CƠ BÚT TỪ THÁNH HIỀN ĐƯỜNG ĐÀI TRUNG, ĐÀI LOAN ĐƯỢC IN THÀNH SÁCH VÀ THÀNH E-BOOK PHỔ BIẾN CHO NHƠN LOẠI BIẾT RÕ THIÊN ĐÀNG, ĐỊA NGỤC, LUÂN HỒI trên NHÂN GIAN NẦY RA SAO?

 
Thiên đàng du ký : (pdf, xin chờ download chừng 2 phút)
http://caodaigiaoly.free.fr/thiendangduky.pdf

Kính tặng các bạn 16 cái dĩa quí báu nầy để nghe. Thiên Đàng Du Ký do bạn đạo Vô Vi ấn tống để hồi hướng công đức cho gia đình.

here is the link to download Thiên Đàng Du Ký.

http://www.megaupload.com/?d=75PD7Q03

Làm ơn burn extra dĩa để cho các bạn đạo hữu khác. Cám ơn nhiều



Nếu như download không đượcc mà cần dĩa nghe thì cứ contact Gary hay đề lại rồi Gary gửi cho. garyb973@comcast.net


Địa Ngục Du Ký: (pdf, xin chờ download chừng 2 phút)
http://caodaigiaoly.free.fr/Dia_nguc_du_ky.pdf  

Luân Hồi Du Ký: (pdf, xin chờ download chừng 2 phút)
http://caodaigiaoly.free.fr/luan_hoi_du_ky.pdf

Nhân Gian Du Ký (html):
  • NHÂN GIAN DU KÝ

    Dịch Giả: Đào Mộng Nam




    Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc Đài Loan





    Thiền Sư Lương Sĩ Hằng và Dương Thiện Sinh




    Nhân Gian Du Kí nguyên bản viết bằng chữ Nho do
    Thánh Hiền Đường ở Đài Trung thuộc Đài Loan phụ
    đồng. Trước tác đăng tải trên bán nguyệt san Thánh Hiền
    và ấn tống lần thứ nhất năm 1982. Hội Ái Hữu Vô Vi
    được phép phiên dịch năm 1982 và phổ biến năm 1984.


    Mục Lục


    Tiểu Sử
    Phật Sống Tế Công .................................................................17

    Ý Chỉ
    Tiên Cô Nguyên Quân ............................................................ 22

    Ngọc Chỉ
    Kim Khuyết Nội Tướng Họ Từ.................................................. 25

    Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên
    Giáo Chủ Nguyên Thủy Thiên Tôn ........................................... 28

    Chủ Tịch Bản Đường
    Văn Hành Thánh Đế Họ Từ Đăng Đài...................................... 30

    Ngọc Hư Đồng Tử Đăng Đài.................................................... 32

    Hồi 1:
    Nghĩa Chương Đầu, Tế Phật Thuyết Nhân Duyên.
    Dạo Hồi Một, Thái Sinh Tâm Thanh Tịnh................................. 33

    Hồi 2:
    Dạo Lần Hai, Lập Nguyện Hóa Mê Trần.
    Hỏi Tác Giả, Chọn Bài Độ Chúng Sinh .................................... 44

    Hồi 3:
    Bàn Triết Học Nhân Sinh, Luận Công Năng Tạp Chí,
    Hỏi Cư Sĩ Tại Gia, Mở Nguồn Cội Đất Trời .............................. 53

    Hồi 4:
    Luận Viết Sách Luận Công Đức,
    Ý Trời Khéo Bày Cùng Xét Kĩ.
    Luận Tam Thủy Luận Bồ Đề,
    Duyên Thiền Lời Giả Và Nghĩa Thật......................................... 63

    Hồi 5:
    Chân Đạo Đức, Trời Khảo Người Xét Phẩm Đức.
    Thực Tu Hành, Chăm Lo Giữ Gìn Hạnh Kiểm........................... 78

    Hồi 6:
    Các Căn Ác Tà Niệm Dâm Dục,
    Tự Mê Trầm Tội Nghiệp Sâu.
    Các Gốc Thiện Chính Tâm Tu Thân,
    Lo Giữ Mình Công Đức Còn.................................................... 86

    Hồi 7:
    Chốn Nhân Gian, Chúng Sinh Tu Trì Gieo Nhân Đạo.
    Cõi Phật Trời, Hành Giả Thanh Tịnh Luyện Tính Linh.............. 97

    Hồi 8:
    Nông Phu Trí Xảo, Hại Người, Lộc Mỏng Tự Lãnh Họa.
    Kẻ Sĩ Tâm Lành, Giúp Người, Phúc Dày Được Báo Ân ............ 107

    Hồi 9:
    Lẽ Đạo Như Kim Chỉ Nam,
    Dẫn Đường Chúng Sinh Khỏi Mê Đắm
    Công Xưởng Giống Gia Đình,
    Phục Vụ Tinh Thần Lẫn Tu Thân........................................... 114

    Hồi 10:
    Đạo Lí Trị Gốc, Pháp Lí Trị Ngọn
    Gốc Ngọn Cùng Giúp Đỡ Cùng Thành Tựu.
    Tâm Huệ Tu Trong, Tâm Yêu Tu Ngoài,
    Trong Ngoài Cùng Thích Ứng Cùng Hợp Lúc .......................... 122

    Hồi 11:
    Tế Phật Luận Về Sự Bố Thí Bỏ Chấp Tướng
    Giữ Tâm Thành Nhiều Ứng Nghiệm.
    Thánh Mẫu Bàn Về Luật Nhân Quả,
    Thiện Ác Báo Ứng Đều Do Tâm ............................................. 132

    Hồi 12:
    Bác Ái Từ Bi, Gió Xuân Mưa Hoa Khắp Chốn.
    Tu Tâm Dưỡng Tính, Như Con Như Cháu Muôn Nơi ............. 143

    Hồi 13:
    Luận Hư Không, Tế Phật Thuyết Pháp,
    Bàn Chân Lí Bồ Tát Giảng Đạo .............................................154

    Hồi 14:
    Con Cháu Hiền Lương Tiên Tổ Được Nhờ.
    Cha Ông Ác Đức Di Họa Cháu Con .......................................164

    Hồi 15:
    Thái Sinh Hỏi Đạo, Các Đạo Thông Suốt.
    Tế Phật Hoằng Pháp, Các Pháp Sáng Tỏ.................................174

    Hồi 16:
    Bác Ái, Nhân Ái, Từ Bi,
    Trung Trinh Cảm Ứng Cùng Một Lẽ.
    Đường Đạo, Chân Lí, Sinh Mệnh,
    Chân Tâm Linh Tính Không Hai Nghĩa ..................................185

    Hồi 17:
    Do Đàn Cơ Hỏi Đàn Cơ Thuật Rõ Lẽ Trời.
    Càng Cầu Lí Càng Tối Lí Sự Thật Đáng Buồn ........................198

    Hồi 18:
    Chín Đánh Mười Thua,
    Không Đánh Không Thua Là Tốt Nhất.
    Sửa Tính Tu Thân,
    Giữ Mình Cẩn Thận Đề Phòng Ngừa .....................................207

    Hồi 19:
    Luận Về Nguyên Lí Ba Kiếp Luân Hồi,
    Chứng Được Nguyên Tắc Nhân Quả Báo Ứng.........................216

    Hồi 20:
    Thiên Lí Chiếu Rọi,
    Báo Ứng Không Sót Một Mảy May.
    Nhân Quả Qua Lại,
    Oan Nghiệp Đương Nhiên Được Giải Trừ ...............................226

    Hồi 21:
    Tu Chính Đạo Đại Tiên Giải Bày Duyên Cớ.
    Bị Quả Báo Âm Hồn Hiểu Rõ Lí Do....................................... 238

    Hồi 22:
    Cầu Phúc Đức Mỗi Nhà Lo Nhân Quả.
    Luận Báo Ứng Lòng Người Tạo Phúc Họa............................... 248

    Hồi 23:
    Thông Minh Gian Xảo,
    Ngục Tối Đọa Đày Khổ Sở Tấm Thân.
    An Phận Giữ Mình,
    Cuộc Đời Tự Do Giữa Chốn Nhân Gian ................................. 258

    Hồi 24:
    Bàn Tu Thanh Rõ Lẽ Tu Hành.
    Luận Thành Hoàng Lo Bề Thiện Ác........................................ 268

    Hồi 25:
    Sắc Không Mê Người, Người Tự Mê.
    Ngộ Tướng Vốn Không, Không Sắc Tướng............................... 279

    Hồi 26:
    Thánh Đản Vương Mẫu,
    Nhân Gian Hội Họp Mừng Tuổi Thọ.
    Ngày Lành Phổ Độ,
    Địa Ngục Thiện Hồn Hưởng Tự Do ........................................ 288

    Hồi 27:
    Viện Sám Hối Nam Thiên Tu Thêm Công Đức.
    Viện Thanh Thiếu Niên Thuật Rõ Nhân Quả........................... 296

    Hồi 28:
    Luận Tu Đạo, Các Đạo Tự Nhiên Cùng Một Tâm.
    Bàn Học Pháp, Các Pháp Tròn Đầy Không Hai Ý .................... 304

    Hồi 29:
    Luận Đạo Pháp, Viên Thông Tùy Duyên Hiển Lộ.
    Hỏi Tội Hồn Âm Phủ Thẹn Tả Quá Khứ ................................. 312

    Hồi 30:
    Tới Công Viên Xem Lòng Người Dạo Cảnh.
    Bàn Nhân Quả Thấy Thiện Ác Rõ Ràng .................................320

    Hồi 31:
    Đạo Lí Cương Thường Tu Sửa Giữ Bền.
    Tấm Lòng Công Đức Thực Hành Phải Lo ................................327

    Hồi 32:
    Nhân Gian Gồm Vạn Nhà Nhất Lí Quán Thông.
    Du Kí Thuật Sử Tích Ngàn Vẻ Bao La ....................................336



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 3 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước



  • Tiểu Sử
    PHẬT SỐNG TẾ CÔNG


    Phật Sống Tế Công người đời Nam Tống (1150-1209) nguyên quán thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, họ Lí tên Tu Duyên quy y tại chùa Linh Ẩn ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, pháp danh Đạo Tế, vì thường dùng kế giả điên để cứu đời nên thế nhân thường gọi đùa là Tế Điên. Thân Phật Sống là Kim Thân La Hán hóa thân, là Giáng Long Tôn Giả, thông hiểu sâu xa tam muội, tức là chính định, điều tâm tĩnh tọa để đạt trạng thái trực giác vô tư lự hầu thấu triệt cùng liễu ngộ Phật pháp, ý là: “Muôn pháp vốn xuất hiện bởi tâm” (Vạn pháp duy tâm sở hiện). Và tu thẳng tâm Phật không nhờ phương tiện, nên nói: “Tu tâm không tu miệng để trở thành Phật sống” (Tu tâm bất tu khẩu, tố cá tự tại Phật) vì lẽ các tăng ni thời đó chỉ “giới khẩu” không “giới tâm” cho nên Phật Sống nói lên tiếng cảnh tỉnh để giúp họ giác ngộ. Ngài thần thông quảng đại, cứu nhân độ thế, trượng nghĩa phò nguy, đối với bọn giả thiện chuyên làm điều ác ngài thường giễu cợt để khiến bọn đó giác ngộ. Nhưng riêng đối với lũ làm ác không biết hối cải ngài thẳng tay đả kích không ngần ngại, khiến người đời rất ư khoái trá, bởi vậy mọi người gọi ngài là thánh tăng, tôn ngài là Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhiên. Phật Sống từng ở chùa Tịnh Từ, chùa gặp hỏa hoạn, cần gỗ để trùng tu, Phật Sống hành hóa tới Nghiêm Lăng, dùng áo cà sa trùm các núi, nhổ trụi cây đem thả sông cho trôi về Hàng Châu. Ngài về báo cho chúng tăng trong chùa là “gỗ ở trong giếng Hương Tích” chúng tăng chạy ra coi thì quả nhiên có thực, những chuyện lạ như vậy đời truyền tụng rất nhiều. Khoảng năm Gia Định (1209) ngài viên tịch, an táng tại tháp Hổ Bào, phút lâm chung có làm một bài hát:

    Ca viết

    Lục thập niên lai lang tạ
    Đông bích đả đảo tây bích
    Ư kim thu thập quy lai
    Y cựu thủy liên thiên bích.

    Hát rằng

    Sáu mươi năm đời ta tan tác
    Tường phía đông xô tường phía tây
    Góp nhặt mãi vẫn về tay trắng
    Nước liền trời biếc một màu mây.

    Sau khi nhập diệt, có vị tăng gặp Phật Sống dưới chân tháp Lục Hòa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ như sau:

    Thơ

    Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
    Chí kim do giác cốt mao hàn
    Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
    Hựu vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên.

    Dịch

    Nhớ xưa trước mắt chắn tên bay
    Xương thịt cớ sao lạnh lúc này
    Mặt mũi hỏi ai còn nhớ nổi
    Thiên Thai ta lại tới vui vầy.

    Như vậy là Bồ Tát đã hứa hẹn sẽ trở lại trần gian. Phật Sống suốt đời cứu độ hành hóa, dạo cõi nhân gian để chọc tức chọc cười, không lo lắng ngại ngùng tu “hạnh đầu đà” tức là tu khổ hạnh, hành đạo Bồ Tát, một manh áo cà sa rách rưới, vui cảnh đời thoát tục. Đôi giày rách sũng nước ngập bùn, tay cầm quạt Bồ chẳng sợ trên cao dưới thấp, đỉnh đầu sáng chói hào quang, gió chẳng dập, mưa chẳng vùi há còn cần nón lá? Chân không, lạnh nóng chẳng xâm phạm, cần chi áo mặc? Không khất thực vì chẳng đói khát. Lười trang nghiêm vì thiếu da lông, khôi hài cười cợt, kết thiện duyên rộng rãi, trần thế chẳng lánh mặt, tìm tiếng cứu khổ, trăm họ giành nhau tôn kính, từ bi vô lượng, thánh đức tuyệt vời, không một tăng sĩ lánh đời ẩn tu nơi chốn thâm sơn cùng cốc nào sánh nổi. Mỗi lời mỗi tiếng như gai nhọn dao sắc châm chọc, lìa nhà từ miền Ngũ Nhạc tri thức vốn khoan dung, cho nên đời sau chốn cửa Phật nào tự cho mình là thanh cao ắt tránh né không bàn tới. Vì vậy mà một bực cao tăng thánh đức bị mai một không hiển lộ nổi, may mà Phật tôi từ bi không than oán, không chán nản, sống siêu thoát ngoài vòng tục lụy, thể hiện pháp thiền khắp chốn, thực hành Phật pháp mang đầy sắc thái vui tươi, cho nên đại danh “thiền sư” vang dội khắp nơi. Tinh thần xuất thế vĩ đại chuyển thành công lao nhập thế tích cực, thực quả là gương sáng cho những ai ngày nay học Phật tu đạo, cho nên khi được đời tặng thánh danh “Phật Sống” kể cũng hữu lí lắm vậy. Nay gặp thời mạt pháp, chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt, đắm chìm biển khổ, Phật Sống quyết tâm cứu độ người đời cho nên diệu pháp thần thông ngày trước lại tỏ ngời, phát nguyện hiện thân trở lại, giáng lâm Thánh Hiền Đường, hướng dẫn nguyên linh Dương Sinh dạo thăm âm phủ, sưu tầm những bằng chứng xác thực để răn đời. Từ đấy những điều bí mật tại địa ngục được tiết lộ, tạo thuyền từ để cứu độ chúng sinh. Những ai có phước được tắm mưa pháp, vĩnh viễn xa lìa đường ác. Vĩ đại thay, tác phẩm lớn lao đã hoàn thành, còn lưu lại muôn đời, ghi nhớ hoài đức lớn.

    TỤNG VIẾT

    Đương đầu hát bổng, hoán hồi thế thượng mê đồ
    Nhất tiếu niêm hoa, bản thuộc thiền môn diệu quyết
    Nhân sinh như hí, diễn đắc xuất thần nhập hóa
    Vạn pháp quy tâm, biến du địa ngục thiên đường.

    LỜI TỤNG

    Đem đạo vào đời, kêu gọi mọi người tỉnh ngộ
    Cầm hoa mỉm cười, cửa thiền diệu pháp bí truyền
    Một vở tuồng đời, đóng vai vào
    Thần ra Phật Nhập tâm muôn pháp, dạo khắp địa ngục thiên đường.


    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • Ý CHỈ

    Tiên Cô Nguyên Quân


    Giáng

    Thơ


    Đại đạo uyên nguyên bố hảo âm
    Thánh Hiền chư tử cứu thế cần
    Tịch diệt tam độc siêu phàm giới
    Tái ban thiên thư nhất phiên tân.

    Dịch

    Đạo lớn cội nguồn trải khắp nơi
    Thánh Hiền đệ tử cứu muôn người
    Tham sân trừ sạch hồn siêu thoát
    Nay được ban thêm cuốn sách trời.

    Đức Thánh dạy: Đêm nay ta phụng mệnh đức Lão Mẫu Vô Cực mang Ý Chỉ xuống tuyên đọc, thần nhân phủ phục. Kính cẩn vâng lệnh chiếu chỉ của đức Lão Mẫu khuyên răn :

    “Mẫu ngụ tại cung Dao Trì, vì tưởng nhớ tới con đỏ nên thấy cảnh đời điên đảo, đạo lí suy đồi lòng Mẫu vô cùng đau đớn, cho nên vận trời vào ngày mồng một, tháng năm, năm Kỉ Mùi (1979) mới triệu tập mở thánh hội Tam Tào tại cung Vô Cực, và đã đồng quyết nghị ban bố ba bộ sách trời là :

    1. Địa Ngục Du Kí: Tôn chỉ chuyên trừng phạt tội ác để khuyên răng làm điều thiện.

    2. Thiên Đàng Du Kí: Nhằm khuyên người đời gắng công quả, lập đức cùng tu tâm sửa tính.

    3. Nhân Gian Du Kí: Cốt khuyên thế nhân làm điều lành để hiểu rõ mệnh trời mà quy y.

    Mệnh trời lớn rộng, do đó phải chịu sự khảo đảo để thử hỏa hầu, kẻ luyện chí không thối lui mới có thể lãnh mệnh. Nay Thánh Hiền Đường đã trải qua nhiều năm tháng tẩy rửa đãi lọc, nửa năm nay lại bị nạn ma quỷ hoành hành mà vẫn không sờn lòng nản chí nên mới được lãnh sứ mệnh lớn lao.

    Lòng Mẫu giờ đây vô cùng sung sướng đặc biệt ban Ý Chỉ để Phật Sống Tế Công được phép hướng dẫn bút trời Thái Sinh dạo cõi nhân gian viết thành cuốn sách với tựa đề là Nhân Gian Du Kí vô cùng kì lạ chưa từng thấy, nó quả là cuốn sách trời thấu suốt, cùng hợp làm một được cả ba cõi Đất Trời Người, truyền thống đạo pháp từ đây hẳn là sẽ lưu truyền muôn thuở. Hi vọng chư đệ tử của Thánh Hiền Đường giữ bền được tinh thần vì đạo tốt đẹp này mãi mãi, mười năm như một ngày, từ trước tới sau gắng vượt mọi gian lao khổ cực, ngày viết xong sẽ xét công tưởng thưởng”.

    Kính vâng không một phút giây sao lãng, cúi đầu tạ ơn.

    Vận trời ngày 6 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 2 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • NGỌC CHỈ

    Kim Khuyết Nội Tướng Họ Từ


    Giáng

    Thơ


    Thiên thư nhất bộ giáng phàm gian
    Du Kí chân quyển luyện thánh đan
    Tam tào phổ độ kiến kì tích
    Tái ban bảo thư đạo tử tham.

