THÔNG ÐIỆP
CỦA NHỮNG NGƯỜI ANH
Bộ Tộc tại Nam Mỹ
Alan Ereira – Nguyên Phong dịch
Lời dịch giả: Tháng 10-1993 vừa qua, đài
BBC tại
Luân Đôn và PBS tại
Hoa Kỳ đã cho phát hình một
tài liệu đặc
biệt ghi nhận nếp sống của một
bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim nầy đã
gây chấn động
dư luận thế
giới và hiện là một đề tài được
bàn
cãi rất nhiều trong giới khảo cổ,
môi sinh và nhân chủng học. Lần đầu
tiên được
trình chiếu trong kỳ đại
hội Tôn Giáo hoàn cầu tổ chức tại
Chicago,
nó đã gây một xúc động lớn
cho toàn thể cử tọa. Chúng tôi ghi
nhận lại
đây bài thuyết trình “Elder
Brother's Warning” của ký giả Alan Ereira để bạn
đọc cùng
suy gẫm.
____________
Từ ngàn xưa, nhân loại đã có
những nền văn
minh lớn. Những nền văn minh
đã tạo ra các kiến trúc vĩ đại như
Kim Tự
Tháp, Vườn treo Babylon, Vạn
Lý Trường Thành v.v... Tuy nhiên
dù
phát triển đến đâu chăng nữa, nền
văn minh nào cũng chịu sự chi phối của luật
vô thường, nay
còn mai mất,
cái gì cực thịnh thì cũng có
lúc suy
tàn. Lịch sử đã chứng minh điều đó
một cách hiển nhiên vì ngày
nay không
mấy ai nhắc nhở gì đến những nền
văn minh cổ xưa đó nữa ngoại trừ những giai thoại
rời rạc, pha
trộn
nhiều hư cấu, khó tin.
Nói đến Kim Tự Tháp, người ta thường
nghĩ đến những Kim Tự Tháp Ai Cập, chứ ít
ai nhắc đến
những Kim Tự Tháp
Nam Mỹ, mặc dù tại đây số Kim Tự
Tháp còn
nhiều hơn, đặc biệt hơn và
bao trùm nhiều bí mật kỳ dị hơn. Có
lẽ vì
phần lớn Kim Tự Tháp tại Nam
Mỹ bị bao phủ bởi rừng rậm, không thuận tiện cho
việc
nghiên cứu, khảo
sát.
Columbia là một quốc gia nằm ở phía Nam Mỹ
Châu.
Phần lớn
lãnh thổ xứ nầy được bao phủ bởi những khu rừng
rậm rạp chưa
được khai
phá, đặc biệt là các khu rừng quanh
rặng Sierra
thì gần như còn nguyên
vẹn từ mấy ngàn năm nay, không mấy ai đặt
chân đến.
Đối với dân xứ này
thì rặng Sierra vẫn được coi là một nơi
chốn linh
thiêng chứa đựng
nhiều bí mật. Huyền thoại xứ này
nói rằng
đó là chỗ ở của những bậc
Thần linh, có nhiệm vụ che chở cho nhân
loại. Vì
đỉnh núi lúc nào cũng
bị che phủ bởi những đám mây mù,
thêm
vào đó khí hậu ẩm ướt quanh năm
nên cây cối mọc chằng chịt, khó ai
có thể
vượt rừng đến đó được. Năm
1974, một phi công bay lạc vào phía
Đông Bắc
của rặng Sierra và phát
hiện một Kim Tự Tháp rất lớn tọa lạc giữa rừng.
Việc khám
phá ra Kim Tự
Tháp này đã thúc đẩy nhiều
phái
đoàn khảo cổ của các quốc gia khác
nhau
kéo đến đây nghiên cứu. Họ kết luận
rằng chiếc Kim
Tự Tháp xây bằng đá
rất công phu này có những đường
nét kiến
trúc khác hẳn những Kim Tự
Tháp khác tại Nam Mỹ, do đó
nó thuộc một
nền văn minh riêng biệt nào
khác chứ không phải nền văn minh Incas hay
Maya. Quanh Kim
Tự Tháp là
một thành phố bỏ hoang với những hệ thống đường
xá được
lót bằng đá hết
sức công phu. Đặc biệt hơn nữa, quanh thành
phố còn
có một hệ thống ống
cống thoát nước rất hữu hiệu, chứng tỏ người xưa
đã hiểu
biết rành rọt
về vấn đề vệ sinh. Theo các nhà khảo cổ
thì
thành phố này đã được xây
cất trên bảy ngàn năm trước khi nền văn
minh Incas
và Maya phát triển,
và có lẽ là một trong những nền văn
minh cổ nhất ở
Nam Mỹ. Nếu thế,
lịch sử nền văn minh này như thế nào?
Chủng tộc
nào đã sống tại đây?
