Muốn
vào tịnh-tọa theo tâm-pháp, của Thoàn-Môn, cho có điều-chứng, chỗ
Chánh-Đạo chơn-tu, luyện -khí định-thần. Trước hết:
đoạn-tuyệt trần-duyên, bảo-thủ chơn tánh-lý của Ngũ-tướng cho
hoàn-toàn,sát Ngũ-Ma; bất tương-quan Xã-Hội, cần phải thiệt-thành theo
chỗ Bát-tự-Giác-Nguyên (1); ĐOẠN-TUYỆT DÂM-THÂN,
làm cho dâm-thân hết bộc-khởi; thì mới
dám vào tu Đại-Thừa, sẽ đoạn được dâm-căn !.
Phải ngồi thoàn cho thường, thì được ngoại-tịnh, nội-động, ở trong mới
có Chơn-cơ phát-hiện; thì sẽ được Thanh-Khí hườn-lai. Phải trường-trai
giái-sát luôn, cho cảm động lòng-Trời, thì Chơn-cơ sẽ phát hiện, chớ
không gì là lạ. Phải Hành, Trụ, Tọa, Ngọa, định-thần luôn-luôn, mặc-mặc
vô ngôn, Hồi-Quang Nội-Chiếu, và tâm điền (2). Tổng-Ngôn,
bất tri Thiên-Địa thế-sự như-hà, hà tại giả dã …
Nhi hậu đắc-kiến Thiên-Khí thượng phù, tạp hỏa hạ giáng, đó là chỗ nói: ( CHIẾT-KHẢM-ĐIỀN-LY )(3)
( LUYỆN-HỒN-CHẾ-PHÁCH
) (4).
Mà là phép của Tiên gia,
đạo-pháp siêu quần vậy. Các phép đã
minh chỉ
rõ, phải thủ cho tròn vẹn, sau mới nên nhập tịnh
an-thần, thì muôn đều
không thất một đó. Phải ở Đời phước-huệ cho
song-toàn, âm-chất được
tương-phò, mới cảm đến Hư-Không, Thựợng-Giái,
Thần-Tiên sẽ chỉ dạy,
cách làm Thần-Tiên chẳng khó gì!
ĐỆ-NHỨT-THOÀN:
Vạn-duyên đốn-tuyệt, tâm-mục tựơng-y, hô-hấp hữu-độ, bất-vọng
ngoại-trần; thì là: nơi trung có hữu-động xuất hiện huyền-linh-điển
chiếu vậy. Sự động mà nói đây,tức là động kiến Thiên-tâm, hoán-trựợc,
hoàn-thanh, thâu ngoại Chơn-Âm, hựờn vào trong, diệt Giả-Dựơng ở trong,
hóa thành ra Chơn-Dựơng. Đoạn Giả-Âm nhờ linh-điển chuyển-vận bèn hóa
thành Chơn-Âm nơi tâm, mới vận-chuyển thuần toàn cho lục-âm, lục-dựơng
điều, mới là nên chơn Đạo vậy. (Mồ-Kỷ Nhị-Thổ, kết thành minh-châu) mới là trọn câu tịnh-thoàn. MỚI VÀO NGỒI TỊNH
Mới vào ngồi tịnh, ngồi thân-hình cho đoan-trang, nghiêm thân chi
tựớng, hình nhự khô-mộc, bất động bất diêu, nhơn ngã nhự nhứt, vạn sự
giai-vong. Vậy là phương pháp vô-thượng của Tiên-gia-Bí-truyền là đó.
A. Khi vào ngồi-tịnh phải hít vô 6 hít, mật-niệm: Nam-Mô-Cao Đài-Tiên-Ông ;
B: Thở ra cũng mật-niệm Tưởng thien môn . Cho đủ 360 lần như vậy, rồi
thôi, làm thinh tịnh-định, đừng tưởng chi-chi nữa, cũng đừng hô-hấp
nữa, và cũng đừng để ý vào đâu đâu, để tự nhiên, như nhiên mà tịnh, để
cho trong tâm, tâm-tự-chuyển, tâm-tức, tức-tâm, tức-tự-tâm-sanh,
tâm-tức-tự-sanh; mỗi ngày theo Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, 4 lần, mà
phanh-luyện; cứ như vậy mà tịnh hành, chẳng nên ngoại-vọng, thì
Tâm-Phàm phải tuyệt, mới có Thiên-Tâm lai-phục, vì dục-vọng đã bặt-dứt,
nên mới hỉ-hiện tâm vô-vọng ra; nhờ có Chơn-Khí trở về bổ-nhuận, nên
lâu ngày mặt-mày hình-thể nở-nang và vui-vẻ, lại trong lòng
khoái-sướng, lạ-thường, bởi chẳng còn tư-tưởng xấu-xa xâm-nhiễm nữa. ĐỆ-NHỊ-THOÀN.
Tịnh tọa như vậy cho được hoàn-toàn; tịnh tọa như vậy cho đặng ba tháng
dư ngày, thì bổn-thể Chơn-Ngươn định-an, hữu linh điển hội-trợ, điều
hòa khí-huyết, chỗ ở cho ra tương-hòa. Tạp-hỏa tán-tiêu, cho nên
dâm-thân, dâm-tâm hết bộc-khởi nữa, thì Chánh-Pháp-Nhãn-Tạng đặng nên,
chẳng sai. Vì có nhị-âm tấn, thì giả-hỏa. VÀO-TU:
Phải lựa ngày Đông-Chí, có Nhứt-Dương-sanh sơ-động (trước Đông-Chí mười
ngày, thì lo vào Đại-Tịnh), Đó là: Hiệp theo thời tiết, cách nhập
tịnh của đấng Tiên-Gia.
Khi vào tịnh, phải bế-môn tịnh-khẩu, chẳng cần tương-quan với xã-hội nữa.
Gom-lại mà nói: Bất-tri nhơn-sự, Thiên-Địa giai vong, thì trăm-đều y
như ý nguyện; cứ một-lòng đại-tịnh hư-vô, thì hoàn-toàn đại-cơ
thoàn-định vậy ! Trong lối này: Chơn-Âm và Chơn-Dương nhờ ngoại-tịnh mà
nội phát-động, nên hai khí đã về hòa-hiệp, tại Huyền-Quang-Khiếu
(Hạ-Điền), hay Thái-Cực-Đồ, mà hóa trược cho ra Thanh; lại còn
phát-sanh thêm điển-lực, hóa Khí, mà phụ-trợ cho Thần-Quang. Thần-Quang
đặng mãnh-lực sáng-tỏ và sung-túc, là nhờ có mãnh-lực xung-đượm, là bởi
nhiều-ngày trọn-tịnh Hư-Vô. Tóm lại mà nói: Đi, Đứng, Nằm, Ngồi đều
phải tịnh-thoàn luôn-luôn ! Nhờ tịnh nhiều ngày mà nội-cơ sanh-điển
dồi-dào, xung-lên diệt trừ hỏa-tánh, hóa-chơn thăng-thượng
Nê-Hườn-Cung, tựu nơi đó mà ra minh-trí, (là cốt Minh-Châu). Hễ
đặng có minh-trí rồi, là tánh-cao-thượng, nên là về tư-tưởng cao-siêu,
đã diệt trừ Hạ-trí đó. ĐỆ-TAM-THOÀN.
Đến đây: Nhờ phương định, thường-tịnh mà được Thần-Khí giao-thông,
điều-hòa dinh-vệ, cho Nhâm, Đốc, lưỡng-mạch thông-giao, phản hậu
thông-tiền, thần mới qui vào trung-ương (Hạ-Điền), Thái-Cực-Đồ, là nơi:
Mồ-Kỷ-Thổ ! Nhờ tịnh mà lƣỡng giả tăng-tiến, chỉ còn lưỡng-khí chơn
Âm-Dương tương-hòa, thần-khí tương-liên, cho có ra sanh-lực. Nhờ
sanh-lực đủ quyền diệt-trừ, làm cho: A. Giả-Hỏa biến ra Chơn-Hỏa. B. Giả-Thủy biến ra Chơn-Thủy.
Chơn-Thủy-Hỏa đồng cân, mới điều dinh-vệ thống-động, động Thần-Khí
Tương-Liên, Tương-Ứng đó vậy; mà là chỗ nói: “Chiết Khảm, Điền Ly” đó.
Nhờ ta được “Chiết Khảm, Điền Ly” lâu ngày, mà Thần-Khí tựu thành
Linh-Điển Thần-Quang, bèn tựu-hiệp, cư-trung Thái-Cực-Đồ, hầu chờ ngày
thăng-thượng Nê-Cung.
