Cao-Thiên-Đàn
Kiên-Giang,
đêm 20 tháng 9 năm 1930 (Canh-Ngọ)
THI
TÂY cảnh
gìn lòng độ chúng sinh,
PHƯƠNG
nào cũng độ khắp U-Minh,
THÍCH
môn huệ tánh giồi tâm tướng,
CA giáo
hư vô luyện tánh linh,
CHỨNG
cấp huyền cơ ban Nữ phái,
MINH mông ngọc sắc hội
tiên danh,
THỂ
vân xá lợi đồng vui hướng,
LIÊNG
cáo cung Quỳnh bước rộng thinh.
Thượng ỷ chứng đàn cho:
THỂ sắc không
không hữu bất không,
LIÊN(G) hoa vạn
đóa hiện vu trung,
TIÊN đơn ký
đắc minh tâm tánh,
NỮ nữ nam nam, tánh
diệc đồng.
GIẢI THUYẾT ĐẠO PHẬT
1 - Tây-Phương Giáo-Chủ
Thích-Ca,
Giảng minh thuyết pháp Thiên-hoa
Liên-Đài.
Hằng sa số Phật hôm mai,
Nhứt tâm qui hướng Như-Lai phước điền.
2 - Có câu Phật độ hữu duyên.
Khuyên ai rán giữ bổn nguyên của
mình.
Nhơn sanh vạn vật tối linh,
Tiền nhơn hậu quả, như hình rọi gương.
3 - Phật Ca hạ giáng Tây-Phương,
Xả thân cầu Đạo, bởi thương loài người.
Thương vì sanh chúng giữa vời,
Sánh cùng Thiên Địa, xứng
ngôi Tam-Tài.
4 - Lý ưng mạnh giỏi hoài hoài,
Có đâu già yếu, hôm mai tật
nguyền.
Đến cơn bịnh khổ triền miên,
Thác rồi hết kiếp, đảo điên trăm bề,
5 - SANH rồi lại bịnh làm chi,
LÃO rồi lại tử, thảm thê vô
cùng.
Nghĩ suy chi xiết não nùng,
Tuyết sơn tu luyện, dày công được
thành.
6 - Quyết lòng độ khắp chúng sanh,
Niết bàn diệu quả, chứng minh Bồ-đề.
Rèn lòng nguyện lực đại bi,
Vô thượng chánh giác, kiếp
thì viên minh.
7 - Đạo Phật càng gẫm càng kinh,
Bất sinh bất diệt, minh minh muôn ngàn.
Đại thiên thế giái mang mang,
Vô biên vô lượng, thanh nhàn
trang nghiêm.
8 - Sắc không không sắc nan chiêm,
Vô ảnh vô lượng cổ kim diệu huyền,
Tâm lưu nhứt đán đắc nguyên,
Diệu trung chí diệu, hiển nhiên phi
phàm.
9 - Bình tâm dưỡng tánh cho kham,
Tu lai cải vãng, chớ ham vọng cầu.
Trong mình sẵn ngọc Minh-Châu,
Trong mình sẵn Phật phải đâu mà
tìm,
10 - Trăng trong gió lặng nước êm,
Gay chèo Bát-nhã, khoát
rèm Chơn-như.
Lần lần dọ bến không hư,
Nọ bờ Cực-Lạc, kìa bờ phi phi,
11 - Vượt qua Bát chánh đạo chi,
Trần sa vô bất liễu tri hiện tiền.
Trải sang vô sắc Trùng-thiên,
Linh sơn chứng quả, vô phiền vô ưu.
12 - Mấy ai rõ thấu Đạo mầu,
Thông, hành, thể, dụng, nguyên lưu
Di Đà.
Dám rằng Đạo Ấn, Đạo Chà,
Khinh rằng quái đản, gọi là dị đoan.
13 - Bắc Nam cũng một con đàn,
Sợi tơ khéo nhuộm, xanh vàng tại tay.
Rừng xanh đố biết mấy cây,
Đáy sông mấy lớp, cung mây mấy
tầng?
14 - Đất sao chỗ nông, chỗ bằng,
Chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ hoằng, chỗ cao,
Trên Trời đố mấy ngôi sao,
Biển nọ ai đào, núi nọ ai xây?
15 - Loài người ai tạo ra đây?
Thế gian ai sắm, ai bày thuở nao?
U-ơ dường thể chiêm bao,
Đáy sông lặn nhào, mò vớt
bóng trăng.
16 - Khoe khoe, nói nói, rằng rằng,
Sức người trí thức thắng phần
thiêng-liêng.
Lại chê báu vật mọn hèn,
Cà sa, tích trượng, hóa
duyên vô cùng.
17 - Hiển vi mà rọi trên không,
Khác nào nhắm mắt, lặn sông
bòn vàng.
Thước đo mà hiểu dinh hoàn,
Khác nào bầy kiến mò đàng
tu di.
18 - Con người chưa thấy sự gì,
Lường trời, đong đất, phân bì nhọc
công.
Ngũ hành sanh khắc vừa thông,
Tưởng đâu đoạt hết Hóa Công mấy
lò.
19 - Ba ngàn thế giới Diêm phù,
Mới vừa, vừa biết, năm châu mơ màng.
Còn ngoài ngoài nữa mênh
mông,
Đại thiên thế giái, muôn
ngàn kiền-khôn.
20 - Một mình đức Phật Chí-Tôn,
Trong ngoài hiểu thấu, chẳng còn
sót chi.
Vị lai quá khứ hiện thì,
Giải phân kinh luật u vi rẽ ròi.
21 - Trần sa bể khổ em ôi!
Phải độ mình rồi, đặng độ chúng sanh.
Đến ngày đắc quả Đạo thành,
Siêu thăng Thất-tổ, độ thanh Cửu-huyền.
22 - Muốn cho công quả vẹn tuyền,
Rửa xong nghiệp chướng, tập rèn chơn
công.
Ngụy tà phiền não không
không,
Tam thân siêu chứng, lục thông
có ngày.
23 - Ở ăn mực thẳng đường ngay,
Cang thường mựa chớ đổi thay tấm lòng.
Khắp trong Tam-giáo Đạo đồng,
Gái mà tiết hạnh, thỉ chung trọn đời.
24 - Xử xong cho trọn đạo người,
Nhơn duyên viên giác, Phật Trời
chứng cho.
Có người gạt gẫm kẻ ngu,
Rằng thân phận gái dẫu tu không
thành.
25 - Một là thân phận hôi tanh,
Hai là vì bởi số sanh kiếp đày.
Ba vì lòng độc hiểm nguy,
Bốn là giống để làm tay chơn người.
26 - Năm là yếu đuối biếng lười,
Sáu là giống để nối dòng người
dưng.
Bảy là thân phận chiếu chăn,
Tám là phận phải kẻ chăn, người cầm.
27 - Chín là dốt nát tối tăm,
Mười là đa cảm, đa dâm, đa tình.
Dầu cho vững chí tu hành,
Là tu hậu kiếp, nguyện thành nam nhi.
28 - Nực cười cho kẻ ngu si,
Đặt điều lời nói, không vì
không kiêng.
Rõ ràng kinh luật có biên,
Hàm linh xuẩn động hữu duyên năng
thành,
29 - Huống chi gái cũng chúng sanh,
Phật là từ mẫu nỡ đành chẳng thương.
Giải cho em đặng tỏ tường,
Giải cho em biết rõ ràng kẻo nghi.
30 - Dầu cho nam tử, nữ nhi,
Ấy là sắc tướng của bề Hóa-Công.
Phật là chuyên trọng
Tánh-tông,
Tánh-tông vô tướng, vô dung,
vô hình.
31 - Nguơn nguơn, hóa hóa, sinh sinh,
Bổn lai sẵn có nguơn tinh, khí, thần.
Gọi là Tam-bảo chi thân,
Người tua trân trọng, muôn phần chớ rơi.
32 - Còn phần nam nữ vóc người,
Ấy là xác thịt của người phàm
gian.
Tu cho đến cõi Niết-Bàn,
Siêu phàm, nhập Thánh, hoàn
toàn Chơn-thân.
33 - Xác phàm gởi lại hồng trần,
Chơn-thân, Tam-bửu về phăng
Liên-Đài,
Phật không phân biệt gái trai,
Hễ là đắc quả, thì ai cũng đồng.
34 - Kìa như điểu thú, côn
trùng,
Chí tâm mộ Phật, thỉ chung cũng
thành,
Giải cho em rõ ngọn nhành,
Rán lo ăn học, tu hành cho nên,
35 - Còn nhiều nghĩa lý hiển
nhiên,
Đoạn sau Chị sẽ giảng riêng từ phần,
Tu hành em ráng ân cần,
Có thân thì phải giữ thân
làm đầu.
Thể-Liêng Tiên-Nữ.
***
Kiên-Giang, ngày 22
tháng 9 năm 1930 (Canh-Ngọ)
THI
THÁI thỉ gầy nên
cuộc Hóa-Công,
THƯỢNG thương ly hận luyện
đơn cung,
ĐẠO Tiên hiển
hích điềm linh ứng,
TỔ Thánh roi
truyền sự cảm thông,
CHỨNG kiến quang minh cần
Phổ-Độ,
ĐÀN tràng
giảng giải ý chơn tông,
THỂ gương bửu kính
cho đời hiểu,
LIÊNG tọa đài
xây khắp Đại Đồng.