Tại sao họ lại biến mất, không để lại một dấu
tích
gì trừ chiếc Kim Tự
Tháp và hệ thống đường xá tinh vi
kia?
Các nhà nghiên cứu nhận
xét rằng dù đã trải qua bảy
tám ngàn
năm mà hệ thống đường xá vẫn còn
rất tốt, không bị hư hại, trong khi hệ thống xa lộ
tối tân
nhất tại Hoa
Kỳ ngày nay nếu không được tu sửa, bảo
trì
thì chỉ vài chục năm đã hư
hại chứ đừng nói đến trăm hay ngàn năm.
Dọc theo những
con đường lót
bằng đá là những thửa ruộng trồng
lúa và
khoai, chứng tỏ nền văn minh
này chú trọng nhiều về nông nghiệp.
Một điểm đặc
biệt là mỗi ngã tư
đường lại có những tảng đá lớn, khắc ghi
những ký
hiệu lạ lùng trông
như một tấm bản đồ. Bản đồ đường xá hay bản đồ
chỉ dẫn điều
gì vẫn còn
là một câu hỏi lớn. Thông thường
các nền văn
minh cổ thường để lại
nhiều dấu tích hay tài liệu ghi khắc về
lịch sử, phong
tục, tập quán,
nhưng không hiểu sao tại đây họ không
hề tìm
thấy một dấu tích đặc biệt
gì về nền văn minh này ngoài
các tấm bản đồ
kỳ lạ kia.
Cách đó
không xa ở gần đỉnh núi có một bộ
lạc người thiểu
số gọi là Kogi sống
biệt lập, không giao thiệp với ai. Các
nhà khảo cổ
đoán rằng có lẽ
giống dân Kogi là con cháu của những
người
đã xây dựng lên Kim Tự Tháp
và thành phố với đường xá xây
bằng đá
này, nhưng họ vẫn không biết vì
sao một nền văn minh như vậy lại suy tàn
và biến mất,
không để lại dấu
tích nào? Vì người Kogi sống biệt
lập trên
đỉnh Sierra, không tiếp xúc
và giao thiệp với ai nên rất ít
người biết đến họ.
Trong khi những bộ
lạc quanh vùng thường giao dịch, trao đổi
hàng hóa
với những người tỉnh
thành, thì người Kogi rất thận trọng
và kín
đáo, rút lên những vùng
núi
cao, không tiếp xúc với ai hoặc chỉ giới
hạn việc giao
thiệp với một
vài bộ lạc lân cận mà thôi.
Đầu năm nay (1993), ký giả Alan
Ereira, phóng viên của đài BBC tại
Columbia, nhận
được tin bộ lạc Kogi
từ lâu không tiếp xúc với ai,
đã chấp thuận
cho anh được phỏng vấn với
điều kiện là anh phải đến tham dự buổi đại hội
Tôn
Giáo thế giới tổ
chức tại Chicago vào tháng 9 năm 1993
và
công bố một thông điệp của họ.
Ký giả Ereira đã viết: “Đây
là một biến cố
đặc biệt. Tại sao bao năm
nay không giao thiệp tiếp xúc với ai
mà tự
nhiên họ lại cho phép tôi
được đến phỏng vấn, quay phim? Họ muốn gì
đây? Tại sao một
bộ lạc sống
biệt lập trong vùng rừng sâu núi
thẳm, không
tiếp xúc với thế giới bên
ngoài, lại biết có một đại hội Tôn
Giáo
nhóm họp tại Hoa Kỳ để gửi một
thông điệp? Một điều may mắn là tuy người
Kogi không
liên lạc với ai,
rất ít người biết đến ngôn ngữ của họ,
nhưng vì họ
tiếp xúc giới hạn
với vài bộ lạc gần đó, nên
chúng tôi
đã tìm được một người dân bộ lạc
này có thể nói được tiếng Kogi để
làm
công việc thông dịch”.
Phái đoàn của ký giả Ereira gồm 6
người, 2
ký giả, 1 nhân viên y tế và
3 nhân viên thu hình đã
lên đường
vào đầu năm 1993. Trải qua nhiều ngày
tháng trèo đèo, lội suối, họ
đã đến
vùng đất của người Kogi nằm sâu
trên đỉnh Sierra. Đường vào đây phải
vượt qua một
vực thẳm rất sâu, chỉ
có độc một cây cầu treo bện bằng dây
thừng bắt ngang
qua bờ vực. Được
thông báo trước, một phái
đoàn Kogi
đã ra đón tiếp trước bờ vực.
Khác với những bộ lạc thiểu số sống trong
vùng thường
ít mặc quần áo,
tất cả những người Kogi đều mặc quần áo dệt bằng
sợi màu
trắng với tay
áo thụng như cánh bướm. Một người lớn tuổi
đã bắt
đầu bằng một bài diễn
văn ngắn:
- Chúng tôi là những trưởng
lão của
dân Kogi, chúng
tôi chấp thuận cho phép các
ông được đặt
chân vào đây trong ba ngày.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng đây
là lần đầu
tiên và có lẽ cũng là lần
cuối các ông được phép đến
đây. Hiển
nhiên việc này đã được Hội Đồng
Trưởng Lão thảo luận rất kỹ và đồng
ý.
Chúng tôi là con cháu của một
giống dân cổ, một giống dân đã
có mặt
trên trái đất này từ lâu lắm
rồi,
trước khi tổ tiên của các ông ra đời.
Vì
chúng tôi có mặt từ trước,
chúng tôi tự coi mình là
những người anh lớn
trong đại gia đình nhân
loại, do đó chúng tôi là anh
và
các ông là em. Theo lệ thường trong
gia
đình, người anh thay mặt Mẹ Cha để giáo
dục, dạy dỗ
các em; nhưng chúng
tôi biết rằng các em còn trẻ
quá, còn
hung hăng quá, còn cứng đầu, cứng
cổ, ngang bướng quá, chưa thể học hỏi được
gì, nên
trải qua mấy ngàn
năm nay, chúng tôi, những người anh,
đã quyết định
giữ thái độ im lặng.
Chúng tôi hy vọng theo thời gian,
các em sẽ hiểu
biết hơn, trưởng thành
hơn và học hỏi được qua những lỗi lầm đã
tạo. Tiếc thay
thời gian qua
nhanh, trải qua bao thế hệ mà các em
không những
chẳng học hỏi được gì
lại còn tiếp tục phá hoại gia tài
Mẹ Cha để lại,
do đó những người anh
lớn bắt buộc phải lên tiếng. Trước khi đi
vào chi tiết,
chúng tôi cho
phép các ông được quan sát
nếp sống của
chúng tôi, một nếp sống truyền
thống đã tiếp diễn mấy ngàn năm
không thay đổi.
Các ông được tự do
nghiên cứu, ghi nhận, quay phim, chụp hình
và
làm tất cả những gì cần
thiết, và sau đó chúng tôi
có một
thông điệp muốn gởi cho thế giới bên
ngoài.
Ký giả Ereira ghi nhận: “Thật không thể
tưởng tượng
được cảm giác lạ lùng của chúng
tôi khi vượt
qua chiếc cầu treo lơ lửng
trên miệng vực thẳm đó để bước chân
vào
vùng đất của người Kogi. Chúng
tôi có cảm tưởng rằng thời gian đã
dừng lại hoặc
chúng tôi đã đi ngược
thời gian để trở về một thời điểm nào đó
của lịch sử. Mặc
dù thời gian
chỉ vỏn vẹn có ba ngày nhưng phái
đoàn của
chúng tôi đã làm việc
không
ngừng. Mọi người tùy theo khả năng chuyên
môn
đã tận dụng thời gian để
khảo cứu, ghi nhận. Chuyên viên thu
hình đã
làm việc không nghỉ, ghi
nhận được hơn hai mươi giờ phim ảnh tài liệu.
Chuyên
viên y tế đã khám
hơn một trăm người và hoàn tất hồ sơ đầy
đủ chi tiết về
tình trạng sức
khỏe của những người dân tại đây. Điều đặc
biệt là
tuy sống trong một
tình trạng có thể tạm gọi là “thiếu
tiêu
chuẩn vệ sinh” theo quan niệm
của những người “văn minh” như chúng ta nhưng
chuyên
viên y tế không hề
tìm thấy một dấu hiệu nào về bệnh tật cả.
Hàm răng
của họ rất tốt, ngay
cả triệu chứng sâu răng thường thấy tại các
bộ lạc
khác cũng không hề
có tại đây. Tôi xin xác nhận
rằng tất cả
những gì chúng tôi ghi nhận
đều được kiểm chứng cẩn thận để bảo đảm tính
cách trung
thực của nó. Vì
thời gian quá ít, chúng tôi
chỉ làm
được những gì có thể làm và
chắc
chắn có nhiều thiếu sót. Tôi được
biết có
đến hơn hai mươi làng mạc rải
rác trên đỉnh Sierra, nhưng chúng
tôi chỉ
được đến thăm một làng duy
nhất mà thôi. Chắc hẳn người Kogi đã
có một
lý do riêng nào đó nên
không muốn chúng tôi đi thăm những
nơi khác,
nhưng chúng tôi cũng không
muốn tò mò tìm hiểu thêm
làm
gì. Các Trưởng Lão xác nhận
rằng họ
không
giấu giếm chúng tôi điều gì nhưng
cũng không
muốn sự có mặt của chúng
tôi gây xáo trộn cho đời sống
yên lành
của những người dân trong vùng.