C. Khi, Thần-Khí chủ trương trong Thái-Cực-Đồ,
có hỏa điển-lực rồi, bèn rút giả-hỏa cư nội Tâm-vị (Tim) xuống, biến
Chơn-Hỏa, đem vào khoảng giữa-thận. Khi lưỡng-khí cư tại lưỡng-thận
trung-gian rồi, Linh-Điển bèn tống Chơn-Thủy lên Tâm-Vị, kéo Chơn-Hỏa
vào nội thận; thì là Thủy-Hỏa đƣợc điều hòa, thì có linh-chơn điển, là
“Thủy-Hỏa Ký-Tế” vậy.
Có Linh-Điển rồi, rất dồi-dào, mà thể-chế
giả-thần cư ngụ. Ngươn-Thần
hườn-cư mới an-tịnh được. Là nói: Nhà cũ
không tâm, nó nhờ Tịnh lâu-lâu
mới an-tịnh được. Vì tánh nóng của tạp-hỏa
tháo-thứ, chủ-sử hư-hại cho
ta, làm chủ-sự bấy-lâu, để nội-tâm loạn, hết biết
sanh tử là gì, cứ lấy
khó làm vui, là toại-chí. Nay đã
tán-tiêu, nên hết làm hại ta nữa. Cho
nên bây giờ nhơn-tâm biến thành
Thiên-Tâm rồi, là ta đã có
thâu-thập
Linh-Quang-Điển cư tại Kỳ-Trung đó vậy. Rồi Linh-Điển lại
vận-dụng làm
nội-công, mà điều-hòa lưỡng-chơn cho thành
Chơn-Điển nữa. Khí hóa Điển,
điển hóa Khí, ta thường tịnh và rút
thần-công, Chơn-khí mới
thăng-thượng Huỳnh-Đình, mà bổ-dưỡng Ngươn-Thần.
Tuy là Khí, khi vận-dụng chuyển-luân ở ngoài, mà khi vào trong
Cung-Trung (Thái-Cực-Đồ) lại hóa ra Chơn-Thần mới cho Ta là kỳ tài.
ĐỆ-TỨ-THOÀN.
Đến đây đã vừa được 100 ngày rồi, trong mình Thần-Khí sung-dinh
điều-hòa kinh-huyệt, hô-hấp hữu-độ, cho nên thân-thể được tươi-nhuận cả
thân con Người. Lưỡng-Khí đều vào trong Huyền-Quang-Khiếu rồi, cho nên
Linh-Điển thường hoạt-động, cho Thần-Khí chuyển-luân, giao thông
Tam-Quan Cửu-Khiếu, lấy sanh-lực Thiên-nhiên mà bồi bổ Chơn-Ngươn, cho
nên con Người trở lại đồng-trinh. Vì nay đặng: Thủy-thăng
Huỳnh-Đình-Cung, Và nay đặng: Hỏa-giáng Giáng-Tắc-Cung. Y như hồi 16
tuổi xuân-xanh; đó là phép dạy “Chiết-Khảm-Điền-Lý” dó. 1. Mà “Chiết-Khảm-Điền-Ly” là đem lửa ở Cung-Ly (Tâm) xuống Thận-Thủy. 2. Lấy nước ở Thận-Thủy đun lên,
cho nó trở về nhà cũ nó, là: Cung-Ly; Cho
Thủy-Hỏa đồng-cung; nhờ lấy
Điển-lực của hư-vô chuyển vận nó điều-hòa. Khi
nó điều-hòa, nhờ
Linh-Điển trong Thân làm chuyển nó; manh-động theo
lưỡng-mạch mà vào
Huyền-Quang-Khiếu (Thái-Cực-Đồ). Khi Linh-Điển ở tại
Huyền-Quang-Khiếu,
thì nó qui tựu Tinh-Huyết mà hóa ra
Ngươn-Thần. Ngươn-Thần được đầy-đủ,
thì lại có sanh-Khí bắt từ dưới rún
trào lên họng (Huyền-ưng), hơi ngọt
ngọt; lối, ấy, nên chậm chậm mà nuốt vào
Thái-Cực-Đồ, lâu càng hay; nếu
nuốt mạnh, thì nó chun vào Tỳ-Lư (Khí-Hải),
càng vô-ích, thì hóa ra
trược-tinh. Trược sanh vọng-tinh, xuất ngoại, là sa Địa-Ngục
đó.
Ngươn-Thần nhờ tịnh-an mà càng ngày, càng
sanh thêm năng lực,
chuyển-vận cho Ngươn-Thần thêm Điển dồi-dào, mà
Linh-Điển bèn nhán sáng
ra, là: có Linh-Quang-Hiện.
Từ Hạ-Điền là Huyền-Quang, mà thông lên tới Ấn-Đường (Ngươn-Môn) hiện xuất ra ngoài.
Cho nên lối này, mới có Huỳnh-Quang nhị-hiện, tới tam-hiện.
Vì gần đủ 360 Châu-Thiên, cho nên mới có hiện-xuất vậy.
Mà đây là cảnh phải thôi-lửa (Chỗ nói: Chỉ-Hỏa-Hầu là đây).
Lối này là nghỉ-Vận, thôi dùng Thần-Công nữa, cứ Đại-Tịnh Hư-Vô mà chờ
cho có Huỳnh-Quang Tái-Hiện, sẽ vận qua phép “Tiểu-Châu-Thiên”.
Tại sao biết trong mình có đủ 360 Châu-Thiên? Hễ có đủ 360 Châu-Thiên y
như Nhựt-Nguyệt luân-hành theo vòng Trời-Đất (có độ số Châu-Thiên luân
hành), thì lại có phát ra 4 cảnh cho ta được biết , là: đã đủ 360
Châu-Thiên rồi, là có phát cảnh: 1. Tại rún xung quanh nóng hổi, dường như có bánh xe lăn (Tiển-nhiệt-thang). 2. Sau, có gió thổi ùn-ùn (như tiếng Chim cu kêu), 3. Tại giữa Chơn-mày (Ấn-Đường) có hiện ra
Điển-Quang nhán-sáng và chớp. Đó là dấu ta đã kết điển-thai vậy
(Thai-Tiên); là nhờ khởi tịnh Nhứt-thoàn, Nhị-thoàn mà lần qua
Tam-Thoàn, từ 75 ngày tới 100 ngày; là: phép Bá-Nhựt Trúc-Cơ. Nếu được
có Huỳnh-Quang Nhị-Hiện rồi, thì phải mau mau đình lửa, nghỉ 7 ngày, để
không-không Hư-Tịnh là tốt; mà chờ Huỳnh-Quang tái Nhị-Hiện rõ-ràng, sẽ
vận-hành qua Tiểu-Châu-Thiên. Mà vận Tiểu-Châu-Thiên, là bắt đầu từ qua
100 ngày rồi, tới 10 tháng mà Ôn-Dưỡng Thánh-Thai đó vậy; tức là:
Ôn-Dưỡng hỏa-phù là đây.
VẬN-TIỂU-CHÂU-THIÊN
Từ đây, nhờ tịnh Hư-Vô thường-thường và hồi-quang-nội-chiếu đã có
ấn-chứng, Thần-quang nhán-sáng ra, thì là bổn thể Chơn-Ngươn được
cường-tráng và tươi-nhuận; trong khoảng từ bước qua 10 tháng rồi. Thẳng
đến cảnh 3 Năm, là ta có đặng Tam-thông rồi, cứ tịnh Hư-Vô và hồi-quang
cho thường, thì lục-trần đã bặt, lục-căn còn đâu mà loạn chơn-tánh của
ta. Hễ có động-cơ phát-hiện, ta vẫn cứ vận Đại-Châu-Thiên, rút
Thần-công mà nuôi Ngươn-Thần. Thần mạnh thì Ta được tiêu-diêu
tinh-thần. Cứ vận Tiểu-Châu-Thiên, có chỉ trong Bí-Khuyết; vì đây là
nơi: Khẩu-Khẩu tương-truyền, khó mà tả văn-thơ.
ĐỆ-NGŨ-THOÀN. (ĐẠI-CHÂU-THIÊN)
Đây là qua một Năm, đến chín Năm. Cứ có hiện
ra, là rút thần-công và
Đại-Tịnh Hư-Vô hoài-hoài, là tốt. Vì
đã đặng siêu phàm, hơn
Người-thường, và tròn-vẹn Ngũ-Thông; là cảnh
đặng xuất nhập Thần-Quang
đó vậy. Ban đầu xuất gần, sau lại càng
xa; Chừng đặng Thần-Quang ra
vào trong bổn-thể, xác-phàm đặng dễ-dàng;
đó là: đã nên Tiên-vị; mà
là:
chứng vị Đại-Giác-Kim-Tiên, Thần-thông quảng-đại;
cũng là
truyền-khẩu, bất khả truyền thơ vậy.