Thượng ỷ chứng
đàn cho:
THỂ đồng Thiên Địa diệu
vô cùng,
LIÊNG dẫn hương hề
nguyệt dẫn phong,
TIÊN giác thệ
tâm khai hậu giác,
NỮ ban tùng thứ bộ
chơn tông.
GIẢI THUYẾT ĐẠO LÃO
1 - Kiền-khôn thế giới một bầu,
Lão-Quân Đạo-Tổ cung Đâu
giáo truyền,
Đạo nguyên Tiên Hậu nhị Thiên,
Làm đầu vạn Thánh quần Tiên
trên Trời,
2 - Kể từ khai tịch dĩ lai,
Giáng sanh hóa đạo, chẳng nài
công phu,
Hư không dường thể bóng thu,
Bí truyền tánh mạng song tu huyền
hoàng,
3 - Người tu định nhiếp âm dương,
Hình thân bảo dưỡng, bảo toàn linh
minh.
Tuy vân: tích khí thành
hình,
Âm dương nhị khí, khinh thanh thượng
phù.
4 - Trọng trược ngưng hóa địa cầu,
Bắc Nam Thiên-trục, Thiên-xu chẳng dừng.
Ngày đêm nhựt nguyệt tinh thần,
Sanh nhơn, sanh vật, lần lần mở mang.
5 - Gọi là một cõi thế gian,
Ngoài đây còn có ba
ngàn minh mông.
Đạo thông thiên địa vô cùng,
Diệu truyền yếu chỉ Hóa công dạy đời.
6 - Chỉnh xem ý vị của Trời,
Lặng trang êm phẳng, không hơi không
rằng.
Chơn không Thủy Hỏa đôi vừng,
Chuyển luân nhựt nguyệt lưu tầng ngày
đêm.
7 - Hằng sa tinh tú thuộc Kim,
Như châu như ngọc để ghim nửa lừng.
Gió giông thay đổi Hồng-quân,
Ấy là Chơn-Mộc choán phần không
trung.
8 - Chuyển gầm sấm sét đùng đùng,
Ấy là Chơn-Thổ vẫy vùng thiên oai.
Ngũ hành ấy thuộc phần Trời,
Còn phần dưới đất, thì người đều
thông.
9 - Con người sanh ở giữa vòng,
Đủ trời đủ đất, ở trong thân mình.
Ngũ hành còn phải chia rành,
Âm dương thiên địa, hình danh thể
nào.
10 - Y gia đã có công cao,
Chia hai tạng phủ, trỏ vào âm dương.
Dùng công Tạo-Hóa đặng lường,
Những đồ vật chất thuộc nguồn chơn âm.
11 - Hiên, Kỳ, mối đạo cao thâm,
Người chưa hiểu thấu, nên lầm nên sai.
Ngũ hành phải biết có hai,
Có hình thuộc Đất, ở Trời thì
không.
12 - Nhơn thân là tiểu kiền-khôn,
Khinh thanh, trọng trược, hiệp thành hóa
sanh.
Tạng, phủ, là âm ngũ hành,
Còn dương ngũ khí lưu hành
châu thân.
13 - Học đạo càng phải biện phân,
Giữ gìn bất đổ, bất văn mới mầu.
Phóng tâm âu phải ráng
thâu,
Thâu tâm định tánh, đặng cầu
Thiên chơn.
14 - Tai nghe hóa giận, hóa thương,
Ấy là Thiên-Thủy dẫn đường nơi trong.
Bắt mùi hoặc thích hoặc không,
Thiên-Kim nơi mũi, hơi lồng thấu tim.
15 - Miếng ngon hoặc nhớ hoặc thèm,
Lưỡi là Thiên-Hỏa chiếp đem vào
lòng.
Sắc nào ưa đẹp muốn trong,
Ấy là Thiên-Mộc, tại tròng con
ngươi.
16 - Vật dục che lấp lòng Trời,
Ấy là Thiên-Thổ, ý người ham
mê.
Nhãn nhĩ tỉ thiệt ráng dè,
Đều quan tâm ý, thiệt là chơn tu.
17 - Ngũ hành thiên địa mù
mù,
Mà mình sẵn đủ, lựa cầu đâu xa.
Âm dương nhị khí của ta,
Đục trong phân biệt, điều hoà Chơn-như.
18 - Gìn lòng thanh tịnh không hư,
Lòng đừng xao dợn, đặng trừ bợn nhơ.
