền Sau
khi nói xong câu nầy thì Thầy cho phép đệ tử
mỗi người được hỏi một câu hỏi. Bắt đầu là Đại đệ tử thứ
nhứt được lên hỏi, mà muốn câu hỏi không cho
người khác biết nên phải kê miệng vô lổ tai
ông nói nhỏ rồi kê lổ tai vô ngay miệng
ông để nghe câu trả lời. Người Đại sư huynh của tôi
là một ông Lục người Cam-pu-chia, ông ở đâu
dưới miền Vì
vậy, khi gần tới ngày 30 tháng Tư năm 1975 tôi
đã cho vợ con tôi lên máy bay đi Mỹ trước
theo đám Cố vấn Mỹ mà không cần giấy tờ gì
hết, vì lúc đó tôi đang làm Thứ
trưởng của Phủ Quốc vụ khanh đặc trách cứu trợ nạn nhân
định cư. Tôi nghĩ, tôi có khả năng nhịn đói
cả tháng nên có thể vô rừng ở hoặc đi bộ qua
Thái Lan cũng dễ dàng nên quyết định ở lại. Cuối
cùng, như một phép lạ tôi được đưa lên trực
thăng tại DAO ở Tân sơn Nhứt bay ra hạm đội Mỹ vào giờ thứ
25 với tư cách là một Mục sư Tin lành chớ
không phải là một Thiếu tướng của Quân lực
VNCH./. Nguyễn văn
Hiệp Ghi
chú: “Ông Đạo Nhỏ”, tám tuổi –
là
tác giả
quyển sấm “Tứ Thánh”. (Dưới
đây là lời tiên tri 42 năm trước, của Ông
Đạo Nhỏ– cho biết Nguyễn
Văn Chức khi về già sẽ là Khương Tử Nha
– “phò Châu diệt Trụ:”.
Phải chăng, hôm nay đã
ứng hiện thần kỳ!. Xem
Ông Chức đã ái mộ đạo pháp!. Quý
trọng các
vị siêu nhân thế nào! …). “ “Muộn
màng Khương Tử cũng
vinh một thời (1).
– người
(nhân). (2).
– núi (sơn) (chữ
“nhân” ghép
với chữ “sơn” là chữ Tiên – chủ trì Hội Long Hoa. (3)
hai quả núi – là “nhị sơn” – hai chữ “sơn” Đây
là thời giờ: năm 2010 – Canh Dần
Sơn (san): một bữa ăn # nhị:
số 2.
: nghe # linh: lẻ.
: lọc
lựa # thập: số 10.
# (2010)
_____________
Sơn (san) : sửa # canh
: đẹp # kính: sức mạnh. Kính trọng # hổ, dần
Canh Dần Chú
giải: Liễu Văn Hoành Tiên |
Video Tham Quan Thanh Dia Tay Ninh 1 2 3 4 5 6 7 8