    Dịch

    Báu kinh một bộ giáng phàm gian
    Du Kí bao thiên luyện thánh đan
    Tam tào cứu khổ còn lưu dấu
    Sách quý ban thêm đệ tử xem.

    Đức Thánh dạy: Đêm nay ta phụng mệnh mang Ngọc Chỉ xuống tuyên đọc, thần nhân phủ phục :

    “Trẫm ngự tại điện Linh Tiêu lòng hằng lo lắng thế đạo, thấy chúng sinh khắp ba cõi chỉ biết coi trọng khoa học kĩ thuật mà sao lãng luân thường đạo đức tới nỗi nam thiếu trung hiếu, nữ thiếu tiết trinh, cho nên chư Tiên Thánh Phật không nỡ để đồng bào đọa lạc, nguyên linh đồ thán, cho nên nhân mệnh trời ngày mồng một, tháng năm, năm Kỉ Mùi (1979) mới triệu tập khai mở thánh hội và đã đồng thanh quyết nghị hoàn thành các sách Địa Ngục, Thiên Đàng và Nhân Gian Du Kí để ban bố khắp cõi nhân gian. Hai trong ba bộ sách này là Địa Ngục, Thiên Đàng Du Kí đã sớm được truyền bá ở thế gian, nhưng những tác phẩm tương tự như thế không thiếu chi, duy sách Nhân Gian Du Kí là bộ sách lạ hiếm hoi, vì phải là người có đại lực phát tâm nguyện mới đảm trách nổi, cho nên chư đệ tử Thánh Hiền Đường trải qua nửa năm chân thành chịu đựng sự trui rèn phi thường của đạo, giờ đây sự khảo đảo đã chấm dứt, đạo quả phi phàm, tinh thần giữ đạo đã đạt mức rễ sâu gốc vững.

    Lòng Trẫm vô cùng sung sướng, đặc biệt ban lệnh phát hành sách Nhân Gian Du Kí để làm phương pháp tu trì hầu đạt sự quán thông ba cõi Đất Trời Người. Mệnh lớn đã ban như vậy, ngày Ngọc Chỉ tới, mỗi khi lập đàn cơ ra lệnh Phật Sống Tế Công hướng dẫn thiên bút Thái Sinh dạo cõi nhân gian viết thành cuốn kinh báu thế gian chưa từng có, ban tặng cho đời để các hành giả làm phương châm tu trì.

    Mong chư đệ tử Thánh Hiền Đường dốc chí, dốc lực, một dạ trung thành thực hiện, ngày sách hoàn thành sẽ xét công tưởng thưởng, chớ cãi lệnh Trẫm”.

    Kính vâng không sao lãng, cúi đầu tạ ơn.

    Vận trời ngày mồng 6 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên
    Giáo Chủ Nguyên Thủy Thiên Tôn


    Giáng

    Tựa


    Phàm chân lí được duy trì là nhờ hành giả kiên nhẫn giữ gìn đạo đức. Người đời vì mê hoặc nên phần đông bỏ thanh tịnh chạy theo động loạn, khiến bị sóng tửu sắc cuốn trôi vào biển khổ trầm luân, những kẻ sa cơ lỡ bước này kể sao cho xiết. Nay đệ tử Thánh Hiền Đường chịu khổ cực phát tâm ấn hành tạp chí Thánh Hiền là cốt mong cứu độ chúng sinh bị đọa đày sớm vượt thoát được biển khổ mà tới bờ giác ngộ, nhờ vậy nay mới được hưởng ơn trời sâu rộng qua việc thiết lập đàn cơ phụ đồng trước tác ba bộ sách, thần và người đã tốn hao bao tâm huyết, sau khi Tế Phật hướng dẫn Thái Sinh dạo thăm thì những điều bí ẩn về thiện ác nhân quả nơi chốn trần ai được thuật lại tỏ tường, để làm tấm gương sáng cho nhân loại soi chung mà thức tỉnh, hầu thấy rõ bản ngã chân thật của mình, xa rời ngả tối tăm quay về nẻo sáng.

    Trải hơn một năm sách viết mới xong, chân lí đạo người được bày tỏ không chút giấu giếm, ta mong người đời hãy chăm chỉ đọc sách này để cho thân tâm chính định, đạo tâm phấn chấn, từ bỏ điều ác chuyên làm điều thiện. Đó là lời tựa.

    Nguyên Thủy Thiên Tôn giáng cơ đề tựa.

    Vận trời ngày 26 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • Chủ Tịch Bản Đường Văn Hành Thánh Đế Họ Từ Đăng Đài


    Tựa

    Kể từ khi tạp chí Thánh Hiền Đường bắt đầu phổ biến tới nay thấm thoát đã gần bảy năm, sách hay kinh quý cũng phát hành nhiều vô kể, vì thời kì mạt pháp, vật dục ngập tràn tinh thần sa đọa, đó là trách nhiệm cùng sứ mệnh trọng đại của bản đường. Ba bộ sách trời này đã hoàn tất, song sách lạ Nhân Gian Du Kí từ trước tới giờ chưa từng có, Tế Phật cùng Thái Sinh đảm nhận trọng trách mới hoàn tất đúng kì hạn, mắt nhìn bạn đạo Thánh Hiền Đường lòng vui chan chứa nỗi niềm, vô cùng cảm kích biết làm sao tỏ, bản thân lại được giữ chức chủ tịch bản đường biết bao vinh hạnh. Để lưu lại hậu thế, bản đường ra sức khôi phục cùng hoằng dương tinh thần văn hóa cố hữu Á Đông, thần và người cùng coi sóc, ngăn cản gió tham dục xa xỉ không cho lan tràn, xóa sạch mọi tai họa lớn của nhân loại. Mong chư đệ tử Thánh Hiền Đường tiếp tục giữ bền được tinh thần hi sinh lúc ban đầu để phát được tâm nguyện “Lo trước cái lo của người đời, vui sau cái vui của người đời” (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Để rồi sau đó còn phải luôn luôn nỗ lực phổ biến giáo hóa đại đạo, hầu giúp chúng sinh dưới gầm trời cải tà quy chính, thức tâm tu đạo để rồi ra sức lập công lập đức, ngày sau công thành quả mãn cùng lên cõi trời. Đó là lời tựa.

    Chủ tịch bản đường Quan Hưng kính đề.

    Vận trời ngày 26 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • Ngọc Hư Đồng Tử Đăng Đài


    Tựa

    Hoằng dương đạo đức đó là trách nhiệm của mỗi người, văn hóa Á Đông quyết chí phát huy. Sách Nhân Gian Du Kí là sách lạ hiếm có trong số những sách trời của ba cõi, lời lẽ sâu xa ngọt ngào, lí luận rành rẽ sáng sủa, trình bày rộng rãi các giáo pháp, văn tự đối đáp câu nào câu nấy rất là đẹp đẽ siêu diệu, khiến trở thành những châm ngôn tu đạo chân chính, quả xứng đáng là một pho sách thánh, người đời đọc xong ắt tin theo những điều chỉ dạy. Suốt một năm ròng trải qua biết bao đắng cay gian khổ, cuối cùng nay sách đã xong, nhân ngày giao hoàn Ngọc Chỉ, tôi có đôi lời tỏ bày là trong suốt thời gian trước tác sách này, từ thần tới người đều đã phải hết sức phấn đấu, không dám một chút buông lơi, do đó hiện tại sách mới hoàn tất cùng phổ biến khắp cõi nhân gian. Tôi hi vọng những ai xem sách này đều sẽ chăm lo tu tiến, và sẽ vượt được sông mê tới bờ bến giác. Đó là lời tựa.

    Ngọc Hư Đồng Tử ngồi đàn cơ kính đề.

    Vận trời ngày 26 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982)



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI MỘT

    NGHĨA CHƯƠNG ĐẦU, TẾ PHẬT THUYẾT NHÂN DUYÊN

    DẠO HỒI MỘT, THÁI SINH TÂM THANH TỊNH

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 13 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)


    Cơ giáng: Phò thiên bút

    Thơ


    Phổ độ nguyên linh phí khổ tâm
    Thiên đàng địa ngục bất từ hành
    Tân thư ban mệnh tốc khai trước
    Nhân Gian Du Kí sướng thế tình.

    Dịch

    Cứu rỗi nguyên linh chịu khổ tâm
    Thiên đàng địa ngục quyết đi tầm
    Lệnh ban sách mới mau hoàn tất
    Dạo cõi nhân gian tả nỗi niềm.

    Tế Phật: Ẩn náu một thời gian, đêm nay Thánh Hiền Đường lại phụng chỉ viết sách mới quả là đại sự, trò ngoan ơi! Cảm tưởng của con thế nào?

    Thái Sinh: Mệnh lớn tới, con bàng hoàng kinh hãi, thưa ân sư, không hiểu liệu có lo tròn nổi phận sự chăng?

    Tế Phật: Trò ngoan này, con chớ quá lo lắng, việc tới sẽ tự nhiên thành.

    Thái Sinh: Trước đây ân Chủ Tịch đã từng bày tỏ là soạn sách Nhân Gian Du Kí phải hết sức tránh sự nghi hoặc của người đời, hiện tại không rõ việc đó sẽ ra sao, kính xin ân sư chỉ giáo cho?

    Tế Phật: Việc này vốn là sự bí mật của Thiên Cơ, vả lại hiện giờ nó đã trở thành chuyện dĩ vãng, thầy sẵn sàng miêu tả lại việc đó như sau để giúp con thấu tỏ : “Ngày mồng một tháng giêng năm nay là ngày lành tháng tốt, vì nhằm ngày thánh đản của đức Nguyên Thủy Thiên Tôn, tất cả Thánh Thần tại cõi trời sẽ tựu hợp tại cung Vô Cực, mở hội nghị lâm thời để thảo luận về ba bộ sách kì lạ của ba cõi Đất, Trời, Người là Địa Ngục, Thiên Đàng và Nhân Gian Du Kí. Hai cuốn trên đã phổ biến khắp nhân gian, duy chỉ còn cuốn thứ ba là Nhân Gian Du Kí hiện chưa phát hành, có lẽ mà vì thế hiện giờ đã tới lúc tuyển chọn xem đạo tràng nào có thành tích xứng đáng để giao phó việc trước tác, thì đồng thời được biết đệ tử Thánh Hiền Đường đã từng phát đại nguyện cứu nhân độ thế. Song sách quá phi thường thật là kì diệu hiếm có, nên cần phải tuyển cho kì được tu sĩ và đạo tràng có đại nguyện lực mới có thể trừ khử phần tạp nhạp, lưu giữ phần tinh túy để được ban chỉ trước tác, còn không sợ rằng khó đạt thành sứ mệnh và làm hỏng đại cuộc. Ngay lúc đó chủ tịch họ Quan của Thánh Hiền Đường dâng đề nghị là “Nghiệp đạo của tệ đường đã thấy huy hoàng, thần và người đều rõ, nếu như lại ban trách nhiệm trước tác Nhân Gian Du Kí cho tệ đường, tệ đường nguyện chấp nhận mọi sự khảo đảo để rèn luyện ý chí”.

    Đức Kim Mẫu lúc đó nét mặt và lời nói biểu lộ vẻ hiền từ, phán dạy: “Hay lắm, hay lắm, họ Quan con của Mẫu chỉ vì đạo mà chẳng ngại khó khăn do đó đã phát tâm, nguyện vì chúng sinh hiến dâng tất cả, lại còn thề một lòng chịu đựng mọi thử thách để mong tôi rèn tâm trí. Trải qua nửa năm khảo luyện đạo chí, Thánh Hiền Đường sẽ bị người phỉ báng, bị ma quỷ quấy phá quá nhiều, nào như mượn danh phá đạo, lộng giả thành chân, thấy lợi nảy lòng tà, tham lam tiền bạc, tâm của các đạo hữu đều biến thành tâm ma quỷ. Các đệ tử Thánh Hiền Đường bị khảo luyện đến như vậy, thử hỏi liệu họ Quan con của Mẫu có thể chịu đựng nổi không?”.

    Chủ tịch họ Quan khẳng khái tâu lên: “Danh lợi vốn là nguyên nhân cản trở làm băng hoại đạo, song những đệ tử chân tu của bản đường chẳng thiếu, nên dù có bị khảo đảo thêm lần này đi nữa thì lại có cơ hội luyện cát thành vàng, luyện đạo thành chân, càng phân biệt được thực và hư, cho nên nguyện dốc tâm chấp nhận mọi thử thách của đạo”.

    Đức Kim Mẫu vẻ mặt hiền từ lại nói: “Hay lắm, họ Quan con của Mẫu đã phát đại nguyện cứu nhân độ thế như vậy, lòng Mẫu được an ủi vô cùng, trong khoảng thời gian nửa năm nay, nếu như đệ tử nào của Thánh Hiền Đường không nản lòng thối chí, cùng tuân hành nghiêm nhặt lệnh này, ắt việc trước tác bộ sách trời của ba cõi tất nhiên sẽ do Thánh Hiền Đường lãnh Ngọc Chỉ trước tác”. Ngày tháng thoi đưa, mau lẹ qua đi như nước tuôn vào biển đông, trong khoảng thời gian này, Thánh Hiền Đường luôn luôn bị những kẻ tiểu nhân đả kích và bắn lén. Bởi không phòng bị kịp, một số đọc giả cùng đệ tử của Thánh Hiền Đường đã gặp sự khảo đảo phi thường của đạo, kẻ tâm chí không kiên định nổi, tâm đạo phá tán, không kham nổi, bỏ tu chạy theo danh lợi. Trái lại kẻ nhẫn nhục chịu đựng được, luôn luôn sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, chẳng màng lợi lộc, khiến đức tin càng ngày càng mạnh mẽ, không chút mềm lòng nản chí, nên có thể coi lệnh của trời là trách nhiệm của mình. Tới ngày 24 tháng 6 là ngày lành thánh đản của đức Quan Đế, sau khi các chư Tiên Thánh Thần của ba cõi chúc thọ xong, bèn được mời tham dự thánh hội và chư ngài đã đồng thanh tâu với đức Ngọc Hoàng như sau : “Trong thời gian Thánh Hiền Đường bị khảo đảo vì đạo, thần nhân đã thấy rõ được niềm tin son sắt lớn lao, không chút sờn lòng nản chí, kính xin Đức thiên Tôn soi xét cho”.

    Đức Ngọc Đế gật đầu ban lời vàng ngọc: “May thay, may thay, đàn cơ trực thuộc hạt Nam Thiên quả là không thẹn, Trẫm đặc biệt ban Ngọc Chỉ ra lệnh cho Chủ Tịch Thánh Hiền Đường cùng Phật Sống Tế Công hãy sớm lo liệu việc trước tác sách Nhân Gian Du Kí, để tới ngày mồng 6 tháng 8 chính thức nhận lãnh Ngọc Chỉ của Trẫm ban cho”. Ngay lúc đó chủ Tịch họ Quan cùng ta liền cúi đầu tạ ơn và tâu rằng: “Kính vâng lời dạy”. Sau khi đức Kim Mẫu và đức Ngọc Đế cùng chư Thiên Thánh Thần ban khen xong, chủ tịch họ Quan vẻ vô cùng thanh nhẹ. Tinh thần đạo của Thánh Hiền Đường phấn phát mạnh mẽ, hoàn toàn tiếp nhận linh pháp từ cõi hư không hỗ trợ cho thiên bút Thái Sinh, nên tới kì ngồi đàn cơ từ cõi hữu hình sẽ xuất hồn lên được cảnh giới vô hình, mặc dù hiện thời thiên bút Thái Sinh giác linh chưa viên mãn, nhưng vẫn không hề ảnh hưởng tới đại mệnh trước tác sách Nhân Gian Du Kí. Chư đệ tử của Thánh Hiền Đường quả là gặp nhiều khó khăn, thuyền pháp ra tới giữa biển khơi đột nhiên gặp sóng to gió lớn, nếu như tâm không bấn loạn, bình tĩnh lèo lái con thuyền mạnh dạn tiến tới quê trời nguyên linh. Vì đã lấy đạo lớn làm trọng, khiến chư Thiên Thánh Thần khâm phục, cho nên sách trời ba cõi tất nhiên do Thánh Hiền Đường đảm nhiệm việc trước tác”. Nguyên nhân của đoạn văn mô tả trên đây cũng là lí do ban lệnh trước tác sách Nhân Gian Du Kí, nay nói rõ ra để phá tan sự mê hoặc của chúng sinh.

    Thái Sinh: Quả đã khiến cho người ta phải kinh hãi trong suốt nửa năm nay, mong rằng sẽ đủ sức phấn đấu vươn lên đảm nhiệm sứ mệnh của thời đại trao phó, còn nếu như ngược lại sẽ tạo thêm tội lỗi mang nghiệp vào thân, hậu quả sẽ vô cùng tai hại, không thể tưởng tượng nổi. Trong thời gian này lại càng cảm tạ ơn chư Thiên Thánh Thần đã ban tình thương yêu, chư đệ tử đồng tu của Thánh Hiền Đường trong những năm gần đây âm thầm phát triển đạo đức trung hiếu, dốc tâm phục vụ khiến nền đạo đức cố hữu Á Đông được bền vững, gió lay chẳng đổ, ơn ích thật quả lớn lao.

    Tế Phật: Hay lắm, đêm nay bắt đầu dạo cõi nhân gian để con được mở rộng tầm mắt.

    Thái Sinh: Được như vậy quả là rất khó, các bạn đồng tu từ nay về sau phải một mực chân thành tin theo ân chủ mới mong có nhiều hi vọng, tâm chí phải tuyệt đối không được hỗn loạn để khỏi phá hoại đại cuộc.

    Tế Phật: Trò ngoan, mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong.

    Tế Phật: Trò ngoan, cớ sao con lại phủ phục trên đài sen? Thái Sinh: Thưa, con chưa từng ngồi đài sen, nên sợ rằng đài sen bay quá nhanh, chẳng may bị rớt giữa không trung, hư mất đại mệnh, cho nên con phải phủ phục ôm chặt đài sen để mong bảo đảm được sự an toàn.

    Tế Phật: Ha ha, trò ngoan quả là thận trọng, chớ ngại, chớ ngại, lần đầu cỡi đài sen khiến con hoang mang, để thầy ban cho con một viên thuốc “định thần” hầu giúp con tự trấn tĩnh.

    Thái Sinh: Quả thật đúng, thuốc “định thần” quá thần diệu, tâm thần con lúc này đã hoàn toàn an định, song trò ngu vì lần đầu ngồi tòa sen, xin ân sư giảm tốc độ chầm chậm lại, để tâm thần con khỏi kinh hoàng dao động, tránh sẩy chân rớt té.

    Tế Phật: Quả vi diệu thay, con thực có thiên chân, người ta chỉ đọa lạc vì một niệm sai trái, chứ chưa từng thấy cỡi đài sen mà bị rớt, do đó con hãy yên tâm.

    Thái Sinh: Thưa may phước, vì trò ngu từng đi máy bay nên thấy mỗi hành khách đều có cột dây an toàn, do đó không còn lo sợ bị rớt té, song ngược lại đài sen lại không thấy trang bị dây an toàn như vậy hẳn là nguy hiểm lắm, do đó mà con sinh lòng sợ hãi.

    Tế Phật: Ha ha, tâm trò ngoan quả là tâm trẻ thơ, lời nói thật đáng buồn cười, lần tới thầy trò khỏi cần cưỡi tòa sen, thầy sẽ đặc biệt hóa phép một chiếc máy bay cho con đi để con được an tâm, con nghĩ sao?

    Thái Sinh: Thưa, ân sư quá khéo chọc cười, vì con chưa nghe nói đạo sĩ vân du bằng phi cơ bao giờ, việc này nghe quả là kì lạ.

    Tế Phật: Tại sao lại không được? Người ta vốn sống trong cõi thế gian, hồi này xuất hồn dạo cõi nhân gian mà lại cho là hạn hữu sao?

    Thái Sinh: Thưa đúng, những lần phò đàn cơ trước đây là ngầm thực hiện việc viết sách Du Kí nên con đã được rõ việc này trọng đại, bởi vậy trò ngu đã từng mấy lần cầu xin chư Thiên Thánh Thần chuyển giao sứ mệnh lớn lao này cho người khác đảm trách để mong được sống yên ổn, tránh khỏi bị rớt vào vòng phiền não. Song lệnh của trời khó mà cãi nổi, nên Ngọc Chỉ ban mệnh soạn sách đã giáng ngay bản đường và chính trò ngu phải đảm nhiệm trọng trách, trò ngu tự xét mình vô tài vô đức nên thấy khó mà thực hiện được sứ mệnh lớn lao.

    Tế Phật: Ngu ngốc thay, trách nhiệm này biết bao kẻ khác cầu mà chẳng được, cớ sao con lại thoái từ, con chẳng rõ một sớm sách này soạn xong danh vang khắp cõi, khi đó há con chẳng lưu tiếng thơm ư ?

    Thái Sinh: Thưa ân sư, hư danh tiền tài cuối cùng sẽ dẫn tới bất lợi, cho nên con không muốn bị ràng buộc.

    Tế Phật: Quả đúng như vậy, thầy chỉ thử tâm trí huệ của con một chút đấy thôi, thấy tầm nhìn của trò ngoan quả nhiên lớn rộng, tâm hết còn bị trói buộc, thật không thẹn với sự quý trọng của chư Thiên Thánh Thần. Thôi hãy tạm ngưng cuộc nhàn đàm tại đây, mau lên đài sen để còn khởi hành.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong.

    Tế Phật: Trước tiên hãy nhắm hai mắt lại, kẻo không chịu đựng nổi sức gió.

    Thái Sinh: Thưa vâng... Con đã núp sau lưng ân sư mà vẫn còn cảm thấy sức gió thổi quá mạnh, nghe kêu vù vù mãi bên tai, có cảm giác thần hồn bay vun vút.

    Tế Phật: Đã tới nơi, có thể mở mắt được rồi.

    Thái Sinh: Ôi! Cớ sao ân sư lại đưa con tới chốn này, thật khó mà thưởng thức nổi cảnh sắc tươi sáng của ao hồ núi non, và phía trước lại có một vị tướng quân vũ trang khí giới đang đi tới, chắc là sẽ đuổi thầy trò mình ra khỏi nơi đây?

    Tế Phật: Con hãy yên tâm, vị đó là Tướng Quân giữ ao, bữa nay tới đây là cốt để rửa mắt phàm, thân tục của con, hầu giúp con lưu thanh khử trược, hoàn toàn trong suốt.

    Thái Sinh: Thưa, thế thì đỡ quá, ngày đầu tới đây con chỉ muốn được uống nước.

    Tế Phật: Thôi chớ nói dông dài, con hãy tự lội xuống đi, kẻo không thầy sẽ đẩy con đây này.

    Thái Sinh: Xin thầy hãy để con tự lội xuống... Chu choa! Nước hồ cớ sao lại lạnh buốt tới cỡ này, nếu giờ đây lội xuống không rõ ngày nào mới gặp lại ân sư!

    Tế Phật: Trò ngoan này, con chớ có lo lắng, vì có thầy ở đây, nếu chẳng may có sự nguy hiểm xảy tới, thầy sẽ cứu con ngay.

    Thái Sinh: May quá, con xin lội xuống ngay.

    Tướng Quân Giữ Ao: Xin hỏi Tế Phật, kẻ phàm nhân này là ai vậy, tôi nghi kẻ phàm này không biết rõ về nước trong ao này nên đã bơi tới bơi lui mà lại còn ngụp lặn. Tế Phật, tôi thấy đã gần hết giờ rồi đấy.

    Tế Phật: Được, để tôi kêu lên.

    Thái Sinh: Thưa ân sư, ao này tuy nước rất lạnh, song bơi một hồi hết còn cảm giác giá buốt, hiện tại tinh thần con hoàn toàn thoải mái, nước thánh quả là tuyệt diệu, cảm tạ ân sư đã đưa con tới chốn này để con có dịp tắm rửa tại đây, kì tới xin ân sư lại hướng dẫn đến đây để con bơi lội.

    Tế Phật: Con chớ coi thường, muốn bơi lội chơi thì tới hồ tắm ở dương gian, còn hồ này là hồ “Tĩnh Tâm” nếu không phải là tiên thánh của ba cõi không được tới đây tắm rửa. Bữa nay con nhờ phụng chỉ trước tác sách Nhân Gian Du Kí nên mới được tới đây tắm rửa, còn không thầy không được phép dẫn con tới đây bơi lội chơi, hãy mau cảm ơn Tướng Quân giữ ao, để chúng ta còn chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Thưa, thì ra nguyên nhân là như vậy. Xin đa tạ tướng quân.

    Tướng Quân Giữ Ao: Chớ khách sáo, vì quý vị đã quá khổ cực.

    Tế Phật: Thời giờ eo hẹp, thầy trò chúng tôi đã tới quấy rầy, xin cáo biệt. Thái Sinh mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.

    Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI HAI

    DẠO LẦN HAI, LẬP NGUYỆN HÓA MÊ TRẦN

    HỎI TÁC GIẢ, CHỌN BÀI ĐỘ CHÚNG SINH

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 23 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Nhất khí sở hóa tính bản đồng
    Sư sinh chi biệt mê ngộ trung
    Năng khử tư chấp giai thị Phật
    Hà lai danh tướng loạn hống hống.

    Dịch

    Một khí sinh ra tính vốn chung
    Thầy trò chia cách tỉnh mê lòng
    Diệt trừ tính chấp đều thành Phật
    Sắc tướng há còn loạn hỗn mang.

    Tế Phật: Tế Phật, Tế Công, Tế Sư, Đạo Tế. Đạo hiệu của ta quả là nhiều, cứ kêu lên thảy thảy đều là đạo, chúng sinh còn mê chấp, người đời từ muôn ngàn kiếp trước đến nay vốn từ một khí sinh ra, cớ sao lại còn phân biệt thầy trò, sự thật thì cả hai vốn là một, song lại kêu là Phật, là sư, là sinh ấy vì kẻ giác ngộ là Phật, kẻ sáng suốt là thầy, kẻ mê lầm là trò. Lúc này ta là thầy của chúng sinh, nhưng muôn ngàn kiếp trước chúng sinh há chẳng từng có kẻ là thầy ta sao? Chỉ tại chúng sinh mê lầm, sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, luân hồi quá lâu sớm đánh mất chân bản ngã của mình, song nếu sớm diệt trừ được ngã chấp, ngã tướng, ngã tư mà ngộ đạo, tu đạo, hành đạo, tương lai ắt sẽ thành Phật thành sư vậy.

    Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả là sáng suốt, nếu như chịu lắng nghe thì đó là Phật lí, chân lí, đạo lí. Còn riêng trò ngu của thầy thì đã lãnh hội được đầy đủ.

    Tế Phật: Đêm nay trước tác hồi thứ hai của sách Nhân Gian Du Kí, cảm tưởng của con ra sao?

    Thái Sinh: Trời cao rủ lòng thương ban cho bản đường việc lo liệu cuốn chót trong ba cuốn sách thánh của ba cõi, nên ân sư và con đã có dịp cùng chung sức gánh vác, giờ đây trò ngu cảm thấy trách nhiệm ấy vô cùng lớn lao.

    Tế Phật: Biên soạn bộ sách trời này, mệnh thánh quá phi thường nên công đức của con chẳng ít. (Lời nói của Tế Phật lúc này có ý muốn thử chí của thiên bút).

    Thái Sinh: Trò ngu của ân sư chỉ xem đó là phương tiện mà thôi, hay đúng hơn nên coi là trách nhiệm, còn công đức hoàn toàn thuộc về đọc giả là những người đã hiến cả công lẫn của cùng đức tin vững mạnh vào đàn cơ của các đệ tử thuộc Thánh Hiền Đường. Con chỉ mong các tín hữu dốc tâm phát huy đạo lớn thánh hiền, tiếp nối tinh thần truyền thống phổ biến chính pháp khắp nơi, còn trò ngu này không hề có công đức lớn lao nào đáng kể.

    Tế Phật: “Không kể công mới thật sự tạo được công to, không kể đức mới chính thức tạo nên đức lớn” (Bất cư công tựu thị đại công, bất cư đức tựu thị đại đức). Trò ngoan quả nhiên khác xa người đời, ít năm nay tham gia soạn nhiều bộ sách trời, luôn luôn gắng gỏi nên đã lập được công lớn, còn lần này thầy tin rằng con sẽ vững vàng mạnh mẽ hơn, có thể thực hiện nổi công việc thay xương đổi thịt khó khăn vô kể này. Ôi! quý hóa biết là bao nhiêu.

    Thái Sinh: Ân sư quá khen, trò ngu đã thấu hiểu rõ rằng, làm mà nệ vào công đức thì chỉ mới được coi là có lòng hăng hái chứ chưa vĩnh viễn đạt giải thoát, do đó tâm đạo còn chìm đắm lu mờ chẳng thể đem tinh thần “vô úy” lớn lao, tiếp tục đảm trách sứ mệnh trọng đại của đời này để phục vụ chúng sinh.

    Tế Phật: Đêm nay trò ngoan giảng pháp, thật đã khiến thầy phải mở to mắt để nhìn, quả đúng như lời “Màu xanh vốn từ màu lam mà ra, nhưng lại thắng nổi màu lam” (Thanh suất ư lam, nhi thắng ư lam). Nếu như chỉ cầu tìm công đức mà không tu tự tính, thì chẳng khác nào người phàm ngồi trên cao chỉ nghĩ đến chức vị mà không biết tính toán, biết lo liệu mà không biết kinh doanh, có hư vị mà không có thực chức, cho nên thầy hi vọng con thi hành tinh thần đại đạo sao cho đạt mức thông suốt tròn đầy.

    Thái Sinh: Trò ngu chỉ hi vọng chúng sinh không khinh rẻ sự vô tài của những kẻ thấp hèn, hầu tiếp tục cùng nhau kiên trì, lo lắng phát huy đạo lí, xây dựng đức tin vững mạnh, nếu được như vậy kẻ hèn này cũng nguyện đem công đức riêng của mình trở thành công đức chung của toàn thể chúng sinh, chỉ mong được cùng chúng sinh dưới gầm trời học hỏi dạy dỗ lẫn nhau, vì “Ngày nào chúng sinh chưa thành đạo, kẻ hèn này nguyện không thành đạo”.

    Tế Phật: Con đã phát tâm nguyện lớn lao, từ bi như vậy hẳn là đã chứng đắc “Bồ Đề giác lộ” xứng danh là đèn sáng tinh thần của chúng sinh, là rường cột của đạo lớn, Tam Tào sẽ cảm động cùng lo hộ trì, ước mong con noi theo tinh thần đại nguyện của các đấng Quán Thế Âm Bồ Tát, U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát, cùng Lã Tiên Tổ thực hành mãi đại nguyện, lưu tiếng thơm muôn đời, thầy có được trò ngoan như vậy thì dẫu khổ mấy cũng vinh.

    Thái Sinh: Lời dạy của ân sư siêu diệu biết là bao, chỉ tiếc trò ngu này đạo thô học thiển mà lại dám lãnh trách nhiệm trọng đại này, e khó thành tựu nổi.

    Tế Phật: Tâm con đỏ của trò chính hợp tâm trời, thiên chân ngay thẳng chính hợp tâm Phật, chúng sinh lại khuyến khích con, trông chờ con, con chớ quá lo lắng.

    Thái Sinh: Thưa đúng như vậy, con đã cởi bỏ nhiều rồi, song đầu óc vẫn còn u tối.

    Tế Phật: Chẳng phải vậy đâu, khôn ngoan giống như ngu ngốc, khéo léo tựa như vụng về, đó là bản tính của kẻ học đạo, con có lòng ngay thẳng thầy rất vui mừng, hi vọng con sẽ thực hiện nổi.

    Thái Sinh: Được nghe lời dạy của ân sư, tinh thần con phấn chấn lắm. A! Thưa bữa nay đi dạo nơi đâu?

    Tế Phật: Chớ hỏi trước, tới khi đó con sẽ rõ.

    Thái Sinh: Thưa vâng, con chỉ biết nghe lời thầy dạy, đi theo đường thầy chỉ.

    Tế Phật: Mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa con đã chuẩn bị xong.

    Tế Phật: Tại sao bữa nay con không nằm sát xuống đài sen?

    Thái Sinh: Mới ngồi thử con đã vững chãi rồi, hơn nữa bữa nay con lại dám nắm chặt áo Phật của ân sư nên tin chắc rằng sẽ không nguy hiểm.

    Tế Phật: Áo Phật của ta đã giúp con được an toàn, ha ha...

    Thái Sinh: Tiếng cười của ân sư càng khiến con thêm tin tưởng, những ngày kế tiếp thiết nghĩ con sẽ tạm thông suốt được pháp đạo nhiệm mầu.

    Tế Phật: Hay lắm, nhưng phải cẩn thận đừng có làm rách áo cà sa của thầy mới được, còn không con sẽ không bồi thường nổi.

    Thái Sinh: Nếu không bồi thường nổi, con sẽ trả công cho thầy. Tế Phật: Ta không mở quán, không bán buôn, nếu phải đền công con sẽ làm công việc gì?

    Thái Sinh: Làm công việc phổ hóa chúng sinh.

    Tế Phật: Đó chẳng phải là công việc đời mà là công việc Thánh. (Cả thầy lẫn trò cùng cười ha hả...). Hay lắm, nói dông dài một chút thôi, chúng ta còn phải mau lên đường.

    Thái Sinh: Được cùng ân sư đàm luận thông suốt vui vẻ nên giây phút này là giây phút tâm trong ý đẹp. Con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.

    Tế Phật: Đã tới nơi, trò ngoan hãy mở mắt ra.

    Thái Sinh: Thưa ân sư đây là chốn nào mà giống như chốn sơ khai, hai ngôi lầu phía trước mỗi ngôi đều có một vị thiếu niên đang cặm cụi viết lách, thưa tới quấy rầy một chút được không?

    Tế Phật: Con hãy đến phỏng vấn qua loa xem sao? Đêm nay thời giờ eo hẹp, chớ có hỏi han quá lâu, đợi thầy niệm Phật chú, chân ngôn.

    Thái Sinh: Ân sư giống như đại sư thôi miên, đêm nay con mới thật sự mở lớn tầm mắt, ân sư niệm ít lời xong, một lát sau vị thanh niên đó đờ đẫn mơ màng, ngủ gục trên bàn, nguyên linh dần dần bay cao tít... Ha ha! Đã thành công.

    Duyên Sinh: Ôi! tại sao tôi lại tới chốn này?

    Thái Sinh: Yên tâm, yên tâm! Đó là Phật Sống Tế Công giúp nguyên linh của huynh siêu thăng... huynh chớ quá lo lắng, chắc chắn sẽ hoàn hồn.

    Duyên Sinh: Á! Nguyên nhân thì ra là tại ân sư giáng lâm, con xin lạy ân sư ba lạy... còn huynh chắc là thiên bút Thái Sinh?

    Thái Sinh: Đúng vậy, tại sao huynh biết rõ?

    Duyên Sinh: Tôi không nhận ra huynh, song vì tôi là đọc giả dài hạn của tạp chí Thánh Hiền, nên đạo danh của huynh không những tôi đã rõ mà còn kính phục từ lâu.

    Thái Sinh: Thưa, có phải vừa rồi huynh lo tuyển chọn bài vở cho tạp chí Thánh Hiền phải không?

    Duyên Sinh: Đúng vậy, đã từ lâu bỏ viết văn, nên giờ đây bút mực không theo kịp óc nghĩ, đêm nay tâm huyết dâng trào cảm xúc chan hòa, cầm bút viết văn chữ xấu như gà bới, nhưng lại gặp kì duyên, quả là ba đời may mắn.

    Thái Sinh: Xin huynh chớ khách sáo, chữ viết của đệ còn nguệch ngoạc hơn nhiều, chúng ta cùng học hỏi lẫn nhau. A! Đúng lắm, tạp chí Thánh Hiền quả là mảnh đất tốt cho những ai có lòng vì đạo, mong huynh đóng góp nhiều bài vở nghiên cứu về đạo để hoằng dương đạo pháp, cứu độ chúng sinh.

    Duyên Sinh: Thưa tôi đã hiểu trách nhiệm đó.

    Tế Phật: Thời giờ đã trễ, trò ngoan ơi! Để thầy dẫn hồn con nhập xác.

    Duyên Sinh: Thưa vâng, con xin lạy thầy ba lạy...

    Thái Sinh: Rất mong được thết trà huynh tại Thánh Hiền Đường (Tế Phật lúc này miệng lẩm bẩm niệm chú, vị thanh niên dần dần tỉnh lại). Ha ha, thưa ân sư không những hết mê mà lại còn tỉnh táo một cách lạ thường.

    Tế Phật: Lời Phật chú vừa rồi so với cháo lú tại quán Mạnh Bà ở âm phủ, tuy hình thức khác nhau nhưng nội dung công hiệu như nhau, lúc mê đi không biết thì lúc tỉnh lại chẳng hay, trạng thái này giống hệt như chúng sinh hiện sống nơi trần thế, càng hoài nghi càng tìm hiểu, nhưng cuối cùng chẳng tìm ra sự giải đáp thỏa đáng về vấn đề nhân duyên của kiếp trước.

    Thái Sinh: Ha ha, pháp Phật quả là vô biên, vô cùng thần diệu... (Lúc này Thái Sinh có chút hoài nghi). Nhưng thưa ân sư con vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng, vì trạng thái mất kí ức đó, biết đâu chẳng có lúc dẫn đến tình trạng tinh thần lệch lạc, thiếu quân bình?

    Tế Phật: Con đã từng thấy người say rượu chưa?

    Thái Sinh: Thưa có.

    Tế Phật: Kẻ uống rượu say nói năng lúc đúng lúc trật, bô lô ba la, mơ mơ hồ hồ tới khi tỉnh lại liệu có nhớ nổi rằng mình phát biểu những gì không?

    Thái Sinh: Thưa, nhưng trò ngu rất ít gần rượu nên không rõ sau khi say mèm, trạng thái ý thức lúc đó ra sao, điểm này hoàn toàn còn ở ngoài kinh nghiệm thực hành. A, thưa vừa rồi tại sao ân sư lại kêu vị thanh niên đó là trò ngoan?

    Tế Phật: Vì thanh niên đó đã tôn thầy là sư, vả lại cũng thường xuyên đóng góp bài vở cho tạp chí Thánh Hiền, nên đương nhiên là một vị thần có công lớn của Thánh Hiền Đường. Còn nhận xét về người học trò hiền này, thì thấy đạo căn phi phàm trí tuệ mới mẻ sáng suốt có thể viết những bài luận thuyết bàn về đạo để cứu nhân độ thế. Nếu như giữ bền được chí lớn, tương lai ắt sẽ trở về được cõi trời vô cực, vĩnh viễn là trò ngoan của ta. Do đó, bữa nay nhờ cơ hội này, con hãy thử thời vận coi.

    Thái Sinh: Thưa hay lắm, phải đánh bạc một phen.

    Tế Phật: Trò ngoan rành đánh bạc lắm sao mà nói nghe ngon quá vậy?

    Thái Sinh: Thưa, con vừa nói quá lời, con chỉ biết chơi cờ và xổ số sơ sơ, còn bài bạc thú thiệt con chưa dám dính vô.

    Tế Phật: Như vậy hay lắm, tính bài tính bạc chẳng bằng tính xâu chuỗi bồ đề, bởi chỉ có niệm A Di Đà Phật mới an dưỡng nổi tính tình mà thôi (Thái Sinh cúi đầu thọ giáo với vẻ mặt trầm lặng vì sợ rằng nói lắm gặp nhiều thất thố). Hay quá, đêm nay lần đầu con được cùng bạn đạo bàn luận, cảm tưởng của con ra sao?

    Thái Sinh: Con rất đỗi vui mừng, giây phút này thời gian đối với con quả là vàng ngọc.

    Tế Phật: Bữa nay tạm ngưng tại đây, Thái Sinh chuẩn bị lên đài sen để thầy trò mình trở lại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, mời thầy lên đường.

    Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI BA

    BÀN TRIẾT HỌC NHÂN SINH, LUẬN CÔNG NĂNG TẠP CHÍ

    HỎI CƯ SĨ TẠI GIA, MỞ NGUỒN CỘI ĐẤT TRỜI

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 26 tháng 8 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Du Kí thiên thiên khải thế mê
    Ý nghĩa siêu phàm vạn đạo cử
    Tam Tào chấn động giai chú mục
    Nhất bản khôi hoành sướng mạt kì.

    Dịch

    Đời mê Du Kí giải bao thiên
    Muôn đạo thâm sâu thử luận bàn
    Chấn động Tam Tào đều chú ý
    Giữa thời mạt phát sách xây nền.

    Tế Phật: Đêm nay trước tác hồi thứ ba của sách Nhân Gian Du Kí, ý nghĩa bộ sách trời cuối cùng này quả là lớn lao, mong chư đệ tử giữ vững tinh thần để sớm hoàn thành tác phẩm.

    Thái Sinh: Thưa ân sư, việc trước tác sách Nhân Gian Du Kí này, ý nghĩa tuy thâm sâu, song liệu có tránh khỏi bị đời cho là đề cao sự mê tín không?

    Tế Phật: Mê hay không mê do con, tin hay không tin do thầy; tu hay chẳng tu do con, ngộ hay chẳng ngộ do thầy. Chân lí đại đạo mở ra trùm hết bốn hướng đông tây nam bắc và hai phương trên dưới đất trời, thâu lại thì ẩn tàng nơi sâu kín. (Phóng chi tắc di lục hợp, quyển chi tắc thối tàng ư mật). Người đời hiện nay vì quan điểm khác nhau nên lí đạo khó phổ cập, con cũng thấy chính phủ luôn luôn tôn trọng đạo lí, nên một mực muốn khai triển đại đạo, để mong tạo được môi trường sống thuận lợi cho đại chúng, vậy mà vẫn còn bị một số người không nhận thức được sự ơn ích đó, đã ngang nhiên đứng ra phản đối, không chịu tuân hành điều nhân nghĩa đến nỗi phải đọa địa ngục mà ta không có cách gì ngăn cản nổi. Thế mới biết thiện và ác, thần và quỷ là hai điều thuận nghịch của xã hội mãi mãi còn chống đối nhau để cùng tồn tại. Ý nghĩa trọng đại của sách này là nằm ở chỗ chẳng kể kẻ tu đạo, kẻ trần tục đều có thể truy tầm phỏng vấn, từ “hạ thừa” qua “trung thừa” cho chí “thượng thừa” đều độ khắp cả. Kẻ “hạ thừa” được cải tà quy chính “buông dao đồ tể lập tức thành Phật” giải nghiệp về sống nơi đất sạch. Kẻ “trung thừa” giữ giềng mối nhân luân đạo đức, chứng quả thành đạo. Kẻ “đại thừa” tu Vô Vi Đại Pháp, học lẽ đạo siêu việt, đạt cảnh giới vô sinh vô diệt, tự tại tự như, do đó phổ biến tam thừa để mưu lợi ích cho chúng sinh, há lại bị lọt vào lồng giam mê tín hay sao?

    Thái Sinh: Thưa soạn sách này có uổng phí văn chương chữ nghĩa không?

    Tế Phật: Sách này lời lẽ phải thận trọng để cứu chữa xã hội đang lâm vào tình trạng bệnh hoạn và băng hoại, phải hoàn toàn dựa vào chân lí thực tiễn để hướng dẫn các căn cơ phát triển đại đạo vô hình.

    Thái Sinh: Thưa, làm cách nào để có thể noi theo được ý kiến của ân sư mà hóa độ nhân tâm, phải có thái độ như thế nào để người đời dễ dàng chấp nhận?

    Tế Phật: Trò ngoan hỏi rất đúng, muốn hóa độ nhân tâm thì phải để nhân tâm tự hóa mới dễ nhất, phải áp dụng lí đạo một cách uyển chuyển mới dễ dàng khiến mọi người chấp nhận. Ví dụ như vợ chồng không hòa thuận, thì một trong hai người hoặc chồng hoặc vợ phải dùng lới lẽ ôn tồn để khuyên nhủ, để đôi bên đều thỏa thuận tuân theo một số nguyên tắc chung nào đó, rồi dần dần hồi tâm chuyển ý, hai lòng cùng hòa thuận, sau cùng đi tới đời sống chung vui. Còn nếu như vợ chồng mà luôn luôn gây gổ cách nóng nảy làm thương tổn tới sự tự ái của nhau như nước với lửa, chẳng thể dung hòa thì vợ chồng dễ lìa bỏ nhau. Do đó, việc hoằng dương đại đạo cũng giống hệt như vậy, phương thức áp dụng nếu như cứ chấp nê một cách cứng ngắc, thì chắc chắn sẽ phản bội tôn chỉ của đạo lớn, khiến các hành giả truyền pháp truyền đạo càng thêm khốn quẩn mà thôi.

    Thái Sinh: Theo như lời ân sư chỉ dạy nội dung sách này sẽ vô cùng phi thường, sự hi sinh gian khổ để thực hiện của toàn thể bạn đạo chắc chắn sẽ không uổng phí.

    Tế Phật: Chư đệ tử của Thánh Hiền Đường ít năm gần đây dốc tâm vì đạo, gian nan cùng nhau gánh vác, kiên trì dũng tiến do đó mà đại mệnh biên soạn và ấn hành sách Du Kí này quý Hiền Đường mới có hân hạnh được lãnh trách nhiệm.

    Thái Sinh: Việc phát huy đạo lí của các đệ tử Thánh Hiền Đường phải hành động cách sao mới tránh khỏi lạc vào đường tu mê muội?

    Tế Phật: Phải ôm ấp đức từ bi, thương người như thương mình mới tránh khỏi mê lầm, còn nếu như phạm vào tội tham danh, giành công đức, vọng động cầu nổi tiếng đều là si mê.

    Thái Sinh: Hiện giờ kinh sách dạy điều thiện quá nhiều, chúng sinh phải lựa cuốn nào để làm kinh sách luyện đạo gối đầu giường.

    Tế Phật: Kinh điển hiện thời đều phải dùng tâm chứng nghiệm, không thể dùng lí trí phân biệt nổi.

    Thái Sinh: Thưa ân sư dùng hình thức giáng cơ bút và dùng tạp chí Thánh Hiền Đường để phổ biến phương cách trên có hợp lí không?

    Tế Phật: Tạp chí Thánh Hiền Đường có sức mạnh vượt khỏi giới hạn của thời gian và không gian, quán thông bốn phương tám hướng đạo lớn, khiến những ai có căn duyên đều thấu hiểu được đạo mầu, khai mở trí tuệ mới mẻ. Chỉ tiếc nhân loại khắp nơi trên thế giới hiện đang đắm chìm, luôn luôn bị nhiễm duyên vật dục từ bên ngoài, bởi vậy Tiên Phật lần lượt giáng cơ bút thuyết pháp, dùng hình thức sắc tướng của văn tự tảo trừ bụi bặm phàm trần phủ che để khai sáng trí tuệ. Chúng sinh hiện đang ngồi trên thuyền từ của thời pháp mạt, muốn vượt sông mê qua bờ giác về tới quê nhà tất phải tích trữ lương thực tâm linh để đạt tới cảnh giới đại trí tuệ.

    Thái Sinh: Lời dạy của ân sư rất đúng với thời mạt pháp, rất hợp với thiền duyên, chắc chắn chúng sinh sẽ nghe pháp để trừ sạch tối tăm trở về thanh tịnh.

    Tế Phật: Thầy trò mình ngưng cuộc đàm đạo tại đây, vì đêm nay thầy đã sắp xếp một vị cư sĩ dày công nghiên cứu về tôn giáo triết học cùng con luận bàn về triết lí của đạo lớn, hầu khai sáng cho chúng sinh mê lầm, để cho con có dịp phát biểu về tôn giáo lí luận.

    Thái Sinh: Cao nhân trong thiên hạ rất đông, chỉ vì hầu hết bí mật luyện tập, ẩn náo tu hành, không chịu lộ diện, đã có cơ hội này, bắt buộc đêm nay con phải chuẩn bị một số vấn đề để thảo luận.

    Tế Phật: Hay lắm, chuẩn bị khởi hành, mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành...

    Thái Sinh: Thưa ân sư đây là chốn nào mà cảnh trí lại thanh nhã u tịch thế này, sườn núi nước tuôn róc rách, hoa thơm cỏ lạ mọc tràn, nơi đây chẳng khác nào đào nguyên tiên cảnh.

    Tế Phật: Phong cảnh con quan sát vừa rồi là hồ... Bữa nay muốn đàm luận cùng chư vị cư sĩ tại gia phải đến cư xá phía trước kia, chúng ta hãy mau đi tới.

    Thái Sinh: Thưa con đã khám phá ra rồi, trên đầu vị cư sĩ ngồi trong căn nhà kia tỏa ngời hào quang, quả đúng là đã dày công tu trì.

    Tế Phật: Trò ngoan hãy nán đợi, thầy tới trước điểm hóa vị hiền sinh này để con có dịp vấn đáp về lí đạo.

    Thái Sinh: Thưa đúng lắm... quả nhiên sau khi ân sư điểm hóa, nguyên linh của vị cư sĩ này liền hiện ra, là là bay tới.

    Cư Sĩ: Phía trước là thiền sư Tế Công cùng với vị thiện sĩ, xin được rõ quý danh?

    Thái Sinh: Thưa kẻ hậu học này là thiên bút Thái Sinh thuộc Thánh Hiền Đường tại Đài Trung, đêm nay tới đây quấy rầy xin cảm phiền chỉ giáo cho.

    Cư Sĩ: A, thì ra là hiền sinh thuộc Thánh Hiền Đường. Chào thân ái.

    Thái Sinh: Được ân sư cho biết là vị đã từng nghiên cứu sâu xa đặc biệt là triết lí tôn giáo, kẻ hậu học này đêm nay có chút nghi vấn, kính xin đại đức phân tích giải đáp để hỗ trợ cho việc trước tác sách Nhân Gian Du Kí.

    Cư Sĩ: Chao ơi, chao ơi! Thật là quá sức của tôi.

    Thái Sinh: Trong kho tàng ngôn ngữ tu đạo thường có các danh từ như “đại tuần thiên” với “tiểu tuần thiên” xin giảng giải nghĩa dùm cho.

    Cư Sĩ: Sự vận chuyển của vũ trụ gọi là “đại tuần hoàn”, mỗi chu kì vận chuyển là một “nguyên” mỗi “nguyên” là mười hai “hội” mỗi “hội” là mười ngàn tám trăm năm. Một “nguyên” là một trăm hai mươi chín ngàn sáu trăm năm. Hội “Tí” khai thiên, hội “Sửu” lập địa, hội “Dần” sinh nhân, luận về bốn mùa thì mùa xuân là lúc cày bừa, mùa hạ là khi gieo giống. Hội “Thân” người mất, hội “Dậu” đất tận, hội “Tuất” trời cùng, mỗi “nguyên” gồm mười hai “hội”, lấy “Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi” vận hành qua gọi là “đại chu thiên” của vũ trụ. Người là “tiểu tuần thiên”, như thân người có mười hai đường kinh mạch, trời có mười hai “nguyên hội”, năm có mười hai tháng, ngày có mười hai giờ. Người có ba trăm sáu mươi lăm đốt xương, năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày. Người có tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, trời có tám vạn bốn ngàn tinh tú. Người có ngũ tạng, lục phủ; trời có ngũ đẩu, lục tinh. Người có hai mắt, trời có nhật nguyệt. Cho nên người với trời đất hợp làm tam tài cùng với vũ trụ nhật nguyệt vận hành qua lại phù hợp, người là một “tiểu chu thiên”, vũ trụ là một “đại chu thiên”.

    Thái Sinh: Những điều Đại Đức vừa chỉ dạy quả phi phàm, đã khai sáng cho tôi rất nhiều, sự kì bí và ảo diệu của vũ trụ thật quả là mênh mông vô cùng tận, nếu không được nghe Đại Đức giải thích thì hẳn là không thể hiểu rõ ngọn ngành, nên dẫu có tin thì cũng sẽ bị chê là mê tín.

    Cư Sĩ: Trong vũ trụ những điều đã khám phá ra thuộc về trí thức còn nếu chưa từng nghiên cứu thì không thể hiểu nổi, cũng giống như Kha-Luân-Bố ở thế gian trước đây, khi chưa thực hiện cuộc du hành bằng đường biển vòng quanh trái đất mà đã tuyên bố trái đất tròn thì sự tin tưởng đó chỉ là điều mê tín. Nếu như không có các phi hành gia thật sự đặt chân lên cung trăng gần đây, mà nói con người có thể lên được cung trăng thì điều nói đó cũng chỉ là điều mê tín. Do đó, việc tìm hiểu đạo lớn ngày nay cũng giống hệt như vậy mà thôi. Việc đi trong không gian trước đây thế nhân đều nhìn mà không thấy, cảm mà chẳng thông, cho nên sự nhòm ngó đó cũng chỉ là mê tín mà thôi. Khác nào ếch ngồi đáy giếng, chẳng thể thấy được bề rộng mênh mông, mà chỉ thấy được chút chiều cao của đất, cho nên sự tiên tri tiên giác đó chỉ là sự tri giác của thiểu số ếch nhái, khi tin tưởng đã biết rõ về đất lớn thì chẳng phải là điều mê tín hay sao? Bởi vậy, nhân loại chúng ta chẳng khác nào lũ kiến hoạt động nhỏ bé trong kẽ hốc. Sự biến đổi nhỏ nhoi về thời tiết khí hậu trong vũ trụ thường gây ra thiên tai cho nhân loại trên mặt địa cầu. Giống như người ta xách thùng nước xối vào hốc kiến, hẳn cũng gây thành nạn thủy tai, thiệt hại trầm trọng.

    Thái Sinh: Còn một vấn đề nữa xin thỉnh ý Đại Đức, nhà Phật nói: “Chân hỏa tam muội thiêu thân” nghĩa là thế nào?

    Cư Sĩ: Đem nguyên lí về “Lực học” của khoa học ngày nay ra giảng thì sức ép của kim nhọn máy hát còn mạnh hơn sức ép của bánh xe lửa quy tụ vào một điểm nhỏ. Còn nếu đem kính hội tụ để gom ánh sáng mặt trời vào một điểm nhỏ thì nó sẽ phát hỏa đốt cháy mảnh giấy đặt phía dưới. Cơ thể người ta cũng có nhiệt năng, nếu như biết vận dụng toàn khối năng lượng trong cơ thể tụ vào một điểm nhỏ thì sức mạnh đó sẽ mạnh hơn cả sức ép của ba chục ngàn viên ngói đè. Nhà Phật nói: “Chân hỏa tam muội thiêu thân” (Lửa tam muội đốt cháy thân) là sức mạnh vô cùng, chỉ vì con người không chịu vận dụng cùng khai quật khả năng này mà thôi. “Tam muội” có nghĩa là “Chính định”, khi “Chính định” sẽ tôi luyện được thân sắc tướng giả hợp hậu thiên, thành chân hỏa của “Thân pháp kim cương”.

    Thái Sinh: Xin cảm tạ Đại Đức đã chỉ giáo cho kẻ hậu học về triết lí tôn giáo rất bổ ích bữa nay. Tin tưởng rằng bài học này sẽ còn ảnh hưởng nhiều trong việc phổ biến đạo giáo.

    Cư Sĩ: Không dám, không dám! Thái Sinh chớ quá khen ngợi.

    Tế Phật: Hay lắm, bữa nay tạm ngưng cuộc đàm luận tại đây, Thái sinh hãy mau mau tạ lễ.

    Thái Sinh: Đa tạ sự khai ngộ bữa nay của Đại Đức, xin bái biệt.

    Cư Sĩ: Cảm tạ sự sắp xếp của Tế Phật đã giúp đệ tử có được cơ hội phục vụ chúng sinh, thật quả là vinh hạnh, xin lạy Tế Phật ba lạy...

    Tế Phật: Hiền sinh chớ quá giữ lễ, hãy gắng tu trì đợi cơ duyên tốt gặp lại nhau. Trước hết tâm tính hãy tĩnh lặng để ta an hồn định phách cho.

    Thái Sinh: Thấy ân sư miệng niệm chú, vị Đại Đức đang tĩnh tọa chợt sinh hoạt lại tự nhiên, pháp lực quả là mạnh mẽ vô cùng, kì diệu vô song. (Thái Sinh phóng tầm mắt nhìn phong cảnh tươi sáng bốn phía no nê).

    Tế Phật: Bữa nay đã tạo được công lớn. Này trò ngoan, chớ lưu luyến phong cảnh đẹp nơi đây, phong cảnh cõi trời còn đẹp hơn nơi này nhiều lắm. Hãy chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường, mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, mời ân sư khởi hành.

    Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI BỐN

    LUẬN VIẾT SÁCH LUẬN CÔNG ĐỨC

    Ý TRỜI KHÉO BÀY CÙNG XÉT KĨ

    LUẬN TAM THỦY LUẬN BỒ ĐỀ,

    DUYÊN THIỀN LỜI GIẢ VÀ NGHĨA THẬT

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 6 tháng 9 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Hồ diện thanh thanh nguyệt chiếu luân
    Vi phong phất diện tâm thanh minh
    Thánh Đường tu sĩ như tích nhật
    Tốc hạ côn doanh Thánh Đường lâm.

    Dịch

    Hồ trong in bóng mảnh trăng đầy
    Tâm sáng gió đùa mát mặt thay
    Đệ tử Hiền Đường như bữa nọ
    Mau rời chốn cũ tới nơi đây.

    Tế Phật: Việc soạn sách vô cùng bận rộn, quay tới quay lui, hết nhìn qua đông lại ngó qua tây, gót giầy ta đã in khắp cõi thiên đàng, địa ngục, chẳng vì mình, chẳng vì lợi, chỉ vì chúng sinh còn quá si mê, ngang ngược, muốn bỏ mà không nỡ, nên tâm chẳng được nghỉ ngơi, vì các đệ tử ý chí kiên trì nên ta lại phải dạo cõi nhân gian.

    Thái Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư nửa hư nửa thật, tưởng là bỡn cợt nên không hiểu, song ngẫm nghĩ kĩ sẽ thấy vô cùng chính xác.

    Tế Phật: Vừa mới chớp mắt tại núi tiên được một chút liền bị tiếng chuông của Thánh Hiền Đường lay tỉnh, mấy năm gần đây chưa từng bị vậy lần nào, mặc sức đi về ba cõi, thênh thang dạo khắp thiên đàng, địa ngục, trần gian. Giờ nghĩ tới việc thực hiện cuốn sách trời thấu suốt ba cõi, ta thấy trách nhiệm quá nặng nề, song với sự đảm đương của Thánh Hiền Đường, chắc chắn cuối cùng cũng sẽ thành công, bởi vậy riêng ta cho dù phải chịu gian lao khổ cực cách mấy đi nữa, thì ta cũng rất hài lòng.

    Thái Sinh: Ân sư dạy chỉ có Thánh Hiền Đường mới đảm đương nổi việc thực hiện cuốn sách trời thấu suốt ba cõi đất trời người, như vậy thì tại cõi trời cũng không có cách nào hơn nổi Thánh Hiền Đường sao? Thầy và con có phải chỉ là tượng gỗ là công cụ để cho Tiên Phật lợi dụng không? Nếu như người dạo thiên đàng, địa ngục, trần gian mà không thông suốt lẽ đất trời, công đứng hàng đầu thì làm cách nào biên soạn nổi sách. Theo lời dạy của thầy thì trò ngu này há chẳng bị đàn cơ khắp nơi khinh thường, các tay cầm bút giáng cơ khác coi là giả dối sao?

    Tế Phật: Trò ngoan, con quả chẳng rõ lẽ “Đạo trời không thân, chỉ có đức giúp. Họa phước không có cửa, do người tự chuốc” (Thiên đạo vô thân, duy nhân thị phủ. Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu). Thánh Hiền Đường được thành lập cách đây hai mươi bốn năm và ngay từ ngày đó, đã lấy hai chữ Thánh Hiền làm động cơ lập chí, nên đã ngụ ý rất sâu xa, bao gồm tam giáo, ngũ giáo, thậm chí tới cả chân lí vạn giáo cũng nằm trong tôn chỉ giáo hóa của Thánh Hiền, nên cuối cùng sẽ thành được tư cách thượng phẩm quy y của Thánh Hiền. Danh hiệu đã như vậy, thực tế lại còn nhất tâm phát nguyện thay trời giáo hóa, dù bị ma quỷ phá phách, bị người chê bai song vẫn không hề nản lòng, vì càng gặp khó khăn càng phấn khích để gắng vượt qua. Còn việc thành lập ban quản trị tạp chí Thánh Hiền thì từ khi Hồng Sinh đảm nhiệm chức giám đốc tới nay, tinh thần phục vụ gia tăng khá cao. Hai vị lãnh đạo là chủ tịch Thánh Hiền Đường và giám đốc tạp chí Thánh Hiền này đều giữ gìn tiết tháo, vun bồi đức hạnh. Trưởng ban tài chính lại không hề nhũng lạm công quỹ một đồng, cả ba đều chí công vô tư, nhờ đó mới giúp nổi Thánh Hiền Đường phát huy đạo giáo cùng phổ biến tạp chí lớn rộng. Thấy thành quả ấy Trời cùng chư Tiên Thánh Phật đều cảm động chân thành, đây là nhân duyên đạo nghiệp lớn nhất, nền móng của ngôi Thánh Hiền Đường đã được xây bằng đá tảng vững vàng. Ấy là chưa kể tới ủy viên xã hội vụ chuyên lo việc kiện toàn cơ sở, là thành viên nhiệt tình phụng sự, nhờ vậy mà chư đệ tử vượt được mọi trở ngại gió dập mưa vùi, đưa đàn cơ tới thành công, được như thế là nhờ nơi nhân tố thứ hai tức xã hội vụ đã phát triển mạnh mẽ. Song thực tế mà luận về công đức thì quan trọng nhất là do sự hoan hỉ phát nguyện của chúng sinh, Thánh Hiền Đường cổ vũ cả tinh thần đức tin lẫn vật chất cúng dường. Sỡ dĩ gặt hái được kết quả, gánh nổi trách nhiệm soạn sách trời thấu suốt ba cõi Thiên Địa Nhân, ấy là nhờ toàn thể các tín hữu dưới gầm trời hoan hỉ phát tâm chia xẻ trách nhiệm. Trời cao vô tư, đo lường cực kì công bằng nên sự thưởng phạt hết sức phân minh như con đã rõ. Sứ mệnh và sự thành tựu của người ngồi đàn cơ, nếu như thật lòng vì đạo, không mưu đồ tư lợi, việc thành không thay lòng đổi dạ, không phụ ý trời cùng sự phù hộ của Tiên Phật công lao sẽ còn mãi mãi. Còn trò ngoan của thầy có hi sinh nổi một chút không? Đương nhiên không những nổi mà còn phát cả đại nguyện nữa là đàng khác mà vẫn không hề lấy đó làm vinh để rồi hãnh diện kiêu căng. Thiên hạ chắc chắn không thiếu gì kẻ chấp công chấp đức, há lại chẳng rõ “Kẻ đức cao tự coi như không có đức, kẻ đức hạ coi chút đức là to, kẻ đó chấp mê không sáng lẽ đạo” (Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức, chấp trước chi giả, bất minh đạo đức). Kẻ chấp công chấp đức, ngược ngạo mạt sát công đức của người khác, tâm địa này quả là bất chính, chắc chắn cuối cùng sẽ tự nhiên gặp luật trời trừng trị. Đàn cơ có ứng hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào sức dốc tâm của bản đường cùng trời cao lưu ý phò trợ. Khi được trao phó cho sứ mệnh phát huy đạo lớn, đương nhiên được quyền tùy nghi quảng bá đạo pháp. Không chỉ một người nào đó cứ lên ngôi đàn cơ mãi, mà được phép tùy tiện, nay lựa người này mai chọn người khác lên thay để tiếp linh điển thần thông của Tiên Phật Thánh Thần hầu dạo ba cõi viết sách. Tiên Phật rời bỏ thần thông ắt thành người phàm, nên kẻ ngồi đàn cơ chỉ có tác dụng siêu phàm trong giây phút, hoàn toàn nhờ đàn cơ mà linh ứng. Đáng tiếc một số ít đệ tử nhờ tiếp điển viết được sách song lại tự kiêu tự mãn, cho là hoàn toàn do tài năng công lao của mình mà quên rằng nhờ Thần Thánh Tiên Phật độ trì. Sách hoàn thành nổi là do ý trời sắp đặt, cùng đức từ bi của Tiên Phật, do sự khổ cực của toàn thể bạn đạo, cùng sự phát tâm đóng góp của các tín hữu thập phương mới có thể in thành sách để lưu truyền và giáo hóa.

    Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư thật là cặn kẽ đúng đắn, trò ngu há lại không biết giữ ý tứ sao? Huống nữa thanh tự nhiên thanh, trược tự nhiên trược, lúc bình thường không làm điều quấy thì nửa đêm có nghe tiếng gõ cửa cũng chẳng hề sợ hãi.

    Tế Phật: Có được trò ngoan như vậy, lòng ta an ủi lắm thay! Mong con trước sau bền chí, trời xanh sẽ chẳng phụ lòng.

    Thái Sinh: Cảm ơn thầy đã khuyến khích con. Thân thầy cực khổ muôn phần, đôi dép rơm của thầy rách nát tả tơi vì phải lưu dấu khắp bốn phương trời.

    Tế Phật: Dép rách có gì quan trọng, chỉ cần tâm không rách, chủ tể không tán, hình tượng há có thể đại biểu nổi Tiên Phật.

    Thái Sinh: Lời dạy của ân sư quả đúng, dấu chân Phật Sống in khắp chốn, cứu đời, độ người, độ vật, hình bóng Phật hiện diện khắp nơi để mọi người thắp hương lễ lạy.

    Tế Phật: Ha ha, không ngờ trò ngoan lại có thể nói ra những lời kì diệu. Hi vọng chúng sinh trên đời đều có thể trở thành Phật tự tại, chớ thành Phật tượng gỗ.

    Thái Sinh: Thưa con đã học của ân sư pháp tu trực chỉ Phật tâm, không theo tôn giáo hình thức, đôi dép rách này cũng không quản lê gót khắp đông tây châm chọc pha trò thiên hạ để gieo rắc thiền duyên khắp chốn, chẳng phải là người thất trí khật khùng mà là vị Phật Sống đương thời tâm lành vô tư lự.

    Tế Phật: Trò ngoan, lời nói của con quả dễ nghe, không ngờ con lại thích bộ áo đạo sĩ rách rưới này.

    Thái Sinh: Trái lại trò ngu rất kính phục cái vẻ áo rách mà tâm Phật lành của ân sư.

    Tế Phật: Vì con yêu bộ áo đạo rách rưới nên thầy cũng muốn tặng nó cho con.

    Thái Sinh: Hay quá, trò ngu sẽ giữ nó để làm vật lưu niệm.

    Tế Phật: Tại sao con không dám mặc?

    Thái Sinh: A... (Rồi chỉ cười mà không đáp).

    Tế Phật: Chắc trò ngoan sợ mặc nó không đẹp mắt chăng?

    Thái Sinh: Thưa thầy, con sinh ra vốn đã xấu xí nếu như lại bận đồ rách rưới nữa thì coi chẳng khác nào kẻ đầu đường xó chợ gian manh!

    Tế Phật: Tại sao thầy ăn bận rách rưới mà không trông giống như kẻ con mô tả?

    Thái Sinh: Thưa, không phải vậy, không phải vậy. Hào quang của thầy tỏa ngời, nên bộ áo cà sa rách rưới này không che nổi tâm Phật chân chính của thầy, do đó chúng sinh đương nhiên sùng kính vẻ tiên phong đạo cốt của ân sư.

    Tế Phật: Con ca ngợi thầy như vậy, khiến thầy cũng cảm thấy hoang mang vọng động.

    Thái Sinh: Thưa, hoang mang thì hoang mang, song thử hỏi đã mấy ai kiên tâm trì chí được bằng ân sư? (Hai thầy trò cùng ha hả cười vang). Việc trước tác cuốn Nhân Gian Du Kí này là công tác trang nghiêm của thần thánh, đôi lúc lại buông lời bỡn cợt, liệu có bị người đời cho là cả hai thầy trò cùng thiếu tư cách không?

    Tế Phật: Bỡn cợt mà không ngược ngạo, mỉa mai mà không quở trách, chính hợp với thiền duyên còn con bản tính hồn nhiên như trẻ thơ, trò chuyện rất hợp với tính thầy, chúng sinh yêu quý hẳn là yêu quý cái vẻ phóng túng an nhiên tự tại của thầy. Nếu như trước tác Du Kí bằng cách quá trang nghiêm ắt hẳn sẽ cứng ngắc, văn chương trở thành khó đọc khiến dễ nản, nên cần phải phóng túng, linh hoạt và tự nhiên mới dễ dàng lôi cuốn đọc giả.

    Thái Sinh: Tuy vậy, tự hậu con cũng phải bớt cùng thầy bỡn cợt để tránh cho người đời hiểu lầm là con thất lễ với thầy, bởi tội này quá nặng.

    Tế Phật: Đó là tính quá thận trọng của con, thôi cũng được, thời giờ đã trễ, con hãy chuẩn bị lên đài sen gấp, để cuộc hành trình bữa nay của con khỏi trễ.

    Thái Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời thầy lên đường.

    Tế Phật: Đã tới nơi, con hãy mở mắt ra, căn nhà phía trước là của một gia đình Tiên Thánh, bữa nay mình cần phỏng vấn họ.

    Thái Sinh: A! Vậy thì chắc chắn con sẽ gặp bậc thầy hay.

    Tế Phật: Đúng đấy, nhận điều hay của người để bù đắp chỗ dở của mìmh (Thủ bỉ chi trường, bổ kỉ chi đoản). Đó là đạo vậy.

    Thái Sinh: Gia đình này khí lành chan chứa, đó là hòa khí tốt đẹp. Trong nhà, bên trên thờ ba tượng Phật, bên dưới một vị trung niên đang ngồi đọc kinh đầu sáng chói hào quang (Lúc này vì còn ở xa nên Tế Phật vội phóng đài sen bay tới gần). Ủa, cuốn kinh vị đó niệm có lẽ là cuốn “Ngọc Hoàng Phổ Độ Chúng Sinh” do bản đường trước tác, vì vừa rồi tiếng tụng niệm quá nhỏ nên con không nghe rõ.

    Tế Phật: Vì khu này là nhà ở chứ không phải chùa miếu, vì vậy đọc lớn sẽ làm phiền hàng xóm trong lúc nghỉ ngơi.

    Thái Sinh: Láng giềng cũng có thể nghe kinh, có gì mà không tốt đâu?

    Tế Phật: Nếu như hàng xóm của con mà vặn nhạc lớn con nghĩ sao?

    Thái Sinh: Thưa, ân sư nói rất có lí: “Đạo không cùng, chớ kết bạn; chí không chung, chớ cùng mưu” (Đạo bất đồng bất tương vi lũ; chí bất đồng bất tương vi mưu). Tụng niệm kinh, tâm và khẩu cùng tụng, tâm và Phật cùng niệm, tụng kinh tại gia không cần tụng lớn tiếng.

    Thái Sinh: Thưa thầy, vị Đại Đức còn đang bận tụng kinh thì con làm sao có thể cùng vị đó luận đạo bữa nay?

    Tế Phật: Vẫn có thể, hãy đợi vị đó tụng kinh xong thầy sẽ sắp xếp.

    Thái Sinh: Thưa vâng, song con hi vọng sẽ không phải đợi lâu, để khỏi phạm tới thời giờ soạn sách.

    Tế Phật: Sẽ không phạm tới đâu, vì vị đó tụng kinh không bị lệ thuộc vào tiếng chuông, tiếng mõ cùng vần điệu của kinh, mà chỉ trầm tư tâm niệm, do đó thời gian không còn thấy dài.

    Thái Sinh: Trên đầu vị đó con thấy có một vòng hào quang hẳn là tu không sai đường.

    Tế Phật: Vị đó là đọc giả của Thánh Hiền Đường, thường âm thầm giúp đỡ in kinh sách cùng cứu tế xã hội, lại luôn luôn chăm lo công đức, không để cho tâm bị danh lợi buộc ràng, do đó đã hân hạnh thâu nhận được hào quang của Phật chiếu rọi, nếu như tiếp tục tu hành, tương lai có thể đạt tới quả vị vô cực.

    Thái Sinh: Thưa ân sư, vị đó đã đứng dậy.

    Tế Phật: Để thầy tới điểm hóa cho vị đó. (Sau khi Tế Phật điểm hóa xong, vị đó trở thành ngồi trên chiếc cầu nổi đặt ở góc nhà, giống như đang ngủ, vì nguyên linh đã xuất ra ngoài bản thể, bay bổng nhẹ nhàng, Thái Sinh thấy vậy mắt trợn tròn xoe, miệng há hốc ngạc nhiên, không ngớt ca ngợi Phật pháp).

    Thái Sinh: Thưa Đại Đức mạnh giỏi.

    Duyên Sinh: Dạ, cám ơn, vị tới đây có việc chi?

    Thái Sinh: Tôi là đệ tử đàn cơ Thánh Hiền Đường, tới đây thụ giáo.

    Duyên Sinh: A, thì ra vị là hồn cơ bút của Thánh Hiền Đường... Kì lạ thay! Vừa rồi tôi còn đọc kinh, cớ sao đã tới đây gặp nhau?

    Thái Sinh: Vì sau khi Đại Đức tụng xong, liền được ân sư Tế Phật điểm hóa tới đây.

    Duyên Sinh: A, thì ra là như vậy. (Đại Đức liền khoanh tay làm lễ ra mắt Tế Phật).

    Thái Sinh: Đại Đức học đạo đúng đắn, trên kệ mới thấy chất đống kinh sách, đêm nay kẻ hậu học này có một vấn đề xin đại đức giảng giải cặn kẽ cho.

    Duyên Sinh: Xin chớ khách sáo, mình cùng nhau học hỏi, tận tình chỉ bảo lẫn nhau.

    Thái Sinh: Ngày nay muôn giáo đều chấn hưng, ngàn cửa đều mở, các giáo lí hỗn hợp lẫn nhau, có giáo phái lại chủ trương tổng hợp các giáo lí, nhưng có khi gây ra sự mâu thuẫn nội tại bởi thế không thể hòa hợp một cách cẩu thả được, theo ý Đại Đức thì nên thi hành như thế nào để không gặp sự trở ngại, khó khăn?

    Duyên Sinh: Thái Sinh đặt vấn đề rất hay, sắc vốn là không, sắc đến từ đâu, trước khi tâm cảnh trừ được sắc tướng, sắc lại hoàn sắc, không lại hoàn không, tỉ dụ như ba loại nước: một là “nước thánh tiên thiên”, hai là “nước trong tính trời”, ba là “nước đục hậu thiên”. “Nước thánh tiên thiên” là gốc tâm Tiên Phật đã không bị ô nhiễm, lại còn có thể làm trong lành nước đục nước nhơ từ bên ngoài xâm nhập. “Nước trong tính trời” là gốc tâm tu đạo, do đó luôn luôn hấp thụ được hào quang của Phật chiếu rọi, cùng chân lí để tẩy rửa thân tâm, bản tính của nước vốn trong, xong vì trôi chảy nên bị nhiễm đục. “Nước đục hậu thiên” là tâm hậu thiên phàm tục, bản tính vốn thanh tịnh, song vì bị nhiễm mãi sự ô uế của cõi trần thành tâm tham dục, vọng niệm ngầu đục. Sự phổ hóa của Thánh Hiền Đường từ trước tới giờ chỉ đạt tới nước trong không nhiễm, chưa đạt tới nước thánh. Do đó, trong số chư đệ tử cùng đọc giả chỉ mới tu tới giai đoạn nước trong, chưa thể xung phá lên cảnh giới thuộc tầng trên, vì nước trong tuy sạch nhưng lại dễ bị nhiễm trược, phải trừ hết ô uế rồi chế luyện thành “nước Thánh”, giai đoạn này cực kì khó khăn, đôi khi có kẻ uống nước lại khác, khiến nước trong trở thành nước đục, nước đục này chính là tâm đục, niệm đục chẳng phải tâm niệm an tịnh nên mới khốn quẩn, tự đem tâm trói buộc, đó là tất cả nguyên nhân.

    Thái Sinh: Nếu vậy thì biết giảng sao đây?

    Duyên Sinh: Bởi vì lúc đó có một chén nước đục thứ hai đổ vào, và nước lại không có tác dụng làm cho trong, đó không phải là tự tìm sự khốn quẩn sao? Nguyên nhân là tại đó.

    Thái Sinh: A, tôi đã lãnh hội được ý nghĩa huyền cơ đạo lớn của Đại Đức vừa giảng giải, một số đệ tử của Thánh Hiền Đường chưa phá nổi chướng ngại được ví với chén nước trong thứ nhất, khi bị đem đổ chung với chén nước thứ hai khác thì vô cùng khốn quẩn.

    Duyên Sinh: Đúng vậy, đó là tâm cảnh của chính mình, gốc tâm chưa đạt tới bản tính Phật, do đó phản tác dụng lẫn nhau rồi sinh ra phiền não cùng vô minh. Bởi vậy mà nước Thánh giống tính Phật, tính Phật lớn, tâm Phật vô lượng giống tựa hư không vô cùng vô tận, không lớn không nhỏ, không oán không giận, không ác không thiện, không riêng không rẽ, xuyên phá hư không, bao dung tất cả. Nay Thánh Hiền Đường gặp pháp nạn thì chính là ấn chứng, trước đây tạp chí Thánh Hiền không ngừng gặp sóng gió, nguy như trứng xếp cao, đó là nước trong bị nhiễm đục, xảy ra đúng như lời tôi đã nói năm qua, đó cũng chính là lúc khảo nghiệm chân thể tính kim cang của đệ tử Thánh Hiền Đường. Cho nên kẻ tâm mình trong sáng như mặt trời giữa trưa thì luôn luôn quang minh, còn nếu như tự làm đen tối tâm mình giống như mây đen trùm phủ, không thể thanh tịnh. Nếu nhìn ngược vô trong, thấy toàn bóng tối mới hay là sự vô minh do mình tạo ra, còn tâm này mà tự biết trừ sạch bóng tối của mây đen thì tôi cho là tạp chí Thánh Hiền Đường đã đi vào cảnh giới “nước Thánh”, đó là tất cả nguyên do, vậy hiểu rõ được lẽ này ắt là an nhiên bất động, chính là bản tính “vô thượng bồ đề”. Kẻ không sáng được lẽ này, tâm đạo bàng hoàng, niềm tin dao động, tâm trở thành riêng tư, cố chấp uổng phí cả bao năm khổ cực tu dưỡng, giống như ngàn ngày lượm củi một ngày đốt sạch, lửa thiêu cháy rụi rừng công đức, muôn công ngàn đức chỉ một đêm cháy thành tro, đó là tất cả nguyên nhân.

    Thái Sinh: Những điều Đại Đức vừa trình bày là sự tiên tri thấu suốt tương lai, tâm pháp quả là cao minh, đã đạt mức Vô Thượng Bồ Đề, “không” là tâm Phật, tròn vo chẳng còn góc cạnh, chẳng trước chẳng sau, không thiên vị không cố chấp, luôn luôn trong sáng, đó là người phát huy đạo lớn, nếu như tâm còn phân biệt, chưa diệt được tận gốc sự chấp trước cái riêng, cái ta liền bị rớt ngay xuống cõi “hữu” lăn lóc hoài trong ba nấc thang “tam thừa” là thượng thừa, trung thừa và hạ thừa, không thể chí công vô tư để thực hành nổi đạo chân thường, nguyên lí là ở đó.

    Duyên Sinh: Những lời tôi vừa trình bày chỉ là bàn dông tán dài mà thôi, chẳng hề cho mình là đạo cao đức trọng, bởi tất cả đều tùy thuộc nơi sự vận hành tự nhiên của lẽ trời.

    Thái Sinh: Lời dạy của Đại Đức giống như lời dạy của chính đức Phật đã khắc sâu tận đáy tim tôi, phá sạch mọi chấp mê, quả là bậc sĩ hoằng dương đạo pháp, nếu như tận dụng tâm này thật là ơn phước lớn lao cho cả đạo lẫn chúng sinh.

    Duyên Sinh: Đúng vậy, hi vọng chư đệ tử Thánh Hiền Đường tiếp nối được tinh thần truyền thống, lên được thuyền từ, sợ gì gió dập sóng vùi, thân đứng ngay thẳng vững chắc, há còn e ngại kẻ xấu miệng chê bai chửi rủa... (Tế Phật chợt vội vàng đưa hồn phách vị Đại Đức nhập thể xác).

    Thái Sinh: Thưa, tại sao ân sư lại hoảng hốt vội an thần định phách cho Đại Đức vậy?

    Tế Phật: Con chẳng thấy người con trai lớn của Đại Đức đứng bên cạnh kêu: “Cha, cha ơi” sao?

    Thái Sinh: A, thì ra là như vậy, con không thể tưởng tượng có cảnh đó nổi, vả lại Đại Đức và con quá mải mê bàn luận về lẽ đạo một cách vô cùng hứng khởi.

    Tế Phật: Vừa rồi nếu như không cấp tốc an thần định phách ắt là hồn đã thăng luôn.

    Thái Sinh: Vừa quên nghĩ tới việc trước tác Nhân Gian Du Kí thì tự nhiên lại được nhắc nhở ngay, ha ha, quả thật là thú vị.

    Tế Phật: Đúng vậy, thôi chúng ta trở lại Thánh Hiền Đường, con hãy lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.

    Thái Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI NĂM

    CHÂN ĐẠO ĐỨC, TRỜI KHẢO NGƯỜI XÉT PHẨM ĐỨC

    THỰC TU HÀNH, CHĂM LO GIỮ GÌN HẠNH KIỂM

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 3 tháng 10 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Nghịch cảnh điên phái khảo đảo tâm
    Thuận lưu phiệt châu dịch trầm luân
    Liên hoa xuất nê nhưng bất nhiễm
    Kính tiết tôn quý vạn niên tồn.

    Dịch

    Nghịch cảnh gian nan xét đạo tâm
    Thuận buồm thuyền giác vượt trầm luân
    Bùn nhơ sen mọc không ô uế
    Tiết hạnh tôn thờ cả vạn năm.

    Tế Phật: Hoa sen mọc giữa chốn bùn nhơ mà không bị ô uế, do đó mới biểu lộ nổi sự tôn quý của nó. Chiến sĩ gặp lúc nước nhà nguy biến, giữ vẹn được tiết tháo mới biểu lộ nổi tấm lòng son sắt. Đầy tớ trung thành, chủ gặp nguy khốn lòng không đổi mới chứng tỏ nổi tấc dạ trung trinh. Một thiếu nữ khuê các, lấy được người chồng thuộc gia đình nề nếp, hạnh phúc ấm êm, anh em chị em hòa thuận trên kính dưới nhường, con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Với hoàn cảnh gia đạo tốt đẹp sẵn có như vậy, người con dâu này dễ dàng đạt được đạo hiếu. Trái lại, một người con gái khác phải về làm dâu một gia đình mà cha mẹ chồng khắc nghiệt, anh chị em bất hòa, thù ghét lẫn nhau mà nàng vẫn một dạ thờ kính cha mẹ, kính nể anh chị, hi sinh cho các em thì đức hiếu thảo của nàng tuy khó đạt song giá trị vẫn là cao hơn gấp bội. Tiếc thay các kiểu làm vợ đời nay phần đông không chịu đựng nổi sự thiệt thòi phiền toái, nên luôn luôn xúi giục chồng dọn nhà ra ở riêng, đó là cách hành động của loại phụ nữ không chịu thực hiện đức hiếu thảo. Nay kẻ tu trì đạo đức lớn cũng vậy, nếu như ở vào hoàn cảnh thuận lợi, ở trong sự sinh hoạt dễ dàng, mọi chuyện bình thường giải quyết chẳng khó khăn thì làm sao có thể gọi được là tu đạo nổi. Còn nếu như ở trong một môi trường cực kì khó khăn, đầy khốn quẩn, đầy dèm pha khinh thị mà vẫn giải quyết mọi chuyện êm thấm, cần nhẫn liền nhẫn, cần nhường liền nhường, không động loạn, không thất tiết, không mất chí, quyết tâm làm gương cho kẻ khác noi theo, đem thân làm bài học cho đời, bởi lẽ thân dạy bao giờ cũng ứng nghiệm hơn lời dạy (Dĩ thân tác tắc, thân giáo thắng ư ngôn giáo). Loại người tu đạo này tuy chưa gọi là tu đạo, song theo ta họ đã thành đạo. Cho nên tu đạo với không tu, chân tu với giả tu có thể căn cứ vào đó mà phân biệt, thành đạo với chưa thành đạo có thể căn cứ vào đó mà xác định giá trị. Đạo vốn tùy lúc tùy thời ở cạnh ta, đạo không chỉ có ích cho người già, đạo không phải là tích cực hay tiêu cực, đạo không phải buông bỏ hay níu kéo, đạo không phải là tự trói hay tự buộc. Cho nên kẻ nhiễm những ý niệm trên trong đầu đều bị rớt vào tình trạng thiên kiến, thế mới biết “Dưỡng binh ngàn ngày, dụng binh một lúc” (Dưỡng binh thiên nhật, dụng binh nhất thời). Lúc yên không luyện binh, nuôi binh, khi loạn làm sao có quân nổi? Ngày nay tu đạo cũng vậy, bình thường là đạo, sinh hoạt hàng ngày là đạo, đạo chẳng giống như cây cỏ có sinh có tử, đạo sống động hoài hoài, vô cùng viên dung, mong sao đạt được đạo trung hòa. Do đó, có kẻ nhờ đạo mà sống, có người vì đạo mà mê, có câu: “Đạo chẳng xa người, chỉ có người xa đạo” (Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi tự viễn). Đó là sự chứng minh rõ ràng rồi vậy. Sở dĩ chê bai đạo là vì còn đứng ở ngoài cửa đạo, chưa chính thức vào bên trong. Kẻ hành đạo mà còn cảm thấy khổ sở là còn ở bên ngoài cửa chưa vào trong, kẻ vào đạo mà còn cảm thấy hoang mang sợ hãi là hãy còn ở ngoài cửa chưa vào trong cửa. Kẻ tu đạo mà còn cầu cảm ứng Tiên Phật là còn ở ngoài cửa chưa vào được bên trong, kẻ tu đạo mà nhích một tấc cũng không nhích nổi là còn ở ngoài cửa chưa vào bên trong, tu đạo mà còn thấy có cửa là còn ở ngoài cửa chưa vào bên trong. Đạo vốn sống động tràn trề chứ không ù lì, không rời rạc, nếu như kẻ hành đạo mà cảm thấy mình khổ sở như vừa nói ở trên hẳn là chưa đạt được cứu cánh của đạo, đó không phải là đạo giải thoát, nếu chưa ngộ được chân đạo thì đạo đó còn là đạo dễ đổ, chứ chưa là đạo vững bền; là đạo cố chấp chứ chưa phải là đạo viên thông; là đạo ngoan cố chứ chưa là đạo viên mãn. Kẻ không ngộ nổi đạo này, hiểu rõ đạo này là tâm u mê vọng động, chẳng thể khen chê cùng bàn bạc điều hay lẽ dở với họ được, vì bẩm sinh họ vốn vô minh, tự đem bản tính tách rời khỏi chân đạo, khỏi thiên đàng lao đầu xuống địa ngục một cách ngu xuẩn. Loại người có tư tưởng trên đây chắc chắn phải tìm minh sư chỉ dẫn cho, không thể chìm đắm mãi được. Ngày nay sách Nhân Gian Du Kí đã khám phá ra được lẽ huyền vi của đạo lớn, thật quả ngàn năm may mắn mới có được kinh điển quý báu này, nếu như ngộ được lẽ đạo trong đó liền thành Tiên, thành Phật ngay, nếu như không ngộ được, muôn đời chẳng gặp được chân đạo. Không được chê Phật, chê đạo, vì hành động như vậy là tự trầm mình nơi biển khổ, cho nên phải biết quý trọng đạo, còn không cứu cánh của đạo sẽ mất ngay. Từ ngàn xưa tới nay, kẻ ngộ được đạo này thật quả là ít ỏi, chẳng đáng kể là bao, bởi lẽ đạo này khó đắc, khó truyền, khó ngộ, khó chứng. Trước đây tâm của Thánh Hiền Đường mỗi mỗi đều y theo tâm trời song vẫn chưa minh. Nhưng hiện nay thì nhất cử nhất động đều giống như trăm mũi tên bắn ra, mũi nào mũi nấy đều trúng tâm vòng tròn xạ điểm. Nhớ xưa Thần Tú tài cao ngút trời, sức học uyên thâm, ngày ngày theo sát Ngũ Tổ nhưng vẫn chẳng giác ngộ nổi chân đạo, cho nên mặt dù đã mất rất nhiều công tìm tòi nhưng chỉ mới dò kiếm được tới lá chứ chưa tới cành tới gốc. Còn Lục Tổ Huệ Năng vô học song lại thức giác chân đạo, đốn ngộ bản lai, trở thành tổ Thiền Tông đời thứ sáu.

    Thái Sinh: Cảm tạ ân sư đã truyền dạy cho con chân đạo để giúp con sáng tỏ lẽ đạo vô thượng bồ đề, giống như Ngũ Tổ canh ba truyền đạo, ngài Huệ Năng chỉ đọc một bài kệ liền đại ngộ; Phật Tổ cầm hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười liền đại giác. Sự tu đạo chứng đạo của con trước đây tâm chưa đạt mức chân như bồ đề. Giống như kẻ mê đánh bạc chỉ vì ngứa tay mà đánh; ghét tay ngứa chỉ biết cào cấu tay mà không hiểu rằng cào cấu tay chỉ là chữa ngọn, chế phục được tâm mới là chữa gốc. Ngày nay thiên kinh vạn quyển, song kẻ ngộ đạo chỉ có một, kẻ mê muôn ngàn. Muôn kinh ngàn sách giống như một cây, cây dù có muôn cành ngàn lá, song vẫn quy về một gốc, kẻ mê chỉ lượm được lá, người tỉnh không chỉ lượm được lá mà còn hiểu biết gốc rễ, thấy rõ được cội nguồn. Con may mắn bữa nay được ân sư chân truyền, nguyện hướng dẫn cho những kẻ còn thấp kém, cùng bạn đạo trau dồi.

    Tế Phật: Ha ha, chân nhân đắc chân đạo, mê nhân đắc mê đạo, thượng nhân đắc thượng đạo, trung nhân đắc trung đạo, hạ nhân đắc hạ đạo. Đó là nhân duyên hội hợp kiếp này của thầy và con. Nếu như kẻ không thông được lẽ đạo này, sẽ sống hồ nghi, sự tối tăm thường nổi dậy mà coi rẻ đạo, vĩnh viễn khó hành đạo này, thế mới rõ đạo này khó ngộ, khó truyền, khó chứng, bởi vậy chẳng thể nhiều lời bàn bạc qua sách vở.

    Thái Sinh: Thưa đúng vậy, con phải tùy tâm chúng sinh mà truyền pháp cho chúng sinh.

    Tế Phật: Con đã đạt được đạo chân truyền của thầy nên con mới lập nguyện đền ơn như vậy.

    Thái Sinh: Con xin cảm tạ ơn trời đã ban.

    Tế Phật: Đêm nay thời giờ đã trễ, trò ngoan hãy mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới nơi, con có thể mở mắt ra.

    Thái Sinh: Tới chốn lạ lùng, thấy trong căn nhà phía trước có một phụ nữ đã đứng tuổi, đang ngồi đàm đạo với ba phụ nữ khác tại phòng khách. Phụ nữ đó sắc diện đẹp tươi, thứ sắc diện cao quý phàm nhân tục tử không thể xâm phạm, hẳn là không phải thứ sắc diện của loài người trang điểm phấn son nơi chốn phồn hoa, đô hội mà chính là sắc diện đẹp tươi, chân chất của người tu đạo phát tiết tự nhiên, thật đáng ngưỡng mộ vô cùng.

    Tế Phật: Trò ngoan này, con quả có tuệ giác, mới nhìn qua đã nhận diện ra được kẻ chân tu, quả không sai, vị tu sĩ đạo trời này tính tới nay đã tu được hai mươi bốn năm, luôn luôn bền chí, đốt sáng tâm tuệ, quét sạch vô minh cho nên khí lành tràn ngập, thường chăm chỉ tới đàn cơ công phu, công quả cho nên tâm thường được khí lành hội tụ và tỏa chiếu.

    Thái Sinh: Quả là không đơn giản, người tu đạo thường hiếu kì và tham cầu, không chịu thực hành chân pháp, luôn luôn giả dối, đa số bỏ dở nửa chừng.

    Tế Phật: Đêm nay ta chẳng thể sắp xếp để con vấn đạo vị nữ đạo sĩ này, chúng ta hãy tìm một vị khác để thảo luận.

    Thái Sinh: Thưa đúng... Xin thầy giảm bớt tốc độ, vì vừa rồi mở mắt ra, con cảm thấy không chịu đựng nổi sức gió.

    Tế Phật: Hiện tại công lực con chưa đủ nên mới cảm thấy như vậy, tốt hơn con hãy nhắm mắt lại.

    Thái Sinh: Thưa vâng.

    Tế Phật: Trên lầu tiệm buôn phía trước có một cụ già chuyên làm việc thiện.

    Thái Sinh: Thưa ân sư, con đã nhìn thấy căn lầu, bên trong có một cụ già, đỉnh đầu ngời tỏa hào quang, tướng mạo quá phi phàm, chắc chắn là người tu hành đúng đạo.

    Tế Phật: Đúng, vị đó là người tu hành chân chính, lại thường cúng tiền in kinh sách và tạp chí, hoặc giúp đỡ kẻ nghèo khó, nhưng luôn giấu họ giấu tên. Giao tiếp với người luôn luôn giữ lễ độ, không ham danh hão, không chuộng phú quý vinh hoa, vị này đáng làm gương sáng cho người đời.

    Thái Sinh: Quả đúng như vậy, con nghĩ một người luôn luôn giữ được tâm trong sáng hẳn là phải xa lìa được cảnh đời vật chất cùng các thú vui để thực hiện những điều ích lợi về tinh thần cho mình và cho cả người, chúng sinh cớ sao lại không thể làm như thế nổi?

    Tế Phật: Ha ha, trên đời có ba loại người, loại thứ nhất “nói là làm được” cư xử đúng đắn. Loại thứ hai “nói mà không làm được” cả lời nói lẫn việc làm đều giả dối, chuyên xảo trá kiếm lợi. Loại thứ ba “nói chẳng được nhưng lại làm được” đây là loại người chân thành tu đạo, chẳng tham danh lợi. Cụ già đó thuộc người thứ ba này.

    Thái Sinh: Chăm chỉ cày bừa, chẳng bận tâm đến sự được mất, luôn luôn được mọi người kính trọng. Bây giờ đã muộn, liệu ân sư còn có thể sắp xếp thêm để giúp con tới nơi khác học đạo tiếp?

    Tế Phật: Đêm nay thời giờ đã trễ, thôi để tới đêm mai, con hãy chuẩn bị lên đài sen để trở lại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI SÁU

    CÁC CĂN ÁC TÀ NIỆM DÂM DỤC, TỰ MÊ TRẦM TỘI NGHIỆP SÂU

    CÁC GỐC THIỆN CHÍNH TÂM TU THÂN, LO GIỮ MÌNH CÔNG ĐỨC CÒN

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 19 tháng 10 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Sắc tự đầu thượng nhất bả đao
    Phong tự lợi kiếm trảm anh hào
    Đa thiểu mê mông si hoa khách
    Trầm luân nghiệt hải khốn khổ lao.

    Dịch

    Chữ sắc (色) trên đầu có chữ đao (刀)
    Bén như gươm sắt chém anh hào
    Say hoa mê muội đời bao kẻ
    Biển khổ đọa đày tránh được sao?

    Tế Phật: Xướng ca, khiêu vũ là dâm, dan díu với vợ và con gái nhà người là dâm, ý tưởng bẩn thiểu là dâm, phá hoại danh tiết của người là dâm. Tục ngữ nói “Sâu ăn rau sâu chết dưới rau, ong hút mật hoa ong chết dưới hoa” (Thái trùng thái hạ tử; hoa phong hoa hạ vong). Lã Tổ dạy :

    Thơ

    Nhị bát giai nhân thể tự tô
    Yêu trung trượng kiếm trảm ngu phu
    Tuy nhiên bất kiến nhân đầu lạc
    Ám lí giáo quân cốt tủy khô.

    Dịch

    Thân ngọc nõn nà đẹp gái tơ
    Lưng đeo gươm sắc chém trai khờ
    Tuy rằng kẻ ấy đầu không rụng
    Nhưng sẽ có ngày cốt tủy khô.

    Tiên Thánh dạy phải luôn luôn kính sợ lòng người, không được nhiễm ý dâm đãng mê hoặc, không được hủ hóa vì sắc đẹp để rồi bị đọa đày nơi biển khổ, sau này hối hận thì đã muộn.

    Thái Sinh: Lời dạy của ân sư rất hữu lí... Bữa nay giống như đem vấn đề dâm ra làm đề tài thảo luận, để truy tầm mục phiêu, cùng tìm tòi nhiều ý nghĩa sâu xa khác.

    Tế Phật: Đúng vậy, dâm là đầu mối của muôn tội ác, cho nên đêm nay trước tiên phải truy tầm phỏng vấn về vấn đề cái họa của dâm, để mong chúng sinh dưới gầm trời đều có thể bỏ thói tà dâm mà giữ gìn trinh tiết.

    Thái Sinh: Xã hội ngày nay trong mọi ngành hoạt động đều ngấm ngầm dùng sắc đẹp để mua chuộc lòng người, lôi cuốn khách hàng cho nên phong khí càng lúc càng sa đọa, những vụ án về gian dâm mỗi ngày mỗi nhiều, mối họa xét ra đều do tà dâm gây nên. Việc trước tác sách Du Kí đêm nay, những ai có duyên xem được đều giật mình tỉnh giấc để rồi cố gắng tu tâm sửa tính.