Lòng đừng vọng tưởng ước mơ,
Ý tua định tóm, chơn cơ hoàn
toàn.
19 - Hãy xem vỏ trụ Dinh-hoàn,
Đều đồ hư mục, chớ màng chớ mê.
Tục rằng: sống gửi thác về,
Thần Tiên bất lão, có hề chi
đâu.
20 - Dẹp xong ngũ tặc làm đầu,
Quan tâm quan vật, rồi sau tập tành.
Tam quan rọi thấu nguơn-thần,
Tam thân hiệp nhứt chơn nhơn công
thành.
21 - Ấy là đến bực trường sanh,
Còn muốn thân hình bạch nhựt
siêu thăng.
Phải lo bồi đắp bổn căn,
Thiên kim diệu lý sẽ phân có
ngày.
22 - Nhứt tâm tín ngưỡng tới Thầy,
Lời rằng: Tao đố không Thầy mầy nên.
Các em sốt sắng cho bền,
Muốn cho nhà cửa vách phên vững
vàng.
23 - Phải lo bồi đắp cho an,
Có Kinh Cảm Ứng chỉ đàng tu thân.
Mới đây "Thiệp Khuyết Tu Chơn",
Của Thầy ban bố công ơn vô ngần.
24 - Có phước nên mới có phần,
Có đâu nghe được lời trân trọng
này.
Huỳnh-Đình tu luyện đêm ngày,
Tu tâm dưỡng tánh, sánh tày
Hóa-Công.
25 - Kiếp đời cá chậu chim lồng,
Trăm điều giả dối, có thung dung gì!
Trời kia mà giả mới kỳ,
Kìa mây khi nổi, khi bay mấy hồi.
26 - Đất sao chỗ lở, chỗ bồi,
Cũng là giả cuộc, có đời chi đâu.
Người đời lúc mạnh lúc đau,
Hoặc còn hoặc chết, chiêm bao làm
tuồng.
27 - Vì chưng ngũ tặc loạn chơn,
Tâm thần chẳng tịnh, nên vương lưới trần.
Âm dương đạo đức sáng trưng,
Dùng gương vô kiệt, luyện thần hư
vô.
28 - Phải phân tà chánh lưỡng đồ,
Bàn môn tả đạo, ai khờ phải mang.
Nghĩ coi cũng một con đàn,
Nó chia nam bắc, rộn ràng lăng xăng.
29 - Điền Ly, bổ Khảm tưng bừng,
Thiêu đơn, luyện hống, nhố nhăng mơ hồ.
Đường ngay em cứ bước vô,
Lâu ngày tà giáo làm
trò gì nên.
30 - Ráng nghe lời Chị dạy khuyên,
Có ngày cũng được bạn Tiên cung
Trời.
Pháp ngôn sơ dẫn ít lời,
Huyền gia bửu pháp, nhiều lời dạy sau.
Thể-Liêng Tiên-Nữ.
Kiên-Giang, đêm 23 tháng 2 năm 1931
(Tân-Vì)
THI
CHÍ đức hóa
thương sanh,
THÁNH mô tập
đại thành,
VĂN chương nhi võ
hiển,
TUYÊN đạo định sang
kinh,
CHỨNG thử tam tùng
giáo,
THỂ trình ngũ sắc
quang,
LIÊNG hoa chơn
thắng cảnh,
ĐÀN sỉ tánh
tâm minh.
Thượng ỷ chứng
đàn cho Thể-Liêng Tiên-Nữ:
THỂ dụng hoàn
toàn doãn khuyết trung,
LIÊNG tư khiết bạch
tự nhiên dung,
TIÊN thiên đạo
hiệp tam nhi nhứt,
NỮ khảm nam ly đoạt
hóa công.
Bần-đạo chào chư Đạo-hữu.
GIẢI THUYẾT ĐẠO NHO
1 - Thánh
kinh Trung Hiếu làm đầu,
Dầu nam dầu nữ phải trao trọn niềm,
Trải xem sách vở cổ kim,
Ngàn kinh muôn điển dạy kiềm thảo ngay.
2 - Trời cao biển thẳm đất dày,
Nho gia vững đặt chẳng lay chẳng sờn,
Dạy người luân lý cang thường,
Dạy người Trung Tín Nghĩa Nhơn vuông
tròn.
3 - Dạy cho biết phép biết khuôn,
Lễ nghi đạo đức cội nguồn dân sanh,
Trung Dung hai chữ chí thành,
Phát minh thiên địa, lưu hành căn
cơ.
4 - Dịch kinh chép để sờ sờ,
Hà Đồ lại với Lạc Thơ rõ ràng,
Thánh nhơn nghiên cứu âm dương,
Ngũ hành sanh khắc tuần huờn châu nhi.