Điều đặc biệt đầu tiên mà chúng
tôi thấy
là những người dân Kogi thường
sinh hoạt chung. Mỗi khi cần làm việc gì
thì mọi
người kéo nhau ra làm
việc đó một cách rất tự nhiên.
Chúng
tôi đã chứng kiến việc toàn thể
dân chúng trong làng kéo nhau
đắp lại con
đường bằng đá dẫn vào làng.
Họ tự động phân chia ra nhiều nhóm nhỏ, mỗi
nhóm
làm một phần mà không
cần phải có người hướng dẫn hay chỉ huy.
Vì con đường
này nối liền hai
làng nên dân cả hai làng
kéo nhau ra
làm việc một cách hết sức trật tự.
Chúng tôi được biết mỗi làng
có một Hội Đồng
Trưởng Lão. Những người
này thường cầm một chiếc ống nhỏ bằng gỗ,
bên trong đựng
vôi. Họ cầm
một chiếc que xoay qua xoay lại để tán những mảnh
đá
vôi ra thành bột,
thỉnh thoảng lại đưa lên miệng chấm một
chút vôi
vào đầu lưỡi. Một
Trưởng Lão cho biết: chiếc ống vôi tượng
trưng cho đời
sống. Họ luôn
tay xoay chiếc ống vôi đó vì đời
sống luôn
luôn thay đổi, tiếp diễn
không ngừng. Đá vôi tượng trưng cho
chất liệu của
đời sống. Sở dĩ họ
nghiền nát những miếng vôi rồi đưa
lên miệng
vì hành động đó làm cho
đời sống trở nên ý nghĩa hơn. Tôi
không hiểu
rõ nghĩa của câu đó nên
yêu cầu ông giải thích thêm. Vị
Trưởng
Lão đã nói: ”Đời sống là một
sự
mầu nhiệm. Nếu con người biết mài dũa thân
và
tâm để ý thức đời sống
một cách trọn vẹn thì người ta sẽ ý
thức được
những việc khác phi
thường hơn”.
Ký giả Ereira kết luận: “Tôi đã quan
sát
việc này
rất lâu mà không thể giải
thích gì
hơn. Theo tôi thì có lẽ đây
là một
phương pháp tĩnh tâm, ý thức
hành động của
mình, một phương pháp giống
như cách thực hành thiền định của người
Á
Châu. Việc mài dũa tâm và
thân qua hành động xoay xoay chiếc ống
vôi nhỏ
trên tay là một điều lạ
lùng rất khó giải thích”.
Chính giữa làng có một căn
nhà rất
lớn cất bằng lá cây. Đây là
nơi hội họp của
dân làng mỗi khi có việc
quan trọng. Khác hẳn với những bộ lạc
khác, chúng
tôi không hề nhìn
thấy các biểu tượng tôn giáo,
tín ngưỡng
gì cả. Căn nhà hoàn toàn
trống
trơn và rất sạch sẽ. Một vị Trưởng Lão cho
biết đây
là trung tâm sinh
hoạt của làng, mọi việc quan trọng như cưới hỏi,
chôn cất,
trồng trọt,
cày cấy, tiên đoán thời tiết đều
được mang ra thảo
luận tại đây để lấy
quyết định chung. Tất cả mọi người đều có quyền
phát biểu
ý kiến, không
có Tù Trưởng hay một ai nắm quyền
hành cả.
Ký giả Ereira ghi nhận:
“Thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy.
Một bộ lạc
không có Tù
Trưởng, không có người lãnh đạo, mọi
quyết định đều
là quyết định
chung. Phải chăng đây là một hình
thức dân
chủ thô sơ nhất và chân
chính nhất đã có từ ngàn
xưa? Theo chỗ
chúng tôi dò hỏi thì
không có
một điều gì được làm nếu không
có sự đồng
ý chung, nhưng quyết định
chung ở đây không có nghĩa là
đa số
trên thiểu số mà là quyết định của
toàn thể mọi người (Concensus). Thật khó
có thể
tưởng tượng một bộ lạc
sống biệt lập lại có một truyền thống dân
chủ đặc biệt như
vậy! Phải
chăng nền văn minh cổ xưa ngày trước là
một nền văn minh
dựa trên căn
bản dân chủ?”
Đơn vị nhỏ nhất của xã hội Kogi là đơn vị
gia
đình. Trung bình một gia đình gồm
Cha Mẹ và
các con nhỏ. Khi trẻ em còn
nhỏ chúng được nuôi dưỡng bởi Cha Mẹ, phần
lớn là
người Mẹ trực tiếp
nuôi nấng con cái. Nếu có bệnh tật
thì
các em được đưa đến cho các
Trưởng Lão chữa bệnh. Đôi khi các
Trưởng Lão
cũng bó tay và em nhỏ
không thể sống nhưng Cha Mẹ chúng chấp
nhận, cho rằng
đó là luật thiên
nhiên. Nếu sống được đến lúc trưởng
thành
thì người Kogi có tuổi thọ
rất cao, tuổi trung bình của họ là khoảng
một trăm hay
hơn thế nữa. Một
Trưởng Lão cho biết: “Theo quan niệm của
chúng tôi
thì sống thuận theo
thiên nhiên không thể có bệnh.
