BÀI THUYẾT
PHÁP Của
TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA Cho
Vua LƯƠNG VƠ ĐẾ Phạm
Công Thiện dịch Phần thứ
nhất: Bản Chất Của Tâm Cả thế
giới được nghĩ trong tâm. Tất cả
chư Phật - quá khứ và vị lai - đă và sẽ
được tạo thành trong tâm. Sự hiểu biết được
truyền từ tâm sang tâm qua ngôn từ nên tất cả
những kinh sách chẳng có ích lợi ǵ. Tâm của mỗi
người đồng điệu và tương ứng với
thực tại muôn đời, với thực tại muôn
nơi. Tâm là Phật không có Phật ngoài tâm. Coi giác ngộ
và niết bàn là những sự vật ở ngoài tâm là
một điều sai lầm. Không có giác ngộ ở ngoài
tâm linh động. Không có chỗ nào gọi là nơi
chốn của những người đến niết
bàn. Ngoài thực tại của tâm, tất cả
đều là huyễn tượng. Chẳng có nhân,
chẳng có duyên. Chẳng có lư do, chẳng có kết quả.
Chỉ có một thực tại duy nhất. Đó là: Tư
tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm chính là
niết bàn. Đi t́m một sự vật ngoài tâm là đi t́m
bắt hư không. Tâm là Phật và Phật chính là tâm.
Tưởng tượng Phật ở ngoài tâm hay h́nh dung Phật
ở ngoài tâm là mê sảng. Phần Thứ Hai:
Phương thức Vậy phải nh́n
vào trong chứ không nh́n ra ngoài. Phải tự lắng vào
chính ḿnh để thấy Phật tánh trong chính ḿnh. Tất
cả chúng sanh đều là Phật như ḿnh nên ḿnh chẳng
cứu ai cả. Không có vị Phật nào hơn ḿnh nên không
phải van xin, cầu nguyện ai cả. Không có Phật nào
hiểu ḿnh hơn chính ḿnh nên không phải học hỏi
trong những kinh sách của các vị ấy. Không có
luật pháp nào kiềm hăm được Phật. Một
vị Phật không thể sa ngă nên ta không sợ phạm
tội. Không có thiện, không có ác. Chỉ có những động
tác của tâm. Mà tâm là Phật nên tự tánh không thể
lầm lỗi được. Cúng kiến, hoằng pháp,
nhiệt thành giữ giới, bố thí cầu kinh và
tất cả những thứ khác đều không có ích
lợi ǵ cả. Chỉ cần một điều duy
nhất là nh́n thấy Phật nơi ḿnh. Sự nh́n
thấy Phật ở nơi ḿnh đưa đến
giải thoát, đến niết bàn. Phần Thứ Ba:
Phật Tánh Không có bất cứ
một cuốn kinh nào, không có bất cứ sự tu
khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân
hồi. Học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm.
Không có quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc.
Trong sự an tĩnh, vô vi hoàn toàn hăy kiến tánh ở
nơi ḿnh, nơi chính tâm ḿnh. Đó mới đúng là Phật.
Chỉ học nh́n thấy Phật tánh thôi v́ đó là điều
duy nhất đáng học. Tất cả những h́nh
tượng khác đều là sương mù, ảo ảnh.
Hăy nh́n Phật nơi ḿnh. Đó mới là cái nh́n trung thực
duy nhất. Phật tánh ở trong mỗi người và
trong tất cả mọi người, Phật tánh
đều giống nhau. Khi quên tất cả mọi
sự và chỉ giữ lại thực tại duy nhất
đó là thoát khỏi ṿng luân hồi và tới niết bàn.
Tất cả những kẻ thuyết lư đều là
trợ thủ của Mara và đưa con người
đến chỗ huyễn tưởng. Mọi hệ
thống triết học đều hoàn toàn sai lầm và có
tính cách lường gạt. Nói đến sự tẩy
uế, thiện nghiệp, chuyên tâm và tiến bộ là
phỉnh lừa thiên hạ. Mỗi người là Vị
Phật của chính ḿnh và của tất cả. Điều ta
phải làm cho tới cùng là nhận thức rằng
thực tại và chân lư duy nhất ấy tiềm tàng trong
mỗi người chúng ta. Không có tội hay đúng
hơn chỉ có một tội duy nhất: Đó là tội vô
minh, tội không nhận được ra Phật tánh
ở chính nơi ḿnh. Tội này rất nặng v́ nó giam
ta trong cơi vô thường. Thân xác là phù du. Cuộc đi trôi
nhanh như một giấc mộng. Trong thời gian
ngắn ngủi của cuộc đời ta phải
tự giải thoát bằng cách tự khám phá chính h́nh bóng
của ḿnh. Trong giấc mộng đời, ta có thể
thấy được thực chất của ḿnh. Trong
giấc mộng đời, chính Pháp thân tự hé mở
trong bản thể. Đó là thực thể. Phần Thứ Tư:
Pháp Thân. Pháp thân này vĩnh
cửu. Trải qua ṿng luân hồi, thăng trầm qua vô
lượng kiếp, pháp thân vẫn không sinh, không diệt,
không thêm, không bớt, không nhơ nhớp, không bị
tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến, không
đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ,
không tu, không tục, không có, không không. Pháp thân không một mà
cũng không nhiều, không thánh mà cũng không phàm. Pháp thân
đi vào tất cả không bị trở ngại và không ǵ
ngăn cản được. Pháp thân ung dung trong những
kiếp liên tiếp, trong gịng sinh tử. Chúng sanh và vận
mạng của chúng sanh đều qui về pháp thân. Ta
thấy pháp thân này ngay trong ta. Ta phải di động và
hành động trong ánh sáng của tâm. Pháp thân bao trùm tất
cả chúng sanh như sông Hằng giữ nước
của nó hằng hà sa số những phân tử phù sa. Ta
không thể diễn tả pháp thân được, mà
cũng không thể giải thích pháp thân bằng ngôn từ.