5 - Đạo thông từ lúc Phục-Hy,
Lần qua Đại-Võ đến kỳ Văn-Vương,
Châu-Công, Khổng-Thánh tiếp nương,
Lập thành mối cả, mở mang con người.
6 - Từ sanh có Đất có Trời,
Có người mới đủ sánh ngôi
Tam-Tài,
Âm dương một Lý mà hai,
Như người một giống gái trai hai hình.
7 - Trời thì sanh có năm Hành,
Người thì năm đức sẵn in vào
lòng,
Suy ra cho tột cho cùng,
Thiên nhơn nhứt Lý quán
thông chẳng rời.
8 - Nghĩ rồi mới rõ Đạo Trời,
Rõ rồi nên phải bày lời dạy
khuyên,
Xưa nay những bực Thánh Hiền,
Thay Trời dạy Đạo sách biên muôn
vàn.
9 - Dạy cho khắn khít Tam-cang,
Dạy cho gắn chặt Ngũ-thường nhơn Luân,
Thi, Thơ, Lễ, Nhạc Điển phần,
Hiến chương Văn Võ noi chừng Thuấn
Nghiêu.
10 - Tam thiên tam bá đủ điều,
Dùng gương tiên giác dắt
dìu hậu lai,
Dạy đời chẳng sót một bài,
Tề gia trị quốc chẳng sai phân hào.
11 - Nho gia rộng lớn xiết bao,
An dân an quốc công cao muôn đời,
Những điều cư xử làm người,
Chẳng sót một lời Ngài nỡ bỏ qua.
12 - Đến phần triết học cao xa,
Sánh cùng Phật Lão cũng là
mỉa mai,
Kẻ sau học hỏi sơ sài,
Chia phe, chia phái, biếm bài khen
chê.
13 - Chưa thông ý vị Trọng-Ni,
Mà chê đạo khác thuộc về dị đoan,
Chẳng dè Tam-Giáo Thánh
Nhân,
Truyền trao mối cả phải nương theo thời.
14 - Nói rằng Phật Lão hại đời,
Chẳng dòm Khổng-Giáo hiếm người bội sư,
Đạo nào cũng tại người hư,
Đạo nào cũng giữ khư khư tánh Trời.
15 - Bổn sơ khuyên chớ đổi dời,
Chí ư chí thiện trọn đời đừng sai,
Ngọc trong nhờ có sức mài,
Người muốn nên tài thời phải chí
tâm.
16 - Tấc vàng, tấc bóng quan âm,
Ba dư mựa chớ tưởng cầm rằng chơi,
Muốn cho đứng đợt với đời,
Nhơn hoà, Địa lợi, Thiên thời phải
thông.
17 - Muốn rành thể dụng Hóa-công,
Âm dương động tịnh chấp trung điều hoà,
Mọi người noi giữ giềng ba,
Gìn câu tha thiết trát ma chớ rời.
18 - Nhơn tâm nguy lắm em ôi,
Gìn lòng thận độc giữ lời u vi,
Quang phòng hai chữ trí tri,
Chánh tâm thành ý, vô
vi không điền.
19 - Hi Hiền, hi Thánh, hi Thiên,
Do mình trì chí tự nhiên
được thành,
Có câu Thiên Địa hiếu sanh,
Họa dâm, phước thiện bởi mình mà
ra.
20 - Khuyên đời khá bỏ thói
tà,
Tồn tâm dưỡng tánh, ta bà hư
thân,
Khắp trong Tam-Giáo Thánh Nhân,
Người Tiên người Phật Thánh Thần giống
nhau.
21 - Dạy điều ngay thảo làm đầu,
Làm lành lánh dữ trước sau một
niềm,
Bình tâm chánh nghĩ mà xem,
Đạo Nho, Thích, Giáo, thù hiềm
bởi đâu?
22 - Chẳng qua tại kẻ làm đầu,
Xảo ngôn, dĩ tự loạn châu nơi mình,
Có câu Thiên địa lưu linh,
Vô thinh, vô xú, vô
hình, vô danh.
23 - Mang mang Thiên lý lưu hành,
Vô ý, vô tất, nguơn hành
trinh kiên,
Trung-Dung bất diệt bất thiên,
Quang tiền dữ hậu danh truyền thiên thu.
24 - Trạch dân trí chúa thân
tu,
Dương danh hậu thế qui mô vô cùng,
Thánh ngôn thiên tải kỳ
phùng,
Các em mựa chớ tấc lòng đơn sai.
25 - Ngày đêm hôm sớm khuya mai,
Sắt kia có thuở mình mài
nên kim.
