HỒN
KHÓM KIM
THẠCH, THẢO MỘC, CẦM THÚ bạch liên
CHƯƠNG
THỨ NHỨT
HỒN
KHÓM LÀ GÌ? Trên thế gian mỗi
loài, mỗi giống, từ Kim thạch, Thảo mộc cho đến Cầm thú
đều có một Đại hồn chung. Người ta gọi Hồn chung nầy là Hồn
Khóm (Âme groupe). Tỷ
như: Tất cả các loại đá xanh trên Địa cầu đều
có một hồn chung gọi là Hồn Khóm Đá Xanh. Tất
cả những cây gỗ như Trắc, Cẩm lai, Giáng hương, mỗi loại
trên Địa cầu đều có một hồn chung gọi là Hồn
Khóm loài Trắc, Hồn Khóm loài Cẩm lai, Hồn
Khóm loài Giáng hương. Tất cả loài chó trên Địa
cầu đều có một hồn chung gọi là Hồn Khóm
loài Chó, v. v. . Trừ ra con người mới có Hồn Cá
nhơn riêng biệt đi đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia. SỰ CẤU TẠO HỒN KHÓM Nói một
cách tổng quát tại cõi Trần nầy, mỗi Hồn
Khóm gồm nhiều Bộ Ba Trường Tồn (Collection de Triades permanentes) được bao bọc trong
ba lớp vỏ: 1)- Lớp vỏ ở trong cấu tạo bằng những
phân tử làm ra Cảnh thứ Tư của cõi Trí Tuệ
(Cõi Thượng Giới – Molécules du 4è sous
plan du plan mental). 2)- Lớp giữa làm bằng chất nguyên
tử của cõi Trung Giới (Matière atomique du plan astral). 3)- Lớp vỏ nầy để che chở và nuôi
dưỡng Bộ Ba Trường Tồn, cũng như bào thai ở trong tử cung chưa
được tự do hoạt động. BẢY LOẠI HỒN KHÓM 1)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Nhứt. 2)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ
Nhì. 3)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Ba. 4)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Tư. 5)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Năm. 6)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ
Sáu. 7)- Hồn Khóm thuộc về Cung thứ Bảy. Ta biết rằng: Kim thạch sau đầu thai
làm Thảo mộc, Thảo mộc đầu thai làm Cầm thú, Cầm
thú sẽ đầu thai làm Con người hay là Tinh Linh gọi
là Ngũ Hành (Esprits de la nature) tùy theo thứ.
Chỉ có bảy loài được đi đầu thai làm người như:
Khỉ, Ngựa, Voi, Chó, Mèo, còn hai loài kia
không biết; và bao nhiêu còn lại đầu thai qua
các loài Tinh Linh hay Ngũ Hành. Nhưng nên nhớ: loài Thảo mộc
thuộc về Cung thứ Nhứt vẫn đầu thai làm Cầm thú Cung thứ
Nhứt. Còn Cầm thú thuộc về Cung thứ Nhì thì
đầu thai làm người hay làm Ngũ Hành thuộc về Cung
thứ Nhì v. v. . . Không có việc đổi Cung, trừ ra
con người. SỰ PHÂN CHIA HỒN KHÓM Hồn Khóm cũng như tế bào
lâu ngày thì phân chia ra. Ban đầu một, sau
thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám,
tám thành mười sáu v. v. . . . Cho tới một
ngày kia, mỗi Hồn Khóm nhỏ gồm có một Bộ Ba Trường
Tồn mà thôi. Tới chừng đó con thú mới
có thể có Thượng Trí đặng đi đầu thai làm
người. Luôn luôn một Hồn Khóm lớn
gồm nhiều Hồn Khóm nhỏ và Hồn Khóm tiến hóa. Tại cõi Thượng Giới, Hồn Khóm
có một hình dạng mập mờ. Qua cõi Trung Giới,
hình dáng này rõ rệt hơn. Xuống tới
cõi Trần, Hồn Khóm mới thật thành hình
và hoạt động nhiệt liệt. CHƯƠNG THỨ HAI HỒN KHÓM KIM THẠCH (Âmes groupes
Minérales) Hồn Khóm Kim Thạch ở tại cõi
Trần, nó gồm ba lớp vỏ, như đã nói trước đây. 1)- Lớp vỏ trong làm bằng những
phân tử của cảnh thứ tư của cõi Trí Tuệ hay
là cõi Thượng Giới (Molécules du 4è sous
plan du plan astral). 2)- Lớp giữa làm bằng chất nguyên
tử căn bản của cõi Trung Giới (Matière atomique du plan
astral). 3)- Lớp ở ngoài làm bằng chất
nguyên tử căn bản của cõi Trần (Matière atomique du
plan physique). Ở trong ba lớp vỏ có một số Bộ Ba
Trường Tồn (Triades permanentes). SỰ SỐNG CỦA LOÀI KIM THẠCH Dầu cho Kim Thạch, Thảo mộc, Cầm thú,
Con người, hay là các hạng Thiên Thần, sự sống vẫn
là Một. Nhưng về loài Kim Thạch, chúng
ta không thấy nó hoạt động như ba loài trên.
Cho nên người ta mới gọi chúng nó là
vô tri vô giác. SỰ SỐNG CỦA CÁC LOÀI
ĐÁ Khi đi dạo núi, nếu ta để ý
dòm mấy tấm đá lớn thì ta thấy chúng
nó có những đường nổi phồng lên, giống như mạch
máu của mình. Chính là sanh lực Prana theo
những đường nầy vô nuôi những tế bào của cục
đá. Nhờ sanh lực, cục đá mới lớn và sống như
chúng ta. SỰ TIẾN HÓA CỦA LOÀI
KIM THẠCH Loài Kim Thạch cũng tiến hóa như
các loài khác. Chúng cũng thay đổi
hình dạng, song rất chậm chạp. Phải một thời gian cả ngàn
năm mới nhận thấy được điều đó. HÌNH MỘT ĐÁ TIẾN
HÓA Trong quyển L’Occultisme et la Science (Huyền
bí học và Khoa học) tác giả là bác
sĩ Charles Lancelin, nơi trang đầu có in hình một cục
đá tiến hóa. 1)- Phía dưới đá cục. 2)- Chính giữa là cẩm thạch. 3)-
Trên hết là thủy ngọc (Cristal de Jades). Mấy
chục năm trước đi dạo núi, tôi vẫn thấy nhiều cục
đá tiến hóa, lớn có, nhỏ có. Chắc chắn
trong quí bạn, có nhiều vị cũng thấy như tôi, song
ít ai nghĩ đến việc cục đá và loài
châu ngọc tiến hóa. SỰ TIẾN HÓA CỦA
LOÀI KIM KHÍ Loài Kim Khí cũng tiến
hóa. Loài nào cũng có thứ còn non,
có thứ đúng tuổi. Cũng như vàng, màu sắc
của nó chứng tỏ tuổi của nó. Vàng non màu
vàng lợt, vàng đúng tuổi màu vàng
sậm. Một dòng suối từ núi Cô
Tô chảy xuống, tôi thấy tận mắt có những mảnh
vàng lẫn lộn với cát, tôi có bốc lên
coi. Vàng nầy còn non, không biết mấy ngàn
năm nữa mới dùng được nó. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẤT, CỦA ĐÁ
VÀ CỦA NƯỚC Mỗi loại đá hay mỗi loại đất, như
đá hoa cương (granit) sa thạch (grès), đá
vôi, đá ong, đất sét, dung nham (lavre) đá ở
trong núi lửa chảy ra v. v. . . đều
phát ra những luồng sóng từ điện có ảnh hưởng rất
lớn đối với những người ở gần nó hay là cất nhà
cửa trên đó, nhứt là về sức khỏe và
tánh tình. Ba yếu tố góp phần vào sự sanh
ra ảnh hưởng nầy là: 1)- Yếu tố thứ nhứt: Sự sống của đá. 2)- Yếu tố thứ nhì: Tinh chất ở
cõi Trung Giới hạp với nó vì nó có
phần đối chiếu ở cõi Trung Giới. 3)- Yếu tố thứ ba: Những Tinh Linh hay Ngũ
Hành do nó quyến rũ lại ở với nó: Ảnh hưởng nầy
tốt hay xấu tùy theo thứ. Ngày và đêm, bốn
mùa tám tiết, từ năm nầy qua năm nọ, áp lực nầy
không ngớt gây ra những ảnh hưởng lớn lao và
góp phần vào sự sanh hóa những giống nòi,
những loại, những miền, những vùng và những cá
nhơn khác biệt. Vì mấy lẽ trên đây
mà có người tới cất nhà ở trên miếng đất
nào đó thì thường đau ốm bịnh hoạn. Bỏ nơi
đó đi ở chỗ khác thì khỏe mạnh, làm ăn
phát đạt, tiền vô như nước, không còn
túng thiếu nữa. Người ta nói: hạp phong thổ hay
không hạp phong thổ, điều nầy rất đúng. Khoa Địa lý
rất hay, nhưng phải học cho tới nơi tới chốn mới ít lầm lạc. Câu ‘địa linh nhơn kiệt’ không sai
đâu. ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC Cũng như đất, nước ở biển giả, sông
rạch, ao hồ, giếng, mạch, đều có ảnh hưởng khác lạ lớn
lao đối với con người, nhứt là biển giả, ảnh hưởng nầy thấy
rõ rệt. Cũng là ba yếu tố đã nói
trước đây qui định ảnh hưởng: 1)- Sự sống của nước. 2)- Tinh chất vô ở trong nước. 3)- Loại Tinh Linh hay Ngũ Hành hợp lại
với nó. Ngày nay ít ai biết được những
việc nầy, nhưng trong tương lai người ta sẽ khám phá ra
được những chứng bịnh thuộc về loại trên đây và y sĩ
sẽ khuyên bịnh nhơn đổi chỗ ở hay đổi gió thay vì
dùng thuốc men như thường lệ. Bởi vì không
có thuốc nào chữa lành những bịnh như thế được.
Đau nam chữa bắc thì tốn tiền chớ không thấy hiệu quả
nào cả. Nhưng thật sự có một điều hết sức khó
là phải tri ra cho đúng nguyên nhân của bịnh.
Phương pháp Cảm xạ (Radiesthésie) giúp ích
rất nhiều trong việc tầm kiếm nầy. SỰ HAM MUỐN CỦA LOÀI KIM
THẠCH Loài Kim Thạch biết ham muốn như con
người không? Loài nào cũng có sự ham
muốn cả. Hễ ưa nhau thì lại gần nhau, còn không
thích nhau thì dang ra xa. SỰ HAM MUỐN CỦA LOÀI
ĐÁ Trong các loại ngọc thì
có ngọc Oan ương làm cho người ta để ý hơn hết. Cục ngọc trống gặp cục ngọc mái
thì xáp lại liền, không rời nhau, như ngọc Oan ương. Còn mấy loại đá khác,
không ai ra công quan sát, cho nên không
biết sao mà nói. Có lẽ có thứ hạp với nhau
và cũng có thứ thì cũng không hạp. Đây
chỉ là ức đoán mà thôi. SỰ HAM MUỐN CỦA KIM KHÍ Còn về Kim khí xin đưa hai
thí dụ sau đây: I Ta biết nước là sự kết hợp hai thứ
khí: Khinh khí (Hydrogène) và Dưỡng
khí (Oxygène). Nếu ta bỏ vô nước một chút Sodium
(chất nạp) thì ta thấy dưỡng khí liền bỏ khinh khí
đặng nhập với Sodium. Ta không còn Nước nữa mà
có một chất mới gọi là Oxyde Hydrate de Sodium.
Còn Khinh khí thì bay đi. II Ta biết Acide Chlohydrique là sự hỗn
hợp của Chlore (lục tố) và Hydrogène (khinh khí).
Nếu ta bỏ vô acide một chút mạt kẽm (limaille de zinc)
thì lập tức Chlore bỏ khinh khí đặng nhập với kẽm
và làm ra Chlorure de Zinc, còn khinh khí
bay đi. Đây là một trong những phương
pháp để làm ra khinh khí. SỰ SỐNG CỦA LOÀI KIM
KHÍ Sự thí nghiệm của Giáo sư
Jagadish Chandra Bose: Cuối thế kỷ thứ 19, ông Giáo sư
Jagadish Chandra Bose, Tiến sĩ Khoa học và Cử nhân Văn
khoa, giáo sư tại Đại học đường Calcutta chứng minh rằng
Loài Kim Khí cũng sống như các loài vật
khác. Ông bày ra một cái máy đo được
sức chọc phá và sự ứng đáp của các thứ kim
khí đem ra thí nghiệm bằng những đường cong ghi
trên ống lăn trụ quây tròn. Ông so sánh những đường cong ghi
sự ứng đáp của thiếc và nhiều loại kim khí
khác với những đường cong ghi sự ứng đáp của bắp thịt
thì thấy hai thứ khác nhau. Kim khí cũng tỏ ra những triệu chứng
mệt nhọc, nhưng thiếc thì ít hơn mấy thứ kia. Những thuốc làm cho con người và
thú vật bị kích thích, suy nhược và chết
cũng làm cho các loài kim khí bị
kích thích, suy nhược và chết vậy. Loài kim khí chết là khi
bị chọc phá mà nó không còn ứng
đáp được nữa. Nếu trong lúc nó bị nhiễm độc
mà dã thuốc kịp thì nó cũng sống lại vậy. Ông J. Chandra Bose có gởi
bài khảo cứu của ông qua Institution Royale ngày 10
Mai 1901 với nhan đề: “Response of inorganic Matter
to stimulus” Người thường hay các nhà
khoa học đọc bài nầy không thấy có chi là
quan trọng bởi vì các Ngài chú trọng về vật
chất. Còn đối với các nhà Huyền Bí Học,
những sự thí nghiệm nầy rất có giá trị vì
chúng chứng minh rằng không có những vật vô
tri vô giác, chất nào cũng có sự sống, sự
sống vẫn đại đồng. Các loài vật đều cảm xúc như
nhau. THÍ NGHIỆM VỚI LOÀI
THẢO MỘC Ông J. Chandra Bose cũng có
thí nghiệm với loài thảo mộc. Một cọng rau, một lá
cây, một nhánh cải bắp mới cắt, thì những đường
cong vẫn giống nhau. Người ta có thể kích thích
chúng nó, làm cho chúng nó mệt nhọc,
suy nhược và đầu độc chúng nó. Khi một cái cây bị đầu độc
thì người ta rất đau lòng mà thấy một đốm
ánh sáng nhỏ ghi những mạch động của cái cây
theo đường cong càng ngày càng yếu, cuối
cùng đường cong thành ra đường ngay rồi ngưng liền.
Cái cây đã chết. Người ta đã phạm tội
sát sanh. Đúng vậy, cái cây cũng có
mạng sống như con người. Ông J. Chandra Bose không
có xuất bản bài diễn thuyết nầy, nhưng những sự kiện nầy
có ghi tronhg quyển sách của ông nhan đề: Response
in the Living and Non Living. Bà A. Besant đến viếng ông tại tư
gia, ông có lập lại những sự thí nghiệm nầy cho
Bà thấy tận mắt. CHƯƠNG THỨ BA HỒN KHÓM CỦA LOÀI
THẢO MỘC Hồn Khóm của loài Thảo mộc
có hai lớp vỏ: 1)- Lớp vỏ ở trong làm bằng những
phân tử của cảnh thứ tư của cõi Trí Tuệ hay
là cõi Thượng Giới. 2)- Lớp ở ngoài làm bằng những
nguyên tử của cõi Trung Giới. Và một số Bộ Ba Trường Tồn. Lớp ngoài của Hồn Khóm
làm bằng nguyên tử Hồng Trần không còn nữa,
vì nó để nuôi cái Phách của Hồn
Khóm Thảo mộc. SỰ CẢM XÚC CỦA LOÀI
THẢO MỘC Loài Thảo mộc cũng cảm xúc như
con người, mặc dù chúng ta không hiểu được điều
đó ra sao. Tỷ như: Hoa Quỳ luôn luôn hướng về
mặt trời. Cây mắc cở đụng tới thì xụ
lá. Trong thân cây, tế bào đực
gặp tế bào cái thì xáp lại gần nhau. NHỮNG CÂY ĂN THỊT SÂU
BỌ, CHIM CHÓC, THÚ VẬT. Có những cây ăn thịt sâu
bọ, chim chóc và thú vật. Chúng tỏ ra rất
xảo quyệt, biết gạt gẫm những con mồi. Một trong những cây ấy là
Rossolis (Drosera Rotundifolia), mọc trong bưng, trên bờ hay mấy
chốn bùn lầy. Lá áo tròn, mặt trên
thì đầy những lông đỏ nhọn, trên đầu mỗi sợi
lông đều có một giọt mũ trắng giống như giọt sương. Những
lông nầy thì cứng và đứng sựng như một cây
thép gió. Vô phước cho con sâu bọ nào
lại đậu trên lá đặng hút mũ. Cái đầu
nó sẽ bị dính nhựa, còn thân mình
thì bị lông quấn chặt. Trong một thời gian từ một đến ba
giờ đồng hồ, con mồi sẽ chết mất. Nếu là con sâu bọ lớn
thì cái lá cuốn tròn lại đặng quấn chặt con
mồi. Gặp con bướm hay là con chuồn chuồn bay lại đậu trên
mặt cái lá thì mấy cái lá ở gần
đó đều nghiêng mình xuống hiệp sức với nhau đặng
chụp con mồi không cho thoát khỏi. Ngoài
ra còn những cây khác gọi là Grassette
(Pinquieula), Drosophylus, Népenthès, Dioné
américaine . . . Người ta biết 500 loài cây ăn
thịt, khác nhau về phương pháp của chúng nó
bắt mồi và những khí cụ của chúng nó
dùng đều không giống nhau. CÂY ĂN THỊT NGƯỜI Trong rừng Trung Phi châu và
Cù lao Thứ cây nầy không lớn, lối một
thước bề cao. Nó có nhiều bẹ như bẹ chuối, bình
thường thì ngã xuống đất. Khi con vật lại gần cây
nầy thì nó tiết ra một thứ mùi làm cho con
vật ngửi rồi thì mê man và đi lần lần tới những bẹ
đặng ngã vào đó. Mấy bẹ úp lại, vài
ngày sau da thịt tan nát, chỉ còn bộ xương rớt ra
thì những bẹ hạ xuống đất như cũ. Lối nửa thế kỷ trước, tôi có đọc
một bài báo đã thuật chuyện một người da trắng
(không nhớ là du khách hay thám hiểm)
vô rừng Phi châu bị cây ăn thịt. Sau trời đánh
cây nầy chết. VỀ CÂY ĂN THỊT NGƯỜI Về Cây ăn thịt người, tôi xin
trích bài ‘Chuyện Khoa học’ do ông Hoàng
Chung sưu tầm, đăng vào báo Cách Mạng Quốc Gia
ngày 12-4-1956. Nguyên văn như sau đây: CHUYỆN KHOA HỌC: CÂY ĂN THỊT NGƯỜI Bắt người và loài vật để ăn như
thế nào? Ăn thịt không phải là một sự cần
thiết nhưng là một ‘thói xấu’ của giống cây
quái ác nầy. Năm 1878, nhà Thảo mộc học Đức
tên là Carl Riche, sau một cuộc thám hiểm miền
Đông Nam đảo Madagascar, có viết một bài trên
tờ báo Khoa học khiến thế giới phải kinh ngạc. Trong khu rừng
có giống mọi Mkedos ở, nhà thám hiểm được chứng
kiến tận mắt một cảnh tượng ghê gớm: một giống cây thuộc
loại lạ lùng chưa thấy khoa học nói tới bao giờ, đang . .
. ăn thịt một người đàn bà. Trong một bức thư viết cho bác sĩ
Gredlonski, ông có thuật lại câu chuyện trên.
Các báo hồi đó đều đăng tải làm dư luận
và giới khoa học xôn xao hết sức chú ý.
Nhà Thảo mộc học Carl Riche viết: ‘. . . Tôi tới đảo ‘Nhờ có người đưa đường, tôi tiến
vào khu rừng có cây hung dữ nói trên.
Sau 6 ngày đi bộ liên tiếp, chúng tôi tới một
khu rừng hoang vu, ngoài bìa một cánh rừng
mà tôi tin chắc chưa có người da trắng nào
bước chân tới. Ra lệnh một lần nữa cho tên mọi đưa đường
theo tôi, tôi vào thẳng khu rừng âm u
và cứ thế tiến sâu mãi. Sau 2 ngày đi
liên tiếp, chúng tôi tới làng của thổ
dân Mkedos, tôi yêu cầu được tiếp kiến với Tù
trưởng bộ lạc và xin phép ở lại vài ngày
với thổ dân. ‘Sau đây tôi được biết dân
mọi địa phương thờ một cái cây rất linh thiêng
vì trong cây có một con quỉ dữ. Hàng năm,
vào một mùa nào đó, dân địa phương
phải đem một thiếu nữ nhan sắc hiến dâng cho cây Thần. ‘Sau một cuộc lễ rất trọng thể người ta đốt
cháy cái cây kỳ dị cùng với người con
gái hi sinh làm món ăn của cây. ‘Câu chuyện ghê rợn sắp xảy ra
vào mùa thu tới nên tôi quyết định ở lại
chứng kiến tận mắt tấn thảm kịch. ‘Sáng sớm tinh sương ngày lễ kỳ
dị kia, các thổ dân trong vùng, người lớn,
đàn bà, trẻ con, ông già, tất cả đeo
hành lý lên đường. Tôi nhập bọn đi theo. ‘Nhờ ánh trăng soi vằng vặc, cả
đoàn người lạnh lùng đều đặn bước, lúc thì
lội qua suối, lúc thì vượt qua đèo. Trưởng
đoàn cho tôi biết cây ăn thịt người càng
ngày càng hiếm và mỗi năm phải đi sâu
vào trong rừng mới gặp. ‘Sáng hôm sau, chúng
tôi đến một khoảng rừng thưa, ở giữa có mọc thứ cây
kỳ dị mà tôi không biết thuộc loại gì.
Thân cây cao chừng 10 thước, vỏ sù sì
có mắt như vỏ trái thơm. Trên ngọn cây
có một bông hoa trắng, rất to, chu vi chừng một thước
rưỡi. Khoảng giữa gốc cây và bông hoa có 8
chiếc lá to mọc rũ xuống, dài từ 2 tới 3 thước, lởm chởm
những gai. Giữa bông có 12 cái nhị to bằng
ngón chân cái mọc thẳng lên trời. Không
có một hơi gió thổi mà các nhị hoa lay động
rung rinh không ngừng. ‘Vừng Thái dương đã lên.
Thổ dân Mkedos đốt 12 ngọn lửa chung quanh Thần Mộc, rồi
các cuộc vui bắt đầu luôn tới trưa, họ uống rượu, ăn cơm
và nhảy múa, trừ một thiếu nữ đứng riêng một
góc, yên lặng buồn rầu không dự cuộc vui đùa,
ăn uống. Tóc nàng kết lại thành một búi ở
giữa đỉnh đầu có cắm đầy hoa. ‘Bỗng nhiên, mọi ngươi im bặt tiếng
hò reo, tiếng trống thanh la nín thinh. Mọi người nhất tề
ngồi xuống và (chỉ tiếc mất một câu, chưa
tìm được bài khác đầy đủ hơn). ‘Chẳng nói chẳng rằng anh ta chỉ
vào cái cây ghê gớm. Chỉ một dáng điệu
đó cũng đủ làm cho người con gái sợ hãi
cuống cuồng, la thét om sòm rồi lăn lộn dưới đất. Thế
là mấy chục anh đàn ông lực lưỡng, một tay cầm
giáo dài, một tay lôi người con gái
đáng thương đứng lên rồi đẩy mạnh vào gần cây. ‘Nàng rùng mình mấy
cái rồi liền đột nhiên, như người mê ngủ,
nàng lừ đừ tiến vào giữa lùm cây là
nơi Thần Mộc ngự trị. ‘Tới bên cây, người con gái
cố sức leo lên ngọn, tới bên bông hoa trắng kỳ dị,
úp mặt xuống cánh hoa mà uống chất nước đọng ở
trong. Xong, nàng tụt xuống, dựa lưng vào thân
cây, mắt nhắm lại và các đầu ngón tay
bám chặt vào lượt vỏ sù sì. Thốt
nhiên, như có phép lạ của con quỉ, các nhị
hoa vươn dài ra từ cái một, vươn mãi rồi tự uốn
cong xuống, cúi dần tới miếng mồi lúc đó đã
đứng yên như pho tượng có lẽ do mấy hụm nước mà
nàng vừa uống trong cánh hoa. Các nhị hoa vươn
mãi rồi quấn chung quanh thân người con gái, quấn
vào cổ, vào cánh tay và hai bên
đùi nàng. Trong khi đó, bao nhiêu lá
cây, từ trước đến giờ vẫn không lay động, bỗng rung rẫy
nhịp nhàng như mừng rỡ. ‘Rồi thì các lá cây
tự mở rộng ra, để lộ hai hàng gai sắc chung quanh mép
lá. Giống như con bạch tuộc, 12 cái nhị hoa nhấc bỗng
người con gái đáng thương lên lúc đó
ngay đơ như chết. ‘Hoang mang trước cảnh lạ lùng khủng
khiếp đó, tôi không có một hành động
nào để cứu người thiếu nữ. Thật ra nếu tôi có một
cử chỉ nào phản đối, bọn mọi tất sẽ giết ngay tôi
ném xác vào hàm răng của Thần Mộc. ‘Tôi ngây người ra nhìn.
Các nhị hoa đặt người con gái đáng thương
lên trên một chiếc lá rồi chiếc lá ngậm miệng
lại.’ (mất một đoạn) ĂN THỊT KHÔNG PHẢI LÀ
MỘT ĐIỀU CẦN THIẾT NHƯNG LÀ MỘT THÓI
XẤU CỦA CÁC GIỐNG CÂY QUÁI ÁC NẦY Khi người ta khám phá ra sự
bí mật của loài cây ăn thịt người, người ta
có cảm tưởng đứng trước một việc quỉ quái, trái
ngược hẳn với luật lệ thiên nhiên của Tạo Hóa. Là một loài cây chỉ cần
‘ăn’ có ánh sáng, ăn có thán
khí để nhả ra dưỡng khí mà lại ăn thịt sống
và biết dùng những mưu cơ để bắt mồi. Loại cây ăn
thịt người cũng giống như các loại cây thường, có
lá xanh để hút không khí và có
rễ để hút các chất màu dưới đất để nuôi
cây. Như vậy, cây không cần gì đến thịt sống
để có thể sống và lớn lên. Vậy ăn thịt sống
là một thói quen xấu xa, một sự đồi bại truyền thống của
loài nầy vậy. Bạn cũng như tôi,
chúng ta không thể nào tưởng tượng có giống
cây quỉ của bọn Mkedos hay giống cây sà trên
đảo Người ta kể lại một câu chuyện đã
xảy ra tại vùng Vào
khoảng đầu thế kỷ nầy, một anh chàng tên Rot Gut Peter
nghiện rượu, một bữa vui bạn quá chén say sưa, ngất
ngưỡng từ tiệm rượu trở về nhà. Nhưng anh ở xa, phải đi
xuyên qua một bãi sa mạc mới tới nhà. Bắt đầu từ
tối bữa say rượu đó, không ai trông thấy anh ta nữa. Thời gian
qua, không ai còn nghĩ tới anh Rot Gut Peter. Nhưng một
bữa kia, dưới một cây bắt ruồi to lớn, một ngưới đi tìm mỏ
nhận thấy một chiếc đồng hồ đeo tay, 42 chiếc mắt sắt để xâu
dây giày, 11 chiếc khuy áo, một khẩu súng
sáu kiểu colt bắn 6 phát, một khóa thắt lưng
và hai đồng đô la. Nhà chức trách điều tra
thì được biết những thứ đó của anh chàng Rot Gut
Peter. Và tấn bi kịch được dựng lại ngay. Trong khi
về nhà, anh bợm rượu kia say quá ngã vào
một cây biết ăn thịt người. Cây nầy vớ được mồi ngon, bắt
sống ngay ăn thịt và khi tiêu hóa xong, liền nhả ra
những thứ không tiêu hóa được như đồng hồ,
khóa thắt lưng, súng sáu v.v. . . Câu
chuyện trên có thiệt, mọi người đều biết nên thổ
dân vùng Salomé, mỗi khi khuyên những tay
giang hồ hay những du khách miền xa mới tới, thường mang
câu chuyện trên ra kể lại và kết luận: Đêm
tối, đừng có dại dột mà đi qua bãi sa mạc. Lỡ rơi
vào cây ăn thịt người thì chịu chung số phận anh
chàng Rot Gut Peter. CÁC PHẢN ỨNG CỦA THẢO MỘC Năm 1970, Ông John Coats hiện giờ
là Chánh Hội trưởng Hội Thông Thiên Học Quốc
tế có viết một bài nhan đề: Các Phản
Ứng của Thảo Mộc đăng trong Tạp chí Thông Thiên
Học Úc châu (Theosophie in Australia 1970), Huynh H. V.
dịch ra Việt ngữ và đăng trong Ánh Đạo số 20 năm 1971,
xin chép ra đây cho quí bạn xem. Mấy
tháng sau nầy, báo chí Huê Kỳ bàn
tán rất nhiều về sự phản ứng của thảo mộc trên phương diện
tình cảm. Sự việc
bắt đầu với một viên Chánh Sở Cảnh sát đặc
trách khám phá những lời dối trá bằng một
cái máy dùng vào việc nầy. Một hôm
ông ta mang về nhà một cái máy khám
dối nầy và để bên cạnh một cây kiểng trồng trong
chậu. Lúc ấy, một ý nghĩ đến với ông (một ý
nghĩ rất tự nhiên đối với một nhà khoa học) là
dùng máy nầy xem thử cây ấy, sau khi được tưới,
có nóng hay lạnh gì thêm không.
Ông bèn cột những cái lá phía
trên vào máy và tưới cây. Một việc
xảy ra làm cho ông ngạc nhiên vô cùng:
máy của ông ghi nhận một sự phản ứng của cây
không phải ở phương diện vật lý mà trên
phương diện tình cảm. Cây cho biết rễ đã hút
nước và còn tỏ ra sung sướng. Ông không tin ở
mắt ông, nhưng bằng chứng hiển nhiên quá nên
ông bắt đầu những cuộc thí nghiệm khác. Trong một
cuộc thí nghiệm, ông
đặt trong phòng làm việc của ông ở Nha Cảnh
sát tại Nữu Ước, một cái máy nhúng
tôm sống vào nước sôi từ chập một. Ở cuối
hành lang, trong ba phòng khác nhau, ông để
ba chậu cây, mỗi cây đều được cột vào máy
khám dối. Các
phòng ấy đều được khóa kỹ suốt đêm và được
canh gác cẩn thận vì ông không muốn ai đến
quấy rối cuộc thí nghiệm. Sáng
sớm, ông phát giác rằng các cây đều
phản ứng mỗi lần tôm sống bị nhúng vào nước
sôi và số phận của các con tôm nầy có
ăn thua gì đến chúng nó ? Và tại sao
chúng nó lại phản ứng ? Có một đau khổ nào,
một sợ hãi nào truyền lan trong không khí
chăng? Bằng cách nào, sự đau đớn hay sự sợ hãi của
tôm được chuyển sang chúng nó? Và chuyển
sang ở phần nào của chúng nó? Trong cuộc
thí nghiệnm khác, ông
để hai chậu cây trong một phòng và cột cây
thứ nhứt vào máy khám. Trong phòng ấy,
người ta ra vào nhiều và có một người ngắt bẻ
và nhổ cây thứ nhì ném dưới gạch và
đạp lên. Người ta xem máy khám thì thấy
cây trên phản ứng. Hai mươi bốn giờ sau, phòng mở
cửa lại và người ta ra vào như trước. Cây nầy
không lưu ý đến ai nhưng khi “kẻ sát hại” đến
thì nó phản ứng ngay. Người ta
còn làm nhiều cuộc thí nghiệm khác
và báo chí có nói đến rất nhiều
nhưng tôi không nhớ hết được. Một trong
các cuộc thí nghiệm nầy chỉ rằng cây nhận biết
những người sống chung quanh nó. Người nào sống với
nó lâu, nó càng biết rõ, và
nếu người nầy bị xe đụng cách xa nó lối vài
khóm nhà, nó biết và phản ứng ngay.
Làm sao nó biết chủ nó bị đụng xe? Bằng
cách nào tai nạn được chuyển đến nó và bộ
phận nào trong cây ghi nhận tin buồn? Các
nhà bác học chưa giải thích được. Đối với
chúng ta, các người Thông Thiên Học, sự kiện
có một tầm quan trọng đặc biệt. Nó cho chúng ta
biết rõ hơn rằng có một bản thể duy nhất, một sự sống duy
nhất lan tràn khắp nơi và liên kết mọi sinh vật. Theosophia
in Đọc bài nầy rồi, chúng ta tự
hỏi: Phải chăng có sự liên kết vô hình giữa
các loài vật và những sự cảm xúc truyền
sang bằng những làn rung động. Chúng ta biết rằng: Cục đá có cái
Phách và một đối phần làm ra cái Vía. Cái cây cũng có cái
Phách, cái Vía và cái Trí mới
tượng. Con thú có: cái
Phách, cái Vía và cái Trí. Con tôm cũng biết đau đớn vậy. Khi
nó bị nhúng vào nước sôi, nó dẫy
chết, sự cảm xúc của nó truyền đi bằng những làn
rung động. Cái Vía của cái cây thâu
nhận được những làn rung động nầy nên mới có những
sự phản ứng. Muốn biết đúng sự thật thì phải
mở đến Huệ nhãn, lời giải thích trên đây chỉ
là giả thuyết mà thôi. VÀI NGOẠI LỆ Theo lời Đức Bà
Annie Besant thì dường như sự tiến hóa của loài
Kim thạch, Thảo mộc và phân nửa loài Thú
vật, phần đầu tùy thuộc sự tiến hóa của Trái Đất
hơn là sự tiến hóa của Jivatma , đại diện cho Chơn Thần. Sự Sống của Ngôi thứ Ba (3è
Logos) ban rải xuống cõi Trần qua trung gian và sự biến
đổi của hai Vị: một là Đức Hành Tinh Thượng Đế, Chủ tể Hệ
Thống Địa Cầu, hai là Hồn của Trái Đất (Esprit de la
Terre). HỒN TRÁI ĐẤT
LÀ AI? Không
có sự tiết lộ ra về sự bí mật của Vị nầy. Chỉ biết
Ngài là một sanh vật dùng Trái Đất như
thân mình, nhưng không thuộc về hạng Thiên
thần. Trước kia, Ngài dùng Mặt trăng làm
thân mình. Xin nhớ Mặt trăng là Địa cầu của
Dãy Hành Tinh thứ Ba cũng như Trái Đất là
Địa cầu của Dãy Hành Tinh thứ Tư. Người
ta có thể thường gặp một Nguyên tử Trường Tồn trong một
hột ngọc, một hột rubis, một hột Thủy xoàn, trái lại
trong một số đông loài Kim thạch không có
chứa một Nguyên tử Trường Tồn nào cả. Đối với loài cây nhỏ mà sự
sống ngắn ngủi như loài cây kiểng cũng không
có Nguyên tử Trường Tồn. Bao nhiêu đây tôi tưởng cũng
khá đầy đủ cho người mới học Đạo, ngày sau sẽ biết
thêm nhiều. CHƯƠNG THỨ TƯ HỒN KHÓM THÚ VẬT Hồn Khóm Thú vật chỉ còn
có một lớp vỏ ở trong mà thôi, làm bằng
những phân tử của cảnh thứ Tư của cõi Trí Tuệ hay
là cõi Thượng Giới. Lớp thứ nhì đã tan rã để
nuôi cái Vía của Hồn Khóm. Hồn Khóm Thú vật cũng chứa đựng
một số Bộ Ba Trường Tồn vậy. CÓ KHÔNG BIẾT BAO
NHIÊU HỒN KHÓM THÚ VẬT Trên Địa Cầu có bao nhiêu
loài thú thì có bao nhiêu Hồn
Khóm . . . khác nhau. Nhưng nên biết, một Hồn
Khóm là một Đại Hồn, nó còn chia nhiều hồn
nhỏ nữa gọi là Tiểu Hồn. Tỷ như: Các loài Cọp Hùm
trên Địa Cầu có một hồn chung, một Đại Hồn gọi là
Hồn Khóm Cọp Hùm. Nhưng Đại Hồn nầy còn chia ra
nhiều Tiểu Hồn, gọi là Hồn Khóm của Cọp Bạch, Hồn
Khóm của Cọp Vắt khăn, có mấy giống Cọp thì
có mấy Hồn Khóm nhỏ. Hồn Khóm loài Chồn chia ra nhiều
Hồn Khóm nhỏ như: Hồn Khóm chồn đèn, Hồn
Khóm chồn mướp, Hồn Khóm . . . v.v.
. . . Hồn Khóm loài chó chia
ra: Hồn Khóm chó nhà, Hồn Khóm chó
săn, Hồn Khóm chó vện, Hồn Khóm chó mực,
Hồn Khóm chó chóc, Hồn Khóm chó
rừng, Hồn Khóm chó sói, Hồn Khóm chó
berger, Hồn Khóm chó Saint Bernard, Hồn Khóm
chó Terre Neuve, Hồn Khóm chó trinh thám
v.v. . . . BẢN NĂNG TỰ NHIÊN CỦA
LOÀI VẬT Tôi biết vấn đề Hồn Khóm
khó lắm, mặc dầu tôi cố gắng nhưng không biết
làm sao giải cho thật rành rẽ để ai nấy đều hiểu. Xin thí dụ: Một hồ lớn chứa nước trong
vắt, ta múc nước ra đổ vô 20 cái chai rồi bỏ
vô mỗi chai một thứ màu khác nhau. Xong rồi ta đem
20 chai nước nầy đổ lại trong hồ. Như vậy nước trong hồ không
còn trong trẻo như trước nữa. Màu nó thành
một màu đặc biệt do 20 thứ màu khác nhau và
pha lẫn nhau tạo nên. Bây giờ giả tỷ: Hồ nước là Hồn
Khóm (Đại Hồn), cái hồ trống là lớp vỏ, nước trong
hồ là Hồn Thú vật, múc ra 20 chai nước là
có 20 Hồn đi đầu thai, màu sắc bỏ vô chai là
kinh nghiệm và tánh nết của mỗi con thú từ
ngày nó mới sanh cho tới ngày nó chết.
Nó chết rồi Hồn nó trở về nhập vô Hồn Khóm,
đem những sự kinh nghiệm và tánh tình của
nó ban rải cho Hồn Khóm rồi nó tan mất.