Mỗi người hăy tự chiêm ngưỡng, lănh hội
pháp thân cho chính ḿnh. Lănh hội được pháp thân là
giải thoát, là giác ngộ. Lănh hội được pháp
thân là ra khỏi sự giao động của thế
lực mà đức Thích Ca Mâu Ni gọi là cuồng loạn
vĩ đại. Giác ngộ đưa ta vào trong tỉnh
lặng hoàn toàn. Người ta phải khám phá chính bản
thân ḿnh, khám phá Phật tánh ở mức độ ngoài
khả năng diễn đạt của ngôn từ và
tư tưởng. Pháp thân vô h́nh, bất biến và không
thể bị hủy diệt. Chẳng có Phật nào khác
ngoài pháp thân v́ pháp thân ở trong chư Phật. Pháp thân
cũng ở trong tất cả mọi người. Phần Thứ
Năm: Tỉnh Tâm. Xin nhắc lại
rằng v́ tánh chất của pháp thân, ta chẳng cần
kinh kệ, chẳng cần cúng tế, thờ phụng mà
cũng chẳng t́m cái ǵ ở ngoài bởi lẽ trong ḿnh ta
có tất cả. Tất cả những sự vật bên
ngoài đều là hư ảo giả tạm. Chẳng có ǵ
thật ngoài pháp thân. Nguyện cầu những ǵ sùng bái
chính là ḿnh, sùng bái những ǵ chính là ḿnh là một việc
phi lư và vô ích. Điều cốt yếu là làm sao có yên
lặng và tĩnh tâm; v́ yên lặng, tĩnh tâm giúp ta
thấy pháp thân chính nơi ta tức là thấy Phật.
Tất cả những biểu tượng giả
tưởng, tất cả những biểu tượng
vật chất đều sai lầm. Chính sự sai lầm
ấy giữ ta lại hoặc đưa ta vào trong ṿng luân
hồi tái sinh. Không nên sùng bái những h́nh tượng thoát
thai từ nơi ḿnh bởi v́ những h́nh tượng
ấy không thuộc pháp thân. Chỉ nên sùng bái những ư
tưởng phát ra từ Phật tánh. Phải bỏ
tất cả những giả tưởng về thần
thánh linh thiêng v́ đó chính là những ảo tưởng phù
phiếm. Không nên thờ kính những vật giả
tưởng đó mà cũng chẳng phải sợ hăi
những thứ đó. Cũng nên quẳng bỏ tất
cả những ảo ảnh về chư Phật. Ảo
ảnh chỉ là những ảo tưởng phù phiếm. Phần Thứ Sáu:
Thiền Luận Không có ǵ quí hơn
những ư tưởng vô h́nh của tâm phát ra từ
Phật tánh. Chỉ có một điều ta thấy
thật sự là: Pháp thân ở nơi Ta. Phật là một
tiếng Ấn Độ, không phải tên người và có
nghĩa là giác ngộ, linh giác mà mọi người có
thể đạt tới được. Sự giác
ngộ này chính là thiền. Những kẻ đối
nghịch với chúng ta không thể hiểu được
giá trị mà chúng ta đem vào danh từ thiền. Thiền
không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng. Ta chỉ
đạt đến thiền khi ta thấy
được Phật tánh ở chính ḿnh. Một
người đọc vô số kinh luận mà không kiến
tánh th́ chỉ là kẻ phàm tục tầm thường.
Đạo lư ta khó hiểu đối với mọi
người v́ ngôn từ không đủ khả năng
diễn tả được đạo. Chỉ có kẻ
nào đạt được mới hiểu. Ta có thể
nói với những môn đồ ta như vầy: Các
ngươi phải đạt đến Phật tánh
nơi các ngươi tức là pháp thân nơi các
ngươi. Làm thế nào diễn tả được...
và bởi v́ không thể nói ra được nên tất
cả những kinh luận đều vô ích. Kinh luận
chỉ là những câu chuyện phù phiếm, đi quanh
vấn đề. Kiến tánh là một hành động
giản dị. Kiến tánh không thể chia ra thành từng
phần nên ta không thể tri và hành từng phần một.
Kiến tánh cũng giống như nuốt một thứ
đồ ăn, cũng giản dị và lập tức
như thế. Người ta không bao giờ thuyết lư
viễn vông chung quanh sự nuốt đồ ăn. Ta
biết nuốt hay không biết nuốt. Chỉ có thế
thôi! Kẻ nào tưởng tượng một thực
tại ngoài Phật tánh bên trong và t́m cách xác định
thực tại ấy, kẻ ấy rơi vào sai lầm
nghiêm trọng. Tất cả những ư tưởng ngoài ư
tưởng về Phật tánh nội tại chỉ là
những bóng ma phù phiếm. Chính những ư tưởng
đó sinh ra bóng ma, những sai lầm và giữ con
người triền miên trong ṿng luân hồi. Con
người sẽ được giải thoát khi đă
phủ nhận tất cả những bóng ma và những sai
lầm ấy, đồng th́ gắn liền với
Phật tánh ở trong nội tại. Giây phút giác ngộ
này, giây phút giải thoát này, mỗi người hăy tự
ḿnh đi đến. Giáo lư chỉ có thể giúp người
ta chuẩn bị. Giáo lư không thể tạo ra giác ngộ.
Mộng không thể học được. Chết không
thể học được. Lănh hội Phật tánh
nơi chính ḿnh cũng không thể học được.
Pháp thân rất giản dị. Ta không thể tạo ra
được mà chỉ lănh hội được. Kẻ
nào đă lănh hội được pháp thân th́ không cần
thiên đàng, không c̣n địa ngục, không c̣n ḿnh, không c̣n
kẻ khác, không c̣n ǵ bên ngoài. Vậy việc lănh hội pháp
thân là việc của đức tin tuyệt đối,
không mảy may pha lẫn bóng tối ngờ vực. Khi
người ta mộng, người ta không bao giờ nghi
ngờ bởi v́ người ta thấy thực tánh của
ḿnh. Trong khi thức, ta cũng phải tin tưởng
vững chắc như vậy dù có bị những ảo
tưởng của giác quan và những sai lầm của trí
tưởng tượng ràng buộc. Phần thứ
bảy: Vô Minh Đối với
những người đă khám phá được bóng h́nh
của ḿnh và không c̣n bị bất cứ một hệ
lụy nào ràng buộc, th́ bất cứ một hành
động nào của thể xác vật chất cũng
không có thể ảnh hưởng đến pháp thân.
Một kẻ phàm tục làm nghề đồ tể
cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đă
lănh hội được Phật tánh th́ không tạo
nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động
nào bởi v́ kẻ ấy đă giác ngộ. Nghiệp
chỉ đeo đuổi những người chưa giác
ngộ v́ những người đó c̣n trong ṿng u tối vô
minh. Chính sự ngu muội này đă tạo ra gịng
đầu thai, luân hồi ở địa ngục, làm thú
và làm người. Tất cả nợ tinh thần chấm
dứt ngay khi giác ngộ phá hủy vô minh. Bậc giác
ngộ không làm nên tội lỗi và cũng không phạm
tội nữa. Phần thứ tám:
Giác Ngộ Ta phải giảm
dần những ấn tượng, bớt dần tham
vọng, bớt dần tập trung và an trí. Đó là chuẩn
bị. Kinh kệ, tu khổ hạnh, công tŕnh nghiên cứu học
hành đều chẳng có lợi ích ǵ cả. Kiến tánh không
thể học được. Tại sao có những
người đă chuẩn bị cẩn thận và có thành
tâm đứng đắn mà vẫn không kiến
được tánh? - Bởi v́ nghiệp
của họ chống đối lại. Sự hôn mê mù
quáng của họ, sự sai lầm chai cứng của
họ, sự bất lực của họ là những h́nh
phạt về những tội lỗi của họ trong
quá khứ. Họ chưa trả hết nợ. Họ
chưa đủ trong sạch để đạt
được giác ngộ. Đây là nợ tinh thần và
nỗ lực cá nhân chứ không phải do địa
vị xă hội. Phần thứ chín:
Phật là ǵ? Ta đến Trung Hoa
để truyền bá tâm ấn, đạo lư mới
lạ ở đây chưa ai biết. Phật ở trong tâm
mỗi người. Giữ giới luật, tu khổ
hạnh, cầu kinh, nghiên cứu nghĩa lư, tất cả
những thứ này chẳng dùng được việc ǵ
cả. Mục đích duy nhất mà mọi người
phải đạt được là giác ngộ. Khi nào
đạt được giác ngộ là thành Phật,
một vị Phật như tất cả chư Phật
dù cho kẻ ấy không đọc được một
chữ nào cả. Thành Phật nghĩa là thấy Phật
tánh nơi ḿnh, nơi tâm ḿnh, nơi tâm của tâm ḿnh.
Phật tánh vô h́nh, không thể rờ mó được,
bản thể của nó mong manh như hư không. Tâm ấy
mọi người đều mang trong ḿnh. Tâm hỡi, tâm ơi! Mi lớn đến
nỗi bao trùm cả vũ trụ. Mi nhỏ đến
nỗi mũi kim không thể xuyên qua được. Hỡi tâm của ta!
Mi là Phật. Chính v́ mi mà ta phải
qua Trung Hoa để giảng truyền đạo lư. ************ source:
http://www.vuonlam.us/A_PhatGiao/A2_BaiViet/2_CuSi/BaiThuyetPhapCuaToBoDeDatMa.htm Bài thuyết pháp của Tổ
Sư Bồ Đề Đạt Ma I. Vài nét về hành trạng của
Đạt Ma Tổ Sư Đức
Bồ Đề Đạt Ma 菩
提達 磨
(Bodhidharma, đầu thế kỷ 6 Công nguyên),
người Ấn Độ, là tổ thứ 28 của
Thiền Ấn Độ. Tổ sang Trung Hoa để
truyền Phật pháp của Thiền tông và trở thành
Đệ Nhứt Tổ Thiền Trung Hoa. Ngài đến
Trung Hoa vào năm 520, gặp Lương Vơ Đế 梁
武帝
hỏi
đạo. Rất tiếc Ngài không có duyên với vua
Lương nên không thuyết phục được vua v́
hai vị quan điểm bất đồng, Vũ
Đế quá thiên về thinh âm sắc tướng, xây
cất chùa chiền, in kinh độ tăng, c̣n Tổ
lại chuyên về Tâm. V́
thấy
không hóa độ được Lương Vơ Đế
và khó truyền Phật pháp đắc lực ở
phương Nam nên Đức Đạt Ma Tổ Sư
vượt sông Dương Tử, đi lên phương
Bắc. Dừng chân tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi
xoay mặt ngó vào vách, tham thiền chín năm (cửu niên
diện bích 九
年面壁).
Tương truyền Ngài bỏ thế gian năm 529,
để lại rất nhiều huyền thoại,
như: Đạt Ma cỡi nhánh lau vượt sông
Dương Tử, Đạt Ma quảy chiếc giày phi
hành trên dăy núi Thống Lănh, v.v.
Chỗ
bất đồng quan điểm giữa vua Lương
và Tổ được Đức Lục Tổ Huệ
Năng 六
祖慧能
(638-713) giải thích trong Pháp Bửu Đàn Kinh 法
寶壇經,
phẩm Quyết Nghi. Lương
Vơ
Đế hỏi suốt đời nhà vua làm những
việc cất chùa, cúng tăng, bố thí, v.v. như
vậy có công đức chi không. Tổ
sư
nói: Thật không có công đức. Theo
tôn ư
của Tổ, vua Lương Vơ Đế thực hành
hạnh bố thí 布
施,
hạnh đứng đầu của sáu phép Ba La
Mật 波
羅蜜,
là tạo nhân phước để hưởng
quả phước ở thiên nhân mà thôi, tuyệt nhiên không
phải là chơn công đức vô lậu giải thoát. Theo
Kim Cang Kinh 金 剛
經,
bố thí
trụ tướng chẳng khác chi vào chỗ tối, không
trông thấy chi cả. Trái lại bố thí ly tướng
ví như có được mắt sáng lại c̣n nhờ thêm
ánh mặt trời chiếu soi tỏ rạng, trông thấy
rơ rệt các vật. Vua Lương Vơ Đế bố thí
nhưng c̣n vọng tâm trụ tướng, không khế
hợp với pháp “tam luận thể không” của Phật.
Pháp tam luận thể không gồm có ba điều
dưới đây : 1.
Không nghĩ ḿnh là người năng
thí. 2.
Không nghĩ người nhận là
kẻ thọ thí. 3.
Không nghĩ vật đưa ra là
vật sở thí. Vua
Lương Vơ Đế hành bố thí như vậy là
việc tạo nhân phước để hưởng
quả phước ở thiên nhân mà thôi. Bậc bồ tát
bố thí không bao giờ trụ trước nơi sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, tức là ĺa tất
cả tướng và hành đúng theo “Tam luận thể
không” nên phước báu cao cả không thể suy
lường được. Đạo
Đức Kinh 道
德經
của Đức Lăo Tử cũng dạy
(chương 38: Thiên hạ): “Thượng đức
bất đức, thị dĩ hữu đức; hạ
đức bất thất đức, thị dĩ vô
đức.” 上德不德,
是以有德;
下德不失德,
是以無德.
Có nghĩa là người đức cao không có ư cầu
cái đức cho nên có đức; người đức
thấp th́ chấp cái đức của ḿnh tạo ra, nên
không có công đức. Như vậy lời nói của
Đức Lăo Tử không khác “tam luật thể không”
của Đức Phật. III. Đạt Ma Huyết Mạch
Luận Tổ
Sư
rời bỏ vua Lương ra đi sau khi đă thuyết
pháp tại triều đ́nh mười chín ngày. Bài pháp này
rất danh tiếng, ngày nay c̣n lưu truyền với tên
gọi là Đạt Ma Huyết Mạch Luận 達
磨血脈論. Về
cơ
bản, bài pháp gồm chín mục như sau: (1) Bản
chất của tâm; (2) Phương thức; (3) Phật Tánh;
(4) Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận; (7) Vô minh; (8)
Giác ngộ; (9) Phật là ǵ? 1.
Bản chất của tâm Tâm
là Phật, không có Phật ở ngoài tâm. Tâm của mỗi
người đồng điệu, tương ứng
với thực tại muôn đời, với thực
tại muôn nơi. Ngoài thực tại của tâm th́ tất
cả chỉ là huyễn tượng, chẳng có nhơn,
chẳng có duyên, chẳng có lư do, chẳng có kết quả,
chỉ có hành duy nhứt, đó là tư tưởng của
tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là niết bàn. Tâm
là Phật, Phật chính là tâm. Đi t́m một sự
vật ngoài tâm ḿnh là muôn bắt sự trống không.
Tưởng tượng Phật lấy ở ngoài tâm, h́nh
dung Phật ở bên ngoài chính là mê sảng. 2.
Phương thức Vậy
th́ phải t́m vào trong chứ không nh́n bên ngoài. Phải
tự lắng ḿnh vào ḿnh và tự nh́n thấy Phật Tánh
ở nơi chính ḿnh. Tất cả chúng sanh đều là
Phật như ḿnh, không có thiện, không có ác, mà chỉ có
động tác của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích ǵ
sự cúng kiến, sự hoằng pháp nhiệt thành,
giữ giới bố thí, cầu kinh và tất cả
những thứ khác chỉ cần một điều duy
nhứt: nh́n thấy Phật ở nơi ḿnh. Sự
nh́n thấy ấy sẽ đưa đến
giải thoát và là niết bàn. 3.
Phật Tánh Không
có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ
một sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra
khỏi luân hồi. Sự học kinh và tu khổ hạnh
hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có một quyển sách nào
đáng cho ta mở ra đọc. trong sự an tĩnh vô vi
hoàn toàn hăy kiếm ở nơi ḿnh, nơi chính ḿnh. Đó
mới đúng là Phật. Hăy nh́n Phật nơi ḿnh, đó
mới là sự nh́n thấy chơn thật duy nhứt mà
thôi. Tất cả những h́nh tượng khác đều
là sương mù ảo ảnh. Chỉ có một tội duy
nhứt, là tội vô minh, tội không nhận
được thấy ra được Phật Tánh ở
nơi chính ḿnh. Tội lỗi này rất nặng v́ nó
giữ ta trong cơi vô thường phù du. Ta phải tự
giải thoát bằng cách tự khám phá lại h́nh bóng
của ḿnh. 4.
Pháp Thân Pháp
Thân nầy đă có vĩnh cửu. Trải qua những luân
hồi thăng trầm của những kiếp, Pháp Thân
vẫn vô sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không
nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không
ghét, không đến, không đi, không đàn ông, không đàn
bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không ừ, không
không, v.v. Pháp
Thân không một, mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng
không phàm. Pháp Thân thung dung trong những kiếp liên tiếp,
trong ḍng sinh tử. Chính Pháp Thân nầy mà ta phải nh́n
lại nơi chính ḿnh ta phải di động và hành
động. Pháp Thân chính là thần năng nhập
thạch, thần năng phi h́nh, nhập thủy bất
nịch, nhập hỏa bất phần [xuống
nước không ch́m, vào lửa không cháy] trong ánh sáng của
tâm. Ta không thể diễn tả Pháp Thân nầy bằng
lời nói. Ngoài những tên khác, ta c̣n gọi Pháp Thân là thánh
thể (Phật Tánh, Chơn Tâm). 5. Tĩnh
tâm Tất
cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư
ảo, giả tạm chẳng có ǵ thật ngoài ra Pháp Thân.
Vô ích nguyện cầu, vô ích sùng bái những ǵ mà chính là ḿnh,
chỉ nên làm sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm
mà thôi. Chính những cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân
nơi ḿnh, tức là Phật chính những biểu
tượng vật chất là sai lầm. chính sự sai
lầm ấy sẽ giữ ta lại, hoặc đưa ta
vào ṿng luân hồi tái sanh. Hăy bỏ đi những giả
tưởng về thần thánh linh thiêng v́ đó chính là
ảo tưởng phù phiếm. 6.
Thiền luận Không
có những ǵ hơn những ư tưởng vô h́nh của tâm
thoát ra từ Phật Tánh. Chỉ có một điều ta
thấy thật sự là Pháp Thân ở nơi ta. Phật có
ư nghĩa là giác ngộ hay linh giác mà mọi người có
thể đạt được. Sự giác ngộ chính là
Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy
tưởng ǵ cả. Đối với ta chỉ
đạt đến Thiền là khi ta thấy
được Phật Tánh, mà không kiến tánh th́ chỉ là
một kẻ phàm tục tầm thường. Ta
có thể nói với những môn đồ của ta như
vầy: Các ngươi phải đạt đến
Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp Thân, là thánh
thể ở nơi chính các ngươi. Không
thể nào diễn tả được bởi v́ không
thể nói ra được, cho nên tất cả kinh
luận đều vô ích. Con
người sẽ được giải thoát khi nào
họ đă phủ nhận tất cả những bóng ma và
những sai lầm ấy, khi họ chỉ gắn liền
với Phật Tánh của họ. Giây phút giác ngộ
nầy, giải thoát nầy, mỗi người hăy tự
đi đến với chính ḿnh, giáo lư chỉ có thể
giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo lư không
thể tạo ra sự giác ngộ. Lănh hội
được Phật Tánh nơi chính ḿnh, lại không
thể học được Pháp Thân rất giản
dị, ta không thể tạo ra được,ta chỉ
lănh hội được. Đối
với kẻ nào lănh hội được Phật Tánh, th́
không cần đến thiên đàng hay cũng không c̣n sợ
vào địa ngục, không c̣n có ḿnh, không c̣n có kẻ khác,
không c̣n ǵ cả ở bên ngoài. Vậy
th́, việc lănh hội Pháp Thân là một việc của đức
tin tuyệt đối, không
c̣n bị pha lẫn bóng tối của ngờ vực. 7. Vô
minh Kẻ
nào lănh hội được Phật Tánh th́ không c̣n tạo
nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động
nào, bởi v́ kẻ ấy đă được giác
ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những kẻ
nào chưa giác ngộ v́ kẻ ấy đang c̣n ở trong
ṿng ngu tối vô minh. Chính sự ngu muội này đă tạo
ra ṿng đầu thai luân hồi ở địa ngục,
làm thú và làm người. Bực giác ngộ không làm nên
tội lỗi nữa và cũng không phạm tội
nữa. 8.
Giác ngộ Những kinh kệ, những sự tu
khổ hạnh, những công tŕnh nghiên cứu, học hành
chẳng có lợi ích ǵ cả, c̣n việc kiến tánh ta
không thể nào học được. Tại sao có
người đă chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm
đứng đắn, thế mà vẫn không đạt
đến được? Bởi v́ nghiệp của
họ chống đối lại, v́ họ chưa trả
hết nợ, họ chưa đủ trong sạch
để đến giác ngộ. Sự hôn mê mù quáng, sự
sai lầm, sự chai cứng, sự bất lực của
họ là những h́nh phạt về những tội
lỗi của họ trong quá khứ. 9. Phật là ǵ? Phật
ở trong tâm của mỗi người, giữ giới
luật tu khổ hạnh, cầu kinh, học vấn,
nghĩa lư, tất cả những việc này chẳng dùng
được việc ǵ cả. Mục đích duy nhứt
mà mỗi người cần phải đạt
đến là sự giác ngộ. Khi nào đă đến
sự giác ngộ là một vị Phật. Một vị
Phật với tất cả chư Phật, dù cho kẻ
ấy không đọc được một chữ nào
hết. Là Phật, nghĩa là thấy
được Phật Tánh nơi chính ḿnh, nơi tâm ḿnh,
bản thể vô h́nh và không rờ mó được mong manh
như hư không. Tâm ấy mỗi người đều
mang trong ḿnh. Tâm ơi hỡi tâm! Mi lớn
đến nỗi bao trùm cả thế giới, mi nhỏ
đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua
được. Hỡi tâm của ta, mi là Phật, mi chính là
mi, ta phải qua Trung Hoa để truyền đạo lư. Đức
Đạt Ma Tổ Sư, do theo truyền thống của
Tổ Sư Thích Ca Mâu Ni, truyền dạy giáo lư Phật
giáo cho chư môn đồ các Ngài là không nên ỷ lại
nơi tha lực với sự hộ tŕ của các
đấng thiêng liêng vô h́nh trong việc t́m kiếm sự
giác ngộ để cầu giải thoát cho chính ḿnh, mà
phải tự lực t́m kiếm lấy. Đó thuộc
về Nhị Kỳ Phổ Độ với Đức
Phật Thích Ca. Ngày nay, chúng ta ở vào thời kỳ
mạt kiếp, nhơn loại v́ nhiễm văn minh
vật chất thậm đa nên c̣n đọa lạc
trầm luân rất nhiều ở trần gian. V́ từ bi
thương xót chúng sanh, Đức Chí Tôn Thượng
Đế mở Tam Kỳ Phổ Độ, ban đại
ân xá cho nhơn loại. Nếu quyết tâm tu hành chánh
đạo, sẽ dễ dàng giải thoát luân hồi v́ chính
Đức Chí Tôn giáng trần bằng huyền linh diệu
điển, đổ thần để d́u dắt nhơn
loại tỉnh giấc mê để phản bổn
huờn nguyên phục hồi vị cũ ngôi xưa ở
Thiên Đ́nh. Đó là tu nhứt kiếp th́ ngộ nhứt
thời. Tín đồ của Tam Kỳ Phổ
Độ rất tin tưởng sự trợ lực
hộ tŕ của các đấng thiêng liêng vô h́nh, v́ chủ
trương của Cao Đài là Thiên Nhân Hiệp Nhứt,
hai cơi hữu vô đều trợ lực lẫn nhau, có
thiêng linh diệu điển qua cơ bút, do các đấng
giáng lâm chỉ dạy môn sanh tu học và hành đạo.
Ơn Trên thường bảo rằng Đạo vô vi,
sư vô vi là vậy. Đó là đặc ân của Cao Đài
Đại Đạo. Đức Đạt Ma Tổ Sư
dạy phải tự ḿnh kiếm cho được Pháp
Thân (hay Phật Tánh, Chơn Tâm) nơi chính ḿnh th́ mới
giác ngộ, nhập niết bàn được. Đây là
một việc làm cốt yếu, dầu ở bất
kỳ thời kỳ nào. Đức Chí Tôn Thượng
Đế dạy “Các con hăy t́m Thầy trong các con và các con
trong Thầy” cũng cùng một lư đạo. Đức
Quan Thế Âm có dạy (15-6 Giáp Dần, 02-8-1974): “Người
tu hành học đạo là t́m cái tâm minh linh đă ẩn tàng
hằng tính của Thượng Đế giáng trung.
Người muốn t́m lại, trước phải yên
lặng để trau dồi gột rửa những
lớp tham sân si dục đang dầy đặc theo
những bức vô minh để thấy được
đạo tài thành của thiên địa. Người noi
theo đạo ấy tức là ḥa hợp theo thiên lư
phục hồi bổn thể chơn như vậy.” |
Bài Thuyết Pháp của Tổ Sư Bồ
Đề Đạt Ma - ĐT Chí Tín sưu tập & góp
ư .......
source: http://www.vuonlam.us/A_PhatGiao/A2_BaiViet/2_CuSi/BaiThuyetPhapCuaToBoDeDatMa.htm Bài thuyết pháp của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma
I.
Vài nét về hành trạng của Đạt Ma Tổ Sư Đức Bồ
Đề Đạt Ma 菩提
達磨
(Bodhidharma, đầu thế kỷ 6 Công nguyên), người Ấn Độ, là tổ thứ 28 của
Thiền Ấn Độ. Tổ sang Trung Hoa để truyền Phật pháp của Thiền tông và
trở thành Đệ Nhứt Tổ Thiền Trung Hoa. Ngài đến Trung Hoa vào năm 520,
gặp Lương Vơ Đế 梁
武帝 hỏi
đạo. Rất tiếc Ngài không có duyên với vua Lương nên không thuyết phục
được vua v́ hai vị quan điểm bất đồng, Vũ Đế quá thiên về thinh âm sắc
tướng, xây cất chùa chiền, in kinh độ tăng, c̣n Tổ lại chuyên về Tâm. V́
thấy không hóa độ được Lương Vơ Đế và khó truyền Phật pháp đắc lực ở
phương Nam nên Đức Đạt Ma Tổ Sư vượt sông Dương Tử, đi lên phương Bắc.
Dừng chân tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi xoay mặt ngó vào vách, tham thiền
chín năm (cửu niên diện bích 九年
面壁).
Tương truyền Ngài bỏ thế gian năm 529, để lại rất nhiều huyền thoại,
như: Đạt Ma cỡi nhánh lau vượt sông Dương Tử, Đạt Ma quảy chiếc giày
phi hành trên dăy núi Thống Lănh, v.v.
Chỗ
bất đồng quan điểm giữa vua Lương và Tổ được Đức Lục Tổ Huệ Năng 六祖慧能
(638-713) giải thích trong Pháp Bửu Đàn Kinh 法寶壇經, phẩm
Quyết Nghi. Lương Vơ
Đế hỏi suốt đời nhà vua làm những việc cất chùa, cúng tăng, bố thí,
v.v. như vậy có công đức chi không. Tổ sư
nói: Thật không có công đức. Theo
tôn ư của Tổ, vua Lương Vơ Đế thực hành hạnh bố thí 布施, hạnh
đứng đầu của sáu phép Ba La Mật 波羅蜜, là
tạo nhân phước để hưởng quả phước ở thiên nhân mà thôi, tuyệt nhiên
không phải là chơn công đức vô lậu giải thoát. Theo
Kim Cang Kinh 金剛
經, bố
thí trụ tướng chẳng khác chi vào chỗ tối, không trông thấy chi cả. Trái
lại bố thí ly tướng ví như có được mắt sáng lại c̣n nhờ thêm ánh mặt
trời chiếu soi tỏ rạng, trông thấy rơ rệt các vật. Vua Lương Vơ Đế bố
thí nhưng c̣n vọng tâm trụ tướng, không khế hợp với pháp “tam luận
thể không” của Phật. Pháp tam luận thể không gồm có ba điều dưới
đây : 1. Không
nghĩ ḿnh là người năng thí. 2. Không
nghĩ người nhận là kẻ thọ thí. 3. Không
nghĩ vật đưa ra là vật sở thí. Vua
Lương Vơ Đế hành bố thí như vậy là việc tạo nhân phước để hưởng quả
phước ở thiên nhân mà thôi. Bậc bồ tát bố thí không bao giờ trụ trước
nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, tức là ĺa tất cả tướng và hành
đúng theo “Tam luận thể không” nên phước báu cao cả không thể suy lường
được. Đạo
Đức Kinh 道德經 của
Đức Lăo Tử cũng dạy (chương 38: Thiên hạ): “Thượng đức bất đức, thị
dĩ hữu đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.” 上德不德, 是以有德; 下德不失德, 是以無德. Có
nghĩa là người đức cao không có ư cầu cái đức cho nên có đức; người đức
thấp th́ chấp cái đức của ḿnh tạo ra, nên không có công đức. Như vậy
lời nói của Đức Lăo Tử không khác “tam luật thể không” của Đức Phật. III.
Đạt Ma Huyết Mạch Luận Tổ Sư
rời bỏ vua Lương ra đi sau khi đă thuyết pháp tại triều đ́nh mười chín
ngày. Bài pháp này rất danh tiếng, ngày nay c̣n lưu truyền với tên gọi
là Đạt Ma Huyết Mạch Luận 達磨血脈論.
Về cơ
bản, bài pháp gồm chín mục như sau: (1) Bản chất của tâm; (2) Phương
thức; (3) Phật Tánh; (4) Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận; (7)
Vô minh; (8) Giác ngộ; (9) Phật là ǵ? 1.
Bản chất của tâm Tâm
là Phật, không có Phật ở ngoài tâm.
Tâm của mỗi người đồng điệu, tương ứng với thực tại muôn đời, với thực
tại muôn nơi. Ngoài thực tại của tâm th́ tất cả chỉ là huyễn tượng,
chẳng có nhơn, chẳng có duyên, chẳng có lư do, chẳng có kết quả, chỉ có
hành duy nhứt, đó là tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là
niết bàn. Tâm là Phật, Phật chính là tâm. Đi t́m một sự vật ngoài tâm ḿnh là muôn bắt sự trống
không. Tưởng tượng Phật lấy ở ngoài tâm, h́nh dung Phật ở bên ngoài
chính là mê sảng. 2. Phương thức Vậy th́ phải t́m vào trong chứ không nh́n bên ngoài. Phải tự
lắng ḿnh vào ḿnh và tự nh́n thấy Phật Tánh ở nơi chính ḿnh. Tất cả
chúng sanh đều là Phật như ḿnh, không có thiện, không có ác, mà chỉ có
động tác của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích ǵ sự cúng kiến, sự
hoằng pháp nhiệt thành, giữ giới bố thí, cầu kinh và tất cả những thứ
khác chỉ cần một điều duy nhứt: nh́n thấy Phật ở nơi ḿnh. Sự
nh́n thấy ấy sẽ đưa đến giải thoát và là niết bàn. 3. Phật Tánh Không có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ một sự tu khổ
hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Sự học kinh và tu khổ hạnh
hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có một quyển sách nào đáng cho ta mở
ra đọc. trong sự an tĩnh vô vi hoàn toàn hăy kiếm ở nơi ḿnh, nơi chính
ḿnh. Đó mới đúng là Phật. Hăy nh́n Phật nơi ḿnh, đó mới là sự nh́n
thấy chơn thật duy nhứt mà thôi. Tất cả những h́nh tượng khác đều là
sương mù ảo ảnh. Chỉ có một tội duy nhứt, là tội vô minh, tội
không nhận được thấy ra được Phật Tánh ở nơi chính ḿnh. Tội lỗi này
rất nặng v́ nó giữ ta trong cơi vô thường phù du. Ta phải tự giải thoát
bằng cách tự khám phá lại h́nh bóng của ḿnh. 4. Pháp Thân Pháp Thân nầy đă có vĩnh cửu. Trải qua những luân hồi thăng
trầm của những kiếp, Pháp Thân vẫn vô sinh, không diệt, không thêm,
không bớt, không nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét,
không đến, không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ,
không tu, không tục, không ừ, không không, v.v. Pháp Thân không một, mà cũng không nhiều, không thánh mà
cũng không phàm. Pháp Thân thung dung trong những kiếp liên tiếp, trong
ḍng sinh tử. Chính Pháp Thân nầy mà ta phải nh́n lại nơi chính ḿnh ta
phải di động và hành động. Pháp Thân chính là thần năng nhập thạch,
thần năng phi h́nh, nhập thủy bất nịch, nhập hỏa bất phần [xuống nước
không ch́m, vào lửa không cháy] trong ánh sáng của tâm. Ta không thể
diễn tả Pháp Thân nầy bằng lời nói. Ngoài những tên khác, ta c̣n gọi
Pháp Thân là thánh thể (Phật Tánh, Chơn Tâm). 5. Tĩnh tâm Tất cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư ảo, giả tạm chẳng có
ǵ thật ngoài ra Pháp Thân. Vô ích nguyện cầu, vô ích sùng bái những ǵ
mà chính là ḿnh, chỉ nên làm sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm
mà thôi. Chính những cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân nơi ḿnh, tức là
Phật chính những biểu tượng vật chất là sai lầm. chính sự sai lầm ấy sẽ
giữ ta lại, hoặc đưa ta vào ṿng luân hồi tái sanh. Hăy bỏ đi những giả
tưởng về thần thánh linh thiêng v́ đó chính là ảo tưởng phù phiếm. 6. Thiền luận Không có những ǵ hơn những ư tưởng vô h́nh của tâm thoát ra
từ Phật Tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là Pháp Thân ở nơi ta.
Phật có ư nghĩa là giác ngộ hay linh giác mà mọi người có thể đạt được.
Sự giác ngộ chính là Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền,
suy tưởng ǵ cả. Đối với ta chỉ đạt đến Thiền là khi ta thấy được Phật
Tánh, mà không kiến tánh th́ chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường. Ta có thể nói với những môn đồ của ta như vầy: Các ngươi
phải đạt đến Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp Thân, là thánh thể ở
nơi chính các ngươi. Không thể nào diễn tả được bởi v́ không thể nói ra được, cho
nên tất cả kinh luận đều vô ích. Con người sẽ được giải thoát khi nào họ đă phủ nhận tất cả
những bóng ma và những sai lầm ấy, khi họ chỉ gắn liền với Phật Tánh
của họ. Giây phút giác ngộ nầy, giải thoát nầy, mỗi người hăy tự đi đến
với chính ḿnh, giáo lư chỉ có thể giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo
lư không thể tạo ra sự giác ngộ. Lănh hội được Phật Tánh nơi chính
ḿnh, lại không thể học được Pháp Thân rất giản dị, ta không thể tạo ra
được,ta chỉ lănh hội được. Đối với kẻ nào lănh hội được Phật Tánh, th́ không cần đến
thiên đàng hay cũng không c̣n sợ vào địa ngục, không c̣n có ḿnh, không
c̣n có kẻ khác, không c̣n ǵ cả ở bên ngoài. Vậy th́, việc lănh hội Pháp Thân là một việc của đức tin
tuyệt đối, không c̣n bị pha lẫn bóng tối của ngờ vực. 7. Vô minh Kẻ nào lănh hội được Phật Tánh th́ không c̣n tạo nghiệp nữa
dù làm bất cứ một hành động nào, bởi v́ kẻ ấy đă được giác ngộ. Nghiệp
chỉ đeo đuổi những kẻ nào chưa giác ngộ v́ kẻ ấy đang c̣n ở trong ṿng
ngu tối vô minh. Chính sự ngu muội này đă tạo ra ṿng đầu thai luân hồi
ở địa ngục, làm thú và làm người. Bực giác ngộ không làm nên tội lỗi
nữa và cũng không phạm tội nữa. 8. Giác ngộ Những kinh kệ, những sự tu khổ hạnh, những công tŕnh nghiên
cứu, học hành chẳng có lợi ích ǵ cả, c̣n việc kiến tánh ta không thể
nào học được. Tại sao có người đă chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm
đứng đắn, thế mà vẫn không đạt đến được? Bởi v́ nghiệp của họ chống
đối lại, v́ họ chưa trả hết nợ, họ chưa đủ trong sạch để đến giác
ngộ. Sự hôn mê mù quáng, sự sai lầm, sự chai cứng, sự bất lực của họ là
những h́nh phạt về những tội lỗi của họ trong quá khứ. 9. Phật là ǵ? Phật ở trong tâm của mỗi người, giữ giới luật tu khổ hạnh,
cầu kinh, học vấn, nghĩa lư, tất cả những việc này chẳng dùng được việc
ǵ cả. Mục đích duy nhứt mà mỗi người cần phải đạt đến là sự giác ngộ.
Khi nào đă đến sự giác ngộ là một vị Phật. Một vị Phật với tất cả chư
Phật, dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào hết.
Là Phật, nghĩa là thấy được Phật Tánh nơi chính ḿnh, nơi
tâm ḿnh, bản thể vô h́nh và không rờ mó được mong manh như hư không.
Tâm ấy mỗi người đều mang trong ḿnh.
Tâm ơi hỡi tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả thế giới, mi nhỏ
đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được. Hỡi tâm của ta, mi là Phật,
mi chính là mi, ta phải qua Trung Hoa để truyền đạo lư. IV. Góp ư của người sưu tập Đức
Đạt Ma Tổ Sư, do theo truyền thống của Tổ Sư Thích Ca Mâu Ni, truyền
dạy giáo lư Phật giáo cho chư môn đồ các Ngài là không nên ỷ lại nơi
tha lực với sự hộ tŕ của các đấng thiêng liêng vô h́nh trong việc t́m
kiếm sự giác ngộ để cầu giải thoát cho chính ḿnh, mà phải tự lực t́m
kiếm lấy. Đó thuộc về Nhị Kỳ Phổ Độ với Đức Phật Thích Ca. Ngày
nay, chúng ta ở vào thời kỳ mạt kiếp, nhơn loại v́ nhiễm văn minh vật
chất thậm đa nên c̣n đọa lạc trầm luân rất nhiều ở trần gian. V́ từ bi
thương xót chúng sanh, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở Tam Kỳ Phổ Độ, ban đại
ân xá cho nhơn loại. Nếu quyết tâm tu hành chánh đạo, sẽ dễ dàng giải
thoát luân hồi v́ chính Đức Chí Tôn giáng trần bằng huyền linh diệu
điển, đổ thần để d́u dắt nhơn loại tỉnh giấc mê để phản bổn huờn nguyên
phục hồi vị cũ ngôi xưa ở Thiên Đ́nh. Đó là tu nhứt kiếp th́ ngộ nhứt
thời. Tín
đồ của Tam Kỳ Phổ Độ rất tin tưởng sự trợ lực hộ tŕ của các đấng
thiêng liêng vô h́nh, v́ chủ trương của Cao Đài là Thiên Nhân Hiệp
Nhứt, hai cơi hữu vô đều trợ lực lẫn nhau, có thiêng linh diệu điển qua
cơ bút, do các đấng giáng lâm chỉ dạy môn sanh tu học và hành đạo. Ơn
Trên thường bảo rằng Đạo vô vi, sư vô vi là vậy. Đó là đặc ân của Cao
Đài Đại Đạo. Đức
Đạt Ma Tổ Sư dạy phải tự ḿnh kiếm cho được Pháp Thân (hay Phật Tánh,
Chơn Tâm) nơi chính ḿnh th́ mới giác ngộ, nhập niết bàn được. Đây là
một việc làm cốt yếu, dầu ở bất kỳ thời kỳ nào. Đức Chí Tôn Thượng Đế
dạy “Các con hăy t́m Thầy trong các con và các con trong Thầy”
cũng cùng một lư đạo. Đức
Quan Thế Âm có dạy (15-6 Giáp Dần, 02-8-1974): “Người tu hành học
đạo là t́m cái tâm minh linh đă ẩn tàng hằng tính của Thượng Đế giáng
trung. Người muốn t́m lại, trước phải yên lặng để trau dồi gột rửa
những lớp tham sân si dục đang dầy đặc theo những bức vô minh để thấy
được đạo tài thành của thiên địa. Người noi theo đạo ấy tức là ḥa hợp
theo thiên lư phục hồi bổn thể chơn như vậy.” Chí Tín |