KINH KÍNH MỪNG
CHÉP 10 BÀI
1) Kinh kính lạy Đức Chí-Tôn.
2) Kinh kính lạy Đức Diêu-Trì.
3) Kinh kính lạy Đức Phật-Tổ Như-Lai.
4) Kinh kính lạy Đức Đạo-Tổ
Lão-Quân.
5) Kinh kính lạy Đức Văn-Tuyên
Khổng-Thánh.
6) Kinh kính lạy Đức Gia-Tô
Giáo-Chủ.
7) Kinh kính lạy Đức Quan-Âm.
8) Kinh kính lạy Đức
Lý-Giáo-Tông.
9) Kinh kính lạy Đức Quan-Thánh
Đế-Quân.
10) Kính mừng Nữ Phước-Thần.
KINH KÍNH MỪNG LẠY THẦY
1 -Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn,
Mở lòng Bác Ái thương con với
cùng,
Con đà lạc Tổ xiêu Tông,
Đem đường dẫn lối nhờ trong có Thầy.
2 -Tam-Kỳ vừa gặp hội này,
Tan sương vén ngút rẽ mây trong
Trời,
Cõi trần bể khổ Thầy ôi!
Cầu Kinh hôm sớm cứu người trầm luân.
3 -Thầy ôi! con dại vô ngần,
Cầu xin lượng cả khoan hồng bao dung,
Từ đây con nguyện chí công,
Kiên tâm dốc chí một lòng
không sai.
4 -Nhờ xin lượng cả đoái hoài,
Cho người ủng hộ hôm mai tập tành,
Lòng thành thấu đến cao xanh,
Ngửa xin lượng cả chứng minh lời cầu.
5 -Vô ưu, vô lự, vô câu,
Tu tâm dưỡng tánh trước sau cho
tròn,
Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn
Mở lòng bác ái thương con với
cùng.
***
KINH KÍNH MỪNG LẠY ĐỨC
DIÊU-TRÌ
1 -Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi,
Xin thương con dại ngu si phàm trần.
Cho người đam khỏi Mê Tân,
Đặng cho con dại Nguơn Thần mở mang.
2 - Con đà sái bước lạc đàng,
Muôn ngàn tội lỗi chứa chan dẫy đầy.
Mẹ thương xin Mẹ làm khuây,
Tha cho con dại thơ ngây lỗi lầm.
3 -Từ đây con nguyện chí tâm,
Cải tà quy chánh lo chăm theo Thầy.
Gió trong vén ngút rẽ mây,
Lạy xin Đức Mẹ đoái bầy con thơ.
4 - Đừng cho xiêu lạc vất vơ,
Xin cho biết bến biết bờ xanh xanh.
Lòng con rót cạn chữ thành,
Lạy nhờ Đức Mẹ xin nhìn chăm nom.
5 -Cho người hôm sớm thăm lom,
Cho người dạy dỗ hôm mai kịp thì.
Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi,
Xin thương con dại ngu si phàm trần.
****
Kiên-Giang, ngày 17
tháng 10 năm 1932 (Nhâm-Thân)
THI
THỂ đức như gương chiếu
cõi Trời,
LIÊNG châu năm
sắc rạng nơi nơi,
TIÊN phàm
khuyên chớ đua bay giỏi,
NỮ kỷ Nam Cang ráng
chọn lời.
THẬP THỦ LIÊN HUỜN
I
Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng,
Thức tỉnh người mê cõi Á
Đông.
Mở dạy Trung-Nguyên ngôi Thái-Kiệt,
Rải gieo Nam-Việt giống Thần Nông.
Ngoài trong đen trắng năm ba số,
Phải trái vàng xanh một ít
vòng.
Đậm lợt mỏng dày cao với thấp,
Hiểu chăng, hoặc có khác Non-Bồng.
II
Non-Bồng ai khiến đến thày lay,
Biết đó sao chưa biết đặng đây.
Tiểu muội núp gương cam phận Túy,
Đại-bàng phơi cánh ngóng
Trời-Tây.
Đừng rằng cảnh Phật vui chuông trống,
Mà đoán lòng người lướt
gió mây.
Này thấy, này chưa, này ướm hỏi,
Trầm luân mài miệt cuộc no say.
III
No say quên lửng nhứt phi tam,
Thập bát nguyên nhơn nhị cửu hàm.
Trần tỉnh, trần sa oai Phục-Hổ,
Điển trừ yêu nghiệt báu Già-Lam.
Đạo Cao khuyên gắn công ma niết,
Học quản tua gìn chữ khiết tham.
Người hỡi người ơi người khá tỉnh,
Chớ chia kẻ Bắc lại người Nam.
