![]() ![]() ![]() ![]() |
Bấn vào 1 trong 4 hố đen trong Vũ Trụ nghe nhạc về 12 lời nguyện
của Phật Quan Âm Như Lai.
và
Triết Lư " Sắc Bất Dị Không "
Lê Văn Cường
Năm
2005 được nhân loại lấy làm
năm Vật lư quốc tế, đồng
thời kỷ niệm lớn 100 năm ngày ra
đời Thuyết tương đối của
nhà bác học vĩ đại Albert
Einstein.
Chúng ta, những con người lương thiện hiện đang sống trên trái đất tươi đẹp này nên vui mừng v́ sự kiện đó. V́ rằng trong trực giác của con người đang bùng phát không thể diễn tả thành lời dấu hiệu của ḷng khao khát vươn lên sẵn sàng đón nhận những bước thay đổi lớn lao trong lịch sử nhận thức của ḷai người, kể cả về khoa học tự nhiên lẫn khoa học xă hội.
Tại thời điểm này, tôi tin rằng đang có hàng trăm, hàng ngàn “bộ óc” siêu việt trong số hơn 6 tỷ con người sống trên trái đất đang mày ṃ suy nghĩ t́m cách bứt phá vươn lên, dám chấp nhận từ bỏ những quan điểm xưa cũ tưởng như bất di bất dịch nhưng sự thực lại là lỗi thời và đang trói chặt sự tiến hóa cao hơn của tri thức. Một bước tiến mới, một sự thay đổi lịch sử nhận thức con người theo chiều hướng tốt và cao hơn sẽ phải xảy ra. Cái sẽ phải xảy ra đó không thể nào khác được là phải liên quan tới Einstein và sự tuyên bố sai lầm trong suốt 29 năm nghiên cứu về hố đen trong vũ trụ của nhà khoa học người Anh Stephen Hawking.
Einstein thường hay trích dẫn: “Khoa học thiếu tôn giáo th́ khập khiễng, tôn giáo thiếu khoa học th́ mù ḷa...”. Sự nghiên cứu về hố đen của ông Stephen Hawking bị khập khiễng do thiếu tôn giáo chăng? Đó là ư tưởng lớn khiến chúng ta cần mượn sự trợ giúp của triết lư “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc...” trong kinh “Trái tim Tuệ giác Vô thượng” của Đức Phật Thích ca. Hạnh phúc thay! Sự bí ẩn của hố đen thế là từ nay không c̣n bí ẩn nữa.
Để
hiểu trọn vẹn trong hố đen của vũ
trụ có những ǵ, chúng ta cần
kiên nhẫn biết khái quát theo quan
điểm khoa học về hố đen và
những yếu tố vật lư khác có
liên quan.
Hố đen trong vũ trụ
là ǵ ?
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, các nhà khoa học thiên văn trên thế giới đă phát hiện ra trong không gian bao la của vũ trụ có những vùng đặc biệt tối đen. Các loại kính thiên văn hiện đại bậc nhất không nhận được bất cứ sự bức xạ nào gọi là của vật chất phát ra, chỉ thấy tại đó tối đen như mực. Nhưng từ khoảng cách xa, mọi vật thể như các hành tinh, các v́ sao vẫn tồn tại và di chuyển theo những quỹ đạo có liên quan tới vùng tối đen, và ánh sáng, sự dao động điện từ hay c̣n gọi là các “hạt” phôtôn khi chuyển động có khối lượng tới đó cũng bị hút vào. Điều đó đă buộc các nhà khoa học phải suy đoán tại vùng tối đen ấy không phải là vùng trống rỗng mà là vùng có trường lực hấp dẫn cực lớn. Cái vùng tối đen như mực nhưng có sức hút khủng khiếp, hút mọi thứ vào trong đó được khoa học đặt tên là Hố đen.
Tuy nhiên, từ trước đấy các nhà khoa học cỡ lớn, cụ thể như Einstein đă h́nh dung ra hiện tượng suy sụp hấp dẫn tồn tại trong không gian vũ trụ của những Siêu sao có khối lượng cực lớn. Ví dụ có một Siêu sao với khối lượng cực lớn, tương ứng với khối lượng đó là một trường hấp dẫn cực mạnh bao quanh và trong quá tŕnh toả sáng nó sẽ bị mất năng lượng. Sự mất năng lượng lớn đến một lúc nào đó sẽ tạo ra đối áp suất khiến cho cấu trúc vật chất của Siêu sao đổ sụp vào trong. Tức là Siêu sao đă “chết”, kích thước của nó co lại một cách cực kỳ nhanh chóng và cuối cùng trở thành một hố đen, một vùng gồm toàn trường lực hấp dẫn mạnh. Toàn bộ những ǵ có khối lượng nếu nằm trong phạm vi trường lực hấp dẫn của hố đen đều bị hút vào trong và mất tích trong đó. Quá tŕnh bị hút vào trong và bị mất tích như thế nào th́ chưa ai h́nh dung ra được.
Sự suy sụp hấp dẫn của Siêu sao để biến nó thành một hố đen gợi lên một ư: khối lượng có thể biến thành năng lượng. Tôi ngờ rằng tư duy về việc này Einstein đă nảy ra công thức bất hủ E=m.c²¬¬ , và đây cũng là một vế “Sắc bất dị không...” trong kinh Phật để nói lên cái vô thường của vạn vật trong vũ trụ. Một ngôi sao to lớn hùng vĩ là thế rồi cuối cùng cũng phải “chết” và đổ sụp vào trong, biến thành một khoảng hư vô không trông thấy, chẳng có h́nh dáng kích thước ǵ cả. Dấu vết của nó chỉ để lại một vùng gồm toàn lực vô h́nh, và những cái ǵ là khối lượng có h́nh thể chỉ thấy có vào chứ không có ra. Dường như hiện tượng hố đen cố t́nh chọc tức định luật bảo toàn năng lượng - khối lượng của vật chất.
Khái quát về hố đen như trên chưa thể dễ hiểu để xem xét bên trong nó có ǵ, chúng ta cần phải biết thêm khái quát các chiều của không gian.
Các
chiều của không gian
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Bất cứ ai đi học tại các trường phổ thông đều được tiếp xúc với h́nh học phẳng Euclide. H́nh học phẳng Euclide mô tả rất tốt trên mặt phẳng trong hệ không gian 3 chiều. Không gian 3 chiều được biểu diễn bằng 3 phương x, y, z vuông góc với nhau. Hai phương vuông góc tạo thành mặt phẳng, phương c̣n lại vuông góc với mặt phẳng đó. Tiên đề của h́nh học phẳng là 2 đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau, h́nh chiếu của một điểm lên một mặt phẳng chỉ là một điểm. Nghĩa là chỉ tồn tại một h́nh và một bóng của h́nh đó. Trong quá tŕnh tiến hóa của tri thức, người ta thấy rằng h́nh học Euclide mặc dù độc quyền thống trị thế giới lâu đến thế song vẫn hoàn toàn không phải là h́nh học duy nhất. Có thể xây dựng một h́nh học khác không kém phần lôgíc và nó không mâu thuẫn nội tại hơn so với h́nh học Euclide. Thế là h́nh học Hipecbon hay c̣n gọi là h́nh học phi Euclide ra đời. H́nh học phi Euclide nhằm mô tả không gian, mặt phẳng thay bằng mặt cong, ít nhất là thêm một chiều nữa vào để trở thành không gian 4 chiều. Bạn hăy h́nh dung đơn giản là tại không gian 3 chiều có một phương vuông góc với một mặt phẳng th́ nay phương đó vuông góc với mặt cong. Tiên đề 2 đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau th́ nay 2 đường thẳng song song đó cắt nhau. Ví dụ 2 đường kinh tuyến song song với nhau trên mặt h́nh cầu cắt nhau tại 2 điểm cực Bắc và Nam. H́nh chiếu của một điểm lên mặt phẳng chỉ là một điểm nhưng lên mặt cong sẽ không phải chỉ một điểm nữa mà là một h́nh khác tập hợp bởi nhiều điểm. Tức là không phải chỉ một h́nh một bóng như h́nh học phẳng Euclide, một h́nh có thể có nhiều bóng tuỳ theo độ cong của mặt cong. Không gian càng có nhiều chiều th́ độ cong càng lớn, số bóng của h́nh càng nhiều. Sức tưởng tượng của đa số chúng ta có giới hạn, nên thư giăn một tư cho vui bằng câu chuyện ông Tôn ngộ không trong truyện Tây du kư có thể biến hóa thành hàng trăm ông Tôn ngộ không giống nhau như đúc trong khắp không gian mà không biết ông nào là thật ông nào là giả. Chúng ta đang quen với cái chỉ có một h́nh một bóng, nay nếu thấy chỉ một h́nh mà có tới 5, 10, thậm chí hàng trăm, hàng ngàn cái bóng th́ khó có thể tin và chấp nhận được cái vô lư khủng khiếp ấy dù nó là sự thật khoa học tại không gian nhiều chiều, không gian cong.
http://caodaigiaoly.free.fr/QuaCauCuaChungTa.html
Mô tả khái quát như vậy để thấy không thể xác định được vị trí thật của một h́nh thể cụ thể trong cái không gian nhiều chiều hơn số chiều của không gian chúng ta đang nhận thức. Một h́nh thể cụ thể nào đó nằm trong không gian nhiều chiều bản thân nó vẫn tồn tại và cả cái không gian nhiều chiều chứa nó đại diện cho nó. Nghĩa là bất cứ vị trí nào trong không gian nhiều chiều cũng có cái bóng của h́nh thể nói trên mà không thể xác định vị trí thật của nó. Điều đó để ngầm hiểu rằng khối lượng m chuyển thành năng lượng E trong công thức E=m.c² h́nh thể của khối lượng m vẫn tồn tại ở một vị trí nào đó trong năng lượng E, và tại vị trí bất kỳ nào đó trong năng lượng E cũng đều có thể thấy cái bóng của h́nh thể khối lượng m . Điều này tương tự như trong kinh Phật, Phật nói: Phật ở khắp mọi nơi, bất cứ chỗ nào cũng có thể gặp Phật, pháp thân của ông bao trùm khắp không gian, thực tế cái bóng của ông vẫn tồn tại nhưng vị trí thật th́ không biết ở đâu.
Không gian nhiều chiều khái quát như vậy nhưng có lẽ vẫn cần khái quát thêm một đại lượng vật lư rất quen thuộc nữa đó là: Bản chất ánh sáng.
Khái quát bản chất ánh sáng
Cách đây vài chục năm, có một tạp chí đă nêu những bí ẩn của thiên nhiên mà khoa học chưa thể giải thích được. Một trong những bí ẩn ấy là: Theo tính toán của một số nhà khoa học th́ tổng của tất cả các phản ứng nhiệt hạch xảy ra trên mặt trời sản sinh ra số hạt phôtôn (ánh sáng) không đủ với số lượng mà thực tế mặt trời đă phát ra trong không gian. Vậy th́ mặt trời lấy đâu ra số phôtôn để phung phí như vậy?
Nếu tạp chí đó không phải là báo lá cải và thông tin khoa học về sự tính toán đó là chính xác th́ chúng ta có thể h́nh dung rơ nét hơn về diện mạo không gian cũng như bản chất ánh sáng. Bản chất của ánh sáng là ǵ? Có thể nói toạc ra rằng cho đến nay khoa học vẫn chưa hiểu được rơ ràng. Chỉ có thể định nghĩa khái quát: ánh sáng vừa mang tính sóng vừa mang tính hạt. Mang tính sóng v́ sự truyền của ánh sáng trong không gian có tính sóng, có sự giao thoa khi gặp nhau; mang tính hạt gọi là hạt phôtôn, v́ khi chuyển động ánh sáng có khối lượng. Diện mạo của hạt phôtôn như thế nào? Đó là câu hỏi khó nên chúng ta đành phải chấp nhận với những quan niệm thuật ngữ mà vật lư hiện đại đang dùng: ánh sáng là dao động điện từ. Mô h́nh sự truyền của ánh sáng trong không gian được mô tả khái quát thế này: Giả sử electron gặp phản electron sẽ huỷ nhau sinh ra năng lượng, sinh ra phôtôn tức ánh sáng. Khởi đầu là sinh ra mạch điện trường khép kín, mạch điện trường khép kín xuất hiện tức điện trường biến thiên sẽ sinh ra mạch từ trường khép kín tương ứng. Mạch từ trường khép kín xuất hiện tức biến thiên từ trường lại sinh ra mạch điện trường khép kín tương ứng... Cứ thế, cái này xuất hiện làm tiền đề cho cái kia xuất hiện nối tiếp nhau như một chuỗi móc xích dịch chuyển trong không gian với tốc độ gần bằng 300.000 km/s. Nếu trong quăng đường truyền theo kiểu dây xích đó không gặp trở ngại làm mất năng lượng th́ nó sẽ truyền măi măi trong không gian.
Mỗi một mắt xích mạch điện trường khép kín hay mạch từ trường khép kín là một “hạt” phôtôn ánh sáng, khối lượng nghỉ của phôtôn bằng không, nghĩa là mạch điện trường hay từ trường khép kín không xuất hiện. Mô h́nh sự truyền của ánh sáng trong không gian như vậy th́ rơ ràng là tại mỗi điểm bất kỳ trong không gian đều ẩn chứa thế năng sản sinh ra “hạt” phôtôn. Triết lư “sắc bất dị không...” của Phật học lại thắng thế và là một sự tổng quát khoa học uyên bác. Tại cái không gian tưởng là trống rỗng không có ǵ nhưng lại ẩn chứa cái thế năng sản sinh ra “hạt” phôtôn ánh sáng có khối lượng và cái đang có khối lượng, ánh sáng trông thấy đó khi “nghỉ” lại bằng không. Phải nói là Phật Thích ca trông thấy những cái mà người thường không trông thấy, soi xét thế giới vi mô rất tinh tế, không thể cứ gán ghép lung tung là tôn giáo hay không có cơ sở khoa học. Khoa học không biết đến Phật học th́ khập khiễng thật! C̣n cái sự vô lư và bí ẩn của thế giới tự nhiên khi mà khoa học chưa thể giải thích được v́ sao số lượng phôtôn do quá tŕnh phản ứng nhiệt hạch sinh ra không đủ với số lượng mặt trời đă phung phí phát vào không gian đăng trong tạp chí vừa nói khiến chúng ta, những nhà khoa học cự phách, phải tự xét lại “trí tuệ uyên bác” của ḿnh.
Không những thế, khi đă hiểu về cái tính “sắc bất dị không...” hay mỗi một vị trí bất kỳ trong không gian đều có thế năng để tạo ra mạch “điện trường khép kín”, tức tạo ra phôtôn ánh sáng mà vẫn nhận thức vận tốc ánh sáng là hằng số bất di bất dịch trong toàn vũ trụ th́ nhận thức đó là sai lầm đáng tiếc. Đơn giản ở chỗ, thế năng ở một điểm bất kỳ sinh ra phôtôn ánh sáng của hệ không gian 3 chiều khác với hệ không gian 4 chiều. Ngay cái quan điểm không gian là trường điện từ đă phản ánh rất rơ ràng tốc độ dao động điện từ phụ thuộc vào trường điện từ, mà trường điện từ trên trái đất không thể giống trường điện từ trong hố đen vũ trụ. Điều khẳng định 3 đại lượng vật lư (không gian, thời gian, vận tốc ánh sáng) có liên quan chặt chẽ với nhau là sự thật chứ không phải cứ băn khoăn, nghi ngờ.
Nói qua về bản chất ánh sáng như vậy là tương đối rơ nhưng trước khi “nh́n” vào trong lỗ đen phải phác qua “dụng cụ để nh́n” là Thuyết tương đối của Einstein.
Khái quát Thuyết tương đối của Einstein
Cuối thế kỷ 19, giới khoa học xôn xao về vấn đề Ete vũ trụ, họ cho rằng tồn tại một chất Ete nào đó trong không gian, chất này có thể sẽ cản vận tốc truyền của ánh sáng khi nó cùng chiều chuyển động với trái đất. Để phát hiện ra chất Ete và cũng là để chứng minh nguyên lư tương đối về vấn đề cộng vận tốc, nhà khoa học Michelson đă chế tạo ra dụng cụ đo và thực tế đo đi đo lại vận tốc ánh sáng theo mọi phương so với phương chuyển động của trái đất. Thật kỳ lạ là vận tốc truyền của ánh sáng theo mọi phương là như nhau, nghĩa là nó có tính độc lập, không phụ thuộc vào nguồn chuyển động.
Kết quả thực nghiệm đo vận tốc ánh sáng đó không những đă phủ định sự tồn tại của chất Ete mà c̣n gây ra mâu thuẫn lớn với nguyên lư tương đối khiến cho giới khoa học ngỡ ngàng không hiểu cái nào là đúng cái nào là sai. May thay! Năm 1905, với bộ óc uyên bác hiểu được vấn đề, Einstein đăng một bài báo, trong đó ông nói một cách đơn giản là hai tiên đề nguyên lư tương đối và tính độc lập của vận tốc ánh sáng, không những không đối lập với nhau mà c̣n cho phép giải thích được nhiều điều nếu đồng thời chấp nhận chúng. Và đó là cơ sở ra đời
Thuyết tương đối
Thuyết tương đối của Einstein tương đối trừu tượng và khó hiểu đối với những người không chuyên về vật lư. Nội dung chính của Thuyết tương đối phản ánh hiện tượng khi một hệ quy chiếu chuyển động với vận tốc nhanh cỡ gần với vận tốc ánh sáng th́ tại hệ đó xảy ra hiệu ứng biến đổi không gian, thời gian, kích thước, khối lượng. Tốc độ chuyển động càng nhanh th́ hiệu ứng biến đổi càng lớn. Einstein đă đưa ra nhiều công thức tính toán nhưng điển h́nh nhất là công thức E=m.c² (trong đó E: năng lượng, m: khối lượng, c: vận tốc ánh sáng). Công thức này phản ánh giữa năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Để mô tả những nét chính của Thuyết tương đối thật dễ hiểu, chúng ta hăy theo dơi ví dụ sau đây:
Giả sử có một con tàu chứa một số hành khách đi du lịch xuất phát từ một sân bay trên trái đất (coi trái đất là hệ đứng yên), bay vào khoảng không vũ trụ với vận tốc cực nhanh cỡ khoảng 0,7 vận tốc ánh sáng. Với vận tốc này, tại con tàu bắt đầu xảy ra hiệu ứng tăng khối lượng, khi khối lượng tăng th́ trường hấp dẫn cũng tăng theo tương ứng. Trường hấp dẫn tăng của con tàu là nguyên nhân làm co không gian, co kích thước và thời gian trôi chậm lại phù hợp với độ co của không gian. Chúng ta là những người quan sát đứng trên trái đất (hệ đứng yên) sẽ nhận thấy: Con tàu khi chưa chuyển động có khối lượng là m, kích thước đường kính: d , thời gian trôi như chúng ta là: t
Khi bắt đầu xảy ra hiệu ứng th́ những thông số đó đă khác, khối lượng là m’ > m , kích thước đường kính d’ < d , thời gian trôi t’ > t . Nếu con tàu tiếp tục tăng vận tốc để tiến tới xấp xỉ vận tốc ánh sáng th́ khối lượng của nó sẽ tiến tới lớn vô cùng, thời gian trôi chậm vô hạn và kích thước đường kính của con tàu sẽ tiến tới bằng không. Hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, co không gian, co kích thước, trôi chậm thời gian đă đạt đến đỉnh điểm của sự chuyển trạng thái từ khối lượng thành năng lượng theo công thức E=m.c². Chúng ta có thể h́nh dung một sự vô lư nhưng có thật là: con tàu có h́nh thể kích thước đàng hoàng chuyển động nhanh bằng vận tốc ánh sáng lại trở thành không có h́nh thể, kích thước bằng số không. Mắt chúng ta không thấy h́nh thể con tàu nữa, giờ đây nó là vô h́nh, nhưng trong trí năo vẫn h́nh dung ra có một khối năng lượng, một khoảng trường lực hấp dẫn vô h́nh tương đương với khối lượng tăng vô cùng lớn của con tàu đang chuyển động với vận tốc ánh sáng trong không gian. H́nh dáng độ lớn của “khối năng lượng” đó thế nào th́ quả thật ngoài trí tượng tượng của con người.
Theo nguyên lư tương đối, con tàu đó vẫn tồn tại, khách du lịch trên tàu vẫn sống thoải mái như chẳng có chuyện ǵ xảy ra. Đối với họ th́ chẳng có cái kích thước, không gian nào bị co hay thời gian bị trôi chậm cả, sự biến đổi không gian, thời gian nếu có th́ có lẽ chỉ xảy ra trên trái đất. Theo lịch tŕnh đă quy uớc, sau một năm khách du lịch quay trở về trái đất, tất nhiên là họ tính theo thời gian trôi tại con tàu, th́ thời gian trôi tại trái đất đă qua vài thế kỷ.
Như vậy là chúng ta đă sơ bộ phác qua những yếu tố cơ bản cần thiết dựa vào nó để xé toang bức màn bí mật bấy lâu nay đă che phủ lỗ đen trong vũ trụ, cũng là lúc giải mă được cái câu triết lư sâu sắc “sắc bất dị không, không bất dị sắc...” tồn tại hơn 2500 năm đến nay trong Phật giáo mà nhân loại chúng ta chẳng mấy ai hiểu ư nghĩa thực nên đă khập khiễng và mù ḷa như lời của Einstein đă nói. Cần phải sớm chấm dứt t́nh trạng khập khiễng và mù ḷa càng nhanh càng tốt, do đó bản Tuyên ngôn về lỗ đen vũ trụ hay c̣n gọi là Tuyên ngôn văn hóa Phật học “sắc bất dị không...” ra đời.
Tuyên ngôn về hố đen vũ trụ và “sắc bất dị không...”
Như
đă giới thiệu khái quát, hố
đen là một thực thể vô h́nh
trong vũ trụ, giới khoa học gọi là
một khoảng không gian cong với độ
cong rất lớn, có nhà khoa học gọi
đó là hệ không gian - thời gian
10 chiều nếu quy ước hệ không gian
- thời gian của chúng ta là 4 chiều
(3 chiều không gian và một chiều thời
gian). Trong hệ không gian - thời gian 10 chiều
đó có những cái ǵ không
ai biết, chỉ biết rằng không thể
tồn tại bất cứ cái ǵ gọi
là vật chất, bởi trường lực
hấp dẫn mạnh khủng khiếp, hút
tất cả những h́nh thể có khối
lượng, kể cả ánh sáng lởn
vởn xung quanh vào trong. Những h́nh thể
có khối lượng bị hút vào
trong rồi đi đâu? Đó là vấn
đề trớ trêu của tạo hóa chỉ
ra rằng: Định luật bảo toàn năng
lượng - khối lượng với những
nhận thức bất di bất dịch của chủ
nghĩa duy vật không c̣n ngôi vị
thống soái. Tri thức của con người
sẽ không thể tiến hóa nếu vẫn
c̣n tính cố chấp, bảo thủ tự
coi ḿnh là vĩ đại trong thế giới
tự nhiên.
Điều lôgíc ai cũng có thể nhận thấy cái hố đen có không gian - thời gian 10 chiều đó không thể đồng nhất từ trong ra ngoài. Thế năng trọng trường P=m.g.h của trường hấp dẫn đă chỉ ra chiều của không gian phải tăng từ ngoài vào trong. Nghĩa là tại vị trí bán kính ngoài cùng không gian - thời gian 10 chiều của lỗ đen có số chiều xấp xỉ như không gian - thời gian 4 chiều của chúng ta.
Con tàu chở khách đi du lịch của Einstein như đă ví dụ. khi chuyển động cực nhanh đến một cái ngưỡng nào đó mới bắt đầu xảy ra hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, co không gian... Từ cái ngưỡng xảy ra hiệu ứng, tốc độ con tàu càng cao th́ hiệu ứng biến đổi càng mạnh, không gian - thời gian của con tàu càng cong, số chiều càng tăng lên. Kết quả cuối cùng của hiện tượng là không gian - thời gian có số chiều, có độ cong do nguyên nhân trực tiếp là hiệu ứng biến đổi, nguyên nhân gián tiếp là sự chuyển động nhanh. Nếu như quay ngược lại h́nh ảnh cuộn phim biến đổi không gian - thời gian của con tàu đó chúng ta sẽ thấy chính số chiều, độ cong của không gian - thời gian trên con tàu lại là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp của kết quả hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng... cũng như sự chuyển động nhanh của con tàu. Do vậy, giả sử con tàu của Einstein đi với tốc độ hết sức b́nh thường, chẳng có hiệu ứng nào xảy ra với tốc độ đấy, nhưng lọt vào lỗ đen th́ chính số chiều và độ cong không gian - thời gian của lỗ đen sẽ gây ra hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, giảm kích thước, trôi chậm thời gian và giảm tốc độ của con tàu. Con tàu càng vào sâu trong hố đen th́ hiệu ứng biến đổi càng lớn, tốc độ con tàu càng giảm theo quan sát của chúng ta đứng bên ngoài. Hiệu ứng biến đổi của con tàu sẽ dừng lại khi độ cong hay số chiều không gian - thời gian của con tàu cân bằng với độ cong, số chiều không gian - thời gian của hố đen. Kích thước con tàu chúng ta thấy ở bên ngoài là dương, có h́nh thể rơ ràng, nhưng khi vào trong không gian - thời gian của hố đen h́nh thể, số dương đó giảm dần, thu nhỏ lại về số không chứ chưa dám kết luận là trở thành số âm.
Căn cứ vào nguyên lư tương đối, con tàu của Einstein vẫn tồn tại khi nó chuyển động cực nhanh gây ra hiệu ứng biến đổi không gian - thời gian của chính nó th́ tại không gian - thời gian của hố đen nó cũng tồn tại như vậy. Các khách du lịch trên con tàu vẫn sống b́nh thường như không có chuyện ǵ xảy ra. Đối với họ, thế giới xung quanh vẫn là thế giới vật chất không có ǵ khác lạ. Nhưng đối với chúng ta, con tàu và những vị khách du lịch đó đang ở trong hố đen, một thế giới siêu h́nh hoàn toàn khác biệt, tất cả đều trong trạng thái vô h́nh, gọi là “khối lượng” không có kích thước, h́nh thể cũng được mà gọi là “năng lượng siêu h́nh” cũng không sai. Quả là “sắc bất dị không, không bất dị sắc...” Cái mà chúng ta tưởng là thật hóa ra không phải thật, cái mà tưởng là đă “chết” hóa ra không “chết”. Cái “Tưởng là...” của chúng ta rơ ràng không phải là chân lư khoa học trong thế giới tự nhiên. Về mặt lư thuyết, con tàu chuyển động của Einstein đi chu du khắp vũ trụ với tốc độ cực lớn gây hiệu ứng biến đổi không gian... của chính nó, có thể trở về trái đất yên b́nh trong tương lai. Nhưng con tàu đó lọt vào hố đen, do chính không gian - thời gian của hố đen gây hiệu ứng biến đổi th́ quả thực là đến giờ phút này không ai có thể nghĩ ra cách thoát khỏi trường lực hấp đẫn mạnh khủng khiếp ấy để trở về trái đất an toàn.
Bí
mật của hố đen đă được
khám phá. Nhân danh tri thức của con
người, chúng ta có quyền tuyên
bố rằng:
- Các bộ môn khoa học
cơ bản, nhất là ngành vật lư
thiên văn vũ trụ của nhân loại
đang khập khiễng, đang dựa trên nền
tảng của sự nhận thức chưa
chuẩn.
- Tại các hố đen đầy
rẫy trong vũ trụ là các thế giới
siêu h́nh theo quan điểm nhận thức
của chúng ta nhưng lại là hữu
h́nh theo quan điểm nhận thức của
“những người” tại thế giới
siêu h́nh đó.
- Trí tuệ của
loài người c̣n đang tiến hóa,
chưa đạt đến đỉnh cao nên
đừng tùy tiện nghĩ đến chuyện
“cải tạo” thế giới tự nhiên
phục vụ ư muốn chủ quan của ḿnh
mà có thể sẽ vô t́nh phá
vỡ sự cân bằng của nó.
- Có
những lư trí, nền văn minh cao đang
tồn tại trong không gian vũ trụ ngoài
sức tưởng tượng của con người,
chỉ khi nào tŕnh độ phát triển
trí tuệ chung của nhân loại tương
đối cao mới nhận biết được
điều đó.
- “Sắc bất dị
không, không bất dị sắc; sắc tức
thị không, không tức thị sắc...”
đó là tư tưởng của Đức
Phật Thích ca mang tính khoa học để
giải mă những điều tuyên bố
trên chứ không phải theo nhận thức
để áp dụng phương pháp tu
luyện tính Không đang hiện hành
trong tôn giáo Phật.
Có những điều tưởng là vô lư không tin được, nhưng lại là sự thực khách quan. Đầu thế kỷ XX , khoa học của nhân loại cũng đă va vấp vào sự vô lư không thể tin được như sự mâu thuẫn giữa tính độc lập của vận tốc ánh sáng và nguyên lư tương đối; nhưng cũng đă vượt qua v́ đức khiêm tốn tự xét tŕnh độ có giới hạn của ḿnh dám chấp nhận sự vô lư trớ trêu để thu được kết quả tốt đẹp: mở rộng nhận thức để tiến hóa cao hơn. Đầu thế kỷ XXI này, lịch sử lại lập lại, sự vô lư không thể tin được lại ập đến thử thách tri thức loài người một lần nữa. Tin và chấp nhận hay không tuỳ các bạn, đối với tôi sự vô lư và không tin được đó là sự phản ánh tŕnh độ phát triển trí tuệ của chúng ta chưa cao, nhưng lại toát lên tŕnh độ uyên bác, vĩ đại của một vĩ nhân mà nhân loại chưa hiểu, vẫn tưởng là tôn giáo, và vẫn thờ phụng theo kiểu tôn giáo rất ngây thơ, có thể nói là sự lầm lạc đáng thương. “Sắc bất dị không...” lại hiểu theo cái lối dùng ư chí bế bịt tất cả các giác quan cảm xúc của con người, cố tập theo cái tính Không tự nghĩ: Không yêu - ghét, không vui - buồn, không nghe, không nh́n, không học, không làm... Để mong được ngộ đạo và có trí tuệ Phật, để “trốn việc quan đi ở chùa”. Hoặc thù hận đến điên cuồng cuộc sống văn minh đầy đủ tiện nghi vật chất, hay ngược lại lại lấy sự đầy đủ tiện nghi vật chất làm thú vui hạnh phúc của con người. Hơn 2500 năm qua, thực tế có thấy người nào tu luyện theo cái kiểu cách ấy mà đạt công quả có trí tuệ siêu phàm, bố thí hỷ xả giúp ích cho đời như ông Newton hay ông Einstein chỉ biết thuần túy về khoa học đâu? Danh hiệu Phật, đại Bồ tát trong Phật giáo chỉ dành cho những người có ḷng từ bi hỷ xả bố thí trí tuệ, sức lực (hoặc vật chất nếu có) lớn cho xă hội loài người mà không cầu mong được đáp ứng lại. Không có trí tuệ, sức lực... để bố thí cho xă hội ấm no, hạnh phúc mà chỉ phá rối, thù oán ngu xuẩn th́ làm sao có danh hiệu đại Bồ tát để khi chết được lên cơi “thiên đàng”?
Có những người muốn biết về cơi thiên đàng, cơi Niết bàn hay cơi Tây phương cực lạc ở đâu để họ có hướng tu dưỡng. Không ai trả lời được câu hỏi đó nên thường lảng tránh hoặc giảng giải với ư nghĩa mơ hồ. V́ vậy mới có những kẻ lợi dụng xúi giục những tín đồ mê muội ôm bom liều chết phá hoại cuộc sống của người khác cũng như của chính bản thân ḿnh để ḥng linh hồn được “đón” lên cơi “thiên đàng”, hay cơi “niết bàn”... Đau đớn thay! Chỉ khi nào trí tuệ con người đạt đến đỉnh cao vời vợi, tức là đă thật sự “...tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng,..”, lúc đó mới tự “soi sáng như thật rằng...” : Loài người đang tu mù! Các tṛ nhố nhăng đang diễn ra trên thế giới này đều là giả dối, vô vị. Chỉ v́ thiếu tri thức, không hiểu giá trị của cuộc sống làm người và v́ sự duy tŕ tồn tại của cái thân xác vật chất mà anh này lừa bịp anh kia, đang tâm huỷ hoại lẫn nhau, thậm chí c̣n sui nhau tự phá hỏng cuộc đời “làm người” đáng quư của ḿnh mà tạo hóa đă ban tặng.
Một con người đă làm nên lịch sử như Đức Phật Thích ca, có trí tuệ siêu phàm hiểu được các tinh hoa của khoa học từ thế giới vi mô đến thế giới vĩ mô trước chúng ta, những bác học hiện đại ngày nay hơn 2500 năm. Ông là Thánh nhân chưa dám nói là vĩ đại nhất, nhưng ra đời sớm nhất trong số các Thánh nhân của loài người, chúng ta thấy ông đâu có sui ai đi lật đổ, đảo chính phá rối trật tự xă hội hoặc sui ai ôm bom liều chết tử v́ Đạo... mà chỉ sui làm việc thiện, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. V́ trong tri thức “soi sáng như thật rằng...” cơi “Thiên đàng”, cơi “Tây phương cực lạc”... hay gọi theo khoa học là khoảng không gian - thời gian 10 chiều của hố đen đang tồn tại trong vũ trụ không có chỗ chứa cho những kẻ ngu dốt và tàn ác sát sinh, dù là người bị súi giục.
Hỡi những con người chưa được “tỉnh thức b́nh yên”, hăy tự soi xét lại ḿnh, sám hối và sớm giác ngộ buông tay dao, tay lựu đạn để dắt tay nhau cùng học hỏi, t́m hiểu về chân lư giá trị đích thực của cuộc sống Làm Người trước khi hành động.
Lê
văn Cường
TIÊN TRI
Sư
tử ăn thịt trâu nghé => Đàn trâu mẹ trở lại tấn công sư tử chạy có cờ
|
CÁC LỜI TIÊN TRI CAO ĐÀI XUẤT HIỆN | |
THIỀN Ngưu Đồ - CỬU CUNG 九 宫 | V̀ SAO THƯỢNG-ĐẾ MỞ ĐẠO TẠI VIỆT-NAM | |
Một Trang Web bất Vụ Lợi ,
Không Quyên góp. Phục Vụ Nhơn Loại Miễn Phí
|
Thư Viện 1 2 3 4 5 |