
Xá nữ phương nhị bát, kim ông
chính cửu tam.
(Xá nữ
đang lúc nhị bát, kim ông đang lúc cửu tam.)
Xá
nữ ví với khí do âm tinh của ta biến hóa
thành, nhị bát là số làm thành
cân tròn, để chỉ đã đủ cân lạng; kim
ông ví với thần do dương khí của
ta ngưng lại, cửu tam chỉ dương bên trong (nội dương) đã
đủ, tức quẻ
trong của càn đã đạt đến tượng của ba hào. Luyện
đan đến đây thì thần
khí trong thân đều mạnh, sắp phân thai được. Nếu
vì hiếu động mà không
giữ sự an tĩnh, bỏ mặc cho sự nôn nóng, kiêu căng,
ắt khí quay ngược mà
động tâm, cốc thần khó an tĩnh. Chưa đầy và
không tràn trề nên phải
dùng “nhị bát” và “cửu tam” mà ổn định hỏa
hậu, khuyên mọi người nên
luôn cẩn thận, không kiêu ngạo, không lo lắng
sẽ có được nội hàm tốt
đẹp, tự nhiên dục vọng phẫn nộ không dâng lên,
việc phân thai không bị
lỗi.
Động phòng sinh thụy khí, hoan
hợp sản sơ nam.
(Khi động phòng sinh khí tốt
lành, hợp hoan sinh con trai đầu.)
[Động
phòng là ví với thân của ta, tức nhất khiếu
tàng ẩn sâu kín;
“sinh thuỵ khí” chỉ dương khí trong thân ta nổi
lên, nó chính là chỗ
dựa để chân mệnh trở lại, là dấu hiệu dương thần bắt đầu
đặt nền móng;
“sản sơ nam”, chỉ dương thần bắt đầu hoài thai như quẻ chấn chỉ
trưởng
nam, thêm vào quẻ Càn thì thành
hình tượng sấm sét mạnh mẽ - nhất dương
bắt đầu động ở quẻ ngoài. Lúc này trong thân
khí đã mạnh, thần đã tàng
ẩn, đột nhiên dương khí dâng trào,
cùng thần giao hội. Trong phút chốc,
cốc thần liền hóa thành dương thần, giống như sinh được
đứa con trai đầu,
tức chân mệnh đã trở về, là sự thành
công của cốc thần, có thể giữ thần lại mà
không bị chết!
Trên đây là chương mười một, chỉ ra cảnh tượng khi
chân mệnh trở về, để
nói rõ con đường phân thai tự nhiên, nếu đọc
được sẽ ngộ ra. Đang lúc
dương thịnh mà sắp suy, chính là tượng của quẻ
Quệ, nhanh chóng tự
thoái ẩn, trở lại quẻ phục lúc ban đầu. Khổng tử
nói: “Biết cái sắp tới
và tàng ẩn cái đã có”, đắp đổi cho
quẻ Quệ là quẻ Cấn, đắp đổi cho quẻ
Bác là quẻ Phục, và từ nền tảng này dương
thần được sinh ra, mới hay
rằng dùng cửu (chín) hay lục (sáu) đều tốt
lành mà không hối hận.
Tinh thần hồn phách ý,
hóa tác tử kim sương.
(Tinh, thần, hồn, phách và
ý đều hóa thành giọt tử kim sương (sương
màu vàng tía).
[Tinh
tàng ẩn ở thận, thận khí đầy đủ thì tinh ở an nơi
thận tạng nên
con người có trí tuệ; thần ẩn ở tim, tim khí đầy
đủ thì thần ở an nơi
tạng tim nên con người có lễ; hồn tàng ẩn ở gan,
khí ở gan đầy đủ thì
hồn ở an nơi gan nên con người có lòng nhân;
phách ẩn ở phổi, phổi khí
đủ thì phách ở yên nơi phổi mà con người
có nghĩa; ý tàng ẩn ở tỳ, tỳ
khí đầy đủ thì ý ở an nơi tỳ nên con người
có tín – Đây là do ngũ tạng
mỗi tạng giữ một khí, mỗi tạng có một đức. Có như
vậy, nếu con người có
thể thành ý, chính tâm thì năm
khí đều đầy đủ và mỗi khí ở an nơi tạng
của nó, năm đức dồi dào. Đây là đương lối
mà bậc thánh luôn quán triệt
để thoái tàng vào nơi sâu kín, tức
là cách để người luyện đan gôm tụ
ngũ hành quay về tàng ẩn ở nhất khiếu. Năm khí
hòa thành một, có thể
ngưng kết thành thần - thần tức là đan. Đạo giáo
gọi là đan, tức điều
Nho gia gọi là nhân, giống như nhân trong hạt quả.
Tử (màu tía) –
kim đan ban đầu do thủy và hỏa hợp thành, thủy đen hỏa
đỏ, hòa vào nhau
thành màu tía, nên quan Doãn tử thấy
khí của Lão tử là khí tía. Ở
đây
không gọi là đan mà gọi là sương, vì
e người đọc câu nệ theo chữ mà ngộ
nhận nó có dạng hạt (viên), suy nghĩ nhiều
hóa ra ảo giác, thì trong
thân sẽ bị chứng nghẽn khí sưng nề, phần lớn là do
ngộ nhận, nên ví nó
với làn sương do nhiều hạt mốc tạo thành. Để làm
rõ hình tượng cho dễ
hiểu thì không thể vòng vo,
nên lấy hình tượng về sự trống rỗng và vụn vặt để
hình dung sự vi diệu của kim đan là
từ trong vô tướng sinh ra thực tướng, nên viết là tử
kim sương (làn sương vàng tía).
Đọc hai chương này đủ chứng minh sự tu dưỡng của người có
công phu
ngang cùng trời đất. Vì sao? Trời có hình
dạng rũ xuống để che trùm vạn
vật, trời chỉ dưỡng lấy cái vô hình nên
hình tượng của trời càng cao
qúy sáng ngời, luôn che trùm vạn vật khắp
vô cùng; đất ngưng kết thành
hình thể để chở vạn vật, đất chỉ dưỡng lấy cái vô
thể nên thể của nó
càng dày rộng, luôn nâng đỡ vạn vật mà
không lọt vật gì ra ngoài. Con
người ngụ trong hình hài mà thành vật,
người có thể dưỡng cái vô hình
của mình thì hình càng lâu
dài, bao lấy sự biến hóa của trời đất mà
không sai trái, uốn thành vạn vật mà
không để sót, có thể trường sinh
nhìn ngắm mãi mãi, trí tuệ bao trùm
vạn loài, vượt trên người đời, đứng
giữ trời ba đất hai thành ba ngôi. Do đó Bạch tử
nói: “Người ta nếu
không bị hình hài làm lụy thì trước
mắt chính là cõi trời Đại la.” Còn
nói: “Quên hình để dưỡng khí, quên
khí để dưỡng thần, quên thần để
dưỡng hư, quên hư để hợp với đạo.” Một chữ “quên”
này chính là không có
vật nào cả. “Vốn không có vật nào cả,
vì đâu mà nhiễm trần ai?” Vậy
việc gì phải chấp vào đâu là tinh, đâu
là thần, đâu là hồn, là phách,
là ý? Tất thẩy quy về một câu: Dưỡng lấy cái
vô hình, tự nhiên theo sự
chuyển hóa của khí mà nắm rõ hết cái
thành thực nhất về tính của ta.
Trên đây là chương mười lăm, chương này nối
tiếp ý các chương trên, nói
rõ rằng kim đan không phải là vật chất, dạy người
bắt tay vào luyện
công, chỉ cốt ở chân thành theo một, không
có tư tưởng phân biệt thành
hai, dưỡng lấy cái vô hình để hợp với cái
vô tượng, vô thể, thì chính
khí tự chảy trong trời đất, nguyên thần tự tập trung ở
thân, được như
vậy thì tự nhiên có sự thanh tĩnh kỳ diệu.
Trần Nê Hoàn gọi đó là “tam nhất âm
phù”, Trương tử gọi là
“Đến được nền ly khảm thì tam giới ở trong thân.” Từ
chương đầu đến đây là tổng kết.
Chín chương dưới nói rõ việc ôn dưỡng khiếu
thành đan,
và làm sáng tỏ thêm ý các
chương trên.
Duy lưu thần dữ khí, phiến hưởng kết
huyền châu.
(Chỉ khi giữ lại thần và khí,
trong phút chốc có thể kết thành huyền châu.)
[Hồn
tàng nên thần được toàn vẹn, phách bị diệt
nên khí đầy đủ. Thần
khí giao cảm, tự nhiên ngưng kết. Huyền tượng trưng cho u
huyền sâu
kín, châu tượng trưng cho ánh sáng trong
lành, nên viết là huyền châu.
Trên đây là chương mười bảy, nối tiếp ý
chương trên, giảng rõ rằng
dưỡng cái vô hình thì khí tự đủ
và thần tự tàng ẩn an tĩnh.
Khẩu quyết vô đa tử, tu đan tại phiến
thời.
(Khẩu quyết không nhiều lời, luyện đan
chỉ trong phút chốc.)
[Khẩu
quyết luyện đan này chính là hai câu “duy
lưu thần dữ khí...” của
chương trên, ý nghĩa của nó nằm ở ba chữ
“không nhiều lời” và “trong
phút chốc”. Nhưng thần khí làm thế nào
cùng giữ lại, trong phút chốc
làm sao ngưng kết, thì vốn có bí quyết đơn
giản, chính là điều mà Thạch
tử trong bài tựa đầu nói “không quá nửa
câu”. Người học khi công phu
thuần thục, từ định sinh ra tuệ, sẽ tự nhiên lĩnh ngộ, đoạt lấy
thiên
cơ, đạt đạo hoàn toàn, không uổng phí
công phu.
Ôn ôn hành hỏa hậu, thập nguyệt sản
anh nhi.
(Hỏa hậu giữ vừa vừa, mười tháng sinh
ra anh nhi (đứa trẻ sơ sinh).
[Trông
hỏa hậu giữ lò thuốc ở mức từ từ, khi thần và tức
đã an thì mặc
theo tự nhiên. Khí đã thuần thục, niệm đã
lặng, tự nhiên không có sai
lầm. Dưỡng qua ba trăm ngày, tự nhiên linh động lên
như đứa trẻ sơ sinh
thoát khỏi thai mà sinh ra, thấy hình tượng của
con rồng trên ruộng –
đây là lời ví von.
Trên đây là chương mười tám, chương
này nối tiếp
ý hai chương trên, và mở đầu cho ý của
sáu chương dưới. Hai chương trên
nói về hái và giao kết, chương này chỉ ra
hai chữ “khẩu quyết” và dạy
cách dùng khẩu quyết, hỏa hậu phải giữ mức vừa vừa.
Sáu chương dưới
giảng về tắm gội và phân thai, ôn dưỡng,
thành đan.

THỦ KHẢM ĐIỀN LY
Hống thị Thanh
Long tủy
Nữ đan hiệp tập
Nội Đan, Ngoại Đan
Cao Đài đại thụ

Đàn Bửu
Liên Đăng Tây Đức
Trở lại
trang chánh
|