ANH NHI THÁNH
THAI CON ĐỎ
HỒNG HÀI NHI hay NGƯU
MA VƯƠNG
cùng
TẾ THIÊN ĐẠI THÁNH
chiết KHẢM điền LY để KHẢM thành KHÔN và LY thành CÀN
đồng thể với Trời.
Xác phàm có 7 luân-xa
Cướp Hư-Vô chi Khí Nhâm giáng + qua Trường Cường
Người đời đi xuống là thường,
Thuận chuyển sanh đẻ vào đường trần gian.
Nghịch chuyển nhờ Ngưu-Ma-Vương,
Bốn bánh bằng lửa lên đường Nê Cung,
Mạng Môn Tể Thiên giúp cùng,
Thiết Bảng moi KHẢM chở cùng lên trên.
Đưòng Minh Hoàng quá giang ngồi bên, (lúc Tề + Ngưu chưa
lên bưới lên quạ đen đi quá chậm)
Chị Hằng chớ đón đắp mền chờ lâu.
Tề + Ngưu đánh Phật mở đầu,
Thiên Cung trận giặc Phật cầu Quan Âm,
Kim cô lục tự tịnh thâm,
Âm Dương giao cấu Trời rầm mưa rơi. (Đường Minh Hoàng động
phòng với chị Hằng Nga)
Hào Dương của KHẢM nuốt rồi,
Ghép vô LY đủ ba Ngôi CÀN đầy.
KHẢM mất Hào, KHÔN hiện bày,
Thánh Thai => Phật Tử từ đây có rồi.
Phật Tử thành Kim Thân nhờ nuôi,
Đến ngày qui liễu lên trời Nirwana.
Hà
Phước Thảo, người tu dốt làm thơ giúp vui,
Những
danh
từ trong bửu pháp luyện Yoga từ Ấn-độ, thiền định
Văn Hỏa và Võ Hỏa từ chánh pháp của Đức Phật Thích Ca
trong thời gian đầu, cách luyện Tiên Đạo trong Đạo Giáo
tại Trung Hoa từ đời Lạc Hồng do Nhị Tổ của Nhơn Loại là
Đức Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ đã tu luyện và có vẽ sơ đồ
Đại Thiên Thế Giới và Tiểu Thiên Địa thành Tiên Thiên Bát
Quái và Hậu Thiên Bát Quái để tu luyện thành Tiên và sau
cùng là bửu pháp của Đức Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ mang qua
Trung Quốc và các minh sư đã viết Tiên-Phật-Hiệp-Tông, Tây
Du Ký, Thất Chơn Nhơn Quả và những sách dạy Tu Luyện,
nhưng Khẩu Khuyết thì còn giữ bí mật nên qua thời gian bị
thất truyền.
Đến khi Đạo Cao Đài được chính Đức Thượng Đế khai
minh mở ra để ngài dạy nhơn loại tu cho kịp lúc Nguơn Cuối
chấm dứt mà về chốn Bồng Lai Tiên Cảnh hay lên cõi nhàn.
Sau đây là những từ ngữ khó hiểu, nhưng rất cần thiết cho
chư vị tu luyện theo bửu pháp độc nhứt vô nhị là pháp
Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh và rất bí truyền, không ai được
chỉ cho người khác, nếu người muốn tu luyện chưa XIN KEO
mà xin keo là cách để người chỉ kiểu được phép truyền
pháp. Đức Thượng Đế cho keo là vì chính Đức Thượng Đế mói
biết ai là Hoá Căn, ai là nguyên căn. Nguyên căn học bí
pháp để luyện Kim Thân mà về ngôi vị cũ, vì chư vị đó từ
Thiên Đình xuống, gốc la Tiên, Bồ Tát, Phật, còn ai xin
keo mà Đức Thượng Đế không cho là Hóa Căn, là kiếp thú mới
tiến hóa lên làm người, tuy thông minh tài giỏi, nhưng
chưa biết tu TÁNH, còn hung dữ, thích ăn mặn, ham dâm dục,
thích có quyền hành, thích làm chức lớn như Tăng Thống,,
Thống Chưởng, Vua của Tôn giáo...thích vào độc đảng
và đa số theo duy vật, không tin gì cả. Họ vào các Đàn
Chiếu Minh để hại Đạo kiểm soát Đạo, chỉ huy Đạo, huấn
luyện những tu sĩ trở thành chức sắc quốc doanh, tu giả
chứ không tu luyện theo Đại Đạo đâu!
Anh Nhi Anh Nhi: Lúc ngọc dịch
hoàn đan (luyện tinh hóa khí), đan ấy mới thành hình
gọi là anh nhi (trẻ sơ sinh); do vì từ nơi
không mà sinh ra có, khi công phu tiểu chu thiên
(luyện đan) hoàn tất mới thấy được. Tổ Hải
Thiềm nói:"Sau khi luyện đan hoàn tất, sinh một anh
nhi tại hạ điền". Âm dương:
nơi
trời là Nhật Nguyệt, nơi Đất là Thủy Hỏa, nơi người
là nam, nữ, nơi thân là tim, thận, nơi phương hướng
là đông nam tây bắc, nơi quẻ hào là Càn Khôn Khảm
Ly, nơi thời gian là tí ngọ, nơi hư không là gió
mây, nơi vật chất hay vật lý loài là diên hống, long
hổ. Vũ trụ vạn vật đều có âm dương: luyện đan
cũng thế, không có âm dương đâu thể thành đan, không
thể thành đan mà muốn thành chân nhân là việc khó
có! Cổ tiên nói: "Nhất âm nhất dương gọi là đạo,
chẳng biết âm dương thì dù bận rộn cũng không mang
lại kết quả gì" , Lữ Tổ nói: "Hai thứ âm
dương ẩn trong vi, chỉ kẻ ngu si chẳng tự tri, cho
rằng thật sự là nam nữ, quả quyết không nhận là khảm
ly". Tổ Tam Phong nói: "Âm dương nam nữ cùng
giao phối, cháu cháu con con đời đời truyền, thuận
là phàm, nghịch là Tiên, chỉ tại nhân gian còn đảo
điên". Lại nói: "Miên mật điều hòa sự hô hấp, nhất
âm nhất dương nấu trong lò".
Âm dương động tĩnh: Dương trong âm lấy động làm chủ, cho nên trong lúc lấy cung khảm để rình động. Âm trong dương lấy tĩnh làm chủ, cho nên sau khi bổ sung cung ly để dưỡng tĩnh. Đạo tạng nói:"Động là nền tảng của tĩnh, động chẳng là tâm ý mà là khí đan điền động". Lữ Tổ ghi:"Động tức là thi công, tĩnh tức là ngủ". Tiên Tông ghi:"Động thuộc dương, tĩnh thuộc âm, dương tột thì âm tĩnh, âm tột thì dương động" |
||
|
An lô lập đỉnh
An lô lập đỉnh: "dựng
lò đặt bếp". Thân phải thẳng, ngồi phải yên, vững như
Thái Sơn là bên ngoài vững vàng như Lô Đỉnh. Lấy thần
chế ngự khí được bên trong vững vàng như lò đỉnh (lò, lư
hương). Thái Thanh Tu Đan quyết ghi: "thân
vững vàng như lô đỉnh, âm dương khó lường gọi là thần"
An Tâm:
Danh từ Nội Đan Đạo giáo. Tọa Vong Luận ghi " Tâm
không đuổi theo cảnh bên ngoài. Tâm an nhiên mà trống rỗng
(hư) thì đạo tự đến". Chỉ trạng thái thu gom tình
cảm, tập trung ý nghĩ vào bên trong (nội cảnh), điềm đạm vô
vi.
An Thần:
Thuật
ngữ Nội Đan đạo giáo. Trọng Trường Thống truyện ghi: "An thần
khuê phòng, tư Lão Tử chỉ truyền hư, hô hấp tinh hòa, cầu chỉ
nhân chi phảng phất". Tức là thu liễm thần chí, tập trung tinh
thần, vô dục vô niệm, ninh tĩnh tâm tư.
Thai viên
Thai viên:
Ngũ chân nhân đan đạo cứu thiên ghi: "Trước mấy tháng cả 2 khí
đều không có, thực mạch lưỡng tuyệt, đã có triệu chứng rõ
ràng. Vì thế cô luận trong 10 tháng hay ngoài cửa ải 10
tháng, chỉ có một ý mảy may hôn trầm còn sót lại, có một mảy may
ý nghĩ tán loạn, thần chưa thuần dương, tất phải giữ cho
đến sạch hết hôn trầm, không còn tán loạn nữa mới là thai thuần
dương quả mãn, đã đi vào cõi thần tiên". Tức là âm tận
dương thuần, thai viên đan thành.
Thánh thai: Là
chân thần, chân khí. Thai kết hợp mười tháng thai tròn đủ,
mới xuất thai gọi là anh nhi. Ba năm bú mớm công phu hoàn
mãn gọi là Thiên Tiên. Chín năm ngó vách hoàn hư hợp đạo gọi là kim tiên.
Trần Hư Bạch nói: "Hơi thở vãng lai không gián đoạn, thánh thai
thành tựu hợp nguyên sơ"
Nam Bất khoan y, Nữ Bất Giải Đái
Nam bất khoan y, nữ bất giải đái : "Nam
chẳng cởi áo, nữ chẳng tháo dây lưng". Đây là ngưng thần
nhập khí huyệt, là công phu phối hợp thần khí hòa với
nhau, giống như cách thức của nam nữ, chẳng cần cởi áo, tháo dây
lưng, đi đứng nằm ngồi đều có thể thi công. Huyền cơ trực giảng
của Tổ Trương Tam Phong ghi: "Chỗ gọi là nam không cởi áo,
nữ chẳng tháo dây lưng đều gọi là ngưng thần tụ khí
mà thôi, còn như thế gian có việc sử dụng nữ đỉnh thì tuyệt đối
thể có lý này"
Hoàng Đạo: Ngộ
Chân Thiên ghi: "Kìa những bậc luyện Kim dịch hoàn đan, khó gặp
mà dễ thành, cần phải tu sâu đạo âm dương, thông tỏ lẽ tạo
hóa, thì mới có thể siêu vượt 2 khí ở chỗ Hoàng Đạo, hội họp ba
Tính ở nơi Nguyên Quan". Có 3 còn đường vận hành của dược
vật trong cơ thể, Hắc đạo Hồng Đạo, tuần hoàn theo 2 mạch nhâm
đốc, từ Hội Âm tới thằng Nê Hòan là Hoàng Đạo, do Ý thổ trung
ương làm chủ. (langtu chú: Hoàng Đạo chính là trục Tí Ngọ nằm
giữa cơ thể (không phải xương sống), trục này đi qua trung ương
là Huỳnh Đình)
Tính mệnh song tu:
"Tính" chỉ tính công, tức công pháp lấy luyện thần làm
chính. "Mệnh" chỉ mệnh công, tức chỉ công pháp lấy luyện
tinh khí làm chính. Tính mệnh song chỉ tính và mệnh đc tu luyện
đồng thời, đó là phép tu Thượng thừa. Tính Mệnh Khuê Chỉ
ghi: "Thần Khí tuy có 2 tác dụng, nhưng tính mệnh phải
song tu... Tính mệnh song tu gọi là phép Thượng Thừa cao nhất,
gọi là Kim Tiên"
Tính mệnh Nhị Khiếu:
Tính khiếu ở trong thóp trên đầu con người, trước có minh đường,
sau có ngọc chẩm. Mệnh Khiếu bắt đầu từ cuống rốn
nối liền với cuống rốn mẹ, đến khi xuất thai, cắt đi cuống
rốn, một điểm tinh khí ghé nơi khí huyệt phía trước đối
rốn, phía sau đối thận. Tính khiếu ngoài là tín môn
(thóp), trong là nê hoàn. Mệnh khiếu ngoài là rốn, trong
là khí huyệt. Tổ Tử Dương nói: "Dược vật sinh nơi huyền
khiếu, hỏa hậu phát ở dương lô"
Đề Hồ: Lúc luyện tinh hóa khí, trong giai đoạn
công phu chuyển tiểu chu thiên, tinh vẫn chưa hóa hết thành khí,
khí quá trùng lâu xuống rán cung cảm thấy ngọt ngào mát mẻ như
cam lộ chảy xuống, vật này gọi là đề hồ. Thí dụ như sữa bò
chế luyện thành lạc, lạc lại được tái chế thành tô, tô lại được
tái chế thành đề hồ. Tào tiên cô nói: " Một vị đề hồ như nước
cam lộ, trừ đượcc đói khát thấy chân tố" . Vô Căn thụ nói:
"Huỳnh bà khuyên uống rượu đề hồ, mỗi ngày hớn hở say một phen"
Xuất thần: mười
tháng công phu viên mãn, lúc tâm tức định một lượt, một khi thấy
hoa trời rơi loạn xạ , liền có thể xuất thần ra khỏi đỉnh đầu
đây là siêu thoát thân phàm. Nhưng công hạnh mỗi
ngừoi khác nhau thì cảnh tượng xuất thần cũng khác biệt,
có người xuất thần từ bảo tháp, có người xuất thần từ hồng lâu,
có người xuất thần khi xem trăng, có người xuất thần lúc đối
cảnh, v.v.... Chung tổ nói: "Sấm sét thiên quan quỉ thần kinh,
lật ngã vũ trụ tuyết trắng bay"
Khẩu Quyết
Khẩu Quyết:
Đan đạo chí quí, của báu của trời, cho nên đan kinh muôn quyển
không cho để lộ chân cơ, từ xưa thần tiên đều dùng
miệng truyền nhau bí quyết, không cho truyền trên văn tự.
Từ khi Tử Dương chân nhân truyền bí quyết cho ba kẻ xấu, bị trời
khiển trách thì các bậc cao nhân truyền đạo tuyển chọn đồ đệ rất
khiêm khắc. Hứa Tổ nói: " Thầy ngâm kinh đạo đức để trò
ngộ, đan kinh phải do khẩu truyền nhau". Ngộ Chân
ghi:"Muốn biết khẩu quyết thông huyền xứ, phải cùng thân tiên
chín chắn bàn"
Khí Huyệt: Ở sau rốn trước lưng,
trên thận dưới tim, là trung tâm của 2 mạch động tĩnh, nó chia
ra 2 mạch hợp thành một ống, duới thông trung tâm của tiểu tràng
do bốn lớp màng mỡ đều dính liền với tiểu tràng. Lớp đầu
là huỳnh đình, lớp kế là kim đỉnh, lớp thứ ba là khí huyệt, lớp
thứ tư là quan nguyên. Huyết dịch đến kim đỉnh liền biến thành
màu trắng gọi là âm tinh. Từ trung tâm tĩnh mạch chia ra
một ống nhỏ, gọi là nhâm mạch, còn gọi là xuân huyền, đi thẳng
vào ngoại thận trong hòn dái; âm tinh đi qua hòn dái tức là chứa
tinh trùng,trong tinh trùng hàm chứa khí gọi là tổ khí, laị đi
vào túi tinh ở 2 bên dứoi bàng quang. Tuy nói rằng chờ
thời cơ mà động, thật sự thì bị lửa trong sinh tử phát ra thúc
giục vào dương quan, gọi là hỏa bức kim hành. Chỉ cần biện
được sự đục trong của nó thì sinh người hay sinh Tiên hòan toàn
do sự thuận nghịch lúc này. Huyệt huyền quan này chưa mở, không
thể thấy được,chỉ có thần còn giữ nó khả dĩ cổ động nguyên dương
quay trở lại trong huyệt. Nếu mất điều hòa thì dương tự hưng
thịnh mà tiết ra bậy bạ. Đoạn này do Thiên Phong lão
nhân thuật lại, là phát minh mới, nói pháp ko giống mọi người
nên ghi lại để làm bằng chứng tham khảo
Huyền tẫn:
chì huyệt chính giữa cơ thể. Phùng thì cẩm nang ghi:" Một
huyệt giữa thân, tên là Huyền Tẩn, thụ khí để sinh, thực là Phủ
thần, là nơi tam nguyên tích tụ, tinh- thần- hồn- phách đều họp
ở huyệt này. Đó chính là gốc của Kim Đan trở về, là nơi
thần tiên ngưng kết thánh thai". Vị trí của nó đúng ở dứoi
Càn, trên Khôn, phía Tây của Chấn, phía đông của Đoài, ở chỗ
Khảm LY giao hợp, là chỗ chính giữa thân thể, chẳng dựa vào hình
mà lập, suy thể đạo mà sinh, dường có dường không, như còn như
mất, ở chỗ chính trung mà thôi.
Khiếu Trung Khiếu:Trong
thân
có 84.000 lỗ chân lông, khí quản 384 sợi đều thông 8 mạch,
lại do 8 mạch tập hợp lại thành một khiếu, khiếu này không hình
không bóng, chợt ẩn chợt hiện gọi là cơ quan huyền diệu, Vì vị
trí của nó ở trong mười phương hư vô, nên gọi là khiếu của hư
vô. Vì khi nó phát động có khiếu, không phát động thì
không được gì cả nên gọi là một khiếu huyền quan. Vì nó ở tại
đan điền mà đan điền đã là một khiếu, nếu khi đan điền phát động
lại hiện thêm một khiếu nữa, đây là khiếu trong khiếu. Cổ
Tiên nói: " Trước khi sinh hỗn độn, hỗn độn đã có sẵn, trong ấy
không cho truyền tin tức, mở toang trong khiếu khiếu trung
khiếu, giẫm nát hư không thiên ngoại thiên"
Nhật Nguyệt Hữu Số
Nhật nguyệt hữu số: Nhật là số 16, có 5760 ngày, vì mặt
trời thường tròn, như Mặt trăng từ giờ Tý ngày 1 đến ngày
16, có 96 dương thời hợp với 5.750 thù, ánh sáng đầy đủ, cho nên
con trai tuổi 16 dương tinh đầy tràn là thời kỳ dương trưởng âm
tiêu. Sau đấy thời kỳ dưong tiêu âm trưởng nhắm lúc 48
tuổi, 16 tuổi cộng với 48 tuổi là 64 tuổi. Đàn ông
đến 64 tuổi là âm tột, âm tột lại có chút dương sinh
bên ngoài, như quẻ cấn hậu thiên số 8, âm tiêu dương trưởng. Đàn
ông 80 tuổi tuy dương tinh hậu thiên không còn nhiều mà cũng
sinh con và có thể hoàn đan. Nguyệt số là 14, có 5.040 ngày, vì
mặt trăng không tròn mãi, có khi khuyết khi đầy. Cho nên con gái
14 tuổi âm huyết thịnh mà thiên quí thông là thời kỳ âm trưởng
dương tiêu, đến lúc 35 tuổi là âm tiêu dương trưởng, 14 tuổi
cộng với 35 tuổi là 49 tuổi là thời kì dương tột của phụ nữ,
như quẻ đoài hậu thiên số 7 dương tiêu âm trưởng. Đàn bà
63 tuổi tuy âm huyết hậu thiên không đủ song vẫn có thể
dưỡng dục và có thể thái âm luyện hình. Âm phù ghi:"Nhật
nguyệt có số, lớn nhỏ xác định"
Minh nguyệt:
Lúc nhật nguyệt đối nhau, ánh sáng tròn đầy âm khí mất sạch cho
nên gọi là Minh nguyệt. Khưu Tổ nói: " trừ hết tà dục được mát
mẻ, thích đứng nguyêt đài thưởng thức minh nguyệt"
Bàng Môn Tà Đạo:
Bàng môn tà đạo: Bàng môn là pháp đồng mà công không đồng, vì
bàng môn đi theo con đường khác nên chưa thể thành chính quả mà
chỉ thành tiểu quả, cho nên bàng môn dễ gặp mà khó thành, còn
đại đạo khó gặp mà dễ thành, lại chẳng biết kim đan đại đạo rất
giản dị, tuy kẻ tiểu nhân ngu muội biết được mà thực hành theo
thì cũng bước lên đất Thánh, thì làm sao thế nhân không biết Kim
Đan Đại Đạo! Ngẫu nhiên được tiểu thuật có công pháp làm
hết bệnh bèn cho rằng đó là diệu pháp duy nhất, chân truyền
không hai, rồi làm thầy lập giáo, thu đệ tử truyền pháp nhưng
không thưa hỏi, dối mình gạt người. Thiên sai vạn biệt này
không thể nói ra hết. Tà đạo với bàng môn cũng không giống
nhau, bởi bàng môn vẫn gần Đại Đạo, công phu của họ chưa được
chỉ dạy nên theo đường bên trái mà đi, rốt ráo không thể siêu
phàm nhập thánh. Tà đạo dùng thái chiến gạt người, đem
phòng thuật để dỗ dẫn dụ, hại ngừoi lợi mình, mục đích là thu
gom tiền của người khác. Còn một loại thần tác quái, làm
người nghe kinh hãi, lời nói yêu ma mê hoặc mọi nguời, không sao
kể siết.. Thiên cốc thần ghi:"Bàng môn nhiều kĩ xảo đều ko tránh
khỏi vô thường". Ngộ Chân ghi: " Ko biết chân diên chánh
tổ tông, mọi loại tác dụng đểu uổng công".
Ngoại đạo: Có 4 loại: "
Động, tĩnh, thuật, lưu". Động như kéo cung đạp nỏ, xoa rốn
chuyển khí, lắc đầu lay mình, là loại người dẫn dắt uống ăn,
muốn thành đạo như mò trăng dưới nước. Tĩnh, như dừng
lương thực trốn trong hang, thanh tịnh vô vi, tham thiền tĩnh
tọa, ăn chay cấm khẩu, là loại ngừoi nhập định tọa quan, muốn
thành đạo giống như đất trong lò chưa từng nung lửa làm sao bền
đưôc? Thuật, như thỉnh tiên cầm chuông, vẽ bùa trị bệnh,
kêu mưa gọi gió, là lọai ngừoi viên quan thỉnh thần, muốn thành
đạo giống như cảnh hiện trong gương toàn hư giả. Nho gia, Thích
gia, Đạo gia giảng kinh thuyết pháp, thầy bói thầy tướng
đi khắp bốn phương, xem kinh niệm Phật, lên chùa lễ Phật dâng
hương, đều giống như trong vách nhà đặt cây cột, há có thể đắc
đạo được ư? Liễu Mệnh Thiên ghi: " Trong thân đều là thuốc sống
lâu, tức cười kẻ ngu hứong ngoại tìm"[/b]
Kiên tâm
lập chí: tu luyện cần phải kiên tâm khổ chí
mới có thể thành tựu, như ngày xưa Khưu Tổ gặp cả trăm nạn nơi
Trùng Dương Lão Tổ mà lòng không thối chuyển. Tổ Tam Phong
vì đạo quên mình, áo rách giày hư mà không bận tâm đến.
Bạch Ngọc Thiềm tổ bị Hoành Nghich chửi mắng mà vẫn vui vẻ không
so đo. Đàm Trường Chân Tổ bị người đánh đập mà chẳng đánh lại.
Xao Hào Ca ghi:"Kiên tâm lập chí hai ba năm. trăm ngày muôn kiếp
thọ vô cương"