    Tế Phật: Đúng vậy, tâm ấn Ngọc Hoàng chứa diệu kinh: “Ba loại thuốc có giá trị cao là tinh khí thần, do đó có thể coi là ba báu vật quý nhất của con người, trên hết mọi thứ thuốc, nếu như cố bảo vệ tinh khí thần, tiết dục để tâm trong, cử ăn sơn hào hải vị, bát trân thập toàn, tự nhiên thân thể điều hòa, trăm bệnh lánh xa.” Có thơ rằng :

    Thơ

    Tích hữu hành đạo nhân
    Lộ thượng phùng tam lão
    Niên thọ các bách dư
    Cần kiệm sừ hòa mạch
    Trú xa vấn tam lão
    Hà dĩ đắc thử thọ Nhất
    lão tiền trí từ
    Thất nội phu mạo xú (tiết dục)
    Nhị lão tiền trí từ
    Lượng phúc tiết sở thụ (tiểu thực)
    Tam lão tiền trí từ
    Dạ ngọa bất phúc thủ (an niên)
    Yêu tai tam lão ngôn
    Sở dĩ năng trường cửu!

    Dịch

    Xưa có kẻ đi đường
    Gặp được ba ông lão
    Tuổi thọ thật là cao
    Chăm lo việc đồng áng
    Ngừng xe hỏi các lão
    Cách nào sống được lâu
    Một lão vội trình tâu
    Vợ tôi nhan sắc xấu (giảm dục)
    Lão sau kể rõ rằng
    Bụng trống ít ăn uống (giảm ăn)
    Lão chót nói cho biết
    Đêm ngủ không trằn trọc (ngủ yên)
    Hay thay lời ba lão
    Rõ lẽ tuổi thọ cao.

    Thái Sinh: A, đúng rồi, hôm trước tại Thánh Hiền Đường có một bạn đạo hỏi rằng làm cách nào để có thể xuất hồn đi học đạo như trò ngu? Theo ý ân sư có nên giúp vị đó thỏa ước nguyện mong cầu không?

    Tế Phật: Trò ngoan nghĩ rằng có thể đem việc ngồi đàn cơ ra làm trò biểu diễn được chắc?

    Thái Sinh: Thưa ân sư quả là con sai lầm.

    Tế Phật: Các trò biểu diễn nơi đàn cơ rất nguy hiểm, như việc nuốt kiếm, nuốt lửa, nuốt đinh vô cùng tinh túy, người ở dưới đàn cơ nhìn thấy rùng mình kinh hãi, sau khi trò ngoan xem xong liệu có dám làm theo không?

    Thái Sinh: Thưa, con không làm nổi, chẳng thể đem sinh mệnh ra thử thách.

    Tế Phật: Sỡ dĩ người đời không thoát được phàm thân, mà đòi xuất hồn đi theo học đạo thì chỉ như những kẻ đồng bóng biểu diễn trò này trò nọ mà thôi, làm sao có thể tự đóng cửa tạo xe mây, nên chỉ đạt thức một cách mù lòa. Việc tu đạo phải từ từ từng bước một, tới ngày công thành quả mãn thoát xác siêu thăng, tự mình tạo được chiếc xe mây, qua đông qua tây thong dong đi lại, đó mới chính thực là được vân du. Còn các xe đi mượn đều phải trả, đó không phải là cứu cánh, hà tất lại đem tâm hiếu kì đi mong cầu thỏa mãn dục vọng nhất thời sao. Ồ, bữa nay thời giờ đã trễ, trò ngoan lên đài sen chuẩn bị vân du.

    Thái Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới nơi trò ngoan có thể mở mắt ra.

    Thái Sinh: Bữa nay ân sư hướng dẫn con tới thăm một khu phố về ban đêm, hàng quán bày đầy đường, nguời qua kẻ lại đông nghẹt, giữa cảnh ồn ào náo nhiệt này làm sao phỏng vấn nổi?

    Tế Phật: Được, vì dưới mắt huệ quan sát của thầy, thanh niên ngồi ăn mì trong quán kia phạm tội hiếu sắc, hiếu dâm.

    Thái Sinh: Thưa con đã nhìn thấy người thanh niên đó mồm ngậm điếu thuốc đi tới ngồi trên chiếc ghế dài, ngó ngang ngó dọc, tâm thần bất định, trên bàn có một tô mì, một chén rượu, mắt láo liên coi vẻ không phải người lương thiện, tính khí rất hung hãn nóng nảy, không rõ đã phạm phải những tội ác gì.

    Tế Phật: Theo như sự ghi chép của Thần Tam Thi, vị thanh niên này thường dùng ba tấc lưỡi làm thân với đàn bà con gái, rồi lợi dụng trong lúc trò chuyện lấy bùa mê, thuốc lú dấu sẵn trong người ra bỏ vào đồ ăn thức uống, khiến bao kẻ mắc phải, thân bị làm nhục.

    Thái Sinh: A, tán tận lương tâm đến mức đó được sao, lừa người mà chẳng biết nhục, nếu y đặt mình vào hoàn cảnh của người sẽ thấy thế nào, hoặc chị em ruột thịt của y bị thất thân, thì y sẽ cảm thấy ra sao? Thứ người này chẳng còn chút liêm sỉ, chôn vùi lương tri, hỏi sao không chịu nghiệp quả báo ứng.

    Tế Phật: Tổ đức của kẻ này vẫn còn nên báo ứng chưa thể xảy đến ngay, nhưng năm năm nữa, hắn sẽ thập tử nhất sinh, bởi vậy ta hi vọng hắn mau mau quay đầu tỉnh ngộ, không vì một chút khoái lạc mà phải mang họa muôn đời. Còn các thiếu nữ phải lựa bạn mà chơi, chớ mắc vào tròng thứ bạn lang sói, phải coi xét hành vi tính tình của kẻ muốn quen mìmh xem có chân thành không đã rồi hãy kết bạn, như vậy mới tránh được hậu họa.

    Thái Sinh: Ân sư dạy quả là đúng, người thanh niên đó đã cưỡi xe gắn máy phóng đi... Thưa ân sư đêm nay ta nên tìm thêm một người nữa để phỏng vấn viết sách không?

    Tế Phật: Nên chứ, chúng ta hãy tiến tới trước, vì quán sách đằng kia có một thanh niên theo như thần Tam Thi ghi thì hắn đã say mê coi sách báo khiêu dâm từ thời còn học trung học.

    Thái Sinh: Thưa con đã nhìn thấy người thanh niên đó, coi vẻ mặt rất sáng sủa cớ sao lại có những hành vi như vậy.

    Tế Phật: Ba năm trước đây sau khi coi sách báo khiêu dâm xong, thanh niên này bị tư tưởng dâm đãng ám ảnh, thân thể suy nhược không thể tập trung tinh thần, phải nghỉ học một năm, trong thời gian này vô tình có một người bạn đem tới tặng cuốn “Quan Thánh Đế giới dâm kinh” nhờ được đọc kinh này, hiện giờ đã bỏ được thói quen xấu xa.

    Thái Sinh: Người ta không phải là thánh hiền, lỡ phạm điều sai quấy, nếu biết sửa đổi há lại không trở nên tốt lành được hay sao. Sống biết nhắm ngả thiện mà đi, hẳn là đường phía trước thênh thang mở rộng... Còn nếu như lạc hướng, say mê xem sách báo khiêu dâm hẳn là không tránh nổi họa lớn.

    Tế Phật: Tuổi trẻ khí huyết cương cường, nếu như mắc phải tội tà dâm, thì chẳng khác nào ruồi muỗi có đôi cánh để bay lại bị mắc vào bẫy dính, khó mà vượt thoát nổi.

    Thái Sinh: Thưa đúng vậy, bẫy dính ruồi muỗi phía trên có bôi một lớp mật ngọt ngào, giống như sự dâm dục bên ngoài phủ lớp hương sắc đắm say dễ khiến lòng người mê mẩn song bên trong lại ẩn dấu dao nhọn để cướp bóc của quý báu. Nếu như hưởng được chút khoái lạc nhất thời thì lại phải đánh đổi cái họa lớn sau này. Kẻ đam mê vật dục, tâm linh vô phương thanh tĩnh nổi, hành động đó sẽ nuôi dưỡng sự tồi tệ cùng tai họa, tự tìm hoạn nạn, hành động quả là mê muội, làm cách nào để chữa trị được căn bệnh nhơ bẩn này?

    Tế Phật: Có thể sám hối trước thần linh, in tặng kinh sách, dùng sự bận rộn công phu, công quả để trấn áp sự tán loạn của tâm linh. Nếu như lửa dục bốc lên mà lại giải tỏa bằng cách xem sách báo khiêu dâm mong thỏa mãn nó thì phương cách đó chỉ là phương cách nhất thời, không phải là phương cách giải quyết trọn vẹn. Phải tu đạo, giữ gìn cái gốc, cái nguồn, minh tâm kiến tính đó mới là phương cách đạt được cứu cánh mà thôi.

    Thái Sinh: Hi vọng chúng sinh dưới gầm trời đều có thể đem cái nhìn mở huệ này cắt đứt tà ý mê muội ngu si.

    Tế Phật: Đúng vậy. Thầy thấy một vị trung niên ở trong quán mì vịt, giống hệt như những gì thần Tam Thi đã ghi chép, kẻ đó đã có gia đình lại còn lén lập riêng một tổ uyên ương chung sống với một người con gái.

    Thái Sinh: Thưa, con đã nhìn thấy vị trung niên đó, đang nhậu nhẹt với bạn bè.

    Tế Phật: Nếu vị trung niên này không mau mau sám hối, sửa đổi thói hư tật xấu, sự nghiệp sẽ sụp đổ tan tành.

    Thái Sinh: Hiện nay trong nước có phong trào vận động “Cha ơi! Về nhà dùng bữa cơm chiều” ý nghĩa thật quả là sâu xa cụ thể, nhằm mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình êm ấm, mong những kẻ làm cha hiểu rõ trách nhiệm gia đình mà chăm lo gánh vác.

    Tế Phật: Ha ha, kẻ tham sắc cũng giống như kẻ mê đánh bạc, đầu năm không đánh không yên.

    Thái Sinh: Thưa, câu ân sư vừa dạy: “Đánh bạc đầu năm” ý nghĩa ra sao?

    Tế Phật: Lúc bình thường bận rộn về chuyện gia đình, sự nghiệp nên không được rảnh rang, song vào dịp đầu năm mới lại khác hẳn, các hãng xưởng đóng cửa, mọi người rảnh rang, những ai có chút máu cờ bạc há lại chẳng thử thời vận vào dịp này sao?

    Thái Sinh: Ha ha, lời dạy của ân sư quả là sâu sắc, kẻ ham đánh bạc lúc bình thường còn chẳng ngăn nổi nữa là khi rảnh rỗi. Song còn mãnh lực của sắc đẹp cũng lôi cuốn người ta không kém.

    Tế Phật: Kì thực là sắc đẹp cũng chỉ là một hình tượng ảo hóa mà thôi, nhưng người ta khi đã mê nó thì cũng khó mà dứt nổi.

    Thái Sinh: Còn biết nói sao đây?

    Tế Phật: Vì kẻ hiếu sắc chỉ ham mê cái vẻ đẹp trẻ trung bên ngoài, cho nên phụ nữ lúc về già, nhan sắc phai tàn, đàn ông không ngó ngàng tới, đó là lẽ tất nhiên. Ví dụ một minh tinh điện ảnh đang được mọi người hoan nghênh, có lần tự hóa trang thành kẻ xấu xí dơ bẩn, khi đi dạo phố hẳn mọi người sẽ tránh xa, chẳng dám dòm dám ngó. Bởi vậy nhan sắc cũng giống như một đóa hoa lúc nở đẹp được mọi người ưa thích, khi tàn rụng xuống vũng bùn nhơ, thử hỏi ai dám tới ngắm nghía khen ngợi? Cho nên lánh xa sắc đẹp là minh tâm, còn nếu tâm chưa sáng, lăn lóc đắm chìm trong chốn tửu điếm, lầu xanh để cho rượu hồng màn tía vùi chôn anh hồn. Đợi tới lúc già sau khi đã bị sắc đẹp làm hại mới chợt tỉnh ngộ, mới rõ sự vô tri của quá khứ thì hẳn là đã quá muộn màng.

    Thái Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư rất đúng, sắc đẹp đã khiến cho bao anh hùng hảo hán mê muội, người đời sống an lạc trong hang, trong hốc, tự mình sung sướng say sưa, chợt tới khi gặp nguy khốn thất bại, quỳ lạy cầu xin, nhưng vẫn không cứu vãn nổi.

    Tế Phật: Bữa nay tạm dứt cuộc vân du tại đây, trò ngoan hãy mau mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Thưa vâng, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 2 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI BẢY

    CHỐN NHÂN GIAN, CHÚNG SINH TU TRÌ GIEO NHÂN ĐẠO

    CÕI PHẬT TRỜI, HÀNH GIẢ THANH TỊNH LUYỆN TÍNH LINH

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 29 tháng 10 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Tu đạo vô kì bản tự nhiên
    Nhất tính viên minh dưỡng tính thiên
    Tự cổ hành trì vô tiệp kính
    Thủ trú bản lai kết Phật duyên.

    Dịch

    Tu đạo chớ lo kể tự nhiên
    Tính luôn tròn sáng dưỡng hồn Tiên
    Ngày xưa tu tập cần trì chí
    Nguồn cội giữ bền kết Phật duyên.

    Tế Phật: Ngày nay tu đạo, thật chẳng còn lạ lùng, song lại có người chỉ muốn tu mau nên cố tình chạy đuổi, nhưng càng đi gấp, đường càng xa cách thêm, nguyên nhân bởi tại đâu? Đều do tự mình đi lạc vào đường bàng môn tả đạo, nên càng tu càng mê đó là tất cả lí do chính.

    Thái Sinh: Thưa lời dạy của ân sư rất đúng, cửa đạo lớn luôn luôn rộng mở chẳng thèm vào, đạo nhỏ cửa đóng then cài người ta lại chui luồn kẽ ngách.

    Tế Phật: Ha ha, đạo lớn quá xa, đạo nhỏ quá gần, kẻ theo tiểu đạo bàng môn, cuối cùng đường cụt cửa đóng, để rồi miễn cưỡng quay đầu trở lại.

    Thái Sinh: Mong rằng như vậy.

    Tế Phật: Hãy chuẩn bị vân du viết sách, mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Thưa vâng, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới nơi. Trò ngoan, con hãy mở mắt ra.

    Thái Sinh: Phật đài phía trước hào quang chói lòa giống hệt một đạo tràng để nghiên cứu giáo lí cùng hành trì Phật pháp.

    Tế Phật: Những hành giả ở đây đều trì trai giới sát, cứu thế độ nhân, vì đạo tận lực hi sinh phục vụ, quả là một gia đình Thần Tiên.

    Thái Sinh: Trên lầu có một vị đứng tuổi đang sửa soạn bàn Phật, đúng là chủ nhân của Phật đài này... Hiện tại giáo phái quá nhiều theo ý ân sư làm cách nào để phân biệt được chân giả?

    Tế Phật: Đạo vốn vô đạo, giáo vốn vô giáo, giáo vốn do người bày, đạo do người hành. Công chính hành đạo, đó là chính đạo; giả trá hành đạo, đó là tà đạo. Thời nay muôn vạn pháp môn phát triển mạnh mẽ, có phái ẩn, có phái hiện, có phái nhập thế, có phái xuất thế, tuy tính chất khác biệt, không hoàn toàn giống nhau song các giáo đều lấy sự tu tâm, bố thí, tôn chỉ cứu nhân độ thế, còn nếu như làm ngược lại tức là xa rời giáo, phản bội đạo. Hư danh sắc tướng đều giả trá, chân chính ngụy tạo là đó, chẳng cần để tâm phân biệt, cũng chớ có tranh giành phá phách, được vậy mới đích thực là biết hành đạo, và có công giúp đời vậy.

    Thái Sinh: Thưa muốn đạt đức lớn, khi tạo được “ngoại công” rồi, phải biết tu cả “nội công” nữa, còn nếu như chưa tu “nội công” hoặc là “ngoại công” chưa đủ, lúc viên tịch liệu có thể lên tới được cõi trời vô cực không?

    Tế Phật: Như vậy là chưa phải là tính mệnh song tu, thật quả đáng tiếc, nếu xét cách tu trì đơn hành “ngoại công” như vậy, đạo tâm tuy kiên định, song “nội công” chưa tròn đầy, chỉ cần một mực giữ đạo tâm, nếu như gặp duyên, Tiên Phật sẽ hướng dẫn tới viện Bát Quái hoặc viện Trời Phật để luyện lại tính linh cho sạch hết tạp chất, tới khi nào bản tính chân như hoàn toàn sáng lại, mới có thể trở lại được cõi trời vô cực.

    Thái Sinh: Thưa, trò ngu vẫn thường được nghe nói tới tên viện Trời Phật, đêm nay ân sư có thể hướng dẫn con lên thăm viện đó một lần được chăng?

    Tế Phật: Hiện thời thầy trò mình soạn sách Nhân Gian Du Kí, nếu như tìm tới thiên đàng hay địa ngục để thăm hỏi thì hạn hoàn thành sách này sẽ bị kéo dài.

    Thái Sinh: Nếu như mang được đại đạo ra hoằng hóa phổ độ chúng sinh, trò ngu nguyện chấp nhận thời gian viết sách kéo dài.

    Tế Phật: Con có tâm nguyện hoằng đạo, trời có lòng lẽ nào lại không phù hộ con, kẻ làm thầy lẽ nào lại không giúp đỡ con. Bữa nay chúng ta tới viện Phật Trời.

    Thái Sinh: Đa tạ ân sư.

    Tế Phật: Muốn lên cõi Tiên, hãy đợi thầy chuẩn bị một bình nước trời cho con uống để tăng thêm công lực.

    Thái Sinh: Thưa hay lắm... Nước trời quả là thần diệu, con cảm thấy thân tâm khoan khoái mát mẻ, tinh thần phấn khởi.

    Tế Phật: Mau lên đài sen, chúng ta khởi hành.

    Thái Sinh: Con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới viện Phật Trời, Thái Sinh xuống đài sen.

    Thái Sinh: A, cõi trời quả là đẹp đẽ vô cùng, hoa thơm cỏ lạ, núi non trùng điệp, ngọc ngà chất ngập, bao vẻ mĩ lệ nhìn không xuể... Thưa ân sư, phía trước có một người đi tới, không rõ họ là ai?

    Tế Phật: Đó là lính hầu ở viện Phật Trời, vì bữa nay chúng ta không thông báo trước bất chợt tới đây, khiến họ ngạc nhiên.

    Lính Canh: Kính chào ngài Tế Phật, bữa nay không một ai được phép vào thăm bản viện. Còn việc ngài dẫn thêm một người phàm tới đây không rõ điều chi dạy bảo.

    Tế Phật: Bữa nay hai thầy trò tôi tới đây để lo việc viết cuốn sách trời cuối cùng, xin vào trong trình cho ngài Viện Trưởng rõ như vậy... (Một lát sau, Viện Trưởng viện Phật Trời từ trong viện bước ra gặp Tế Phật, hai người trò chuyện hỏi han nhau).

    Viện Trưởng: Vừa rồi lính canh thông báo như vậy quả là thất lễ, xin thứ lỗi cho.

    Tế Phật: Không sao, không sao, xin ngài Viện Trưởng chớ khách sáo, bữa nay vì phải viết cuốn sách thông thiên địa nhân cuối cùng nên mới tới đây, còn vị này là Thái Sinh thuộc Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Bữa nay quả là ba đời may mắn mới được tương ngộ ngài Viện Trưởng, quả là không dễ dàng, mong ngài Viện Trưởng chỉ giáo nhiều cho.

    Viện Trưởng: Thánh Hiền Đường vì có sứ mệnh phổ biến đạo lớn, nên đã hết lòng hết sức, các hành giả lại tới đây luyện khí, hầu hết là đọc giả tạp chí Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Nếu vậy thì sự hiến dâng tâm lực để phổ hóa đạo lớn của các bạn đạo Thánh Hiền Đường quả là không uổng phí.

    Viện Trưởng: Chư đệ tử đã học được tinh thần của con thiêu thân, tự đốt mình để soi sáng cho kẻ khác, công đức siêu việt ba cõi, quả vị vô cùng lớn lao, thật không phải dễ đạt được.

    Thái Sinh: Thưa ngài Viện Trưởng quá khen, vừa rồi lính hầu mang một văn kiện vào trong viện là văn kiện gì?

    Viện Trưởng: Đó là văn kiện Tam Quan Cửu Khẩu xét định công quả các hành giả xem nhiều hay ít, để bản viện sắp xếp việc trở lại đây tu tiến thêm. Nếu như mức rèn luyện đã đạt mức trí viên, tính minh mới trình lên Vô Cực khảo chứng quả vị phẩm liên (giá trị hoa sen).

    Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy, thật không thể tưởng tượng được là thủ tục lại phức tạp đến mức đó.

    Viện Trưởng: Đương nhiên như vậy, thời mạt pháp đã tới, kẻ tu đạo mỗi lúc một đông, cho nên công việc của viện cũng rất bận rộn, mời Thái Sinh vào trong viện lãm giám.

    Thái Sinh: Sảnh đường của viện to lớn vô cùng, rộng rãi vô kể, khách đạo, khách tiên ra vào vẻ mặt vị nào vị nấy ôn hòa cung kính, tiêu dao thanh nhàn, tâm trí sáng suốt chân thành, được thấy cảnh tượng này lòng tôi vô cùng phấn khởi.

    Viện Trưởng: Hiện nay có rất ít nhiều môn phái phát triển, mỗi mỗi đều được phước duyên gia hộ, từ lúc có đời tới nay, các hành giả tới tu luyện tại viện Phật Trời này đều có đủ thiện căn, tâm giác ngộ đã đạt mức siêu nhân. (Tế Phật, Viện Trưởng và Thái Sinh lúc này đã vào trong viện, lính hầu vội vàng dâng trà thơm và trái quý).

    Tế Phật: Thực quá làm phiền quý viện, bữa nay tới đây thăm viếng cùng tìm hiểu tình hình để làm tài liệu tham khảo viết sách, tạo tấm gương sáng cho những kẻ tu đạo soi chung. Đã đến giờ khởi hành, xin tạm biệt.

    Viện Trưởng: Vì bận lo trách nhiệm, tôi không thể lưu giữ lâu hơn, xin tạm giã từ... Hiện giờ đạo pháp đã tới thời kì mạt vận, tuy kẻ tu đạo nhiều song kẻ kiên nhẫn tu trì lại ít, những hành giả trong viện Trời Phật đều là những người lúc sinh thời kiên nhẫn tu trì... (Thái Sinh theo sau Tế Phật cùng Viện Trưởng vừa đi vừa đàm đạo tới “tu luyện đường”. Thái Sinh dừng bước quan sát các tu sĩ phía trong đang luyện khí dưỡng thần thấy họ đều đạt mức hàm súc tinh thông, tâm không nghiêng lệch, trên đầu vị nào vị nấy hào quang tỏa chiếu sáng ngời, Thái Sinh nhìn thấy ngậm miệng chẳng thể nói năng, chỉ thầm khen ngợi không dứt. Khi tới chỗ thứ hai, thấy vẻ vô cùng thanh tĩnh, các tu sĩ tâm ý đều vắng lặng, nguyên linh tròn sáng, chút bụi không vương, chân khí ban sơ vận chuyển ba ngàn quang hoa. Khi tới “nghi lễ đường” các tu sĩ đều răm rắp chào hỏi lễ độ, thần khí tròn đầy, dục tính phàm trần đều dứt tuyệt. Lúc tới “tĩnh dưỡng đình” thấy rằng mình đã quá quen thuộc liền dừng bước trầm tư...).

    Thái Sinh: Phía trước có một vị xem mặt quá quen thuộc, giống như là...

    Viện Trưởng: Vị đó là Từ Sinh, tu trì phước đức, đã từng ngồi đàn cơ của Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Đúng vậy, vị đó là tiền bối của đám hậu sinh ngồi đàn cơ Thánh Hiền Dường. Dung nhan bây giờ nhìn khác trước quá nhiều, tinh thần tu trì tiến bộ khá xa, tôi nhận chẳng ra.

    Viện Trưởng: Để tôi kêu lính hầu tới mời Từ Sinh lại đây.

    Thái Sinh: Quả là không hẹn mà gặp... Bác Từ, bác mạnh giỏi chứ?

    Từ Sinh: Cháu là người ngồi đàn cơ của Thánh Hiền Đường đấy ư?

    Thái Sinh: Dạ phải, thật là mong mỏi quá lâu bữa nay mới được gặp.

    Từ Sinh: Ngày nay bác được tới viện Phật Trời này tu luyện, chính là nhờ còn sống chí đạo vững bền, cùng nhờ ân chủ Thánh Hiền Đường khuyến khích, lại nhờ con bác là Khánh Tôn tạo được nhiều công đức tại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Bữa nay thật quả kì duyên mới có thể gặp bác Từ tại viện này, cháu vô cùng mừng rỡ. Ước mong bác Từ công thành quả mãn, chứng ngộ thành đạo. (Từ Sinh và Thái Sinh quyến luyến nhau mật thiết tới nỗi tưởng chừng gỡ không ra). Xin hỏi ngài Viện Trưởng tôi thường nghe kẻ trở về trời nếu như còn nổi thân thịt mềm mại thì đó là chứng đắc thiên lí vô cực, thưa lời nói đó có đúng không?

    Viện Trưởng: Phàm kẻ có đức thiện lớn lao, hoặc hành đạo kiên trì, lúc trở về trời phần lớn được Thần Thánh dẫn dắt lên Trời, do đó tâm linh sảng khoái, thân tâm không còn bị trói buộc khổ sở, bởi vậy thân thịt trở thành mềm mại.

    Thái Sinh: Tại sao kẻ tu đạo không chứng thẳng cõi trời vô cực mà còn phải tới đây tu luyện?

    Viện Trưởng: Vì là thời kì mạt pháp, lòng người ô uế, thế gian ngày nay so với thời thượng cổ, trung cổ khác nhau xa, kẻ tu đạo đạt tới cảnh giới lòng trong, thân sạch, miệng thơm, ngoại công đức, nội quả phước đều tròn đầy thời nay rất ít, bởi vậy mới thiết lập viện Phật Thiên để làm nơi thực hành chân tâm, một mực thanh tĩnh luyện tập để tạo chiếc cầu bắt lên Vô Cực. Kẻ tu đạo chốn phàm trần đã dốc tâm hành trì mà nửa đường bị khảo đảo, nếu như không thối chí, phần lớn đều tới đuợc bản viện tu luyện cho tới khi nào nguyên linh trong sáng tròn đầy, tự tại mới thôi.

    Thái Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy.

    Viện Trưởng: Chúng ta tiếp tục thăm nơi khác.

    Thái Sinh: Hay lắm, trên bục giảng tại thiền đường phía trước có một vị đại Phật đang thuyết pháp, tu sĩ dưới đài vị nào vị nấy đạo mạo uy nghi tập trung thần lực, chăm chú lắng tai nghe.

    Viện Trưởng: Đây là buổi họp mặt mãn khóa học để lên lớp tu cao hơn, chúng ta hãy lên phía trên.

    Thái Sinh: Đây là nhà tụng kinh, kẻ hậu học này nghe chẳng rõ tụng kinh gì mà lại giống như niệm Phật.

    Viện Trưởng: Cả nhà mọi người đều tụng quán tâm niệm niệm thanh âm vang rền.

    Thái Sinh: Các vị đó định thần tâm không loạn, chắc chắn đã đạt tới cảnh giới “niệm vô sở niệm”... Tới căn khác là nhà giảng, có nhiều vị đang nghiên cứu lí đạo, không rõ có tác dụng gì?

    Viện Trưởng: Nghiên cứu lí đạo để giúp họ hiểu rõ lẽ tu chân chính, cùng khai mở trí tuệ đạt tới cảnh giới giải thoát.

    Thái Sinh: Đúng, nếu mở tâm huệ, tự nhiên thoát vòng nhân duyên không còn bị pháp ràng buộc, qua đông qua tây hoàn toàn tự do.

    Tế Phật: Bữa nay xin tạm ngừng cuộc tham quan tại đây.

    Viện Trưởng: Hay lắm (Viện Trưởng cùng lính hầu đều vui vẻ tiễn chân Tế Phật và Thái Sinh).

    Tế Phật: Bữa nay tạm kết thúc cuộc vân du tại đây, trò ngoan mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Thưa vâng, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã về tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.



    Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 2 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
  • Lòng Trắc Ẩn

    khoảng 10 tháng trước
  • HỒI TÁM

    NÔNG PHU TRÍ XẢO, HẠI NGƯỜI, LỘC MỎNG TỰ LÃNH HỌA

    KẺ SĨ TÂM LÀNH, GIÚP NGƯỜI, PHÚC DÀY ĐƯỢC BÁO ÂN

    Phật Sống Tế Công

    Giáng ngày 6 tháng 11 năm Tân Dậu (1981)


    Thơ

    Niệm thành truy tùy bất úy hàn
    Xích đảm trung tâm tàng thánh đan
    Vị đạo trọng thánh khinh phàm sự
    Tha niên quả ưởng chứng liên bang.

    Dịch

    Chí thành gìn giữ ấm lâu bền
    Dạ đỏ lòng son trữ thuốc tiên
    Coi nhẹ sự đời theo Thánh đạo
    Ngày sau hưởng phúc nước trời lên.

    Tế Phật: Đêm nay gió lạnh gắt gao, các đệ tử vẫn còn đến Thánh Hiền Đường công quả, chẳng sợ gió lạnh lùa thổi, dạ đỏ lòng son thật trái ngược hẳn với cảnh tượng tiêu điều bên ngoài, các đệ tử quả đã vì pháp mà quên thân. Ta đứng ở trong nhà nên đã tưởng lầm hiện giờ là đêm hè song lại chính là đêm đông.

    Thái Sinh: Ân sư dạy rất đúng, bữa nay quả là rất lạnh, song các bạn đạo vẫn tới Thánh Hiền Đường công quả, chẳng sợ thời tiết bất thường lúc này, tinh thần hi sinh thực quá cao.

    Tế Phật: Ha ha, lòng nhiệt thành sưởi ấm nổi ý tưởng lạnh lẽo, bởi vậy đã coi thường sự giá rét còn như nếu thiếu lòng nhiệt thành chắc hẳn là đã nằm ở nhà mà run rẩy.

    Thái Sinh: Thưa ân sư đã ở nhà tại sao còn run rẩy.

    Tế Phật: Nếu như thiếu sự nhiệt thành, lòng như nước lạnh, lại gặp thêm sự giá băng của tiết trời, khi bước ra ngoài khỏi cửa bèn trở về liền, như vậy là ý tưởng thối lui đã nằm sẵn trong đầu, chẳng phải do cảm giác bất chợt. Tục ngữ nói: “Trải qua sự lạnh lẽo của mùa đông mới rõ được tùng thông có tàn tạ hay không?”.

    Thái Sinh: Thưa đúng vậy, bạn đạo đã có được cái chí kiên cường, chẳng mong là vẻ đẹp của một bông hoa vì hoa sẽ mau tàn tạ.

    Tế Phật: Ha ha, tùng bách trường xuân còn hoa chóng tàn, trong nhà nhiệt thành, ngoài trời giá lạnh. Đêm nay viết sách nên phải ra đi, thầy cho con trước một viên thuốc “đại ôn hoàn” vào cho ấm.

    Thái Sinh: Cảm tạ ân sư đã ban lộc cho con, con xin uống... Quả không sai hiện giờ linh thể con ấm áp lạ thường không còn cảm thấy lạnh giá nữa.

    Tế Phật: Hay lắm, giờ nay chuẩn bị khởi hành, Thái Sinh mau lên đài sen.

    Thái Sinh: Con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

    Tế Phật: Đã tới nơi trò ngoan mở mắt ra.

    Thái Sinh: Về một làng quê, xa lánh chốn thành thị ồn ào náo nhiệt, nơi đây êm đềm tịch mịch, tình người thuần phác, đêm đông tuy lạnh song trong trẻo vô ngần, xóm nào xóm nấy vắng lặng, lá cây bay đầy, đường xá không người qua lại, vì ai ai cũng ở trong nhà theo dõi đài truyền hình.

    Tế Phật: Nông thôn lấy nghề nông làm chính, lòng người thuần phác, ngoài máy truyền hình không còn nhu cầu vật chất máy móc nào khác, mặt trời mọc đi làm, mặt trời lặn đi nằm, vẫn giữ được thói quen ngủ sớm dậy sớm.

    Thái Sinh: Thưa, nơi ở cũ của con là chốn thôn quê, bữa nay về đây phảng phất có cảm tưởng như được trở lại làng xưa, nhớ lại quãng đời thơ ấu sống vui sướng trong cảnh ruộng vườn.

    Tế Phật: Ha ha, lời kệ của đại tiên Chung-Li nói: “Kê vàng chưa chín đã mộng tới Hoa Tư” (Hoàng lương do vị thục, nhất một đáo Hoa Tư) đã lay tỉnh giấc mơ của Lã Tiên Tổ trải năm mươi năm thăng trầm mê mẩn, qua mọi cảnh đời vinh nhục mà đại giác đại ngộ, nhận chân được cõi hồng trần là giả tạm, nên đã bái đại tiên Chung-Li làm thầy. Bữa nay trò ngoan quả là “Thấy cảnh chợt bồi hồi, hãi sợ như vừa từ cõi chết trở về” (Kiến cảnh nhất niệm xúc, hoảng như dĩ cách thế).

    Thái Sinh: Lời dạy của ân sư cảm kích sâu xa, việc đời hư ảo, kiếp người như mộng, chợt tỉnh thức thấy trước mắt đều là không, song từ già chí trẻ đều nhìn chẳng ra.

    Tế Phật: Hay lắm, trò ngoan đã tự tìm thấy chân bản ngã của mình.

    Thái Sinh: Không an nhiên tự tại, không gặp được ân sư.

    Tế Phật: Ha ha, ta không có lấy một đồ đệ... hay lắm. Lo việc phải cố gắng, căn phòng phía trước đèn còn thắp sáng người chưa ngủ, chúng ta hãy tới thăm.

    Thái Sinh: Con thấy nơi phòng khách có hai người đang ngồi trước máy truyền hình mải mê theo dõi một vở kịch, vị lớn tuổi ngồi trên sô-pha coi vẻ như phạm vào tội lỗi, vì nguyên linh bị bụi âm bao phủ, còn thanh niên bên trái hình như là con trai, cũng bị y như vậy, không hiểu lí do tại sao?

    Tế Phật: Đúng như thần Tam Thi đã ghi, người nhà nông này có nhiều vườn trồng rau, song tâm thật bất chính, thường đầu cơ thủ lợi, mỗi khi thấy rau lên giá, liền dùng phân và thuốc hóa học tưới bón cho rau lớn lẹ để cắt bán, chỉ nhắm lợi ích riêng tư, không hề kể đến sự nguy hại sức khỏe của người, nên đã bị thổ thần, thổ công cùng thành hoàng lập bản án.

    Thái Sinh: Như vậy hiện tại bị thất đức, chỉ biết giả dối kiếm tiền, đã hại người không ít, bán rau còn lưu độc tố, cho nên không lạ gì có biết bao người bị mắc nhiều chứng bệnh lạ lùng do chất hóa học gây nên. Bởi vậy các phụ nữ giữ việc nội trợ trong nhà, rau trái phải rửa thật sạch để bảo vệ sức khỏe.

    Tế Phật: Vị nông phu này đã gặp báo ứng nên năm rồi sau khi uống rượu say với bạn bè, lúc cưỡi xe gắn máy về nhà, giữa đường xe lao vào vệ đường đụng phải gốc cây lớn, hôn mê bất tỉnh, phải nằm bệnh viện hơn một tháng. Hiện thời bề ngoài tưởng như hết bệnh, song bên trong lục phủ ngủ tạng bị tàn phá, con trai lại không lo học hành để tiến thân, chỉ thích chơi bời lêu lổng, khiến vị nông phu này vô cùng buồn phiền đau đớn.

    Thái Sinh: Tuổi chưa già mà đã trải nhiều đau khổ (Thái Sinh lắc đầu than thở...).

    Tế Phật: Tục ngữ nói: “Trẻ trung không ráng sức, già cả càng đau thương” (Thiếu tráng bất nỗ lực, lão đại đồ bi thương). Ngày nay khoái lạc ngày sau đau khổ, bởi lí trời soi sáng, nhân quả tuần hoàn báo ứng không sai chệch, hi vọng sẽ sửa đổi sai lầm quay về nẻo thiện, thành tâm sám hối lầm lỗi quá khứ, để lập lại cuộc đời mới (Tế Phật lại thấy bên ngoài có một nông phu lương thiện, liền nói: Thầy trò mình hãy tới phỏng vấn).

    Thái Sinh: Thưa hay lắm... con đã thấy rõ, gia đình này so sánh với gia đình vừa rồi hoàn toàn khác hẳn, trong nhà khí lành tràn ngập, hai bên tường treo nhiều bằng tưởng thưởng của tỉnh trưởng và xã trưởng ban khen.

    Tế Phật: Theo sự ghi chép của thần Tam Thiên, nông phu này là nguời lương thiện trong làng, không bao giờ tranh giành với kẻ khác, chuyên làm lành tránh dữ, đã lập được thành quả là bồi đắp con đường bên sườn núi, trước khi nó được tráng nhựa và trồng cây hai bên. Bình thường thì xe cộ và người cũng đi được, song gặp khi mưa thì lầy lội di chuyển rất khó khăn, người nông dân này không quản gian lao khổ cực, gánh đất đội đá lấp bằng những chỗ ổ gà và sụp lở để giúp người qua lại được lưu thông dễ dàng.

    Thái Sinh: Người nhà nông này chỉ nghĩ đến canh tác mà không nghĩ đến thu hoạch, rất được người kính phục.

    Tế Phật: Hiện thời con trai con gái đều học đại học, và rồi sẽ có việc làm tốt, chức vị cao, con cái được như vậy là chính nhờ ơn phước của cha để lại.

    Thái Sinh: Làm lành thì được phước lành, một sợi tóc không sai chệch.

    Tế Phật: Thầy vừa thấy ở ngõ đối diện, có một luồng ánh sáng trong lành, đúng là nhà của một vị tu đạo, chúng ta hãy phỏng vấn.

    Thái Sinh: A, thì ra giữa gian nhà chính có thờ Phật Tam Bảo, hào quang tỏa chiếu sáng ngời, chưa rõ nguyên nhân tại sao?

    Tế Phật: Vị đạo sĩ này, đã tu đạo nhiều năm, lại còn tham gia đoàn thể nghĩa vụ công tác lao động phát triển nông thôn, chuyên xây cất đường sá cầu cống, một đời không vì công danh, la hán bốn phương một nhà, không tích lũy riêng nhà mình, tương lai chắc chắn công thành quả mãn, tiêu dao cực lạc.

    Thái Sinh: Dốc tâm dốc chí vì dân hi sinh phục vụ, quả khiến mọi người cảm động, con thấy dung nhan vị tiền bối này chính khí hạo nhiên sáng rõ, thật đáng kính nể.

    Tế Phật: Đạo sĩ này tâm bố thí vô trụ nên đã đạt cảnh giới tối cao, tới viên mãn. À, đêm nay trời quá lạnh lẽo, tạm ngưng việc viết sách tại đây, để chư đệ tử hầu đàn cơ được nghỉ ngơi sớm. Trò ngoan mau lên đài sen, chúng ta trở lại Thánh Hiền Đường.

    Thái Sinh: Thưa vâng, con đã lên đài sen, kính mời ân sư lên đường.

    Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Thái Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác