上鹊桥,下鹊桥,天应星,
地应潮。
Thượng thước kiều, hạ thước kiều,
thiên ứng tinh, địa ứng triều.
既知药火,当明采取,而采取之诀,关系天机,微妙閟密,神仙直以口口相传,不立文字。吾今隐而注之,知者自悟。鹊桥者,天河所驾以通牛女之往来,二七之
期,应时而度,取义甚微。人身上下亦复有此,金公归舍,从此桥而上之,醍醐灌顶,由此桥而下之,是皆百姓日用之中,媟亵而不可致诘者。讵知神仙关键,济渡
津梁,舍此而独修一物,则非所以语道矣。何谓天应星,地应潮?曰:此药符也。少阳之精,流而为星;大气之动,嘘而为潮。人身之中,亦自应之。故金精发祥,
景星呈彩;汛潮将至,白气先驱。以是为符,思过半矣。然而单符单诀,非师莫传,意见揣摩,终难下手。
Đã biết Dược Hỏa,
rành mạch Thái Thủ, mà bí quyết của
Thái Thủ có quan hệ đến Thiên Cơ, vi diệu bí
mật, Thần Tiên truyền miệng, chứ chẳng lập văn tự. Nay ta sẽ
chú thích những chỗ bí ẩn, người biết mà tự
ngộ. Thước Kiều ấy là chiếc xe của Ngân Hà để
thông việc Ngưu Lang cùng Chức Nữ đi lại với nhau, 14
ngày một lần, đúng lúc thì qua, có
ý nghĩa ấy rất tinh vi. Trong thân người bên
trên và bên dưới cũng có chỗ giống như vậy,
Kim Công về nhà, theo cầu này mà lên,
Đề Hồ Quán Đỉnh (xem giải thích ở Tu Chân Đồ), do
cầu này mà xuống, là nơi mọi người đều dùng
hàng ngày, khinh thường mà không thể hiểu
được chỗ khuất khúc vậy. Nào có biết then chốt của
thần tiên, đưa người qua sông (Tế độ tân lương), rời
bỏ chỗ này mà riêng tu một phía, thì
không có gì để mà nói về Đạo cả. Sao
gọi là Thiên Ứng Tinh, Địa Ứng Triều? Đáp:
Là dấu hiệu của Dược vậy (Dược Phù). Tinh của Thiếu
Dương, chảy mà thành Tinh (sao trên trời);
cái động của Đại Khí, hà hơi mà
thành triều. Trong thân người, cũng tự ứng theo nó.
Cho nên Kim Tinh nổi lên, cảnh hiện ra rực rỡ, triều
dâng gần đến nơi, Bạch Khí liền chạy trước. Lấy nó
làm dấu hiệu của Dược là hơn một nửa vậy(?). Nhưng
mà mỗi một dấu hiệu của Dược thì một khẩu quyết
riêng, không gặp thầy thì không được truyền,
ý kiến toàn là suy đoán, cuối cùng
cũng khó hạ thủ.
盗天地,夺造化,攒五行,会八卦。
Đạo thiên địa, đoạt tạo hóa,
toàn ngũ hành, hội bát quái.
天地定位,日月交光,而万物之生也,终古不易,此天地之丹法也。圣人观天之道,执天之行,故以乾坤为鼎
器,以乌兔为药物,而盗其机于互藏之宅,逆而修之,以仙其身。至于火功精密,则回七十二候之要津,攒归鼎内,夺三千六百之正炁,逆纳胎中,无非盗天地之
机,夺造化之巧。若乃金水合处,木火为侣,浑沌一家,都归戊己,则五行攒矣;坤生震兑干,干生巽艮坤,则八卦会矣。丹法之妙,有如此者。故予尝谓丹法与天
地合其德,与日月合其明,与四时合其序,与鬼神合其屈伸往来。非知道之君子,其孰能识之?
Thiên Địa định vị,
Nhật Nguyệt giao quang, vạn vật dựa vào đó mà sinh
vậy, xưa nay đều thế, ấy là Đan pháp của trời đất vậy.
Thánh Nhân xem xét Đạo trời, giữ theo trời
mà làm, cho nên lấy Càn Khôn
làm Đỉnh Khí, lấy Ô Thố làm Dược Vật,
mà trộm lấy cơ của nó ở chỗ của Hỗ Tàng, nghịch
mà tu nó, để cho thân của họ thành
Tiên. Cho đến khi công phu Hỏa đã tinh thuần tỉ mỉ,
thì đưa cái “vị trí quan trọng của 72 hậu” (thất
thập nhị hậu chi yếu tân???) lại, tất cả về trong Đỉnh, đoạt
3.600 Chính Khí, nghịch nạp trong Thai, chẳng qua
là trộm cơ của trời đất, đoạt tinh xảo của tạo hóa. Nếu
mà Kim Thủy hòa hợp với nhau, Mộc Hỏa làm bạn nhau
(câu này có thể dịch khác một chút:
nếu mà Mộc Hỏa làm bạn ở chỗ Kim Thủy kết hợp), hỗn đột
thành một nhà, đều quay về Mậu Kỷ, thì Ngũ
Hành toàn vẹn vậy; Khôn sinh Chấn Đoài
Càn, Càn sinh Tốn Cấn Khôn, thì Bát
Quái hội vậy. Cái diệu của Đan pháp có như
đó vậy. Nên ta thường nói Đan pháp
cùng Thiên Địa hợp Đức của nó, cùng Nhật
Nguyệt hợp ánh sáng của nó, cùng bốn
mùa hợp thứ tự của nó, cùng quỷ thần hợp co duỗi
qua lại. Chẳng biết Quân Tử của Đạo thì ai có thể
hiểu nổi?
水真水,火真火,水火交,
永不老。
Thủy chân Thủy, Hỏa chân Hỏa,
Thủy Hỏa giao, vĩnh bất lão
金丹大药,不出水火。水即坎宫之真铅也,火即离宫之真汞也,此乃造化二
五之正炁,外是而言药物,则为非类非种,自不可以合体而居,故称之曰“真”,以别于凡。然而水性润下,火性炎上,逆而修之,则水可使升,火可使降,所谓
“甘露降时天地合,黄芽生处坎离交。”自尔滋液润泽,施化流通,而长生久视之道,端在是矣。
Kim Đan Đại Dược,
không ngoài Thủy Hỏa. Thủy là Chân Diên
trong Khảm Cung, Hỏa là Chân Hống trong Li Cung vậy,
đó là Nhị Ngũ Chi Chính Khí (Mậu Thổ
và Kỷ Thổ - TG chú) của tạo hóa, ngoài
nó ra mà nói Dược Vật, thì không ra
chủng cũng không phải loại (tức là chẳng ra chủng loại
gì cả), vì không thể lấy nó kết hợp cố định
với thể, nên gọi là “Chân”, là khác
với phàm vậy. Mà tính của Thủy là nhuần
mà chảy xuống, tính của Hỏa là nóng
mà bay lên, nghịch mà tu nó, thì
có thể làm cho Thủy bay lên, có thể
làm cho Hỏa giáng xuống, ấy gọi là “Cam Lộ
giáng thời Thiên Địa hợp, Hoàng Nha sinh xứ Khảm Li
giao - Lúc Cam Lộ giáng xuống thì Thiên Địa
kết hợp, Hoàng Nha sinh ra làm Khảm Li giao”, khi
đó ngươi Tư Dịch Nhuận Trạch, Thi Hóa Lưu Thông
(Dịch sinh ra làm cho mềm mại mượt mà, tiến hành
hóa nó để lưu thông), mà Đạo Trường Sinh Cửu
Thị chính tại đó vậy.
水能流,火能焰,在身中,自可验。
Thủy năng lưu, Hỏa năng diễm, tại thân
trung, tự khả nghiệm.
夫水之能流,火之能焰,皆本性之自然。即观人之身中,感合而精,感悲而泪,感愧而汗,感风而涕,周流四
大,莫非神水之洋溢。至于五脏之邪,郁而为火,熏炙燔灼,为毒滋深,盖即身中后天以取证验,其理明矣。若乃先天水火,则其流者可以逆转辘轳,焰者可以烹煎
金液,虽其药物迥异凡品,而能流能焰之性,则固未始有异也。
Tính của Thủy
là hay chảy, tính của Hỏa là hay bốc, đều
là bản tính tự nhiên. Đến như xem xét trong
thân, cảm thấy hợp thì tinh tế, cảm thấy buồn thì
rơi lệ, cảm thấy hổ thẹn thì toát mồ hôi, nhiễm
gió thì chảy nước mũi, chu lưu tứ đại, hay là Thần
Thủy đã tràn đầy. Cho đến Ngũ Tạng Chi Tà,
tích lại vì Hỏa, nấu nướng thiêu đốt, làm
độc phát thêm sâu, cứ lấy Hậu Thiên trong
thân ra mà chứng nghiệm, thì sẽ rõ lý
đó. Nếu là Tiên Thiên Thủy Hỏa, thì
dòng chảy của nó có thể nghịch chuyển cái
ròng rọc (Tu Chân Đồ có nói trong
Giáp Tích Song Quan là cái ròng rọc
kéo nước), ngọn lửa có thể đốt nấu Kim Dịch, tuy Dược Vật
của nó khác xa phàm phẩm, mà có
tính hay chảy và hay bốc cháy, thì chắc
là chưa từng có chỗ khác nhau vậy.
是性命,非神气,水乡铅,
只一味。
Thị Tính Mệnh, phi Thần Khí,
Thủy hương Diên, chỉ nhất vị.
然是先天水火,是乃性命之根,神仙了性了命之学,盖取诸此,必非独修之士,心息相依、神气相守者所可同
语。苟于先天水火,知其宗祖,识其妙窍,动中采之,静中炼之,以故修定于离宫,则寂照现前,常静常应,而性源为之益清矣;求玄于水府,则混沌相交接,权舆
树根基,而命蒂为之益固矣。是谓性命双修,圣功之极致也。而求其作用之本,不过一味水乡之铅,更无余物。盖水乡铅者,坎中一画之阳,先天干金也,是谓真
铅,亦曰真水,得而用之,以合己汞,然后命由此立,性由此灵,宇宙在手而万化生身矣。奈何世人不识真铅何物,直于身中阳生下手,妄意采取,以冀成就,岂不
悮哉!
Vì Tiên
Thiên Thủy Hỏa là gốc của Tính Mệnh, là
cái học của Liễu Tính Liễu Mệnh của Thần Tiên. Để
đạt được những cái đó, tất không thể là kẻ
chỉ tu một thứ. Tâm Tức Tương Y, Thần Khí Tương Thủ
có thể cùng nói đến. Nếu như về Tiên
Thiên Thủy Hỏa, ta biết đến tông tổ của nó, hiểu
rõ diệu khiếu của nó, khi động thì thái
nó, khi tĩnh thì luyện nó, lấy cớ đó
mà định việc tu ở Li Cung, thì tịch chiếu hiện tiền,
thường tĩnh thường ứng, mà Tính Nguyên (nguồn gốc
của Tính) vì thế càng trong; cầu huyền diệu nơi
Thủy Phủ, thì hỗn độn giao tiếp với nhau, cân nhắc lượng
đất để trồng căn cơ, mà Mệnh Đế (gốc của mệnh) vì thế
càng thêm chắc vậy. Đó gọi là Tính
Mệnh Song Tu, là cái cao nhất của công phu của
Tiên Thánh vậy. Mà cầu cái gốc tác
dụng của nó, chẳng qua Nhất Vị Thủy Hương Chi Diên
mà thôi không có gì khác.
Vì Thủy Hương Diên là hào Dương giữa quẻ
Khảm, là Tiên Thiên Càn Kim vậy, đó
gọi là Chân Diên, cũng gọi là Chân
Thủy, được mà dùng nó, để kết hợp với Kỷ Hống, về
sau Mệnh do đây mà lập, Tính do đây mà
linh, vũ trụ trong tay mà hóa thân muôn vạn
vậy. Sao người đời lại chẳng chịu biết Chân Diên là
vật gì, mà nhằm thẳng Dương sinh trong thân để
mà hạ thủ, rồi vọng tưởng (suy nghĩ sai lầm) mà
thái thủ, vậy mà muốn thành tựu ư, há chẳng
sai lầm lắm sao!
THỦ KHẢM ĐIỀN LY
Hống thị Thanh
Long tủy
Nội Đan, Ngoại Đan
Nữ đan hiệp tập
Thái Cực 太极
Pháp
của Tôn Bất Nhị
Xá Nữ
Phương Nhị Bát
Giáp
Tích Quan Chỉ Huyền
Cao Đài đại thụ
Tối
Thượng Bật Nhất Tu Tiên
Trở lại Mục
Lục
|