PHẬT SỐNG TẾ CÔNG
Phật Sống Tế Công người đời Nam Tống (1150-1209) nguyên quán thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, họ Lí tên Tu Duyên quy y tại chùa Linh Ẩn ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, pháp danh Đạo Tế, vì thường dùng kế giả điên để cứu đời nên thế nhân thường gọi đùa là Tế Điên. Thân Phật Sống là Kim Thân La Hán hóa thân, là Giáng Long Tôn Giả, thông hiểu sâu xa tam muội, tức là chính định, điều tâm tĩnh tọa để đạt trạng thái trực giác vô tư lự hầu thấu triệt cùng liễu ngộ Phật pháp, ý là: “Muôn pháp vốn xuất hiện bởi tâm” (Vạn pháp duy tâm sở hiện). Và tu thẳng tâm Phật không nhờ phương tiện, nên nói: “Tu tâm không tu miệng để trở thành Phật sống” (Tu tâm bất tu khẩu, tố cá tự tại Phật) vì lẽ các tăng ni thời đó chỉ “giới khẩu” không “giới tâm” cho nên Phật Sống nói lên tiếng cảnh tỉnh để giúp họ giác ngộ. Ngài thần thông quảng đại, cứu nhân độ thế, trượng nghĩa phò nguy, đối với bọn giả thiện chuyên làm điều ác ngài thường giễu cợt để khiến bọn đó giác ngộ. Nhưng riêng đối với lũ làm ác không biết hối cải ngài thẳng tay đả kích không ngần ngại, khiến người đời rất ư khoái trá, bởi vậy mọi người gọi ngài là thánh tăng, tôn ngài là Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhiên. Phật Sống từng ở chùa Tịnh Từ, chùa gặp hỏa hoạn, cần gỗ để trùng tu, Phật Sống hành hóa tới Nghiêm Lăng, dùng áo cà sa trùm các núi, nhổ trụi cây đem thả sông cho trôi về Hàng Châu. Ngài về báo cho chúng tăng trong chùa là “gỗ ở trong giếng Hương Tích” chúng tăng chạy ra coi thì quả nhiên có thực, những chuyện lạ như vậy đời truyền tụng rất nhiều. Khoảng năm Gia Định (1209) ngài viên tịch, an táng tại tháp Hổ Bào, phút lâm chung có làm một bài hát:
Ca viết
Lục thập niên lai lang tạ
Đông bích đả đảo tây bích
Ư kim thu thập quy lai
Y cựu thủy liên thiên bích.
Hát rằng
Sáu mươi năm đời ta tan tác
Tường phía đông xô tường phía tây
Góp nhặt mãi vẫn về tay trắng
Nước liền trời biếc một màu mây.
Sau khi nhập diệt, có vị tăng gặp Phật Sống dưới chân tháp Lục Hòa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ như sau:
Thơ
Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
Chí kim do giác cốt mao hàn
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
Hựu vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên.
Dịch
Nhớ xưa trước mắt chắn tên bay
Xương thịt cớ sao lạnh lúc này
Mặt mũi hỏi ai còn nhớ nổi
Thiên Thai ta lại tới vui vầy.
Như vậy là Bồ Tát đã hứa hẹn sẽ trở lại trần gian. Phật Sống suốt đời cứu độ hành hóa, dạo cõi nhân gian để chọc tức chọc cười, không lo lắng ngại ngùng tu “hạnh đầu đà” tức là tu khổ hạnh, hành đạo Bồ Tát, một manh áo cà sa rách rưới, vui cảnh đời thoát tục. Đôi giày rách sũng nước ngập bùn, tay cầm quạt Bồ chẳng sợ trên cao dưới thấp, đỉnh đầu sáng chói hào quang, gió chẳng dập, mưa chẳng vùi há còn cần nón lá? Chân không, lạnh nóng chẳng xâm phạm, cần chi áo mặc? Không khất thực vì chẳng đói khát. Lười trang nghiêm vì thiếu da lông, khôi hài cười cợt, kết thiện duyên rộng rãi, trần thế chẳng lánh mặt, tìm tiếng cứu khổ, trăm họ giành nhau tôn kính, từ bi vô lượng, thánh đức tuyệt vời, không một tăng sĩ lánh đời ẩn tu nơi chốn thâm sơn cùng cốc nào sánh nổi. Mỗi lời mỗi tiếng như gai nhọn dao sắc châm chọc, lìa nhà từ miền Ngũ Nhạc tri thức vốn khoan dung, cho nên đời sau chốn cửa Phật nào tự cho mình là thanh cao ắt tránh né không bàn tới. Vì vậy mà một bực cao tăng thánh đức bị mai một không hiển lộ nổi, may mà Phật tôi từ bi không than oán, không chán nản, sống siêu thoát ngoài vòng tục lụy, thể hiện pháp thiền khắp chốn, thực hành Phật pháp mang đầy sắc thái vui tươi, cho nên đại danh “thiền sư” vang dội khắp nơi. Tinh thần xuất thế vĩ đại chuyển thành công lao nhập thế tích cực, thực quả là gương sáng cho những ai ngày nay học Phật tu đạo, cho nên khi được đời tặng thánh danh “Phật Sống” kể cũng hữu lí lắm vậy. Nay gặp thời mạt pháp, chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt, đắm chìm biển khổ, Phật Sống quyết tâm cứu độ người đời cho nên diệu pháp thần thông ngày trước lại tỏ ngời, phát nguyện hiện thân trở lại, giáng lâm Thánh Hiền Đường, hướng dẫn nguyên linh Dương Sinh dạo thăm âm phủ, sưu tầm những bằng chứng xác thực để răn đời. Từ đấy những điều bí mật tại địa ngục được tiết lộ, tạo thuyền từ để cứu độ chúng sinh. Những ai có phước được tắm mưa pháp, vĩnh viễn xa lìa đường ác. Vĩ đại thay, tác phẩm lớn lao đã hoàn thành, còn lưu lại muôn đời, ghi nhớ hoài đức lớn.
TỤNG VIẾT
Đương đầu hát bổng, hoán hồi thế thượng mê đồ
Nhất tiếu niêm hoa, bản thuộc thiền môn diệu quyết
Nhân sinh như hí, diễn đắc xuất thần nhập hóa
Vạn pháp quy tâm, biến du địa ngục thiên đường.
LỜI TỤNG
Đem đạo vào đời, kêu gọi mọi người tỉnh ngộ
Cầm hoa mỉm cười, cửa thiền diệu pháp bí truyền
Một vở tuồng đời, đóng vai vào
Thần ra Phật Nhập tâm muôn pháp, dạo khắp địa ngục thiên đường.
Dịch Giả: Đào Mộng Nam
Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc Đài Loan
Thiền Sư Lương Sĩ Hằng và Dương Thiện Sinh
Nhân Gian Du Kí nguyên bản viết bằng chữ Nho do
Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc Đài Loan phụ
đồng. Trước tác đăng tải trên bán nguyệt san Thánh Hiền
và ấn tống lần thứ nhất năm 1982. Hội Ái Hữu Vô Vi
được phép phiên dịch năm 1982 và phổ biến năm 1984.
Tiểu Sử
Phật Sống Tế Công .................................................................17
Ý Chỉ
Tiên Cô Nguyên Quân ............................................................ 22
Ngọc Chỉ
Kim Khuyết Nội Tướng Họ Từ.................................................. 25
Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên
Giáo Chủ Nguyên Thủy Thiên Tôn ........................................... 28
Chủ Tịch Bản Đường
Văn Hành Thánh Đế Họ Từ Đăng Đài...................................... 30
Ngọc Hư Đồng Tử Đăng Đài.................................................... 32
Hồi 1:
Nghĩa Chương Đầu, Tế Phật Thuyết Nhân Duyên.
Dạo Hồi Một, Thái Sinh Tâm Thanh Tịnh................................. 33
Hồi 2:
Dạo Lần Hai, Lập Nguyện Hóa Mê Trần.
Hỏi Tác Giả, Chọn Bài Độ Chúng Sinh .................................... 44
Hồi 3:
Bàn Triết Học Nhân Sinh, Luận Công Năng Tạp Chí,
Hỏi Cư Sĩ Tại Gia, Mở Nguồn Cội Đất Trời .............................. 53
Hồi 4:
Luận Viết Sách Luận Công Đức,
Ý Trời Khéo Bày Cùng Xét Kĩ.
Luận Tam Thủy Luận Bồ Đề,
Duyên Thiền Lời Giả Và Nghĩa Thật......................................... 63
Hồi 5:
Chân Đạo Đức, Trời Khảo Người Xét Phẩm Đức.
Thực Tu Hành, Chăm Lo Giữ Gìn Hạnh Kiểm........................... 78
Hồi 6:
Các Căn Ác Tà Niệm Dâm Dục,
Tự Mê Trầm Tội Nghiệp Sâu.
Các Gốc Thiện Chính Tâm Tu Thân,
Lo Giữ Mình Công Đức Còn.................................................... 86
Hồi 7:
Chốn Nhân Gian, Chúng Sinh Tu Trì Gieo Nhân Đạo.
Cõi Phật Trời, Hành Giả Thanh Tịnh Luyện Tính Linh.............. 97
Hồi 8:
Nông Phu Trí Xảo, Hại Người, Lộc Mỏng Tự Lãnh Họa.
Kẻ Sĩ Tâm Lành, Giúp Người, Phúc Dày Được Báo Ân ............ 107
Hồi 9:
Lẽ Đạo Như Kim Chỉ Nam,
Dẫn Đường Chúng Sinh Khỏi Mê Đắm
Công Xưởng Giống Gia Đình,
Phục Vụ Tinh Thần Lẫn Tu Thân........................................... 114
Hồi 10:
Đạo Lí Trị Gốc, Pháp Lí Trị Ngọn
Gốc Ngọn Cùng Giúp Đỡ Cùng Thành Tựu.
