WELCOME TO

Cao Đài Giáo trong Tam Kỳ Phổ Độ - Luận án Tiến sĩ Tôn Giáo Nhân Chuz3ng Học - Ban Nhân Văn Đâi Học Văn Khoa Sài Gòn tháng 3 năm 1975 - Viêt Nam Học




Việt-Nam-học
(Vietnamology, Vietnamologie)

Việt-Nam-học là một môn học thuộc ngành Khoa-Học Nhân Văn chuyên học về Việt Nam đủ mọi phương diện như Văn Minh Việt Nam, Khảo cổ học, Văn Hóa Việt Nam, Văn học, chữ viết qua các thời đại, Kiến trúc, Tôn giáo, Tín ngưỡng, các dân tộc tị nạn theo Bà Âu Cơ và dân Kinh miền đồng bằng theo Đức Lạc Long Quân. Môn học cần thiết để nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác cho các nhà nhân chủng học quốc tế, Lịch sử giống dân Lạc Việt phát triển thành giống dân Việt Nam hiện nay, tiếng nói, giọng nói của 3 Miền, Lịch sử chữ tượng hình hay chữ Nho, Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái do Đức Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ đặt ra, vẽ ra Bản đồ của Sự Sáng Tạo Càn Khôn Thế Giới và Sơ đồ hay Bàn Thờ Luyện Đạo "Chiết Khảm điền Ly" mà nhị vị đã tu luyện. Sơ đồ vẽ ra được chư Hậu Duệ là Vua Phục Hi, Văn Vương và Đức Khổng Tử san định ra viết thành cuốn Kinh Dịch, mà ngày nay Đức Thượng Đế giáng cơ trong ba ngày mới xong nên gọi là TAM NHẬT ĐÀN có nói rõ la chính ngài đã chiết thân ra thành Kim. Thạch, Thảo mộc, Thú Cầm, lên Con Người và tu luyện 40 tỉ năm mới trở về Ngôi Vị cũn là Thiên Nhơn Hiệp Nhứt và ngài giáng cơ xuống Bát Quái Đồ Thiên ở Hà Tiên nói rõ ngài vì thương giống dân Lạc Việt mà tái sanh ra mượn xác thân là ông Ngô Văn Chiêu, Đốc Phủ Sứ làm Chủ Quận Hà Tiên, tu đắc Đạo tại thế và Tiên Danh là Đức Ngô Minh Chiêu. Môn Việt Nam Học còn phải học Văn chương truyền khẩu lúc nước Lạc Việt bị bọn Hán sanh sản quá đông, cướp nước Lạc Việt và Đức Lạc Long Quân phải ra lệnh cho con cháu với kỹ nghệ luyện kim thời đó thế giới chưa làm được đã đúc, gò, khắc trống đồng, bên trên mặt có tạc hình, chữ tượng hình và hình nhiều con lăng quăng hay tinh trùng để dân Lạc Việt nhớ phải sanh cho nhiều mới có thể tồn tại mà xây dựng một hình thể non sông hình chữ S mà chia lục địa và Biển ra hai phần là Thái Dương (lục địa), Thái Âm (biển Đông) với Ngũ Hành Sơn như Ngũ Khí và Ngũ  Hành và Ngũ Tạng, Biển Đông với hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa như các Hào trong Bát Quái Đồ Thiên. Các dân tộc Thượng và người Kinh là 100 con của hai ngài Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ tính theo Kinh Dịch đúng theo Âm và Dương. Chữ viết của giống Lạc Việt qua thời gian từ khi lập quốc đến nay có 3 thứ chữ: Nho là chữ tượng hình, Nôm phát âm đúng theo giọng Lạc Việt khi phải bỏ xứ từ Động Đình Hồ để qua phía Tây và xuống phương Nam tức cuộc Nam Tiến phải viết tượng hình cho đến Triều Trần,..., Nguyễn nhờ học hỏi với Tây Phương và nhờ ông cố đạo người Bồ Đào Nha dùng cách phiên âm để đọc và dịch Kinh Thánh ra phát âm đúng giọng người Việt. Đến thời Hoàng Đế Bảo Đại nhờ các học giả, bác học, ngôn ngữ học, các nhà văn áp dụng, chỉnh sửa cách phiên âm rồi tự biến thành chữ Quốc Ngữ như ngày nay.
Môn Việt Nam học còn cần học thêm Nhân Chủng Học (Ethnology) để biết 54 dân tộc thiểu số mà ngưồn gốc các dân tộc nầy đều có chung một huyền sử là Vua của Hồ Biển và Hoàng Hậu của Núi Rừng lo tu Tiên đem so với Truyền thống TRÙNG QUANG TÂM SỬ (lịch sử nhớ trong a-lại-da thức đời đời vẫn nhớ).
Sau cả ngàn năm Hán Tàu đô hộ Việt Nam mà dân tộc nhỏ bé là giống Lạc Việt luôn quật khởi và tự do độc lập nhiều thời kỳ, cả 100 năm bị Pháp đô hộ mà vẫn kháng chiến chống lại luôn, không bị nô vong, lệ thuộc về Văn hóa Tàu hay Ấn Độ, dù là nước nhỏ ờ gần hai nước lớn Tàu và Ấn (India và Chine = Indochine). Các quốc gia khác dù lớn hơn mà vẩn bị lệ thuộc mọi thứ: chữ viết, hoặc tượng hình như Tàu ( Nhật, Tiều Tiên, Đại Hàn chỉ đổi nét đơn giản chứ vẫn y chữ tượng hình) hoặc viết theo nguyên âm Sancrit và Pali ( Miến-điện, Thái lan, Lào, Miên).
Riêng chữ Quốc ngữ là chữ riêng của dân tộc Việt tiện dụng cho các Quốc Gia trên thế giới học và là Quốc Tế ngữ sau khi Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Ba bằng bom nguyên tử thì trái đất thành tro buị, khoa học kỹ nghệ điện toán sẽ bị kỹ thuật LASER huỷ diệt, nên người Việt Nam đang ở khắp nơi trên thế giới qua 2 lần bỏ xứ tị nạn quá lớn lao là năm 1954 bỏ Miền Bắc vào Miền Nam, năm 1975 bỏ Việt Nam đi ra ở khắp thế giới, thu nhập nhiều nền Văn Hóa đa chủng, học thành tài đủ mọi ngành.
Lý do bỏ quê cha đất tổ là để tìm TỰ DO và độc lập VĂN HÓA đa nguyên, giữ gìn truyền thống đạo đức của Nhị Vị Quốc Tổ. Nền văn hoá nô vong do Cộng Sản Việt Nam lấy từ Đức ( Karl Marx), lấy từ Liên-xô (Lenin) và từ Hán Tàu bá quyền cả 5.000 năm nay. Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Hồ Cẩm Đào và tên gián điệp Hồ Chí Minh do Mao đưa qua để tráo cho Nguyễn Sanh Cung (ăn cắp bút hiệu của cụ Phan Bội Châu là Nguyễn Ái Quốc) lúc bị bệnh lao phổi năm 1932 trong hang Pắc-Pó và tên Hồ mới học giọng nói Nghệ An, chưa rành tiếng Việt, viết theo lối phiên âm khi học tiếng Việt (như zân chủ, fương fáp, tự zo...) Hồ gạt cả dân tộc Việt Nam, gạt những người Việt theo y như phong chức cho Võ Nguyên Giáp, tướng lãnh khác, dạy cho các nhà thơ như Tố Hữu ca tụng Liên-xô, đặt tên núi, sông theo tên những kẻ tàn ác nhứt thế giới, chữ viết thì bình dân hoá như "nhà đẻ", "giấy chứng nhận làm chủ con vợ" (chưa biết chữ HÔN THÚ). Đến khi Táu cho quân đánh theo chiến thuật biển người, thắng trận Điện Biên Phủ thì cộng sản Việt Nam giữ kín bí mật hồng quân đánh Pháp. Võ nguyên Giáp không nói ra sự thật khi thấy các tướng Tàu hăm dọa sẽ giết nếu nói sự thật tráo chúa ở Pắc-Pó. Hiện nay ở Việt Nam có nền giáo dục theo kiểu Tàu, chữ Hán Việt ghép sai nguyên tắc chính tả, dùng chữ sai nghĩa, dạy sai nghĩa, nhồi sọ trẻ con học lý thuyết Mác-Lê cho đầy óc, che dấu sự thật.
Vì những lý do trên mà môn Việt Nam học muốn nghiên cứu, có tính cách khoa học nhân văn (Humanité= Humanity = Human science, Anthbropology, Ethnology thì phải dùng những Tử Điển của thời trước năm 1975 ở Miền Nam và nay nhiều sách đang ở Hoa Kỳ, Pháp, Đức do người Việt tị nạn viết thì mới đúng văn phạm, đúng nghĩa.
Những Viện Ngjiên Cứu Việt Nam học ở hải ngoại như Viện Việt Học tại California, Hội Nghiên Cứu Lạc Việt ở London của các học giả đệ tử của Linh mục Kim Định mới đúng là Việt Học hay Việt Nam học hay Lạc Việt học.
Khi học môn Việt Nam học mỗi sinh viên còn phải học nền kiến trúc Việt Nam, các tôn giáo và tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam, học môn phát âm học của 3 Miền Nam, Trung, Bắc, Văn chương truyền khẩu, văn chương bác học và Đại-Đạo-Học, một môn học mới mà tôn giáo mới do chính Đức Thượng Đế mở ra tại Việt Nam để ngài cứu vớt cả nhân loai chứ  không riêng dân tộc Việt Nam mà thôi.

Hà Phước Thảo
Sin viên Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, tháng 3. 1975





-->




Mục Lục

Số lượng đồng bào đã đọc đến hôm nay: