Tam
giáo qui nguyên, như nước ba sông lớn đổ về biển cả,
không thể biết nước nào thuộc về sông nào.
Học
thuyết mỗi giáo tuy luận điểm và danh từ có
khác nhau, nhưng xét về
mặt nguyên lý, thì Tam giáo đồng thờ một căn
bổn Độc nhứt và Phổ biến,
mà thông thường mà người ta gọi tắt là
Ngôi Độc Nhứt. Ngoài ra, ba giáo
đều chủ về tâm tánh và luận về thiện ác, họa
phước vay trả.
Hẳn
trong chúng ta, ai cũng biết khi nói đến Tam Giáo
là nói đến:
Đạo Phật cũng gọi là Thích giáo
Đạo Tiên (Đạo) cũng gọi là Lão giáo
Đạo Thánh (Nho) cũng gọi là Khổng giáo
Là ba giáo lớn ở Đông Nam Á.
Tại
Trung Hoa, cũng như trong nước Việt Nam ta, ba giáo này
vì gần gũi
nhau, chung đụng nhau lâu ngày, nên hiện nay về mặt
giáo lý, ba giáo
này xen lẫn và ảnh hưởng lẫn nhau, khó mà
phân biệt mỗi giáo cho rạch
ròi. Cho nên có người nói: Tam giáo
qui nguyên, như nước ba sông lớn đổ
về biển cả, không thể biết nước nào thuộc về sông
nào.
Học thuyết
mỗi giáo tuy luận điểm và danh từ có khác
nhau, nhưng xét về mặt nguyên
lý, thì Tam giáo đồng thờ một căn bổn Độc nhứt
và Phổ biến, mà thông
thường mà người ta gọi tắt là Ngôi Độc Nhứt.
Ngoài ra, ba giáo đều chủ
về tâm tánh và luận về thiện ác, họa phước
vay trả.
Kính thưa quí vị.
A.Trước tiên chúng tôi xin được nói về Ngôi Độc Nhứt theo quan điểm của Tam Giáo
I./Theo Phật giáo Ngôi Độc Nhứt này, gọi là Pháp hay Phật .
Trước
hết xin lưu ý: chữ Pháp và chữ Phật nói ở
đây, chẳng phải theo nghĩa
thông thường, mà theo nghĩa tuyệt đối. Nghĩa này
rất rộng lớn, bao trùm
khắp cả kiền khôn thế giới, là căn bổn của toàn
cõi vũ trụ bất sanh bất
diệt, gồm cả vạn hữu, chẳng có một sự vật nào mà
lọt ra ngoài giới hạn
của chữ Pháp hay chữ Phật đó.
Cuốn “An Độ Phật giáo sử lược” có nói rằng:
“Thứ tự ban sơ là Phật, Pháp, Tăng. Ý nói:
Trước có Phật, kế Phật
thuyết Pháp, rồi sau mới có Tăng là đệ tử nghe
thuyết pháp. Cho nên
theo thứ tự đó thì gọi ba báu của Phật giáo
là Phật, Pháp, Tăng.”
“Nhưng phái Đại thừa nhận rằng: Kiến Pháp (thấy
Pháp) mới là trọng yếu
hơn. Cho nên trước kể chữ Pháp thông suốt ba đời.
Người thừa Pháp này
mà tu thành Chánh giác, gọi là Phật.
Vậy chữ Pháp này không phải chữ
pháp (kinh luật) của Phật nói ra mà thôi.
Vì chữ Pháp này đặng mở rộng
ý nghĩa, nên cũng gọi là Như thật Pháp,
là Chơn như thật Tướng, Phật và
Tăng tức là ở trong chữ Pháp đó mà ra. Cho
nên nói: “Tiên Pháp nhi hậu
Phật Tăng”. Nghĩa là: Theo Đại thừa, thì trước có
Pháp, rồi sau mới có
Phật, Tăng ”.
Chữ Pháp này có ý nghĩa là vũ trụ
định luật, cũng gọi là pháp nhĩ thông
thường hiểu là tự nhiên. Phật giáo ít
dùng chữ “tự nhiên”, là bởi Phật
bác chữ ấy trong kinh Lăng nghiêm, vì sợ người ta
hiểu lầm theo nghĩa
tự nhiên của ngoại đạo, nên thường dùng chữ
Pháp nhĩ.
Xin được mở ngoặc ở đây để tìm hiểu xem Pháp nhĩ
nghĩa là gì:
Cuốn Phật học đại tự điển giải rằng: Chữ này đồng nghĩa với chữ
tự nhĩ,
pháp nhiên, thiên nhiên, tự nhiên, nghĩa
là không nhờ cậy ai bên ngoài
giúp sức mà nên, cái pháp ấy tự
nó vận dụng. Tỉ như lửa thì nóng, nước
thì ướt vậy.
Tham khảo thêm bộ “Tông viên ký”, cuốn thứ tư
có nói: “Pháp nhĩ nghĩa
là: nhĩ là như vậy đó. Ý nói: Chẳng
phải do ai cấu tạo, cái ấy tự nhiên
nó hiện ra như vậy đó, giống như tự nhiên ”.
Phật nói: “Một niệm qui y, thì chư Phật, bồ tát
đồng thời hộ niệm khiến
cho trừ họa đặng phước”. Phải hiểu lời này như vầy: Người hay
làm lành,
thì mảy hào chẳng bao giờ sai chạy, luật tự nhiên
tất phải lấy lành mà
đáp lại cho người ấy. Phật nói đây là ngụ
ngôn chủa chữ Pháp. Đến đây
xin được đóng ngoặc.
Cũng cuốn “An Độ Phật giáo sử lược” nói thêm rằng:
“Do quán Như thật
Pháp mà người thành đạo làm Phật, là
nói về quả vị. Còn vị bồ tác khởi
tu là nói về nhân địa. Tuy nhân quả có
khác nhau , mà đều phảicó người
tu chứng”.
Vậy nghĩa chữ Phật là sao?
“Cái quan niệm về Phật đà, ban sơ chỉ vốn là bực
đạo sư cõi Người, cõi
Trời, tức chỉ là người của Đức Thế tôn Thích Ca
(Theo nghĩa này Phật
được gọi là ứng thân, nghĩa là cũng có
thân thể bằng xương thịt như
chúng ta vậy)”.
Sau lại định nghĩa là: “Nhứt thiết chư phật có tướng hảo
quang minh,
gồm đủ đại dụng tế thế độ sanh”. Theo nghĩa này, thì Phật
chẳng phải
đời này lìa phiền não, vào Niết Bàn
mà thôi, lại về đời quá khứ, kiếp
này sang kiếp nọ đã có tu nhân lành
rất nhiều rồi. Bởi cớ đó, kết quả
ngày nay là cái công dụng rất lớn đặng
thành Đạo lợi sanh. Cuốn”Bổn
sanh đàm” (Jâtaka) chuyên thuật các tiền sanh
của Phật, đã làm nhiều
việc “khổ hạnh nan hành”, để cho người ta tin chắc cái
nghĩa nói trên.
Đại thừa còn giải thích phật thân tiến lên
một bực nữa, như sau này:
“Nếu Phật có đủ vô lượng tướng hảo diệu sắc bi trí
viên mãn, làm lợi
ích cho chúng sanh luôn luôn, mới là
chơn Phật, thì gọi là Báo thân,
hoặc Tha dung thân. Lại báo thân là bực thiệt
hiện cái Pháp nói trên đó
nên cũng có pháp thân. Hoặc nói: Phật
tức là Pháp thiệt hiện. Thấy Phật
cũng như thấy Pháp, thấy Pháp cũng như thấy Phật vậy.
Pháp và Phật hai
chữ đã đồng một quan niệm. Còn thân có nghĩa
tích tụ mà thành. Bởi có
các pháp tích tụ (hiệp chung lại) nên gọi
là Pháp thân ”.
“Vậy theo Đại thừa, Phật có đủ ba thân: Ứng thân,
Báo thân, Pháp thân.
Thế là cái tư tưởng về Phật thân đối với Phật
giáo hồi ban sơ có phần
tiến bộ hơn nhiều”. Cái Pháp thân nói sau
đây có phải là cái thân đệ
nhứt của ngôi Độc nhứt tối cao, tối thượng, bao gồm hết
các pháp, trải
khắp không gian và thời gian chăng?
Vua Trần Thái Tông là vua nước Việt Nam thời Trần
(1225 - 1258). Ngài
hiểu rõ đạo Phật một cách thấu đáo, có soạn
ra bộ sách “Khoá hư”, giảng
về nghĩa hư không, khuyến hoá tu hành theo Phật
giáo. Trong bài Bạt hậu
sách Khoá hư, nhà vua có nói:
“Khi nói, khi lặng, khi động, khi tịnh, đều là
pháp Phật.
Khi ăn, khi uống, khi ngủ, khi thức, đều là pháp Phật.
Khi đi đại tiện, khi đi tiểu tiện, đều là pháp Phật. ”
Nghĩa chữ Phật ở đây, tức là chỉ ông Trời, đấng tạo
hoá hay là Lẽ tự
nhiên của vũ trụ, người và vật đều do nơi cái Lẽ tự
nhiên tổng quát tạo
thành ra, hay là ai có ý tôn
kính thì gọi là đấng Tạo hoá gầy dựng
muôn
loại.
Cuốn “Phật học dị giải” của ông Gia Phong Trăng có giải
chữ Phật như
thế này: “Chữ Phật nói đây chẳng ra ngoài
Chơn lý của vũ trụ . . . Cây
liểu xanh, đoá hoa hường, con quạ ré, con sẻ kêu,
vốn ban sơ cũng đồng
một trạng thái, chẳng có tí gì sai biệt.
Cái trạng thái đó tức là Phật
vậy ”.
Chữ Phật nói đây đồng nghĩa với lẽ tự nhiên
nói trên.
Cận đại, ông D.T.Suzuki, giáo sư Thiền tông Nhựt
Bổn, viết ra cuốn
“Essais sur le Bouddhisme Zen” (nghĩa là: Thử viết về phật
giáo Thiền
Tông), có nói rằng:
“Phật tánh và Pháp tánh là danh từ
của người phái Đại thừa gán cho cái
chi không phải là bản ngã, nhưng cũng ỡ trong bản
ngã. Nhờ cái tư tưởng
này, người phái Đại thừa mới đi tới chổ ý thức tội
lỗi và đồng thời có
thể giác ngộ.”
“Phật tánh là bổn thể của quả Phật. Nếu không
có nó, thì người tu không
thể nào chứng quả Phật ở thế gian này. Vị Phật, mà
hiểu một cách khách
quan, hay là siêu nhơn cách, thì gọi
là Pháp, tức là Luật, Lý, Thật tại
vậy. Còn pháp tánh là cốt cán,
là rường cột của Pháp”.
“Phật tánh và Pháp tánh (gọi đủ chữ
là Pháp giái tánh) là hai danh từ
có thể dùng lẫn nhau, mà người theo Đại thừa
là giải cách chứng
nghiệmtu hành bằng chữ Phật tánh thường hơn”.
Theo thuyết Phật tánh nói đây, thì vị Phật
“lịch sử” trở nên vị Phật
“siêu phàm”, không còn là đức
Thích ca Mâu Ni trơn nửa (nghỉa là luận
theo cá nhơn phàm tiểu). Từ đây, Ngài
là một thị hiện của đức Phật bất
diệt, một kiếp ứng thân của Phật tánh vậy. Như thế
Ngài không phải còn
là một cá tánh bị hạn chế trong không gian
và thời gian; phần tinh thần
của Ngài tràn đầy ra ngoài thân thể
và quyền năng của Ngài đã tu chứng
có ảnh hưởng đến các bạn đồng môn đương phát
triển và tiến tu về quả
Phật.
Tuỳ phương diện người ta gọi hoặc Pháp hoặc Phật. Phật tỉ như vị
tổng
thống là hồn nước, còn Pháp sánh như một
quốc gia lá đất nước. Tuy là
ta thấy hai bên có khác nhau, kỳ thiệt đó
chỉ là hai phương diện của
một đơn vị, một thiệt thể mà thôi. Vì Tổng Thống
thay mặt cho quốc gia,
cho nên lấy lý mà xét, Tổng Thống và
quốc gia chỉ là một mà thôi.
II./Tiên giáo thờ Ngôi Độc Nhứt này, gọi là Đạo hay là Đức.
Đức
Lão Tử là tổ của đạo giáo, có trứ
tác nhiều bộ kinh, mà bộ kinh được
thiên hạ chú ý nhiều nhất là Đạo Đức kinh.
Tuy bộ kinh này có 81
chương, mà phần cốt yếu của nó gói gọn trong
chương thứ nhất, chúng tôi
xin trích dẩn ra sau đây:
Đạo khả đạo, phi thường đạo;
Danh khả danh, phi thường danh.
Vô danh thiên địa chi thỉ;
Hữu danh vạn vật chi mẫu.
Cố,
Thường vô dục, dĩ quan kỳ diệu,
Thường hữu dục, dĩ quan kỳ kiếu.
Thử lưỡng giã đồng,
Xuất nhi dị danh,
Đồng vị chi Huyền,
Huyền chi hựu Huyền,
Chúng diệu vi môn.
Đức Lão Tử
nói:
“Cái Đạo mà nói ra được, là không
phải cái đạo hằng còn (bất diệt). Cái
Tên mà kêu gọi được là không phải
cái Tên hằng còn (bất diệt).”
“Đương lúc không tên, (Đạo) là nguồn đầu (chổ
khởi thỉ phát sanh) của
trời đất. (Đạo vốn vô hình, tức là Bổn thể
thì làm sao có tên được?).
Đến khi có tên, (Đạo) là mẹ sanh của muôn
vật.(sau Đạo biểu lộ ra tức
là Đức, tức là sự sáng suốt, tánh thiện
tuyệt đối của Đạo chớ không
phải ngoài Đạo ra lại riêng có Đức, hai bên
đối lập cùng nhau).”
“Cho nên lòng thường không có thị dục (trống
không thanh tịnh), thì xét
thấy chổ vi diệu của Đạo. Còn lòng thường có thi
dục (bị dục xúc động),
thì chỉ xét thấy phần hình thức của Đạo mà
thôi”.
“Hai loại này đồng một gốc mà ra, nhưng lấy tên
khác nhau, đồng gọi là
Huyền, cái Huyền trong cái Huyền (tột huyền diệu)
chính là cửa của các
pháp vi diệu (cửa ra vào của muôn vật)”
Với chữ Đạo nói đây, đức Lão Tử muốn chỉ ra
cái Nguyên lý Độc Nhứt đời
đời bất diệt và khó biết kia là gốc của muôn
vật.
Nó chính là nguyên lý đầu tiên,
là nguyên nhân của các nhân, là
lý
tuyệt đối, vô hình, cao cả, là nguồn đầu của Trời
đất. Không có Đạo thì
chẳng có chi tồn tạiđược, nên Đạo là gốc của sự
sống tiềm tàng trong
mọi loài.
Cái phần của Đạo phát lộ ra bên ngoài, bởi
có sức bồng bột, vô cùng
mảnh liệt bên trong thì Đức Lão Tử gọi là
Đức. Đạo Đức kinh gọi là
thượng đức. Còn đức hạnh, đức tánh là nhân
nghĩa thì gọi là hạ đức, vì
đã chia ra nhiều mối mất vẻ hồn nhiên. Cho nên mới
nói:
“Mất thượng Đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới
có nghĩa.” (Thất Đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu
nghĩa).
Đạo đức kinh, chương thứ 21, nói: “Khổng Đức chi dung, duy Đạo
thị tùng”.
Nghĩa là: Cái sức chứa đựng của Đức lớn (trống như hư
không), chỉ theo
lượng của Đạo (Đạo lớn bao nhiêu thì cái sức chứa
đựng, bao trùm muôn
vật của Đức cũng lớn bấy nhiêu).
Đạo Đức kinh chương 21 lại nói:”Cho nên Đạo sanh nó
(nó đây có nghĩa là
muôn vật), Đức nuôi nó, làm cho nó
lớn, làm cho nó sống, nên hình,
chính chắn, tu bổ, chở che nó. Tự mình sanh ra
mà không giành làm riêng
của mình, tạo nên mà không cậy nhờ vào
nó, giúp cho nó lớn mà không
làm
chủ nó. Đógọi là huyền Đức (Đức sâu rộng)”.
Theo ý đức Lão tử, Đạo chỉ là bổn thể sanh ra
muôn vật, còn sự hóa dục
và các việc khác đều là công việc của
Đức cả. Đức này không phải là một
vật cụ thể, có hình dáng rõ rệt, có
thể dùng giác quan và ý thức mà
tìm
thấy được. Nó là mạng mạch, là động lực vô
hình duy trì sự tồn tại của
muôn vật trên cõi vũ trụ.
Theo cái nghĩa mới mẻ nói đây, chữ Đức còn
có ý nghĩa mầu nhiệm, thánh
thần, là mẹ sanh của muôn vật (hữu danh, vạn vật chi mẫu).
Vì chữ Đức
này là Đức của Đạo. Do vậy, đức Lão tử đã
nói: hễ Đạo lớn bao nhiêu,
thì theo đó Đức cũng lớn bấy nhiêu, không
có chi so sánh kịp, không có
chi lọt ra ngoài.
Bởi các lý do đó mà Ngài gọi bộ kinh
của Ngài là Đạo Đức kinh. Bộ kinh
này ghi đủ hai nghĩa của chữ Đạo và chữ Đức, rất đơn
giản. Nghĩa đơn
giản này cũng như nghĩa chữ giản dị trong bộ Kinh dịch.
Theo luật tự nhiên của tạo hóa, chi chi cũng bắt đầu từ
chữ giản dị đó
mà sanh ra. Tỉ như một thân cây lớn, nhánh
lá rườm rà, trước chỉ là một
hạt giống cỏn con. Cho nên con người muốn hiểu được chỗ giản dị
đó, thì
cũng phải tập tánh vong kỉ, dẹp hết tham dục trong lòng,
mới mong có
chổ trống không mà tiếp đón hai chữ Đạo Đức
vào lòng.
Cái phương pháp tìm hiểu Chơn Lý này
phải nhờ có sức trực giác thiêng
liêng, không giống với các phương pháp
tìm tòi sự thật bằng giác quan
và ý thức của kẻ thế gian.
Thế thì hai chữ Đạo Đức của đức Lão tử đối với nghĩa
thường dùng, có
phần tốt đẹp, cao siêu, huyền bí hơn. Một nhà tu
công giáo, Bác sĩ
L.Wiéger người phiên dịch cuốn Đạo Đức kinh ra chữ
Pháp, đã diễn dịch
hai chữ Đạo, Đức như sau:
“Một nguyên lý đầu tiên và độc nhứt, ban sơ
nó tập trung và đại tinh, tự mình phát
xuất, sanh hóa
Khi cái nguyên lý ấy bất động thì gọi
là Đạo, còn khi cái nguyên lý ấy họat
động thì gọi là Đức”
Đây chúng tôi xin nói rõ: Đạo
là bổn thể, là gốc sanh, tỉ như ngọn lửa
đèn; còn Đức là vô lượng công dụng của
Đạo, tỉ như ánh sáng của ngọn
lửa đèn. Lửa đèn và ánh sáng đều
thuộc về cái đèn, thì Đạo và Đức cũng
chỉ là hai phương diện của ngôi Độc Nhứt.
III./Thánh giáo thờ Ngôi Độc Nhứt này, gọi là Thiên hay là Thượng Đế .
Trong
kinh Thơ và kinh Thi, người Trung Hoa thời cổ thường dùng
chữ Thiên hay
là Thượng Đế mà xưng tụng ngôi chúa tể kiền
khôn thế giới.
Như
chương Thuấn điển trong kinh Thơ có câu: “Phiền
sài, dĩ cáo Thiên dã.
Cáo chi dã, cáo kỷ thọ Nghiêu chi thiền,
hành thiên tử chi sự”. Nghĩa
là: Vua Thuấn đốt củi để tâu cáo lên trời
rằng: Ngài đã nhận lãnh ngôi
báu của vua Nghiêu nhường lại và vâng chịu
trách nhiệm thiên tử cai trị
dân từ đây.
Cũng trong chương Thuấn điển có câu: “Tứ loại vu Thượng
đế”, nghĩa là:
bày lễ đặc biệt để cúng Thượng đế. Lời giải
thích:”Thượng đế, chi dã,
chí tôn, vô đối”, nghĩa là: Chúa
cõi trên tức là Trời, Tột bực cao tôn,
chẳng có ngôi thứ hai (vô song).
Lại nói thêm rằng: “Tự hình thể nhi ngôn chi,
tắc vị chi Thiên, tự chủ
tể nhi ngôn chi, tắc vị chi Đế. Kỳ thật nhứt dã”. Nghĩa
là: nếu nói về
mặt hình dáng thì gọi là Thiên
(Trời). Nếu nói về ngôi chủ tể thì gọi
Đế (Vua). Kỳ thiệt, Thiên hay Thượng đế chỉ là một.
Sách Tánh lý cũng có nói: “Thi Thơ
trung phẩm hữu cá chủ tể ý tứ giả
giai ngôn đế, hữu cá bao hàm biến phú
ý tứ, tắc giai ngôn thiên”. Nghĩa
là: “Trong kinh Thi, kinh Thơ phàm có cái
ý tứ chủ tể thì đều dùng chữ
đế, còn có cái ý tứ bao hàm trải
khắp thì đều dùng chữ Thiên (Trời)”.
Về vấn đề thờ Trời, chúng tôi xin tóm tắt một
ít tư tưởng của đức Khổng tử như sau:
1.Nói về lễ
Trời
Sách Trung dung nói: “Giao xã chi lễ, sở dĩ sự
Thượng đế dã”. Nghĩa là: Lễ tế trời đất là để thờ
Thượng Đế.
Kinh Lễ, trong bài Tăng tử hỏi, có nói: “Giao
xã tôn vô nhị thượng”.
Nghĩa là: Lễ tế Trời Đất, tức là Thượng Đế cao cả hơn
hết, chớ không có
ngôi thứ hai nữa.
2.Nói về sự hiểu biết Trời
Sách Luận ngữ nói: “Quân tử úy Thiên
mạng”. Nghĩa là: Người quân tử sợ mạng lệnh của Trời.
Trung dung nói: “Tự tri nhơn, bất khả dĩ bất tri Thiên”.
Nghĩa là: kẻ
nào đã biết con người (vì con người là tiểu
thiên địa), thì chẳng thể
nào không biết Trời.
3.Nói về sanh háo của Trời
Sách Trung dung có nói: “Thiên chi sanh vật,
tất nhân kỳ tài nhi đốc
diên; cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi ”.
Nghĩa là: Trời sanh
người và vật, do cái tài cái đức của mỗi
người, mỗi vật mà giúp sức họ.
Kẻ nào đứng vững thì Trời vun vén thêm cho,
còn kẻ nào ngã xiêu thì
Trời lật đổ tuốt.
Kinh Lễ trong bài Ai Công hỏi, có nói:
“Vô vi nhi vật thành, thị Thiên
đạo dã”. Nghĩa là: không thấy họat động gì
mà muôn vật sanh thành, đó
là Đạo của Trời vậy.
Luận ngữ nói: “Thiên hà ngôn tai! Tứ thời
hành diên, bách vật sanh
diên. Thiên hàngôn tai!”. Nghĩa là:
Trời nào có nói chi! Mà bốn mùa vận
xây, muôn vật sanh hóa. Trời nào có
nói chi!
Theo như mấy lời dẫn trên, thì tư tưởng của đức Khổng tử
về Thiên và
Thượng đế cũng y như người TrungHoa thuở xưa kia. Cho nên
Ngài nói: ta
không có sáng tác cái chi mới, ta chỉ
tập đại thành (lập thành có hệ
thống) những tư tưởng của các đấng tiên vương mà
thôi.
Vậy
Tam giáo có phải là đồng thờ một Ngôi Độc
nhứt chăng? Tuy danh từ xưng
tụng có ý khác nhưng ý nghĩa Ngôi Độc
nhứt không khác.
Thích giáo nói: “Van
pháp qui Nhứt”.
Đạo giáo nói: “Bảo nguơn thủ Nhứt”.
Nho giáo nói: “Chấp trung quán Nhứt”.
Mỗi giáo đều có khuynh hướng về với ngôi nhứt, tức là một danh từ tĩnh bút của Ngôi Độc Nhứt và phổ biến. Như trên đã giải: đó là nguyên lý luôn luôn chỉ ngôi Tạo hóa sanh người vật, chủ tễ vũ trụ tồi cao, tối thượng, bất sanh bất diệt, mà ai ai cũng phải tôn kính và phục vu.
B.BA GIÁO ĐỀU CHỦ VỀ TÂM TÁNH
Chủ trương của ba giáo đồng trau
tâm sửa tánh.
Thánh giáo nói: Tồn tâm dưỡng tánh,
hay là Cùng lý tận tánh.
Tiên giáo nói: Tu tâm luyện tánh.
Phật giáo nói: Minh tâm kiến tánh.
I./Tồn tâm
dưỡng tánh
Thánh giáo tuy chủ về luân lý, luận về đạo
làm người, dạy tam đức, ngũ
luân, tam cang , ngũ thường. Nhưng chẳng phải là
không nói đến chổ cao
siêu huyền bí về tâm tánh con người.
Đức Khổng tử nói: “Dư dục vô ngôn”, nghĩa là:
Ta muốn không nói. Kỳ
thiệt, ý Ngài chẳng phải không muốn nói,
nhưng Ngài khó tả cái trạng
thái của Đạo, là phần siêu hình. Ngài
có nói ra được chăng, chỉ là nói
về phần công dụng, tức là cái kết quả do
giác quan thấy, rờ được mà
thôi.
Bằng chứng là thầy Tử Cống nói: “Phu tử chi văn chương
khả đắc nhi văn
dã. Phu tử chi ngôn Tánh dữ Thiên đạo, bất
khả đắc nhi văn dã”, nghĩa
là: Đức Phu tử nói về văn chương còn có thể
nghe được, chớ nói về Tánh
và Thiên đạo thì không thể nào nghe
(hiểu).
Câu này chỉ rõ đức Khổng tử luận rộng về việc đời
theo luân lý, còn ít
dạy về Tánh và Thiên đạo (tức là Hình
nhi thượng học). Ngài chỉ nói
Tánh và Thiên đạo với các học trò cao
đệ, chớ nói với hạng học trò
khác, từ trung đẳng sắp xuống, dẫu Ngài có
nói ra đi nữa thì họ cũng
không đủ sức hiểu giáo lý của Ngài nổi. Cho
nên phần đông học giả chỉ
rõ Hình nhi hạ học mà thôi (thuộc về thực
tế).
Lại có một câu nữa trong sách Trung dung như vầy:
“Thành (sẳn có trong
lòng) là Đạo trời; (nếu mất cái lòng
thành sẳn có đó), nay làm cho cái
Thành đó trở lại (trí khúc) là đạo
người. Thành (sẳn có trong lòng) thì
không cố gắng mà nhằm, không suy nghĩ mà
đặng, một mực thung dung mà
trúng Đạo, đó là bậc Thánh nhơn. Còn
làm cho Thành trở lại, thì phải
chọn điều lành, mà nắm giữ nó cho chắc, đó
là bậc Hiền nhơn (phải học
hỏi)”.
Chữ Thành có nghĩa là: Chơn thật vô vọng,
là tánh bổn nhiên Thiên lý, cũng gọi
là Lương tri, là Lý tánh, v.v. . .
Đủ thấy Nho giáo cũng có phần cao siêu, nhưng
ít người đặng biết, sau
này tới đời Tống, đời Minh mới có nhiều bậc học giả cao
đệ phát huy
những chổ vi ngôn ẩn ý của Thánh nhơn xưa –
đó là phần học về tâm
truyền – mới thấy sách truyền bá rộng rãi trong
nhân gian về Hình nhi
thượng học.
Nho giáo lấy tồn tâm dưỡng tánh làm mục
đích chánh. Thầy Mạnh Tử có nói
trong chương Tận tâm thượng rằng: “Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ
tánh, sở dĩ sự
thiên dã”, nghĩa là: “Kẻ học giả hay gìn giữ
cái tâm mình (cho minh
mẩn), thường nuôi cái tánh mình (cho
hoàn toàn), là để thờ Trời vậy ”.
Lại giải chữ Tồn tâm là: “Cầu kỳ phóng tâm
nhi dĩ hỉ”, nghĩa là: “Kềm
giữ cái tâm mình đừng để nó phóng
túng buông lung, làm các việc bất
chánh”. Có tồn tâm như thế, thì mới
nuôi được cái tánh bổn nhiên Thiên
lý, cái Lương tri, cái Lý tánh
nói trên.
Sách Trung dung nói: “Suất tánh chi vị Đạo”, nghĩa
là: noi theo cái tánh đó mà cư xử
với đời, mới phải là Đạo vậy.
Nho giáo cũng có nói: “Cùng lý tận
tánh”, nghĩa là: phải học hết cái lý
ở trong tâm (tâm tức lý), thì mới trọn
rõ bổn tánh, mới thiệt hiện bổn
tánh được.
II./Tu tâm
luyện tánh
Đạo Tiên lấy “Tu tâm luyện tánh” làm mục
đích chính. Chữ tu nghĩa là
trau giồi việc xấu cho ra tốt, dữ cho ra lành. Chữ luyện nghĩa
là: đốt
rèn bằng lửa, như thợ rèn trui thép từ mềm trở
nên cứng, lụt trở nên
bén vậy.
Đây là đốt rèn bằng lửa nghĩa là làm
sao?
Lửa này chẳng phải lửa thường đâu! Lửa này
là lửa của Nguơn thần, là
lửa Tam muội trong tâm người, nhờ Chánh định mà
hiện xuất, gọi là Lửa
Tạo hóa (Feu Créateur).
Trong khỏang trời đất này, không có chi là
chẳng do nó sanh. Sanh rồi
nó luôn luôn tồn tại trong mọi người vật, mà
giử gìn sự sống còn. Hễ nó
đi rồi, thì sự sanh sống trong người vật chắc chắn là
phải tuyệt hẳn.
Cho nên kinh xưa mới có câu: “Hỏa lý
tài liên”, nghĩa là trồng sen
trong lửa. Đủ thấy lửa thường thì đốt tiêu mọi vật,
còn lửa sống nói
đây lại nuôi dưỡng muôn vật.
Nếu con người chỉ biết tu tâm, theo luân lý
thì cái tâm tốt về mặt này,
nhưng lại sanh xấu về mặt khác. Làm sao có tuyệt
hẳn sự xấu được? Ngoài
phép luyện nói đây, thì không
có phương pháp nào khác hay hơn nữa.
Luyện tánh là đốt hết các thứ xấu xa bên
ngoài, để rèn cái chơn tánh
cho vửng chắc, cho nó đời đời không còn thay đổi
hình dạng, nghĩa là:
không còn dời dạt, luân hồi lên xuống nữa. Tỉ
như ta đốt cây thành ra
than, thì đời đời nó không còn đâm
chồi nhảy nhánh nữa.
Các kinh Tiên gia như Đạo Đức, Huỳnh Đình, Thanh
Tịnh, nói luyện Kim
đơn, tức là luyện bổn tánh của mình. Nhưng tiếc
vì đạo Kim đơn ít
truyền cho thế gian, và lại lời dạy rất kín đáo,
nên người đời hiểu
theo ý kiến phàm phu, cho Kim đơn là thuốc
có pha vàng, để phục thực
(uống vào) mà cầu trường sanh (sống lâu).
Hai bài thơ sau đây chỉ rõ Kim đơn là bổn
tánh, chớ không chi khác lạ:
Bổn tánh tiên thiên ấy
gọi đơn,
Trong lò bát quái luyện thành huờn,
Người mê tìm thuốc ngoài thân thể,
Uống được, trên mây tưởng để chơn.
Lại một bài khác:
Bổn lai Chơn tánh hiệu Kim đơn,
Tứ đại làm lò, luyện hiệp huờn.
Kẻ hiểu là người về thánh vức,
Người mê muôn kiếp chịu trầm luân.
III./Minh tâm
kiến tánh
Phật giáo nhận cái Chơn như Phật tánh là
Chơn thiệt. Muôn hình tượng
đều do Vọng tâm sanh sanh hoá hoá ra cả, chỉ
là bóng vang huyễn hoá.
Người học Phật phải hiểu rõ như thế, rồi tìm trở lại
cái gốc xưa, là
Chơn như Phật tánh, để thoát ra khỏi vòng sanh
tử,tiêu trừ các món
phiền não, mới là đặng hưởng phước lâu dài
nơi cảnh Niết bàn.
Phật giáo lấy Chơn như Phật tánh làm gốc,
nên công phu tu hành của người học Phật là:
“Minh tâm kiến tánh”.
Minh tâm là gì?
Minh tâm nghĩa là: dẹp dục vọng, trừ sự mơ ước vu vơ,
làm cho cái tâm
mình không đặng sáng tỏ. Cái tâm
nói đây sanh sanh diệt diệt, động niệm
không ngừng, nên phải thành ra mờ tối, không
rõ thấu nổi Chơn lý. Chỉ
có tâm thanh tịnh mới rõ được Đạo. Tỉ như bầu trời
quang đảng, chẳng
chút mây che, thì chi chi cũng thấy dễ dàng.
Hoặc như tấm gương lau
chùi sạch bụi, trong trẻo, treo cao thì vật nào
không chiếu rọi.
Pháp Bửu Đàn Kinh nói rằng: “Người nào kiến
tánh, muốn lập (pháp) cũng
được, không lập cũng được, lui tới tự do, không chi trở
ngại, gặp việc
làm ngay, ai hỏi đáp liền, thị hiện hoá thân
khắp nơi, mà chẳng lìa tự
tánh, tức là đặng tự tại thần thông, du hí
tam muội, ấy gọi là kiến
tánh”.
Đức Đạt ma tổ sư phái Thiền Tông có nói
rằng: “Trực chỉ nhơn tâm, kiến
tánh thàn Phật”, nghĩa là: Ta chỉ ngay cái
tâm con người, hễ biết nó và
làm cho nó sáng tỏ lên, thì tự
nhiên thấy tánh của mình mà đặng
thành
Phật. Lại nói trong cuốn Huyết mạch luận: “Nhược dục kiến Phật,
tu thị
kiến tánh, tánh tức thị Phật”, nghĩa là: nếu muốn
thấy Phật, thì phải
thấy tánh, vì tánh tức là Phật.
Đây là tông chỉ của phái Thiền tông,
không chấp văn tự, chỉ cầu tâm truyền, ngoài ba tạng
kinh.
Trong cuốn Minh Lý Học Thuyết của An sư Minh Thiện có
nói về nghĩa Minh
Lý theo Phật Giáo. Ngài chỉ nói vắn tắt
“Lý tức Phật” hay nói rõ hơn
“Lý tức thị Phật tánh”. Chữ Lý nói
đây có nghĩa là Phật tánh.
Cuốn “Giác quán cang yếu” của ông Ngẫu Ích
sa môn Trí Húc trùng thuật,
trong bài “Lục tức” thuộc về Viên giáo, có
nói “Lý tức Phật”, nghĩa là
Lý tánh không thể nghĩ bàn, là Như
lai tạng, chẳng khi nào biến đổi mà
tuỳ theo các duyên. Tuỳ theo các duyên
mà chẳng khi nào biến đổi, mỗi
lần đưa ra một pháp, chẳng hề không có đủ
pháp giái (nghĩa là: một pháp
là toàn bộ pháp giái), tâm, phật,
và chúng sanh, cả ba đều không sai
biệt, ở cõi phàm không bớt, về cõi
thánh không thêm.
Thế thì chữ Minh Lý không khác nghĩa với chữ
Minh tâm kiến tánh. Vì Lý
tức là Tánh, Tánh tức là Lý,
nên cũng hiệp hai chữ lại mà gọi là Lý
tánh (theo kinh Phật)hay là Tánh Lý (theo
sách Nho). Bỡi cái Lý tánh
này không thể bàn nghĩ, nên Thánh
ngôn của Minh Lý cũng gọi là: “Lý ấy
Tánh chơnvô nhị thị”, mà vô nhị thị nghĩa
là: không có một lẽ thứ hai
như thế đó, tức là tuyệt đối vậy.
Trong tâm tánh của con người, có hai phần: một phần
tuyệt đối, bình
đẳng,đồng nhứt với Ngôi Độc Nhứt nói trên, lại
không có hình tướng, nên
phổ biến khắp nơi, bất sanh bất diệt. Còn một phần khác
tương đối,
thiên hình vạn trạng, sai biệt với Ngôi Độc Nhứt
nói trên, lại phải
sanh diệt.
Kính thưa quí vị,
Minh tâm kiến tánh, tu tâm luyện tánh, tồn
tâm dưỡng tánh, mặc dầu danh
từ kêu gọi có khác nhau mà công phu
cũng đều đem tâm tánh từ chổ hình
thức, sanh diệt, trở về chốn vô hình, bất sanh bất diệt,
để hiệp cùng
Ngôi Độc Nhứt.
C. BA GIÁO ĐỀU CÓ LUẬN VỀ THIỆN ÁC VÀ HỌA PHƯỚC TRẢ VAY
Tuy đồng luận về thiện ác và họa phước trả vay, mà gọi tên thuyết khác nhau, Phật gọi là Nhân quả, Đạo gọi là Cảm ứng, Nho gọi là Báo ứng.
I./Nhân quả của Phật giáo
Nhân quả là tiếng thường dùng, mà cũng có kinh gọi là Nghiệp. Chữ Nghiệp nghĩa là:việc làm, hành động, động lực.
-Tại sao Nghiệp cũng có nghĩa
là Luật nhân quả?
-Bởi vì mỗi nguyên nhân là hành động,
mỗi cái hành động là nguyên nhân.
Cái kết quả nào cũng là công hiệu của
hành động. Vả lại kết quả cũng tự
có động lực, nên đặng xem như một nguyên nhân
để sanh ra kết quả mới
nữa.
Thế thì cái Nghiệp tiếp tục tương sanh, sanh lẫn
cùng nhau, thành ra
một đoàn động lực. Vì nhân nào sanh quả nấy,
chẳng bao giờ sai chạy,
cho nên gọi là Luật Nhân quả.
Người ta thường tuởng Nghiệp, hay Luật Nhân quả, là một
cái luật chi
phối mạng vận của lòai người mà thôi. Kỳ thiệt,
phạm vi nó rất rộng, nó
bao quát trọn hết các động lực của kiền khôn,
nó chi phối tất cả sự
sanh hóa của muôn vật.
Luật Nhân quả có hai nguyên tắc lớn sau đây:
a.Sự sanh tồn đồng với động lực.
b.Bởi có động lực mà sự sanh tồn (của người và vũ
trụ) biến thiên, mới có tiến hóa hay là thối
hóa.
Cái
Luật nhân quả phổ biến này, ứng dụng cho nhơn loại,
có thể tóm tắt lại
như vầy: Mỗi người tự mình tạo nghiệp, đó là một
cách vận động riêng
của mình. Con người ngày nay ra sao, có gì,
con người ngày sau ra sao,
có gì, các điều đó đều do nơi sự
hành động của ta mà ra cả. Các điều đó
chẳng qua là cái kết quả của các việc mà
người ta đã làm, đương là và
sẽ làm, hoặc bằng ý tưởng, hoặc bằng lời nói, hoặc
bằng hành vi mà
thôi. Nói tắt, cảnh hiện tại của ta là cái
quả của hành động quá khứ
của ta vậy.
Chúng tôi xin lặp lại: Luật Nhân quả là luật
phổ biến
của vũ trụ, mà ta đem nó ra ứng dụng riêng cho
loài người, chớ không
phải là cái luật riêng cho loài người
mà thôi. Phần tinh vi của luật
này là bất khả tư nghì, nghĩa là
không thể lấy trí phàm mà hiểu trọn
được! Chỉ có hạng người chứng Đạo rồi mới hiểu thấu suốt hết nổi.
Phật chia Nghiệp ra làm hai thứ:
a.Tư nghiệp
b.Tư dĩ nghiệp
Tư nghiệp là những việc toan
tính trong đầu, cũng gọi là Ý nghiệp.
Tư dĩ nghiệp tức là trong đầu đã quyết định rồi,
nên việc làm phát động
ra ngoài thân mình (chân tay hay là
cửa miệng). Ở thân mình thì gọi là
Thân nghiệp, còn ở cửa miệng, thì gọi là
Khẩu nghiệp.
Cho nên cũng có chỗ chia Nghiệp ra làm ba lọai,
là: Ý nghiệp, Thân nghiệp và Khẩu nghiệp.
Phàm có gây nghiệp thiện và ác,
thì tất nhiên phải đầu thai chuyển kiếp, luân hồi
sanh tử, để mà trả vay cho nhau.
Phật tùy cơ cảm và trình độ hiểu biết của
chúng sanh mà giải nghĩa chữ
Nghiệp, tuy có cao thấp bất đồng, nhưng cũng đều thuộc về
chánh pháp
cả. Vì phải tùy thính giả, Phật mới có
nói ra bốn thuyết sau nầy:
a.Nghiệp cảm duyên khởi, hay là Vô minh duyên
khởi.
b.A-lại-da duyên khởi, hay là Duy thức duyên khởi.
c.Chơn như duyên khởi, hay là Như lai tạng duyên
khởi.
d.Pháp giái duyên khởi, hay là Nhứt thặng
duyên khởi.
-Có kẻ hỏi:sao Phật chỉ nói có luật, mà
không nói có người xử đoán?
-Ở thế gian này, hễ có cuốn luật ban hành,
thì phải có ông tòa ngồi xử.
Nếu có luật, mà không có ông
tòa thì ai là người đứng ra xử? Còn
có ông
tòa, mà không có luật, thì ông
tòa mới dựa vào đâu mà xử?
Ơ cõi thế gian là cảnh tương đối, thì luôn
luôn có đủ hai bên, mới là
thành sự phân xử. Nếu chỉ có một bên,
thì làm sao luật lệ đặng thi hành
cho đúng đắn được?
Nhưng ở trên cảnh tuyệt đối thì khác hẳn, đâu
có nhiều mối lăng xăng.
ông tòa và luật chỉ là một. Vì lẽ
đó, khi nói: “Nhứt bổn tán vạn thù”
là chỉ trên thế gian, có nhiều mối sai biệt.
Còn nói: “Vạn thù qui nhứt
bổn” là chỉ cõi Niết bàn bình đẳng
không hai của Phật.
Chỗ bí yếu là phải rõ: Trong Ngôi Độc Nhứt
đó có vô lượng tánh công
đức, có đức tánh nào mà không sẳn gồm
đủ. Ơ trên cảnh tuyệt đối, trong
luật có sự sáng suốt tức là ông Tòa;
mà ông Tòa cũng ở trong luật,
không bao giờ phán đoán ra ngoài luật
đó.
Cũng như trên đã nói: Phật không khác
với Pháp, Pháp không khác với
Phật. Thì đây, chúng tôi cũng có thể
nói ông Tòa không khác với Luật,
Luật không khác với ông Tòa. Trên cảnh
tuyệt đối, ông Tòa và Luật hai
bên hiệp lại, chỉ như có một. Cho nên hễ nói
ông Tòa là có Luật trong
đó, còn nói Luật là có ông
Tòa ở trong đó rồi.
Như trên đã kể nhiều thứ duyên khởi, đủ rõ:
Phật không phải nói Luật
Nhân quả hay là Nghiệp cảm duyên khởi mà
thôi. Sau Nghiệp cảm duyên
khởi, Phật còn tiếp nói thêm: A-lại-da duyên
khởi, Chơn như duyên khởi,
Pháp tánh duyên khởi, là để chỉ rõ
có luật Nhân quả, mà cũng có linh
tánh trong đó của lòai người, của vũ trụ(đồng nhất
với Thượng đế). Chơn
như và Pháp tánh không phải là sự
sáng suốt vô cùng, vô tận, là Chơn
lý
tuyệt đối đó sao?
Luật Nhân quả và vấn đề luân hồi sanh tử là
cái luật chung, chẳng phải
mới xuất hiện từ khi Phật ra đời. Nó vốn từ xưa đã
có trong các kinh
của Bàlamôn giáo ở An Độ. Nhưng nhờ có Phật,
cái luật ấy mới đặng chỉnh
đốn và bổ túc thêm hòan hảo.
II./Cảm ứng của Tiên gia
Lấy
cái này mà xúc động (chạm đến) cái
kia, gọi là Cảm. Người Pháp dịch chữ
Cảm là Action (hành động), thì cũng đồng nghĩa với
chữ Nghiệp nói trên
của Phật giáo. Rồi cái kia đối đáp (dội lại)
cái này gọi là Ứng. Người
Pháp dịch chữ Ứng là Reaction (phản động).
Cảm đã là hành động
(việc người làm), Ứng là phản động, thì ứng phải
do cảm, nghĩa là bởi
hành động trước, rồi sau đó mới có sức phản động.
Cuốn kinh Cảm ứng của đức Thái Thượng Lão Quân khởi
đầu như vầy: “Họa
phước vô môn, duy nhơn tự triệu; thiện ác chi
báo, như ảnh tùy hình”.
Nghĩa là: điều họa phước không có ngõ nhất
định, chỉ tại người tự vời
lấy cho mình; dữ lành hai lẽ báo ứng, tỉ như
bóng tùy hình. Trong kinh
Sám hối của đạo Minh Lý nói:
Điều họa phước không hay tìm
tới,
Tại người vời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
Chữ
tùy có nghĩa là theo một bên mình
chẳng rời, mà cũng có nghĩa là: chìu
sự lớn, nhỏ, nặng, nhẹ nữa. Ý nói: việc lành, việc
dữ của mình làm có
lớn, có nhỏ, có nặng, có nhẹ, thì sự
báo ứng tùy theo đó mà trả vay, tự
nhiên có nhiều, có ít, có chậm,
có mau, chẳng bao giờ sai chạy.
Nghĩa chữ Cảm ứng tương tự với nghĩa chữ Nhân quả. Nhưng hai
thuyết
khác nhau ở chỗ: Một đàng nói có Thần minh,
người vật đứng ra thi hành
luật, còn một đàng nói trả vay, chỉ nhìn
có Luật là chân lý mà thôi chớ
không nhận có Thần hay người đứng ra trung gian trong
lúc trả vay đó.
Theo kinh Cảm Ứng, thì người làm lành đặng người
khác kỉnh trọng
mình(Nhơn giai kỉnh chi), nhờ đạo Trời hộ giúp
(Thiên đạo hựu chi), có
phước lộc theo bên mình (Phước lộc tùy chi), đặng
các tà ma xa lánh
(Chúng tà viện chi), đặng các thần linh phò
trì (Thần linh vệ chi) … Vì
lẽ đó, mà họ có lòng tính ngưỡng
theo Trời, theo Thần linh.
Thiệt tín ngưỡng như thế chẳng phải là quấy, vì
tín ngưỡng có hạng đứng
chủ trương và thi hành luật công bình trong
vũ trụ, tức là tín ngưỡng
có cái luật công bình này. Nhưng
có kẻ biếng nhác ỷ lại, chẳng chịu ra
công mà muốn hưởng, thành ra muốn cho Thần linh
làm trái luật công bình
ấy, để ban phước cho mình, thiệt là quấy vậy.
Người yếu lòng, chưa đủ trí, thì cũng nên
cầu khẩn Bề Trên mặc khải và
giúp sức cho mình theo con đường chánh. Vì
Bề Trên chỉ giúp được những
người sẳn có lòng như thế đó, chớ không thể
giúp cho hạng người ích kỉ,
chỉ cầu điều lợi riêng cho một mình mình ma
thôi.
Trên kia, chúng tôi nói mặc khải, chớ
không phải quyết định và giúp
sức, chớ không phải làm giùm, vì mỗi người
còn giữ cái quyền tự do và
chịu trách nhiệm về việc mình làm. Còn
người nào có đủ nghị lực, trí
hóa mở mang, tự dùng cái tâm tánh
thành thật, cái hành động chánh
đáng,
mà thi thố mọi việc, như vậy hoài không mỏi, mới
là cảm động tới Thần
linh, tới Trời.
Cái thuyết Cảm ứng của Đạo giáo thiệt không được
hòan mãn đủ lý như
thuyết Nhân quả, nhưng có phần thực tế hơn, vì chỉ
chú trọng về một đời
hiện tại, và phần đông chúng sanh cũng dễ hiểu hơn.
Nhưng chúng sanh
khó tránh khỏi cái lưu tệ của thuyết Cảm ứng về
chỗ tin nhảm dị đoan,
bùa bèng dưng cúng, vì bởi chỗ lầm lạc
nói trên. Theo ý chúng tôi, lỗi
tại người, chớ không phải tại thuyết.
III./Báo ứng của Nho giáo
Báo,
nghĩa là đền đáp, thưởng phạt. Ứng là tùy
việc mình làm trước mà ứng
đáp lại. Nói cho đúng, Nho giáo không
có lập thuyết Báo ứng. Nhưng có
nhiều tư tưởng thuộc vấn đề này, chẳng phải là
không bổ ích, nên xin
dẫn ra sau này:
Đức Khổng Tử nói rằng: “người làm việc lành
thì
Trời lấy phước mà báo ứng cho họ, người làm việc
chẳng lành thì Trời
lấy họa mà báo ứng cho”.
Từ thần ông nói: “Chứa lành gặp lành, chứa
dữ gặp dữ, tử tế xét suy, Trời Đất không lầm”.
Lại nói:
Hành tàng hư thiệt tự gia tri,
Họa phước nhân do cánh vấn thùy?
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì.
Nghĩa là:
Việc làm dối thiệt tự mình hay
Họa phước do ta lại hỏi ai?
Lành dữ rốt rồi, có báo ứng,
Khác nhau là tại sớm hay chầy.
Con
người một động, một tịnh, hễ dối trá là dữ, thành
thật là lành, tự tâm
mình ai cũng thấy được minh bạch. Nếu làm lành
thì do đó ta sẽ đặng
phước, còn làm dữ thì do đó ta sẽ mắc họa,
chẳng cần phải hỏi ai làm
chi. Đây là nói các điều họa phước là
do tự ta tìm cầu. Vậy mọi việc
trước khi làm, ta nên chịu khó xét suy
là rõ ngay.
Mã Viện nói:”
Chung thân hành thiện, thiện du bất túc; nhứt nhựt
hành ác, ác tự hữu
dư” . Nghĩa là: cả đời làm lành mà
lành còn chưa đủ, một ngày làm dữ mà
dữ lại có thừa.
Đại khái, lành khó làm mà dữ dễ
chứa, cho nên con người phải cố gắng về chổ khó, mà
phòng ngừa về chỗ dễ.
Kinh Dịch nói:” Xuất kỳ ngôn thiện tắc thiên
lý chi ngọai ứng chi. Xuất
kỳ ngôn bất thiện tắc thiên lý chi ngoại vi chi”.
Nghĩa là: nói lời
lành, thì ngòai ngàn dặm có người
ưng lòng (vui theo). Nói lời chẳng
lành, thì ngòai ngàn dặm có người
chống lại (bác đi).
Lại Đông Nhạc Thánh Đế có lời răn: “Trời Đất
không tư vị, Thần minh
thường thẩm xét, chẳng vì tế hưởng mà giáng
phúc, chẳng phải thất lễ mà
giáng họa”.
Lời sau này rất chánh đáng, để cảnh cáo kẻ
nào xu phụ Thần minh, cúng
tế, vái nài, mong đặng Thần minh bỏ luật công
bình mà ban phước lành
riêng cho một mình mình.
Kính thưa chư vị, trên đây chúng tôi
đã lần lượt trình bày những điểm
tương đồng của Tam Giáo để chúng ta cùng nhau thấy
rõ mục đích của Tam
Giáo là phụng thờ Chân lý, tức là
Trời Phật theo nghĩa rộng rãi, theo
Chơn lý mà trau tâm sửa tánh, bỏ dữ theo
lành, để ngày càng gần gũi với
Ngôi Độc Nhứt.
Và như vậy thì ba giáo chẳng phải khác nhau
ở nguyên lý mà chỉ khác
nhau ở danh từ kêu gọi, cách giải thích mà
thôi. Ước mong mọi người
trong chúng ta cùng nhau tìm xét lẽ chơn
thiệt mà theo, nên bỏ qua sự
cố chấp hình thức nhỏ nhen, thì có lo chi
các tông giáo không đi đến
dung hòa lý thuyết, tương thân tương ái. Rồi
vì Chơn lý có một, cùng
nhau đồng tâm nhất trí, chung vai đấu cật để tìm
con đường giải pháp
chân chính.
Đặng vậy, nhân lọai hết tư tâm bản ngã, trần gian
chắc chắn sẽ đi đến
hòa bình, mà ngũ trược ác thế của
chúng ta đây cũng sẽ dứt sự phiền
não, hóa thành Tây phương Cực lạc, đặng
hưởng phước vô cùng.
© Tường Chơn