Ngày sau con thú đi đầu thai thì có Hồn mới
khác, chớ không phải Hồn của con thú trước trở lại
thế gian vì Hồn thú chưa có cá tánh,
nó không phải là Hồn riêng biệt như con người. Nên nhớ rằng, loài thú vật
ở rải rác khắp nơi trên mặt Địa Cầu; mỗi chỗ, khí
hậu, phong thổ và sự sanh sống đều khác nhau. Ta cũng biết rằng khi bỏ xác rồi mỗi
cho thú trở về Hồn Khóm đem những sự kinh nghiệm
và tánh tình của nó phân phát
đồng đều cho các phần tử, anh em với nó. Nếu Hồn
Khóm chứa đựng 100.000 con thì mỗi con chỉ thâu
thập được 1/100.000 của những kinh nghiệm mà thôi. Nhưng từ đời nầy qua đời kia, trải qua cả
triệu năm như vậy, những sự kinh nghiệm và tánh
tình càng ngày càng tăng gia, chúng
sẽ thành những Bản Năng tự nhiên của con thú trong
Hồn Khóm. Vì vậy cho nên vịt con thấy nước
thì xuống lội, gà con thấy diều, quạ thì sợ chạy
núp dưới cánh gà mẹ. Gà mái hết đẻ
trứng rồi thì ấp, đúng ngày giờ gà con khảy
mỏ đặng ra ngoài. Chuột thấy mèo thì chạy đi. Muỗi
gặp con người và thú thì bu lại cắn đặng
hút máu; thật sự là chúng nó phải ăn
cỏ, chớ không phải nhờ máu huyết đặng sống v. v. . . . HỒN KHÓM CHỨA BAO
NHIÊU THÚ VẬT Không biết chắc chắn là bao
nhiêu vì có những thú nhỏ, những thú
vừa vừa. Tỷ như sư tử, cọp, beo, voi, mỗi Hồn
Khóm nhỏ của mỗi thứ chứa đựng không biết mấy ngàn
con, ở trong rừng núi hay sa mạc trên Địa Cầu. Còn những loài thú nhỏ
như ruồi, muỗi, kiến, mỗi Hồn Khóm chứa đựng có lẽ cả
ngàn triệu con. BẢY LOÀI ĐƯỢC ĐI ĐẦU THAI
LÀM NGƯỜI Nói một cách tổng quát,
thú vật sau đi đầu thai làm người. Nhưng sự thật chỉ
có bảy loài được đi đầu thai làm người, còn
mấy loài kia sau thành những Tinh Linh hay Ngũ
Hành (Esprits de la nature). Ngũ Hành sau đầu thai qua
hạng Thiên Thần và theo đường tiến hóa khác
hơn đường tiến hóa của con người. Trong bảy loài được đi đầu thai
làm người, người ta biết được có năm loài
là: 1)- Voi, tượng. 2)- Khỉ. 3)- Ngựa. 4)- Chó. 5)- Mèo. Còn hai loài kia không
biết. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC ĐI ĐẦU THAI
LÀM NGƯỜI Muốn được đi đầu thai làm người, con
thú phải có Thượng Trí (Corps mental
supérieur) hay là Nhân Thể (Corps Causal). Muốn có Thượng Trí, con
thú phải hội đủ hai điều kiện cần thiết: a/- Điều kiện thứ nhứt: con thú phải ở
gần con người. b/- Điều kiện thứ nhì: con thú
phải theo một trong ba đường tiến hóa sau đây: 1)- Con đường thứ nhứt: Tình cảm hay
là Lòng yêu thương. 2)- Con đường thứ nhì: Mở mang
trí tuệ. 3)- Con đường thứ ba: Mở mang ý
chí.
A. ĐIỀU KIỆN THỨ NHỨT Con thú phải ở gần người, bởi vì
nhờ từ điển và tánh tình con người mà con
thú bỏ tánh rừng rú của nó đặng tập
tánh nết của con người. Luôn luôn, thú vật
nhà tiến hóa hơn thú vật rừng về phần tinh thần,
mặc dầu về phương diện sức lực, thì thú vật rừng mạnh hơn
thú vật nhà nhiều lắm. Chắc chắn nhiều bạn còn nhớ chuyện một
đứa bé gái Ấn tên Parunam năm 1943 được 2 tuổi bị
chó sói tha đi. Mẹ nó tưởng nó bị
chó sói ăn thịt rồi. Nào ngờ sáu năm sau,
năm 1949, trong một cuộc hành quân, người ta bắt được
nó đương sống chung với bầy sói. Đem nó về Bịnh
viện người ta tìm cách cải hóa nó. Song
hoài công vô ích. Nó không
nói được một tiếng người nào cả, nó đi bốn
chân, ăn thịt sống, nó tiết ra một mùi nồng nặc của
chó sói. Nó lánh xa những ai muốn lại gần
nó. Nó chỉ tríu mến chút ít con
chó mà người ta đem cho nó để làm bầu bạn.
Qua năm sau thì nó chết. Tôi có đọc qua vài chuyện
‘Những trẻ thú’ khác. Tôi thấy những trẻ sơ sanh
sống chung với loài thú nào thì lớn
lên từ thân mình cho đến tánh tình đều
giống như loài thú đó. Chúng không
còn bản tánh của con người nữa. Bao nhiêu đây
cũng đủ để chứng minh rằng từ điển và tư tưởng có ảnh
hưởng rất lớn lao trong sự thay đổi từ Thể Xác đến Tánh
Nết của con người và thú vật. Tuy nhiên, còn có một điều
không ai giải thích được là: Tại sao giống
mãnh thú nầy không ăn thịt mấy đứa trẻ đó
mà lại còn nuôi dưỡng như con ruột. Tại định mạng
ư? Hoàn toàn bí mật. B)- ĐIỀU
KIỆN THỨ NHÌ 1)- Con đường thứ nhứt:
Tình cảm hay là Lòng yêu thương Nếu người chủ, tình cảm dồi dào,
thương yêu con thú, như con chó chẳng hạn, lo lắng
cho nó, săn sóc nó, dạy dỗ nó thì tự
nhiên nó tríu mến chủ nó, nó cố gắng
làm cho chủ nó vui lòng. Nó rất trung
tín và không rời chủ nó. Chủ nó vắng
mặt thì nó biết nhớ và buồn. Nó biết ra
đường đón chủ nó. Chừng chủ nó về thì
nó nhảy nhót, liếm tay, liếm chơn. Cái Vía của nó mở mang
rất nhiều. Nếu một ngày kia, tình thương thình
lình vọt lên tới cõi Bồ Đề thì nó cắt
đứt sợi dây liên lạc buộc trói nó với Hồn
Khóm của nó. Nó sẽ có Thượng Trí
và được đi đầu thai làm người. 2)- Con đường thứ nhì:
Mở mang trí tuệ Nếu người chủ là một nhà
trí thức thì tư tưởng của Người sẽ kích
thích cái Trí của con thú làm cho
nó càng ngày càng mở mang. Ngày
nào cái Trí của con thú phát triển
tột bực cao thì ngày đó nó sẽ có
cá tánh và được đi đầu thai làm người. 3)- Con đường thứ ba: Mở mang
ý chí. Khi con thú được ở với một người chủ
đạo hạnh cao siêu, ý chí cương quyết thì
nó thương yêu và mến phục chủ nó. Ý
chí của nó đã được kích thích. Hiệu
quả của ý chí hiện ra trong xác thân như thế
nào? Con thú hết sức hoạt động, nó cố
tâm thực hiện những điều của chủ nó muốn đặng phụng sự chủ
nó. Nó sẽ nhờ ý chí mà mau đi đầu
thai làm người. Một vị La Hán có nói: Nếu
quí Huynh mở được Huệ nhãn thì sẽ thấy con
chó cũng biết tham thiền theo cách riêng của
nó. ĐẶC SẮC CỦA HAI CON
ĐƯỜNG: TÌNH THƯƠNG VÀ Ý
CHÍ Các nhà Huyền bí
học nói rằng những thứ đi theo con đường Tình thương
và Ý chí sẽ tạo ra sợi dây liên lạc
giữa Chơn Thần và Phàm Nhơn một cách rất mau lẹ
dường như chớp nháng. Còn những thú đi theo con
đường Trí tuệ thì lần lần tạo ra sợi dây liên
lạc đó, nghĩa là chậm hơn hai đường kia rất nhiều. TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ Còn một trường hợp khác nữa
là trường hợp ngoại lệ. Cũng có Ba con đường khác
nhau và nghịch hẳn với Ba con đường trước: 1)- Con đường thứ nhứt: Vì sợ sệt. 2)- Con đường thứ nhì: Vì
thù hận. 3)- Con đường thứ ba: Vì muốn cầm đầu. 1/- CON ĐƯỜNG THỨ NHỨT: VÌ SỢ SỆT Khi con thú bị người ta hành hạ
khổ sở, đánh đập, chưởi mắng không ngớt tức là đối
đãi một cách tàn nhẫn thì nó
đâm ra sợ sệt. Nó mới tìm hiểu nguyên
nhân sự hung tợn của con người đặng tránh đi. Sự
tìm hiểu nầy làm cho nó trở nên khôn
quỉ và giúp cho nó mau thoát ra khỏi Hồn
Khóm của nó. Những thú sẽ đi đầu thai theo
cách nầy thì thành những người thuộc về hạng thấp
thỏi, trí hóa eo hẹp và tánh tình
không được tốt. 2/- CON ĐƯỜNG THỨ NHÌ: VÌ
THÙ HẬN Có khi sự sợ sệt
sanh ra sự oán hận con người. Nếu sự thù hận nầy
càng ngày càng tăng thì nó trở
nên mạnh mẽ. Con thú sẽ tìm dịp báo
thù. Sự quỉ quyệt của nó giúp nó mau
đi đầu thai làm người hơn chúng bạn, song nó sẽ
thành người dã man, hung dữ lạ thường, ưa sát hại
trẻ thơ, phụ nữ và chém giết không gớm tay. 3/- CON ĐƯỜNG THỨ BA: Ý MUỐN CẦM ĐẦU Trường hợp thứ ba nầy không phải
là sợ sệt hay thù oán mà tánh
kiêu căng muốn làm Chúa tể đặng cầm đầu một bầy như
trường hợp của con bò u, trâu cổ, khỉ chúa, cọp
chúa, rắn chúa v.v. . . Chừng đi đầu thai làm người,
chúng nó thích áp chế và hà
khắc, ưa đánh đập và bắt buộc kẻ khác quì
lụy chúng. CON THÚ LÌA KHỎI HỒN
KHÓM Xin nhắc lại, Hồn Khóm lớn chia ra
nhiều Hồn Khóm nhỏ. Ban đầu Hồn Khóm gồm 20 con rồi sau
10 con, 5 con. Tới một ngày kia mỗi Hồn Khóm chứa đựng
có một con thì chừng đó con thú sắp được đi
đầu thai làm người. Nói theo danh từ chuyên
môn là mỗi Hồn Khóm gồm một Bộ Ba Trường Tồn
và một lớp vỏ. Từ đây về sau, sau khi con thú
thác rồi, nó không trở về Hồn Khóm nó
nữa vì nó đã tách ra khỏi rồi, nó ở
một chỗ riêng mặc dầu nó chưa có cá
tánh. Nó lìa khỏi Hồn Khóm
và nhờ lớp vỏ làm bằng chất Trí tuệ thay thế cho
Thượng Trí. Một số đông thú vật nhà tiến
hóa cao hơn đồng loại, chẳng hạn như chó, mèo,
ngựa . . . sống ngoài Hồn Khóm. Chúng cũng
còn đi đầu thai vậy, nhưng mà chúng là
những sanh vật riêng biệt chớ không còn là
thú vật nữa. TỚI CHỪNG NÀO CHÚNG
NÓ ĐƯỢC ĐI ĐẦU THAI LÀM NGƯỜI? Mười sáu triệu rưỡi năm trước, sau khi
phân chia nam nữ rồi, cánh cửa thiên nhiên
ngăn cách con người và thú vật đóng lại,
nghĩa là từ đó cho tới Cuộc Tuần Hườn Thứ Bảy, Dãy
Địa Cầu nầy tan rã, không có con thú
nào được đi đầu thai làm người nữa. Tuy nhiên vẫn
có ngoại lệ. Một số rất ít thú vật nhứt là
chó tiến hóa hơn các loài vật khác
sẽ được đi đầu thai làm người khi nó qua Bầu Hành
Tinh thứ Năm là Bầu Thủy Tinh (Mercure) . LỜI KHUYÊN CỦA NHÀ
HUYỀN BÍ HỌC Các nhà Huyền bí học đều
khuyên con người đừng quá thương thú vật và
săn sóc nó quá mức độ trung bình, bởi
vì điều nầy giúp con thú mau tách ra khỏi
Hồn Khóm của nó trong khi nó chưa có đầy đủ
nghiệm. Sau đi đầu thai làm người, nó còn giữ
tánh thú, sẽ làm hại nhiều hơn là
làm lợi. Xin quí bạn đọc đoạn chót của
Chương V nói về Hồn Khóm (Âmes groupes) trong quyển
‘Sự Khảo Cứu về Tâm Thức’ của Đức Bà Annie Besant. H Ế T Về Bộ Ba Trường Tồn xin xem lại quyển trước. Jivatma
là ba Ngôi Thiêng Liêng – Triade spirituelle.
Người ta
nói rắn trả thù .
Việc nầy có thật, vì
tôi đã thấy tận mắt một chuyện rồi. Con rắn chết mà
hại được người nó muốn trả thù. Cọp và Voi cũng
trả thù vậy. Xin nhớ:
Ngày sau, đúng ngày giờ con người và
các loài vật sẽ bỏ Bầu Trái Đất qua Bầu Thủy Tinh
(Mercure) đặng học những bài học khác. |