Mật
Tông còn gọi là Chân
Ngôn Tông hay Kim Cang Thừa , là một lưu phái
của hậu kỳ phát
triển Phật Giáo ; Tăng Đồ Mật Tông
mong cầu đạt đến sự giải
thoát của tinh thần , đại triệt để , đại giác
ngộ ,
tức thân thành Phật ; Tăng Đồ lấy
thân tâm của mình làm nơi tu
luyện ; nhờ kinh nghiệm tu trì được tích lủy qua
quá trình tu
tập nhiều đời , Mật Tông đả tổng
kết được nhiều kinh nghiệm
thiền định giồi giàu và phong phú , trong đó bao
gồm nhiều
phương pháp làm khang kiện thân thể , tiêu
trừ bệnh tật , đề
phòng và chế ngự được sự biến hoá của khí
hậu ác liệt ; cùng
khai phát những tiềm năng của thân thể và
những phương pháp tu
trì ngoại cảm và thần thông , mang con người
đến một trình độ
siêu phàm nhập thánh , trên con đường tiến
hóa hướng thượng .
...
Trong
vài thập niên gần đây , phong trào khí
công và ngành khoa học
về nhân thể được phát triển mạnh ở
Đông Phương ; nên những
phương pháp tu trì của Mật Tông được ẩn tàng
trong kinh điển
Phật Giáo Tây Tạng , càng ngày càng được mọi người
chú ý
tìm hiểu , học hỏi và trọng dụng ;
các chuyên gia tâm linh , khí công và Đại Sư Mật Tông đả
đem một số phương pháp tu trì của Phật Giáo
Tây Tạng , tổng
hợp lại thành một đại môn phái ,được gọi là Khí
Công Phật
Gia . Hiển Mật Phật Giáo đều tu trì Giới
– Định – Huệ tam học , mà Định học thì chú trọng
đến việc
điều thân , điều tâm và quán tưởng , có
nhiều điểm tương đồng
với khí công hiện đại . Trong Khí Công
Phật Gia , thì Khí Công
Mật Tông có nhiều điểm đặc biệt
làm cho mọi người chú ý ;
bởi vì những phương pháp tu trì của Mật Tông ̣đòi
hỏi một sự
truyền thừa nghiêm khắc và việc dùng đến
ngoại lực
kích phát trong lúc quán đảnh của Thượng Sư Mật
Tông , chỉ
tương truyền trong nội bộ Phật Môn ,
người ngoài khó mà biết
đến ; thêm vào đó những phương pháp tu trì đặc
biệt của Mật
Tông , đòi hỏi hành giả tu trì Mật Pháp , tay phải
bắt ấn ,
miệng đọc chân ngôn , tâm phải quán tưởng
, để cho tam mật tương
ứng ; vì thế những phương pháp tu trì của Mật
Tông , làm cho
người ngoài cảm thấy khó hiểu và thần bí vi
diệu .
Vì
mục đích làm cho thân thể khỏe mạnh , tiêu trừ
bệnh tật , tạo
phước cho nhân loại ; các Cao Tăng Đại Đức của Mật
Tông ở mọi
nơi , đả cởi bỏ nội qui của Phật Môn , đem
những phương pháp tu
trì được xem là báo vật của Mật Tông ra mà
công bố cho mọi
người ở ngoài đời biết đến ; những phương pháp tu
trì nầy
được giới khí công gọi là Khí Công Mật
Tông hay Tạng Mật Khí
Công .
Mật
Tông Tây Tạng chia ra làm Tứ Bộ , gồm có
Tác – Hành – Du Già
và Vô Thượng Du Già , thì phương pháp tu tập Vô
Thượng Du Già
của Phái Áo Đỏ và Phái Áo Trắng là có hệ thống
và cao thâm
hơn cả . Khí Công Mật Tông đả
tập hợp lý
luận tu tập , phương pháp tu tập của tất
cả các môn phái Mật
Tông và thành quả nghiên cứu của những nhà
nghiên cứu Tạng Mật ,
thành một hệ thống tập luyện hoàn
chỉnh và thực dụng cho mọi người .
Những
phương pháp tu trì của Khí Công Mật Tông
gồm có : Bổn Tôn Pháp
– Hộ Pháp – Sự Nghiệp Pháp – Hộ Ma Pháp – Bí
Quan Pháp - Lục
Du Già và Đại Thủ Ấn trong Đại Viên Mản Thứ
Đệ - Cửu Tiết
Phật Phong – Bảo Bình Khí – Chiết Hỏa Định còn gọi
là Phẩn
Nộ Phật mẩu – Tam Mạch Thất Luân –
Khí , Mạch , Minh Điểm
......, là những phương pháp tu trì thuộc khí công
dưởng sinh
và làm khai phát tiềm năng của nhân thể con
người .
Những
phương pháp nầy chú trọng tu luyện đến dòng
năng lượng duy trì
sinh mạng của con người , được thuật ngử khí công
gọi nôm na
là Chân Khí hay Nguyên Khí . Nhờ sự công khai
truyền ra ngoài
đời phương pháp tu trì Bổn Tôn , làm cho người đời
thấy được ,
sự thần bí thâm áo của Bổn Tôn Đại Pháp
nầy .
Thông
qua sự tu trì thực tiển , mọi người thấy được sự
bắt ấn
quyết của Mật Tông phù hợp với khí pháp của
kinh lạc tạng
phủ Đông Y , ngoài ra sự bắt ấn quyết của tay
được xem là cột
trụ ang ten và những sự bắt ấn quyết khác nhau của
hai tay ,
còn được xem là cách điều chỉnh tầng số dao
động của cột ang
ten để thu bắt những năng lượng cao cấp khác nhau
của vủ trụ ; Tâm quán tưởng
Bổn Tôn , quán tưởng Chủng Tử Tự , quán tưởng Tự
Luân , làm cho tâm được an định trụ
vào một nơi , tiêu trừ được thất tình lục dục
; nhờ sự kiên
tâm trì chí quán tưởng thiền định , giúp cho hành
giả tu luyện nâng cao định lực và niệm lực của mình ,
phù hợp với tâm lý và từ đó ảnh hưởng đến sinh
lý , làm bộc lộ được sức
mạnh tâm
linh siêu quần .....Miệng niệm chú
chân ngôn , còn gọi với
thuật ngử khí công là Tin Tức Mật Mả , Đặc Ý
.....có tác
dụng bên trong tâm nảo , làm cho
tâm trụ
vào một nơi , biến vạn niệm thành nhất
niệm ; thêm vào đó
những âm ba của chú ngử , làm sản sinh những rung
động của
sóng vật lý , và những sóng rung động của hạ
âm , do sự mặc tụng bên
trong , làm chấn động khí huyết và tạng phủ ,
có công năng đả thông kinh
mạch , làm lưu thông khí huyết và tiêu trừ
bệnh tật cho mọi người .
Ba
món báu mật của Đạo Giáo là TINH –
KHÍ – THẦN ; Ba món vật quí giá của
Phật Giáo Hiển Tông là PHẬT – PHÁP – TĂNG ;
Ba món vật quí báu của Phật
Giáo Mật Tông là KHÍ – MẠCH – MINH ĐIỂM.
Mật
Tông chú trọng sự luyện tập của cá nhân về
Ý và KHÍ ; Từ sự luyện tập
ĐIỂM trở thành KHÍ, và từ KHÍ chuyển vận
KINH MẠCH, từ đó sinh ra NỘI
HỎA ( lửa bên trong ), từ nội hỏa sản sinh ra QUANG MINH ( sự
chiếu
sáng ), từ quang minh hòa nhập vào biển VŨ TRỤ
QUANG, đạt đến cảnh giới
của PHẬT QUẢ, đó là sự liên hệ quan trọng, giữa ĐẠI
THỦ ẤN và KINH
MẠCH.
KINH
MẠCH là gì ? người xưa có nói : Kinh mạch
giả, hành khí huyết, thông âm
dương. Trong cơ thể của con người, kinh mạch là những con đường,
để khí
huyết lưu thông đi nuôi cơ thể.
Sự
tu luyện của Đạo gia phái Côn Luân, chú trọng
đến phương pháp Thông Tam
Tiêu – là Thượng Tiêu, từ̉ hoành cách
mô trở lên, trung tiêu là từ
hoành cách mô xuống đến bụng, hạ tiêu
là từ bụng xuống đến chân.
Kinh mạch được chia ra làm 12 đường kinh mạch
là : 1.- Thủ thái dương
phế
kinh. 2.- Thủ âm minh đại trường kinh. 3.- Túc âm
minh vị kinh. 4.- Túc
thái dương tỳ kinh. 5.- Thủ thiếu dương tâm kinh. 6.- Thủ
thái âm tiểu
trường kinh. 7.- Túc thái âm bàng quang
kinh. 8.- Túc thiếu dương thận
kinh. 9.- Thủ khuyết dương tâm bào kinh. 10.- Thủ thiếu
âm tam tiêu
kinh. 11.-Túc thiếu âm đảm kinh.12.- Túc khuyết
dương can kinh.
Kỳ
kinh bát mạch gồm có : 1.- Nhâm mạch. 2.- Đốc mạch.
3.- Xung mạch. 4.-
Đới mạch. 5.- Dương duy mạch. 6.- Âm duy mạch. 7.- Dương kiểu
mạch. 8.-
Âm kiểu mạch.