IV
Người Nam kẻ Bắc lại sum vầy,
Khuyên chớ trầm trồ sự dở hay.
Hùm được thêm oai nhờ sức gió,
Rồng nên vẻ đẹp bởi chiều mây.
Vô biên vô lượng đành
không dể,
Bất kỵ bất cầu mới thiệt hay.
Chín chín nạn dư vừa thấy Phật,
Thấy rồi rõ Phật ở mình đây.
V
Mình đây nhiều kiếp biết tu hành,
Biết được mau lo độ chúng sanh.
Nhơn quả trả vay tuồng sóng lượng,
Công danh thành bại bức mây tranh.
Cờ cao túng nước mau xoay thế,
Nhà rộng Trời khuya kịp điểm canh.
Áo bả giày gai chuông tỉnh mộng,
Tài tình khuyên trẻ, mựa
cành nanh.
VI
Cành nanh quá lắm ích chi
đâu,
Tự cổ đồn bia tiếng bể dâu,
Liêng lạc vướng nhành mưu chước nhện,
Oai phuông tuông nọc thế thần sâu.
Đã đành người báu so Trời Đất,
Thì để danh lành sánh trước sau.
Sáu chữ Di-Đà nguồn cội cả,
Học cho thông suốt mới cơ mầu.
VII
Cơ mầu Thầy mở dạy Miền Nam,
Hào kiệt khuyên mau lánh khớp
vàm.
Gióng trống Giác-Mê qua bỉ ngạn,
Rung chuông Khải-Ngộ đến Lôi-Âm.
Hư Vô kiến tánh nơi Cao-Giáo,
Thanh tịnh tu tâm học Lão-Đam,
Kìa bến nọ bờ đây Lạc-Thổ,
Màu nào xanh được lấn hơn chàm.
VIII
Hơn chàm được thấy có Tam-Thanh,
Mà được cùng không cũng tại
mình.
Đạo lý Cao Kiên lo chạy cứu,
Công trình trung tín nỡ ngồi
khoanh.
Minh mông sống khổ đua chìm đắm,
Chợp rợp đường tu thiếu học hành.
Dầu cạn đèn khêu người ngây giấc,
Chưa hay Trời đã quá năm canh.
IX
Năm canh chuông mỏ chẳng ngơi tay,
Khuyên nhủ anh em, dậy rửa mày.
Long-Hổ điển quang vầy hiệp đó,
Thần Tiên xá lợi sẵn sàng
đây.
Ngàn năm một kiếp nên bồi bổ,
Mười tám năm đều chịu trở day.
Khôn dại đua tranh chi nước bọt,
Thôi thôi ráo tiếng giả làm
khuây.
X
Làm khuây đặng có nghĩ trong
lòng,
Hà Lạc Đồ Thơ số tứ tung,
Bắc-Đẩu chốt then sao chói rạng.
Tây-Phương hình dạng cõi
hư-không.
Vô-vi ấy Đạo phi chơn tướng,
Hữu dụng cho người chiếm hóa công.
Khuyên rửa tánh phàm noi
Thánh-Huấn,
Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng.
***
Kiên-Giang, đêm 20
tháng 7 năm 1930 (Canh-Ngọ)
THI
Lý tuân ý chỉ
phán nhơn gian,
THÁI-Thượng Tam Thanh tấu
Thánh nhan,
BẠCH chỉ kim ngôn hồng
tự điểm,
Thể-Liên
Tiên-Nữ
giáng đài đàn.
(Thượng ỷ chứng
đàn cho Thể-Liên Tiên-Nữ dạy đạo)
PHÁT
MINH
Thể-Liên
Tiên-Nữ
1 -Này năm
mười chín trăm ba,
Giáng cơ để
vận nôm na ít lời,
Ráng
khuyên phụ nữ trong đời,
Chớ rằng thấp thỏi
mà cười mà khinh.
2 -Người người đều
sẵn tánh lành,
Phật Trời ban
phú cho mình ban sơ,
Bởi hay lắt lẻo hỏng
hờ,
Lầm đường lạc bến,
sa cơ suy vời.
3 - Muốn cho đem lại
tánh Trời,
Hãy tua
gìn giữ nghe lời Chị khuyên.
Tiên,
phàm tuy có hai tên,
Muốn cho
thoát tục thành Tiên khó
gì!
4 -Hãy lo
hôm sớm tu trì,
Giồi mài bổn
tánh qui y Linh-hồn.
Phật Trời Đạo thể
Chí-Tôn,
Lòng người
nham hiểm ba vuông bảy tròn.
5 -Đua chen
trí xảo tài khôn,
Lâu
ngày bổn tánh hao mòn
Chơn-nguyên.
