
Chương I
Khảo sát các loại Đức Tin khác nhau của
các Dân Tộc trên thế giới.
Định nghĩa Tín ngưỡng - Đức Tin.
Tìm hiểu Đức tin của những người Tín đồ
trong các Tôn giáo trên thế giới
Định nghĩa Tín ngưỡng - Đức Tin.
Đức là Sự
tin-tưởng của một người trước một việc chưa xảy ra
đúng hay sai mà ông ta nghĩ rằng sẽ xảy
ra đúng như ông ta tưởng. Một lời hứa của một
người trước một người mà người đó tin rằng
người đã hứa sẽ thực hiện đúng như lời
nói. Ai tin rằng người khác sẽ thực-hiện
đúng lời hứa thì trong lòng người
đó có một hy-vọng hay nói ro hơn
là Đức tin về phương-diện thường tình ở đời
gọi là lòng tin-tưởng, niềm im... Sự tm-tưởng
ở phạm vi nhỏ hẹp có một thời-gian nhất-định từ khi
bắt đầu có lời hứa cho đến khi thực-hiện được lời hứa
đó sau đó, lòng tin-tưởng càng
tăng, khi người đã hứa đó hứa một lần nữa.
Ngược lại, nếu không xảy ra như đã định,
niềm-hn sẽ mất vì khi thất hứa một lần thì
dù sau này có thành thật hay giữ
đúng lời hứa thì không ai tin-tưởng nữa, cho nên tục ngữ xưa
có câu " Nhơn vô tín bất lập" Ai
không giữ chữ tín với người khác
thì khó mà lập thân được
vì không ai tin-tưởng mà giao công
việc, lúc nào người khác cũng nghi-ngờ là bội tín. Về phương-diện
rộng lớn hơn thuộc phạm-trù triết học,
siêu-hình-học, Tôn-giáo
học...người ta gọi lòng tin-tưởng ấy là
đức-tin. Đối với đức-tin này, người ta đặt hết mọi
chiều-hướng về một hệ-thống tư-tưởng như chủ-nghĩa cộng-sản,
vô-thần, hữu thần, thuyết hiện-sinh. thuyết duy-linh, về sự hiện hữu của con người
giữa thiên-nhiên, về sự cấu-tạo vạn-vật
và nguồn-gốc sâu xa của mọi sự. Về phương-diện
tín ngưỡng, người ta tin rằng phải có một Đấng
Sáng-Tạo, Chủ-nhân-ông của mọi sự vật
vô-hình và hữu hình trong
Càn-khôn Vũ- Trụ hoặc người ta tin vào
những định-luật của Tliên-nhiên mà Đức
Phật Thích-Ca đã khám-phá một
cách rất khoa-học tuy nằm trong Tôn-giáo
nhưng rất chí lý theo suy-luận kho học như
luật Nhân-quả, Luân- Hồi ...và Phật
không có đề cập những vấn-đề quá
trừu-tượng và diễn-dịch như sự hiện hữu của Đấng
Sáng-tạo hoặc có khi "tam sao thất bổn" trong
việc dịch và phản hoặc giả kinh sách thất lạc
như hường hợp "Tam -Tạng thỉnh kinh khi qua sông bị
chìm mất một số". Tuỳ đức tin của chư vị nào
không hướng về Đức Thượng-Đế, nhưng hướng về Đức
Thế-tôn Thích-Ca Mâu-Ni Phật hoặc
tin-ngưỡng nơi hằng hà sa số Phật do Thiên
tôn. Nói chung, Ở trong một
Tôn-giáo, người tín-đồ phải có
đức-tin. Tiến-trình của đức-tin này bắt nguồn
từ khi con người hiện hữu trên trái đất
này. Tiến-trình nầy diễn-biến qua ba giai-đoạn
mà Triết gia Descartes diễn-tả là thần quyền ở
trong giai-đoạn đầu-tiên, khi con người chưa có
một kiến-thức nào. Giai-đoạn thứ hai là trạng
của thời đại khoa học khi người ta biết giải-thích
các sự vật và hiện-tượng
thiên-nhiên. Khi mọi giải-thích thuộc
phạm-vi khoa-học thực-nghiệm không còn chứng
minh được nữa ,. người ta đưa ra những triềt-thuyết hay
giả-thuyết hoặc những huyền-thoại để giải-thích như
trạng-thái Thần-quyền của giai-đoạn đầu. Các
giải-thích thuộc phạm-vi triết lý mà
không đi đến kết cuộc thì người ta quay về
tình-trạng cư Của tri-thức là dùng
huyền-thoại để giải-thích mặc dù tinh-thần
khoa-học không
cho phép tin càn, nhưng không biết
giải-thích cách nào khác.
Đó là cái vòng lẩn-quẩn của
tri-thức con người trong phạm-vi bất-toàn. Niềm-tin,
lòng tin-tưởng hay đức-tin...là
trạng-thái chờ-đợi những cái gì chưa
xảy ra, chưa thấy trước mắt. Đức tin cũng có sức mạnh
và cường-độ của đức-tin: mạnh hay yếu tùy theo
tri-thức của con người. Một tri-thức có thể
làm giảm đức-tin thuộc loại nẩy, nhưng lại làm
tăng đức tin thuộc loại kia.
Trở Lại Mục
Lục