Sự
tu luyện cuả Đạo gia, vận khí trong 12 kinh mạch, gọi là
sự vận hành
khí trong Đại Châu Thiên, còn sự vận
hành khhí trong kỳ kinh bát mạch
gọi là Tiểu Châu thiên.
Phương pháp Đại Thủ Ấn của Mật Tông, không
phân chia phức tạp như Đạo gia.
Mật
tông đem những Tùng Thần kinh, Chủ yếu là Kinh Mạch
chia ra làm 7 trung
tâm, phân chia như sau : 1.- Đỉnh đầu. 2.- Giữa chân
mày. 3.- Ở cổ. 4.-
Ở giữa ngực ngang tim. 5.- Ở bụng. 6.- Sinh thực khí. 7.-Ở xương
cùng.
Đem
nội hỏa gọi là châm lửa, đem mạch phân làm Tả
mạch – Hữu mạch và Trung
mạch. Do đó, 7 trung tâm và 3 mạch cuả Mật
Tông và 12 kinh cùng Bát
mạch của Đạo giáo, đại thể căn bản là giống nhau.
Đại
Thủ Ấn nói về vận hành khí huyết, thông kinh
mạch, nước cam lồ thấm
nhuần tạng phủ, thấm nhuần gân cốt, điều hòa Thủy,Hỏa,
Phong, Thổ.
Những tác dụng trên, đều giống cách luyện tập của
Đạo gia trung Hoa.
Phương
pháp thông quan của Mật tông là đầu
tiên đả thông kinh mạch, sau đó hội
tụ lửa thành một điểm, sau đó châm lửa đốt
thành ánh sáng ; phương pháp
nầy giống như phương pháp của Đạo gia là : luyện Tinh
hóa Khí, luyện
khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, Luyện Hư
hoàn Đạo.
Ba
điểm bí mật của Mật Tông Đại Thủ Ấn là : 1.-
Quán tưởng. 2.- Thất chi
thiền tọa. 3.- Chú Âm tức là thu nạp hít thở
và niệm chú.
Tam quán của Đại thủ Ấn là : Không
quán – Giả quán và Trung quán.
Không
quán là quán tưởng vạn pháp tự thể
là không có ; Giả quán là vạn
pháp
do duyên sanh hư tướng, sanh sanh diệt diệt. Trung quán
là vạn pháp
không thiệt, không giả, trung đạo, tức là áp
dụng vạn pháp cho đúng lúc
đúng thời, đúng Thời và Vị theo như tinh hoa cuả
Kinh Dịch vậy.
Tập
luyện Tam quán cuả Đại Thủ Ấn, có thể giúp
Hành giả phá vở Ba điều mê
hoặc, chứng đắc Tam trí và thành tựu Tam Đức, cuối
cùng vĩnh viễn thoát
được Ma đạo.
Ngoài
ra , còn có sự quán tưởng huyệt Đan điền là
Nội quán, còn Ngoại quán,
Hành giả có thể nhìn chân dung, Pháp
tướng uy nghiêm, hình ảnh vị Thầy
của mình, làm đối tượng để quán tưởng ;
Hành giả nhìn vài giữa chân
dung, ngay chân mày cuả Thầy mình một cách
mảnh liệt và tưởng tượng từ
đó phóng ra, một luồng ánh sáng trắng,
phóng đến giữa chân mày của
mình. Đây là phương pháp tập trung tinh
thần, đem tạp niệm biến thành
nhất niệm, tập như thế một thời gian, hành giả có thể
tiến đến,tập nội
quán, quán tưởng tại đan điền. Khi hành giả tập
trung chú ý đến huyệt
Đan điền, thì ánh sáng sẽ hiện ra. Ngoại
quán, quán tưởng lấy chân dung
uy nghiêm vị Thầy của mình làm đối tượng để
quán tưởng ; còn Nội quán,
quán tưởng của Đạo gia, thì đầu tiên quán
tưởng huyệt đan điền, sau đến
huyệt mạng môn, thứ ba quán tưởng huyệt Dủng Tuyền ở
chân, thứ tư huyệt
Bách hội, sau đó quán huyệt Mi tâm, giữa
chân mày.
Còn
nguyên tắc Đại Thủ Ấn của Mật Tông, đầu tiên
quán tưởng Đan điền, sau
đó đến trung tâm ở bụng, đến trung tâm tim, thứ tư ở
cổ, thứ năm mi tâm
và chót hết đến đỉnh đầu.
Trong lúc quán tưởng, không được căng
thẳng thần kinh, hay chú ý quá sức, mà cần
phải thư thả tự nhiên, không gấp rút....
Về
phương pháp quán tưởng để làm phát sinh
luồng nhiệt năng nội hỏa, thì
hoàn toàn nhờ vào sự hít thở và
tưởng tượng ; khi hít không khí vào,
thì tưởng tượng màu trắng, khi đến đơn điền biến
thành màu đỏ, khi thở
không khí ra, không khí biến thành
màu đen. Việc tưởng tượng màu sắc có
ý nghĩa như sau : Tưởng tượng ánh sáng trắng
là biểu hiện cuả sự hấp
thụ thanh tịnh quang minh ; màu đỏ là sự phát sinh
nội hỏa ; màu đen là
sự phế thải ra khí dơ và nghiệp chướng, hoặc có
thể thay màu đen thành
màu lam hay xanh cũng được.
Phương pháp quán tưởng nội hỏa :
Đầu
tiên tưởng tượng một điểm tròn màu đỏ, tại huyệt
đan điền, cách dưới
rốn 4 ngón tay, huyệt nầy là điểm giao thoa của Tam mạch,
tả hữu và
trung mạch ; Điểm đỏ nầy được tưởng tượng như một đốm lửa nóng
như than
hồng trong lò, đỏ rực tỏa ra hơi nóng, sau đó
hít một hơi dài, vận khí
đi vào hai mạch tả hữu, để đi đến huyệt đan điền, thổi cho điểm
lửa ở
đây, mổi lúc càng nóng hơn ; khi thở ra
hành giả tưởng tượng, thở ra
không khí màu đen, hít thở như vậy, một
vòng gọi là một tức ; cứ 10 tức
thì cục lửa hóa ra to lớn hơn và thăng lên
một trung tâm lực cao
hơn,tức từ đan điền đi lên trung tâm tim, cổ, mi
tâm.....Hít vào đếm 6
nhịp, ngưng 2, thở ra 6, ngưng 2 là xong một chu kỳ.
Khi
tập lên cao, Thủ Ấn, Thân Ấn có thể biến
thành quán tưởng ; Chú ngữ
biến thành Thu Nạp hít thở ; và hít thở
có thể hóa thành khí để quán
tưởng ; đó là sự hợp nhất của Tam Quán.
Tài
liệu bên trên chỉ có tính cách nghiên cứu
và tham khảo , mọi
sự tu tập cần có sự hướng dẩn và chăm sóc
của Minh Sư . Tất
cả những bất trắc , thiệt hại xảy ra cho thân
tâm cá nhân
người tập hoàn toàn tự nhận mọi hậu quả do
tự mình gây ra .
ÁNH SÁNG – T2 – ÚC CHÂU
Biên soạn ngày 30 – 08 – 2007
( Mọi sự trích dịch hay copy
xin ghi rỏ xuất xứ như trên )
_____________________________________________________________________-
Hỏi: Lý
do tại sao người muốn tu luyện KHÍ CÔNG, YOGA, BÍ
PHÁP, BỬU PHÁP CHIÊ!U MINH VÔ VI TAM THANH
phải nguyện, xin keo và đốt hồng thệ?
Đáp: Là vì
mật pháp không truyền cho những người chưa TU TÁNH,
chưa ăn chay trường, chưa hiểu Đạo...mà nếu người chỉ kiểu (hay
Minh Sư) không cẩn thận chọn đệ tử hay không có xin
keo với chính Đức Thượng Đế cho keo thì hành giả
mới tu sẽ gặp rủi ro (chứ không may mắn) khi xuất thần lên
không trung thì sẽ bị sét đánh tiêu
tan, linh hồn không thể tồn tại mà luân hồi jọc
tiếp, tu tiếp- Nếu may mắn mà trở xuống xác thân
thì bị nóng hết thân phàm hay tẩu hoả nhập
ma. Riêng nếu Bàng Môn Tả Đạo học bửu pháp do
người chỉ kiểu bất tuân luật Trời mà chỉ bừa bãi
thì cả người chỉ kiểiú và hành giả mới học
thuộc Bàng Môn Tả Đạo có lục thông và
lợi dụng các thần thông mới có để làm tiền
(như coi bói, tiên tri những gì bất khả lậu hay
dùng tôn giáo và bửu pháp dạy cho
toàn nhóm, đảng vọ thần, dùng mưu mô
tàn sát chúng sinh như dạy sai chơn lý
dùng bom mang trong bụng giết nhiều người, làm chức sắc
quốc doanh dạy sai chơn lý, dạy vô thần, không tin
Trời, Phật gì nữa. Hậu quả là bị chư Thần phạt chết ngay,
bênh nan y, bi Tam Đồ (1) guơm dao, súng đạn; 2) lửa
cháy, 3)chết chìm) như Bin Laden đã bị đền tội
đúng y như Tam Đồ đã xảy ra đó.