Việt-Nam-học (Vietnamology, Vietnamologie) Việt-Nam-học là một môn học
thuộc ngành Khoa-Học Nhân Văn chuyên học về
Việt Nam đủ mọi phương diện như Văn Minh
Việt Nam, Khảo cổ học, Văn Hóa Việt Nam, Văn
học, chữ viết qua các thời đại, Kiến trúc,
Tôn giáo, Tín ngưỡng, các dân tộc tị nạn
theo Bà Âu Cơ và dân Kinh miền đồng bằng
theo Đức Lạc Long Quân. Môn học cần thiết để
nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và
các dân tộc khác cho các nhà nhân chủng học
quốc tế, Lịch sử giống dân Lạc
Việt phát triển thành giống dân Việt Nam hiện
nay, tiếng nói, giọng nói của 3 Miền, Lịch sử
chữ tượng hình hay chữ Nho, Tiên Thiên Bát
Quái và Hậu Thiên Bát Quái do Đức Lạc Long
Quân và Bà Âu Cơ đặt ra, vẽ ra Bản đồ của Sự
Sáng Tạo Càn Khôn Thế Giới và Sơ đồ hay Bàn
Thờ Luyện Đạo "Chiết Khảm điền Ly" mà nhị vị
đã tu luyện. Sơ đồ vẽ ra được chư Hậu Duệ là
Vua Phục Hi, Văn Vương và Đức Khổng Tử san
định ra viết thành cuốn Kinh Dịch, mà ngày nay
Đức Thượng Đế giáng cơ trong ba ngày mới xong
nên gọi là TAM NHẬT ĐÀN có nói rõ la chính
ngài đã chiết thân ra thành Kim. Thạch, Thảo
mộc, Thú Cầm, lên Con Người và tu luyện 40 tỉ
năm mới trở về Ngôi Vị cũn là Thiên Nhơn Hiệp
Nhứt và ngài giáng cơ xuống Bát Quái Đồ Thiên
ở Hà Tiên nói rõ ngài vì thương giống dân Lạc
Việt mà tái sanh ra mượn xác thân là ông Ngô
Văn Chiêu, Đốc Phủ Sứ làm Chủ Quận Hà Tiên, tu
đắc Đạo tại thế và Tiên Danh là Đức Ngô Minh
Chiêu. Môn Việt Nam Học còn phải học Văn
chương truyền khẩu lúc nước Lạc Việt bị bọn
Hán sanh sản quá đông, cướp nước Lạc Việt và
Đức Lạc Long Quân phải ra lệnh cho con cháu
với kỹ nghệ luyện kim thời đó thế giới chưa
làm được đã đúc, gò, khắc trống đồng, bên trên
mặt có tạc hình, chữ tượng hình và hình nhiều
con lăng quăng hay tinh trùng để dân Lạc Việt
nhớ phải sanh cho nhiều mới có thể tồn tại mà
xây dựng một hình thể non sông hình chữ S mà
chia lục địa và Biển ra hai phần là Thái Dương
(lục địa), Thái Âm (biển Đông) với Ngũ Hành
Sơn như Ngũ Khí và Ngũ Hành và Ngũ Tạng,
Biển Đông với hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường
Sa như các Hào trong Bát Quái Đồ Thiên. Các
dân tộc Thượng và người Kinh là 100 con của
hai ngài Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ tính theo
Kinh Dịch đúng theo Âm và Dương. Chữ viết của
giống Lạc Việt qua thời gian từ khi lập quốc
đến nay có 3 thứ chữ: Nho là chữ tượng hình,
Nôm phát âm đúng theo giọng Lạc Việt khi phải
bỏ xứ từ Động Đình Hồ để qua phía Tây và xuống
phương Nam tức cuộc Nam Tiến phải viết tượng
hình cho đến Triều Trần,..., Nguyễn nhờ học
hỏi với Tây Phương và nhờ ông cố đạo người Bồ
Đào Nha dùng cách phiên âm để đọc và dịch Kinh
Thánh ra phát âm đúng giọng người Việt. Đến
thời Hoàng Đế Bảo Đại nhờ các học giả, bác
học, ngôn ngữ học, các nhà văn áp dụng, chỉnh
sửa cách phiên âm rồi tự biến thành chữ Quốc
Ngữ như ngày nay.
Môn Việt Nam học còn cần học thêm Nhân Chủng Học (Ethnology) để biết 54 dân tộc thiểu số mà ngưồn gốc các dân tộc nầy đều có chung một huyền sử là Vua của Hồ Biển và Hoàng Hậu của Núi Rừng lo tu Tiên đem so với Truyền thống TRÙNG QUANG TÂM SỬ (lịch sử nhớ trong a-lại-da thức đời đời vẫn nhớ). Sau cả ngàn năm Hán Tàu đô hộ Việt Nam mà dân tộc nhỏ bé là giống Lạc Việt luôn quật khởi và tự do độc lập nhiều thời kỳ, cả 100 năm bị Pháp đô hộ mà vẫn kháng chiến chống lại luôn, không bị nô vong, lệ thuộc về Văn hóa Tàu hay Ấn Độ, dù là nước nhỏ ờ gần hai nước lớn Tàu và Ấn (India và Chine = Indochine). Các quốc gia khác dù lớn hơn mà vẩn bị lệ thuộc mọi thứ: chữ viết, hoặc tượng hình như Tàu ( Nhật, Tiều Tiên, Đại Hàn chỉ đổi nét đơn giản chứ vẫn y chữ tượng hình) hoặc viết theo nguyên âm Sancrit và Pali ( Miến-điện, Thái lan, Lào, Miên). Riêng chữ Quốc ngữ là chữ riêng của dân tộc Việt tiện dụng cho các Quốc Gia trên thế giới học và là Quốc Tế ngữ sau khi Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Ba bằng bom nguyên tử thì trái đất thành tro buị, khoa học kỹ nghệ điện toán sẽ bị kỹ thuật LASER huỷ diệt, nên người Việt Nam đang ở khắp nơi trên thế giới qua 2 lần bỏ xứ tị nạn quá lớn lao là năm 1954 bỏ Miền Bắc vào Miền Nam, năm 1975 bỏ Việt Nam đi ra ở khắp thế giới, thu nhập nhiều nền Văn Hóa đa chủng, học thành tài đủ mọi ngành. Lý do bỏ quê cha đất tổ là để tìm TỰ DO và độc lập VĂN HÓA đa nguyên, giữ gìn truyền thống đạo đức của Nhị Vị Quốc Tổ. Nền văn hoá nô vong do Cộng Sản Việt Nam lấy từ Đức ( Karl Marx), lấy từ Liên-xô (Lenin) và từ Hán Tàu bá quyền cả 5.000 năm nay. Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Hồ Cẩm Đào và tên gián điệp Hồ Chí Minh do Mao đưa qua để tráo cho Nguyễn Sanh Cung (ăn cắp bút hiệu của cụ Phan Bội Châu là Nguyễn Ái Quốc) lúc bị bệnh lao phổi năm 1932 trong hang Pắc-Pó và tên Hồ mới học giọng nói Nghệ An, chưa rành tiếng Việt, viết theo lối phiên âm khi học tiếng Việt (như zân chủ, fương fáp, tự zo...) Hồ gạt cả dân tộc Việt Nam, gạt những người Việt theo y như phong chức cho Võ Nguyên Giáp, tướng lãnh khác, dạy cho các nhà thơ như Tố Hữu ca tụng Liên-xô, đặt tên núi, sông theo tên những kẻ tàn ác nhứt thế giới, chữ viết thì bình dân hoá như "nhà đẻ", "giấy chứng nhận làm chủ con vợ" (chưa biết chữ HÔN THÚ). Đến khi Táu cho quân đánh theo chiến thuật biển người, thắng trận Điện Biên Phủ thì cộng sản Việt Nam giữ kín bí mật hồng quân đánh Pháp. Võ nguyên Giáp không nói ra sự thật khi thấy các tướng Tàu hăm dọa sẽ giết nếu nói sự thật tráo chúa ở Pắc-Pó. Hiện nay ở Việt Nam có nền giáo dục theo kiểu Tàu, chữ Hán Việt ghép sai nguyên tắc chính tả, dùng chữ sai nghĩa, dạy sai nghĩa, nhồi sọ trẻ con học lý thuyết Mác-Lê cho đầy óc, che dấu sự thật. Vì những lý do trên mà môn Việt Nam học muốn nghiên cứu, có tính cách khoa học nhân văn (Humanité= Humanity = Human science, Anthbropology, Ethnology thì phải dùng những Tử Điển của thời trước năm 1975 ở Miền Nam và nay nhiều sách đang ở Hoa Kỳ, Pháp, Đức do người Việt tị nạn viết thì mới đúng văn phạm, đúng nghĩa. Những Viện Ngjiên Cứu Việt Nam học ở hải ngoại như Viện Việt Học tại California, Hội Nghiên Cứu Lạc Việt ở London của các học giả đệ tử của Linh mục Kim Định mới đúng là Việt Học hay Việt Nam học hay Lạc Việt học. Khi học môn Việt Nam học mỗi sinh viên còn phải học nền kiến trúc Việt Nam, các tôn giáo và tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam, học môn phát âm học của 3 Miền Nam, Trung, Bắc, Văn chương truyền khẩu, văn chương bác học và Đại-Đạo-Học, một môn học mới mà tôn giáo mới do chính Đức Thượng Đế mở ra tại Việt Nam để ngài cứu vớt cả nhân loai chứ không riêng dân tộc Việt Nam mà thôi. Hà Phước Thảo Sin viên Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, tháng 3. 1975 |