Bài thuyết pháp
của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma
|
I.
Vài nét về hành trạng của Đạt Ma
Tổ Sư
Đức Bồ
Đề
Đạt Ma 菩提達磨
(Bodhidharma,
đầu thế kỷ 6 Công nguyên), người Ấn
Độ, là tổ thứ 28 của Thiền Ấn
Độ. Tổ sang Trung Hoa để truyền Phật
pháp của Thiền tông và trở thành Đệ Nhứt
Tổ Thiền Trung Hoa. Ngài đến Trung Hoa vào năm 520,
gặp Lương Vơ Đế 梁武帝 hỏi
đạo. Rất
tiếc Ngài không có duyên với vua Lương nên không
thuyết phục được vua v́ hai vị quan
điểm bất đồng, Vũ Đế quá thiên về
thinh âm sắc tướng, xây cất chùa chiền, in kinh
độ tăng, c̣n Tổ lại chuyên về Tâm.
V́
thấy không hóa độ
được Lương Vơ Đế và khó truyền
Phật pháp đắc lực ở phương Nam nên
Đức Đạt Ma Tổ Sư vượt sông Dương
Tử, đi lên phương Bắc. Dừng chân tại
Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi xoay mặt ngó vào vách, tham
thiền chín năm (cửu niên diện bích 九年面壁).
Tương truyền Ngài
bỏ thế gian năm 529, để lại rất
nhiều huyền thoại, như: Đạt Ma cỡi
nhánh lau vượt sông Dương Tử, Đạt Ma
quảy chiếc giày phi hành trên dăy núi Thống Lănh, v.v.
II.
Bất đồng quan điểm giữa
Đạt Ma Tổ Sư và Lương Vơ Đế
Chỗ
bất đồng
quan điểm giữa vua Lương và Tổ
được Đức Lục Tổ Huệ Năng 六祖慧能
(638-713) giải thích trong Pháp
Bửu Đàn Kinh 法寶壇經, phẩm
Quyết Nghi.
Lương Vơ
Đế
hỏi suốt đời nhà vua làm những việc
cất chùa, cúng tăng, bố thí, v.v. như vậy có công
đức chi không.
Tổ sư
nói: Thật không
có công đức.
Theo
tôn ư của Tổ, vua
Lương Vơ Đế thực hành hạnh bố thí 布施, hạnh
đứng đầu của sáu
phép Ba La Mật 波羅蜜, là
tạo nhân
phước để hưởng quả phước
ở thiên nhân mà thôi, tuyệt nhiên không phải là chơn
công đức vô lậu giải thoát.
Theo
Kim Cang Kinh 金剛經, bố
thí trụ
tướng chẳng khác chi vào chỗ tối, không trông
thấy chi cả. Trái lại bố thí ly tướng ví
như có được mắt sáng lại c̣n nhờ thêm ánh
mặt trời chiếu soi tỏ rạng, trông thấy rơ
rệt các vật. Vua Lương Vơ Đế bố thí
nhưng c̣n vọng tâm trụ tướng, không khế
hợp với pháp “tam luận thể không” của
Phật. Pháp tam luận thể không gồm có ba điều
dưới đây :
1.
Không nghĩ ḿnh là người năng thí.
2.
Không nghĩ người nhận là kẻ thọ thí.
3.
Không nghĩ vật đưa ra là vật sở thí.
Vua
Lương Vơ Đế
hành bố thí như vậy là việc tạo nhân
phước để hưởng quả phước
ở thiên nhân mà thôi. Bậc bồ tát bố thí không bao
giờ trụ trước nơi sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp, tức là ĺa tất cả tướng và
hành đúng theo “Tam luận thể không” nên phước báu
cao cả không thể suy lường được.
Đạo
Đức Kinh
道德經 của
Đức Lăo Tử cũng dạy (chương 38: Thiên
hạ): “Thượng đức bất đức,
thị dĩ hữu đức; hạ đức bất
thất đức, thị dĩ vô đức.” 上德不德, 是以有德; 下德不失德, 是以無德. Có
nghĩa là
người đức cao không có ư cầu cái đức cho
nên có đức; người đức thấp th́
chấp cái đức của ḿnh tạo ra, nên không có công
đức. Như vậy lời nói của Đức Lăo
Tử không khác “tam luật thể không” của Đức
Phật.
III.
Đạt Ma Huyết Mạch Luận
Tổ Sư
rời bỏ vua
Lương ra đi sau khi đă thuyết pháp tại
triều đ́nh mười chín ngày. Bài pháp này rất danh
tiếng, ngày nay c̣n lưu truyền với tên gọi là
Đạt Ma Huyết Mạch Luận 達磨血脈論.
Về cơ
bản, bài pháp gồm chín mục như sau: (1) Bản
chất của tâm; (2) Phương thức; (3) Phật Tánh;
(4) Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận; (7) Vô minh; (8)
Giác ngộ; (9) Phật là ǵ?
1.
Bản chất
của tâm
Tâm
là Phật, không
có Phật ở ngoài tâm.
Tâm của mỗi
người đồng điệu, tương ứng
với thực tại muôn đời, với thực
tại muôn nơi. Ngoài thực tại của tâm th́ tất
cả chỉ là huyễn tượng, chẳng có nhơn,
chẳng có duyên, chẳng có lư do, chẳng có kết quả,
chỉ có hành duy nhứt, đó là tư tưởng của
tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là niết bàn.
Tâm
là Phật, Phật chính là tâm. Đi t́m một sự vật ngoài tâm ḿnh
là muôn bắt sự trống không. Tưởng tượng
Phật lấy ở ngoài tâm, h́nh dung Phật ở bên ngoài
chính là mê sảng.
2.
Phương thức
Vậy
th́ phải t́m vào trong chứ không nh́n bên ngoài. Phải
tự lắng ḿnh vào ḿnh và tự nh́n thấy Phật Tánh
ở nơi chính ḿnh. Tất cả chúng sanh đều là
Phật như ḿnh, không có thiện, không có ác, mà chỉ có
động tác của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích ǵ
sự cúng kiến, sự hoằng pháp nhiệt thành,
giữ giới bố thí, cầu kinh và tất cả
những thứ khác chỉ cần một điều duy
nhứt: nh́n thấy Phật ở nơi ḿnh. Sự
nh́n thấy ấy sẽ đưa đến giải thoát
và là niết bàn.
3.
Phật Tánh
Không
có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ
một sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra
khỏi luân hồi. Sự học kinh và tu khổ hạnh
hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có một quyển sách nào
đáng cho ta mở ra đọc. trong sự an tĩnh vô vi
hoàn toàn hăy kiếm ở nơi ḿnh, nơi chính ḿnh. Đó
mới đúng là Phật. Hăy nh́n Phật nơi ḿnh, đó
mới là sự nh́n thấy chơn thật duy nhứt mà
thôi. Tất cả những h́nh tượng khác đều
là sương mù ảo ảnh. Chỉ có một tội duy
nhứt, là tội vô minh, tội không nhận
được thấy ra được Phật Tánh ở
nơi chính ḿnh. Tội lỗi này rất nặng v́ nó
giữ ta trong cơi vô thường phù du. Ta phải tự giải
thoát bằng cách tự khám phá lại h́nh bóng của ḿnh.
4.
Pháp Thân
Pháp
Thân nầy đă có vĩnh cửu. Trải qua những luân
hồi thăng trầm của những kiếp, Pháp Thân
vẫn vô sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không
nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không
ghét, không đến, không đi, không đàn ông, không đàn
bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không ừ, không
không, v.v.
Pháp
Thân không một, mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng
không phàm. Pháp Thân thung dung trong những kiếp liên tiếp,
trong ḍng sinh tử. Chính Pháp Thân nầy mà ta phải nh́n
lại nơi chính ḿnh ta phải di động và hành
động. Pháp Thân chính là thần năng nhập
thạch, thần năng phi h́nh, nhập thủy bất
nịch, nhập hỏa bất phần [xuống
nước không ch́m, vào lửa không cháy] trong ánh sáng của
tâm. Ta không thể diễn tả Pháp Thân nầy bằng
lời nói. Ngoài những tên khác, ta c̣n gọi Pháp Thân là thánh
thể (Phật Tánh, Chơn Tâm).
5.
Tĩnh tâm
Tất
cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư
ảo, giả tạm chẳng có ǵ thật ngoài ra Pháp Thân.
Vô ích nguyện cầu, vô ích sùng bái những ǵ mà chính là ḿnh,
chỉ nên làm sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm
mà thôi. Chính những cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân nơi
ḿnh, tức là Phật chính những biểu tượng
vật chất là sai lầm. chính sự sai lầm ấy
sẽ giữ ta lại, hoặc đưa ta vào ṿng luân
hồi tái sanh. Hăy bỏ đi những giả tưởng
về thần thánh linh thiêng v́ đó chính là ảo
tưởng phù phiếm.
6.
Thiền luận
Không
có những ǵ hơn những ư tưởng vô h́nh của tâm
thoát ra từ Phật Tánh. Chỉ có một điều ta
thấy thật sự là Pháp Thân ở nơi ta. Phật có
ư nghĩa là giác ngộ hay linh giác mà mọi người có
thể đạt được. Sự giác ngộ chính là
Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy
tưởng ǵ cả. Đối với ta chỉ
đạt đến Thiền là khi ta thấy
được Phật Tánh, mà không kiến tánh th́
chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường.
Ta
có thể nói với những môn đồ của ta như
vầy: Các ngươi phải đạt đến
Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp Thân, là thánh
thể ở nơi chính các ngươi.
Không
thể nào diễn tả được bởi v́ không
thể nói ra được, cho nên tất cả kinh
luận đều vô ích.
Con
người sẽ được giải thoát khi nào
họ đă phủ nhận tất cả những bóng ma và
những sai lầm ấy, khi họ chỉ gắn liền
với Phật Tánh của họ. Giây phút giác ngộ
nầy, giải thoát nầy, mỗi người hăy tự
đi đến với chính ḿnh, giáo lư chỉ có thể
giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo lư không
thể tạo ra sự giác ngộ. Lănh hội
được Phật Tánh nơi chính ḿnh, lại không
thể học được Pháp Thân rất giản
dị, ta không thể tạo ra được,ta chỉ
lănh hội được.
Đối
với kẻ nào lănh hội được Phật Tánh, th́
không cần đến thiên đàng hay cũng không c̣n sợ
vào địa ngục, không c̣n có ḿnh, không c̣n có kẻ khác, không
c̣n ǵ cả ở bên ngoài.
Vậy
th́, việc lănh hội Pháp Thân là một việc của đức
tin tuyệt đối, không c̣n bị pha lẫn bóng
tối của ngờ vực.
7. Vô
minh
Kẻ
nào lănh hội được Phật Tánh th́ không c̣n tạo
nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động
nào, bởi v́ kẻ ấy đă được giác
ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những kẻ
nào chưa giác ngộ v́ kẻ ấy đang c̣n ở trong
ṿng ngu tối vô minh. Chính sự ngu muội này đă tạo
ra ṿng đầu thai luân hồi ở địa ngục,
làm thú và làm người. Bực giác ngộ không làm nên
tội lỗi nữa và cũng không phạm tội
nữa.
8.
Giác ngộ
Những kinh kệ, những sự tu
khổ hạnh, những công tŕnh nghiên cứu, học hành
chẳng có lợi ích ǵ cả, c̣n việc kiến tánh ta
không thể nào học được. Tại sao có
người đă chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm
đứng đắn, thế mà vẫn không đạt
đến được? Bởi v́ nghiệp của
họ chống đối lại, v́ họ chưa trả
hết nợ, họ chưa đủ trong sạch
để đến giác ngộ. Sự hôn mê mù quáng, sự
sai lầm, sự chai cứng, sự bất lực của
họ là những h́nh phạt về những tội
lỗi của họ trong quá khứ.
9. Phật là ǵ?
Phật
ở trong tâm của mỗi người, giữ giới
luật tu khổ hạnh, cầu kinh, học vấn,
nghĩa lư, tất cả những việc này chẳng dùng
được việc ǵ cả. Mục đích duy nhứt
mà mỗi người cần phải đạt
đến là sự giác ngộ. Khi nào đă đến
sự giác ngộ là một vị Phật. Một vị
Phật với tất cả chư Phật, dù cho kẻ
ấy không đọc được một chữ nào
hết.
Là
Phật, nghĩa là thấy được Phật Tánh
nơi chính ḿnh, nơi tâm ḿnh, bản thể vô h́nh và không
rờ mó được mong manh như hư không. Tâm ấy
mỗi người đều mang trong ḿnh.
Tâm ơi hỡi
tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả thế
giới, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không thể
xuyên qua được. Hỡi tâm của ta, mi là Phật,
mi chính là mi, ta phải qua Trung Hoa để truyền
đạo lư.
IV. Góp ư của người sưu
tập
Đức
Đạt Ma Tổ Sư, do theo truyền thống của
Tổ Sư Thích Ca Mâu Ni, truyền dạy giáo lư Phật
giáo cho chư môn đồ các Ngài là không nên ỷ lại
nơi tha lực với sự hộ tŕ của các
đấng thiêng liêng vô h́nh trong việc t́m kiếm sự
giác ngộ để cầu giải thoát cho chính ḿnh, mà
phải tự lực t́m kiếm lấy. Đó thuộc
về Nhị Kỳ Phổ Độ với Đức
Phật Thích Ca.
Ngày
nay, chúng ta
ở vào thời kỳ mạt kiếp, nhơn loại v́
nhiễm văn minh vật chất thậm đa nên c̣n
đọa lạc trầm luân rất nhiều ở
trần gian. V́ từ bi thương xót chúng sanh, Đức
Chí Tôn Thượng Đế mở Tam Kỳ Phổ
Độ, ban đại ân xá cho nhơn loại. Nếu
quyết tâm tu hành chánh đạo, sẽ dễ dàng giải
thoát luân hồi v́ chính Đức Chí Tôn giáng trần
bằng huyền linh diệu điển, đổ
thần để d́u dắt nhơn loại tỉnh
giấc mê để phản bổn huờn nguyên phục
hồi vị cũ ngôi xưa ở Thiên Đ́nh. Đó là tu
nhứt kiếp th́ ngộ nhứt thời.
Tín
đồ
của Tam Kỳ Phổ Độ rất tin tưởng
sự trợ lực hộ tŕ của các đấng thiêng
liêng vô h́nh, v́ chủ trương của Cao Đài là Thiên
Nhân Hiệp Nhứt, hai cơi hữu vô đều trợ
lực lẫn nhau, có thiêng linh diệu điển qua cơ
bút, do các đấng giáng lâm chỉ dạy môn sanh tu học
và hành đạo. Ơn Trên thường bảo rằng
Đạo vô vi, sư vô vi là vậy. Đó là đặc ân
của Cao Đài Đại Đạo.
Đức
Đạt Ma Tổ Sư dạy phải tự ḿnh
kiếm cho được Pháp Thân (hay Phật Tánh, Chơn
Tâm) nơi chính ḿnh th́ mới giác ngộ, nhập niết
bàn được. Đây là một việc làm cốt
yếu, dầu ở bất kỳ thời kỳ nào.
Đức Chí Tôn Thượng Đế dạy “Các con
hăy t́m Thầy trong các con và các con trong Thầy” cũng
cùng một lư đạo.
Đức
Quan Thế Âm có dạy (15-6 Giáp Dần, 02-8-1974): “Người
tu hành học đạo là t́m cái tâm minh linh đă ẩn tàng
hằng tính của Thượng Đế giáng trung.
Người muốn t́m lại, trước phải yên
lặng để trau dồi gột rửa những
lớp tham sân si dục đang dầy đặc theo
những bức vô minh để thấy được
đạo tài thành của thiên địa. Người noi
theo đạo ấy tức là ḥa hợp theo thiên lư
phục hồi bổn thể chơn như vậy.”
Chí Tín