Dầu cho cửu chuyển
Thần Tiên,
Không trau
Chơn tánh, tự nhiên lụy mình.
6 -Huống chi phận
gái hậu sinh,
Quên đường đạo
đức, nên hình thể chi?
Các em vụng
tính hẹp suy,
Thấy đời rừng rực cứ
đi theo đời.
7 -Ham ăn, ham
nói, ham cười,
Ham bề vật chất, ham
mùi phù vân.
Sao không suy
xét cân phân,
Mấy đời cõi
tạm cho bằng quê xưa.
8 -Hồng trần phơi
nắng tắm mưa,
Sao bằng Tiên
cảnh không trưa, không chiều.
Hồng trần khổ hạnh
trăm điều,
Sao bằng Tiên
cảnh tiêu diêu thanh nhàn.
9 -Hồng trần
là chốn lửa than,
Bọt nước sôi
tràn thấy đó mất đây.
Ai ai chẳng hiểu lệ
này,
hác rồi nắm
được trong tay vật gì?
10 -Đua chen
khôn dại thị phi,
Tắt hơi nín
thở còn chi đâu là?
Sao bằng giữ mực
thật thà,
Rảnh rang xác
thịt, ta bà hồn linh.
11 -Cang-thường Đạo
thể trọn lành,
Phật Trời qui luật
chí thành phương vưng.
Hồng trần trọn nghĩa
trọn nhân,
Hồn linh mới bước
đến tầng mây cao.
12 -Thiện tâm
chẳng dạ lãng xao,
Thiên đường
mới được ra vào thung dung.
Một lòng một
dạ thỉ chung,
Sống thơm danh
giá, thác phong rỡ ràng.
13 -Hãy xem
Thần Thánh muôn ngàn,
Đều người nghĩa
khí trung can mới thành.
Gái mà
tiết liệt trung trinh,
Gái mà
tiết hạnh, Thiên đình bia tên.
14 -Cung Diêu,
cung Quế, cung Sen,
Hàng
luôn tiên nữ, dãy liền Tiên
nga.
Rèm
châu, vách ngọc, cột ngà,
Thủy tinh bao phủ,
sáng lòa như gương.
15 -Người đời
yêu chuộng thủy xoàn,
Nào hay đồ
dụng đài trang Tiên tòa.
Người đời yêu
chuộng vinh hoa,
Nào hay bị
cái dây ma khớp vàm.
16 -Chớ rằng tại ở
cõi phàm,
Phải lo phu phỉ cho
kham với đời.
Cõi
phàm mà thấu đạo Trời,
Kìa trang
Tiên Thánh cũng người phàm gian.
17 -Giàu sang
sánh với cơ hàn,
Giàu sang
còn dễ bước đàng chơn tu.
Đố ai phân
biệt trí ngu,
Mây bao bịch
phủ, sương mù mịch giăng.
18 -Người ngu mối
đạo biết phăng,
Người khôn
chừng thấy ăn năn muộn rồi,
Thấy vầy nên
Chị ngùi ngùi,
Thương em Chị phải
tới lui giảng bày,
19 -Tam-Kỳ sẵn mối
Đạo Thầy,
Khá tua
ráng sức cho dày công phu.
Thì giờ thắm
thoát bóng cu,
Một ngày qua
khỏi, ngàn thu không tìm.
20 -Nữ sanh
là phận các em,
Không
lòng sốt sắng, càng thêm lạc
lầm.
Chị xin Đức Mẹ chế
châm,
Cho Chị giáng
bút, Thánh tâm phân trần.
21 -Mẹ cho, Chị xiết
nỗi mừng,
Nên Chị vội
vã ân cần đến đây.
Phái nam
đã đủ chơn tay,
Phái nữ đến
rày, xem thiếu chị em.
22 -Nghĩ coi tự cổ
chí kim,
Làm
thân con gái mỏng mềm sút thua.
Hêu đời cờ bạc
hốt vùa,
Nết xấu ráng
chừa, đặng giữ thân danh.
23 -Khuê
môn phận gái đã đành,
Đến việc tu
hành lại cũng rút co.
Đường ngay ít
kẻ đắn đo,
Đường gai nẻo gốc
lần mò lủi đi.
24 -Phật Trời thương
xót xiết chi,
Đã bày
ngũ-giới, tam-qui rẽ ròi.
Ngặt lòng
tín ngưỡng lôi thôi,
Có việc cầu
Trời khẩn Phật tứ tung.
25 -Từ đây
khuyên khá rèn lòng,
Nghe lời chỉ bảo,
chí công tập tành,
Công-phu,
công-quả, công-trình
Phân
rành chương thứ phân minh tỏ tường.
Trở Lại Mục Lục