Tâm Huệ Tu Trong, Tâm Yêu Tu Ngoài,
Trong Ngoài Cùng Thích Ứng Cùng Hợp Lúc .......................... 122
Hồi 11:
Tế Phật Luận Về Sự Bố Thí Bỏ Chấp Tướng
Giữ Tâm Thành Nhiều Ứng Nghiệm.
Thánh Mẫu Bàn Về Luật Nhân Quả,
Thiện Ác Báo Ứng Đều Do Tâm ............................................. 132
Hồi 12:
Bác Ái Từ Bi, Gió Xuân Mưa Hoa Khắp Chốn.
Tu Tâm Dưỡng Tính, Như Con Như Cháu Muôn Nơi ............. 143
Hồi 13:
Luận Hư Không, Tế Phật Thuyết Pháp,
Bàn Chân Lí Bồ Tát Giảng Đạo .............................................154
Hồi 14:
Con Cháu Hiền Lương Tiên Tổ Được Nhờ.
Cha Ông Ác Đức Di Họa Cháu Con .......................................164
Hồi 15:
Thái Sinh Hỏi Đạo, Các Đạo Thông Suốt.
Tế Phật Hoằng Pháp, Các Pháp Sáng Tỏ.................................174
Hồi 16:
Bác Ái, Nhân Ái, Từ Bi,
Trung Trinh Cảm Ứng Cùng Một Lẽ.
Đường Đạo, Chân Lí, Sinh Mệnh,
Chân Tâm Linh Tính Không Hai Nghĩa ..................................185
Hồi 17:
Do Đàn Cơ Hỏi Đàn Cơ Thuật Rõ Lẽ Trời.
Càng Cầu Lí Càng Tối Lí Sự Thật Đáng Buồn ........................198
Hồi 18:
Chín Đánh Mười Thua,
Không Đánh Không Thua Là Tốt Nhất.
Sửa Tính Tu Thân,
Giữ Mình Cẩn Thận Đề Phòng Ngừa .....................................207
Hồi 19:
Luận Về Nguyên Lí Ba Kiếp Luân Hồi,
Chứng Được Nguyên Tắc Nhân Quả Báo Ứng.........................216
Hồi 20:
Thiên Lí Chiếu Rọi,
Báo Ứng Không Sót Một Mảy May.
Nhân Quả Qua Lại,
Oan Nghiệp Đương Nhiên Được Giải Trừ ...............................226
Hồi 21:
Tu Chính Đạo Đại Tiên Giải Bày Duyên Cớ.
Bị Quả Báo Âm Hồn Hiểu Rõ Lí Do....................................... 238
Hồi 22:
Cầu Phúc Đức Mỗi Nhà Lo Nhân Quả.
Luận Báo Ứng Lòng Người Tạo Phúc Họa............................... 248
Hồi 23:
Thông Minh Gian Xảo,
Ngục Tối Đọa Đày Khổ Sở Tấm Thân.
An Phận Giữ Mình,
Cuộc Đời Tự Do Giữa Chốn Nhân Gian ................................. 258
Hồi 24:
Bàn Tu Thanh Rõ Lẽ Tu Hành.
Luận Thành Hoàng Lo Bề Thiện Ác........................................ 268
Hồi 25:
Sắc Không Mê Người, Người Tự Mê.
Ngộ Tướng Vốn Không, Không Sắc Tướng............................... 279
Hồi 26:
Thánh Đản Vương Mẫu,
Nhân Gian Hội Họp Mừng Tuổi Thọ.
Ngày Lành Phổ Độ,
Địa Ngục Thiện Hồn Hưởng Tự Do ........................................ 288
Hồi 27:
Viện Sám Hối Nam Thiên Tu Thêm Công Đức.
Viện Thanh Thiếu Niên Thuật Rõ Nhân Quả........................... 296
Hồi 28:
Luận Tu Đạo, Các Đạo Tự Nhiên Cùng Một Tâm.
Bàn Học Pháp, Các Pháp Tròn Đầy Không Hai Ý .................... 304
Hồi 29:
Luận Đạo Pháp, Viên Thông Tùy Duyên Hiển Lộ.
Hỏi Tội Hồn Âm Phủ Thẹn Tả Quá Khứ ................................. 312
Hồi 30:
Tới Công Viên Xem Lòng Người Dạo Cảnh.
Bàn Nhân Quả Thấy Thiện Ác Rõ Ràng .................................320
Hồi 31:
Đạo Lí Cương Thường Tu Sửa Giữ Bền.
Tấm Lòng Công Đức Thực Hành Phải Lo ................................327
Hồi 32:
Nhân Gian Gồm Vạn Nhà Nhất Lí Quán Thông.
Du Kí Thuật Sử Tích Ngàn Vẻ Bao La ....................................336
Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 3 lần trong tổng số.