Bệnh tật chỉ
là hậu quả của những gì
trái với thiên nhiên. Ngoài ra
sự tương giao
giữa con người với thiên
nhiên hết sức mật thiết và khi thiên
nhiên bị
phá hoại, chắc chắn con
người sẽ bị ảnh hưởng theo, do đó con người phải
biết tìm
môi trường
thích hợp để sống. Chính vì sống
trái với
các định luật thiên nhiên mà
có đủ thứ bệnh kỳ lạ xảy ra, đây là
bằng chứng hiển
nhiên rằng con
người chịu ảnh hưởng nhiều về môi trường và
cách
thức mà họ sinh sống”.
Khi đứa nhỏ được khoảng bảy tuổi thì chúng
bắt đầu rời
Cha Mẹ để sống
với Ông Bà Nội, Ông Bà Ngoại ở
cách
đó không xa để được giáo dục
thêm
về cách sống tự lập. Khi được hai mươi mốt
thì đứa nhỏ đi
theo các bậc
Trưởng Lão học hỏi và khi gần ba mươi mới
bắt đầu khởi sự
lập gia đình
riêng.
Người Kogi sống bằng cách canh tác
và hái
trái cây
trong rừng, một lối sống hết sức thô sơ thường
được gán
cho các dân tộc
còn man dã. Phương pháp trồng trọt
của họ cũng rất
giản dị. Họ dùng một
cây nhọn để xắn đất, thảy vào đó
vài hạt đậu
rồi lấp lại. Việc trồng
trọt hay gieo hạt được dành cho phái nữ
vì người
nữ “mát tay” hơn người
nam. Một Trưởng Lão cho biết: “Chúng
tôi vẫn biết
có những phương pháp
trồng trọt, canh tác khác có thể
làm hoa
mầu nảy sinh rất nhiều, nhưng
có nhiều để làm gì? Gia đình
nào
thì cũng chỉ ăn ngày ba bữa. Có
nhiều
sẽ tạo nên tình trạng tham lam, tạo ra
phiền toái
vô ích. Thiên nhiên
đã lo liệu chu toàn thì cứ theo
đó
mà sống. Các ông hãy
nhìn kia, chim
chóc không gieo hạt mà thiên
nhiên
có để cho chúng chết đói đâu?
Các
thú rừng khác cũng thế, chả loài
nào thiếu
ăn cả, vậy tại sao con người
phải lo tàng trữ, gia tăng thu hoạch thực phẩm?
Có dư
làm rối loạn trật
tự thiên nhiên, có nhiều hơn
cái mình
cần là lấy đi mất phần của người
khác hay sinh vật khác, và như thế
là vi
phạm một định luật căn bản của
thiên nhiên và truyền thống sẵn
có của
dân Kogi. Các ông nên biết
người
Kogi chỉ sống vừa đủ, hoàn toàn
không có
gì dư thừa và do đó tại đây
không hề có trộm cướp hay các tệ nạn
như các
bộ lạc khác”.
Một
điểm rất đặc biệt là người Kogi không hề ăn
thịt
cá. Khác hẳn với những
bộ lạc khác, họ không hề săn bắn hay
có võ
khí. Truyền thống của họ
không hề có vấn đề giết hại bất cứ một sinh
vật
nào, dù lớn hay nhỏ.
Đây là một chi tiết đang làm nhức
đầu nhiều
nhà nhân chủng học và xã
hội học. Từ trước đến nay, các lý thuyết
đều cho rằng
những bộ lạc dã
man đều sinh sống bằng săn bắn và ăn cây
trái trong
rừng. Việc một bộ
lạc không hề có tập tục ăn thịt cá
là một sự
kiện độc đáo, lạ lùng hiếm
có và khó giải thích. Người
Kogi cho rằng
giết hại sinh vật là trái với
luật thiên nhiên. Có lẽ vì
lý do
đó trong thời gian quay phim, phái
đoàn đài BBC đã thấy rất nhiều
hươu, nai, thỏ
rừng, chồn cáo đi qua đi
lại trong làng như những gia súc mà
không hề
sợ hãi. Vì chỉ sống bằng
rau cỏ thiên nhiên nên việc học hỏi,
nghiên cứu
các lá cây có dược
tính
là một môn học được giảng dạy rất kỹ lưỡng
tại đây.
Người Kogi cho biết
họ có thể sống từ ngày này qua
ngày
khác bằng cách ngậm một vài
lá cây
mà thôi, có lẽ vì chỉ ăn rau
trái
mà họ sống lâu như vậy!
Phái
đoàn đã ghi nhận việc một Trưởng
Lão dạy dỗ một
thanh niên cách ăn uống
như sau: “Khi ăn phải nhai thật từ từ, thong thả, phải
ý thức
từng chút
một và tuyệt đối chú tâm vào
việc ăn chứ
không được nghĩa gì khác”.
Cách ăn uống, làm chủ vị giác
là bài
học vỡ lòng đầu tiên trong phương
pháp giáo dục của họ. Truyền thống tại
đây
không có trường học mà chỉ
có cách dạy dỗ khẩu truyền từ Cha Mẹ,
Ông Bà
cho con cháu, và từ các
bậc Trưởng Lão cho những thanh niên.
Cách
giáo dục thanh niên tại đây
cũng hết sức lạ lùng, có một không
hai. Khi được
khoảng hai mươi tuổi,
thanh niên được gửi đến học hỏi với các bậc
Trưởng
Lão trong những túp
lều đơn sơ hay một hang đá. Tại đây họ sẽ
tập ngồi
yên quay mặt vào
vách tường trong bảy đến chín năm liền. Họ
chỉ nhai một
ít lá cây, uống
một chút nước và chú tâm suy
gẫm về những
điều được giảng dạy. Mỗi ngày
vào giờ giấc nhất định, các bậc Trưởng
Lão
có nhiệm vụ hướng dẫn sẽ
bước vào trao cho họ một đề tài chi
đó để suy gẫm.
Ký giả
Ereira đã ghi nhận buổi giảng dạy trong một hang
đá như
sau: Thanh niên
ngồi quay mặt vào vách, vị Trưởng
Lão bước
vào ngồi ở phía sau quan sát
thanh niên kia một lúc rồi mới đưa chiếc
ống đựng
vôi cho thanh niên sử
dụng. Ông nói: “Ngươi hãy xoay chiếc
ống thật từ
từ, thong thả, ý thức
từng hành động và biết rằng mọi vật trong
thiên
nhiên lúc nào cũng thay
đổi như chiếc ống đang xoay trong tay ngươi vậy. Ngươi
phải biết rằng
đời sống vốn quý báu như vôi đựng
trong ống, phải
biết quý trọng đời
sống của mình cũng như của mọi sinh vật. Tất cả
hiện diện nơi
đây vì
một ý nghĩa nhất định chứ không phải
tình cờ”.
Trong một hang
đá khác, một Trưởng Lão giảng dạy
về cách
canh tác: “Ngươi phải biết
tôn trọng từng gốc cây, từng ngọn cỏ
vì cây cỏ
cũng có đời sống riêng
của nó. Đừng bao giờ nghĩ đến việc chặt một
cây mà
không nghĩ đến hậu
quả mà ngươi sẽ gây ra. Cây cối cho
ngươi
trái ăn, cho ngươi bóng mát
và che chở ngươi khi cần thiết, vậy ngươi phải
biết tôn
trọng cây cối.
Ngươi phải biết vạn vật liên quan với nhau chặt
chẽ và
ngươi phải ý
thức rõ rệt về sự tương quan mật thiết
này. Phá
hoại trật tự này là phá
hoại đời sống và phá hoại đời sống
chính là
tự hủy đó”.
Ký giả
Alan Ereira kết luận: “Trong suốt chín năm ngồi
quán
xét sự liên hệ
giữa các sinh vật với nhau, về mối liên
quan giữa con
người và con
người, người và thú vật, người và
rừng cây,
người và con suối, mà họ
biết tôn trọng thiên nhiên,
không giết hại,
không ăn thịt cá. Họ biết ý
thức sự sống tràn đầy trong thiên
nhiên, từ đỉnh
núi cao xa to lớn cho
đến những côn trùng bé nhỏ, từ những
trận mưa đầu
mùa đổ nước xuống các
giòng suối tươi mát cho đến những hoa thơm
cỏ lạ mọc
trong các thung
lũng. Tâm thức họ tràn đầy các
hình ảnh
tuyệt vời của thiên nhiên qua
các điệu nhạc mà chim chóc
hòa tấu, thưởng
thức hương thơm của cỏ hoa,
rung động với các thay đổi của thời tiết... Chắc
chắn điều
này phải có
một kết quả lạ lùng nào đó
vì khi trưởng
thành, bước ra khỏi hang đá,
con người đó phải là một con người
ý thức rất
sâu xa về mình và sự
tương quan giữa mình và mọi vật. Khi
đó họ trở
nên một con người mà
theo tập tục của xã hội Kogi là người
đã trưởng
thành, có thể lập gia
đình, có bổn phận với xã hội hoặc
tiếp tục đi theo
các bậc Trưởng Lão
để học hỏi thêm và trở nên một trong
những người
này. Danh từ “Trưởng
Lão” của người Kogi không hề có
nghĩa là
người chỉ huy mà chỉ có nghĩa
là một người khôn ngoan (wise man)
mà thôi”.
Muốn đi theo con
đường của các bậc Trưởng Lão, một thanh
niên
còn phải học hỏi trong
nhiều năm. Một trong những phương pháp quan trọng
là việc
tĩnh tâm để
“giao cảm với tâm thức vũ trụ”, nhờ đó họ
có thể
biết được nhiều việc
xảy ra trên thế giới mặc dù không rời
khỏi phạm vi
của đỉnh Sierra. Đa
số các Trưởng Lão thường bỏ ra nhiều giờ
mỗi ngày
để ngồi yên lặng,
giao cảm với thiên nhiên, vì đối với
họ việc tĩnh
tâm là mục đích chính
của đời sống. Các nhu cầu như ăn uống chỉ
là phụ thuộc.
Người ta chỉ bỏ
ra vài giờ vào rừng hái trái
cây,
uống nước suối là đủ rồi, nhưng người
ta không thể sống mà thiếu ý thức về
mình
được.
Một vị Trưởng
Lão cho biết: “Vũ trụ là một tấm gương
lớn, phản ảnh tất
cả mọi việc
xảy ra trong đó. Biết rung động với vũ trụ
là biết
quán xét tấm gương
kia, do đó người ta đâu cần phải đi
đâu xa mà
cũng biết được những điều
cần thiết. Việc ngồi chín năm trong động
đá đâu
phải chỉ ngồi đó nhai
vài lá cây, suy nghĩ vài
câu
nói, mà đòi hỏi người ta phải nổ
lực tìm
hiểu về mình, vì biết mình
chính là
biết được vũ trụ và biết được vũ
trụ thì tất hiểu được các định luật
thiên
nhiên. Đã hiểu được các định
luật này một cách sâu xa thì
làm sao
có thể làm trái với nó được?
Sở dĩ
con người làm việc sai quấy vì họ
không biết
mình, chỉ sống hời hợt,
quay cuồng và dựa trên những giá trị
có
tính cách giả tạo, những giá
trị do tập đoàn tạo ra chứ không phải
phát xuất từ
những công phu suy
gẫm sâu xa. Sống như thế không thể gọi
là sống.
Đó là sống mà như chết,
thân thể tuy sống mà đầu óc
đã chết từ
lâu rồi!”
Đối với người
Kogi, việc chết cũng rất giản dị. Khi cảm thấy đã
đến lúc
phải ra đi,
một người già thường tìm vào một
hang đá
sâu và ngồi yên trong đó chờ
chết. Họ không làm đám tang, gia
đình than
khóc như những bộ lạc khác,
mà họ cho rằng đó là một việc
bình thường,
không có gì đáng quan
tâm.
Một điểm hết sức đặc biệt nữa của người Kogi là
họ không
hề có một tín
ngưỡng thờ thần linh hay vật tổ như các bộ lạc
khác.
Truyền thống nơi
đây chú trọng trên căn bản tĩnh
tâm suy gẫm
nên họ đã có những quan
niệm hết sức đặc biệt, khác hẳn với những nền văn
minh
khác tại Nam Mỹ.
Theo quan niệm của người Kogi truyền từ đời này
qua đời
khác thì thuở
ban sơ, vũ trụ hoàn toàn trống rỗng,
không
có mặt trời, mặt trăng, tinh
tú hay bất cứ một cái gì và
chính
cái trống rỗng uyên nguyên đó
được
gọi là “Mẹ Vũ Trụ” hay Kaluna. Danh từ “Mẹ Vũ
Trụ” không
phải một đấng
Hóa Công (Creator) mà chỉ là
một tâm
thức (Mind), một trạng thái tuyệt
đối hoàn hảo của tâm thức.
Một Trưởng Lão đã nói: “Các
quan
niệm như tinh tú, mặt trời, mặt trăng, đất nước
gió lửa
từ đâu đến?
Phải chăng từ tâm thức này sinh ra?
Chính tâm
thức đó phát sinh ra tư
tưởng và khi tư tưởng vận hành, giống như
cuộn chỉ xoay
từ sợi, mà tất
cả mọi vật đều phát sinh. Tóm lại, tất cả
đều do
Tâm tạo. Có tất cả
chín thế giới phát sinh từ tâm thức
vũ trụ cũng như
một người Mẹ sinh
ra chín đứa con. Một đứa con có một đặc
tính hay
sắc thái tiêu biểu
bằng các màu sắc khác nhau. Thế
giới thứ
chín chính là cái thế giới
mà
hiện nay chúng ta đang sống. Tất cả mọi thế giới
đều tuân
theo những
quy luật nhất định liên quan đến việc sinh ra, lớn
lên,
phát triển rồi
chết đi. Đó là định luật thiên
nhiên
không thể thay đổi. Ý thức rõ rệt
các định luật này rất quan trọng vì
nó
là cây cầu tâm thức nối liền
chúng ta và các cảnh giới
khác và
sau cùng với Mẹ Vũ Trụ (Kaluna).
Chính vì ý thức mà người ta
biết rằng
trái đất này không phải tạo ra
riêng cho loài người mà cho tất cả
mọi sinh vật
khác nữa”.
Ký
giả Ereira đã đặt câu hỏi về Kim Tự
Tháp và
thành phố bỏ hoang với
Trưởng Lão người Kogi nhưng họ lắc đầu từ chối
không tiết
lộ gì về lịch
sử của thành phố đó. Mặc dù họ tự
nhận là
con cháu của những người đã
xây cất ra thành phố đó nhưng họ cho
biết: “Tại sao
các ông cứ quan tâm
đến những ký hiệu lạ lùng, những tấm bản
đồ bằng
đá kia làm chi? Các
ông sẽ không thể hiểu nổi những ẩn nghĩa
đó khi
tâm các ông còn xáo
trộn. Các tâm hồn non dại, chưa trưởng
thành, chưa
biết làm chủ mình
thường chỉ thích tò mò chạy theo
những gì
kỳ lạ, những hão huyền bên
ngoài chứ không biết quay vào
bên trong để
hiểu chính mình. Chỉ khi
biết mình thì mới biết được những điều
mà Kim Tự
Tháp kia được xây cất
vào việc gì và những tảng đá
ghi khắc
các ký hiệu kia để chỉ dẫn những
gì. Khi xưa tổ tiên của chúng
tôi đã
biết rõ những điều này nhưng khi
con người trở nên tham lam, ích kỷ, giết
hại, ăn thịt
cá, phá hoại trật
tự của thiên nhiên thì tổ tiên
chúng
tôi biết không thể thay đổi gì
được. Họ rút vào rừng sâu núi
thẳm, chờ đợi
những người em sẽ rút tỉa
những bài học mà họ phải học, những lỗi
lầm mà họ
đã gây ra, nhưng tiếc
thay đã bao lâu nay hình như chẳng
mấy ai học hỏi
được điều gì hết!”
Sau ba ngày ghi nhận, tiếp xúc và
quay phim, buổi
tối hôm ấy, mọi người
quây quần trong căn nhà chính để
nghe một Trưởng
Lão tuyên bố về thông
điệp mà họ muốn gửi cho thế giới. Đó
là một
ông lão lớn tuổi nhưng còn
khỏe. Nhìn hàm răng còn
nguyên vẹn, mọi
người nghĩ ông lão chỉ vào
khoảng sáu mươi là nhiều nhưng về sau
ký giả
Ereira được biết vị Trưởng
Lão này đã sống trên một trăm
năm rồi. Hầu
như vị Trưởng Lão nào cũng
đều trên một trăm tuổi trở lên cả.
Chúng tôi
không nhìn thấy những dấu
vết già yếu, bệnh tật trên thân thể
họ như vẫn
thường thấy ở các bộ lạc
khác.
Vị Trưởng Lão lên tiếng: “Chúng
tôi đã
thảo luận rất kỹ
về điều chúng tôi muốn nói.
Chúng tôi
muốn gửi một thông điệp cho các
em trong gia đình nhân loại. Chúng
tôi
nói bằng trái tim, những lời nói
chân thành nhất rằng hiện nay nhân
loại sắp bước
vào một thảm họa rất
lớn mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra.
Thứ nhất, nhân loại
cần biết rằng tất cả chúng ta đều là anh
em một
nhà, đều là con cùng
một Mẹ. Dù chúng ta có màu
da khác
nhau, mặc quần áo khác nhau, có
những truyền thống khác nhau, tuân theo
những quan niệm
khác nhau, sống
trong những điều kiện khác nhau nhưng tất cả chỉ
là bề
ngoài mà thôi.
Bên trong chúng ta đâu hề khác
biệt. Khi
đói chúng ta đều đói như nhau,
lúc khát chúng ta đều khát
như nhau,
chúng ta đều có cảm giác vui buồn
như nhau. Hiển nhiên phải như vậy rồi vì
chúng ta
đều là con cùng một
Mẹ, nhưng tiếc là các em đã
không chú
ý đến điều này vì các em
đã
quên
mất nguồn gốc thiêng liêng của các em
rồi!
Sống xa Mẹ đã lâu,
các em đã quên hẳn người Mẹ sinh ra
các em,
săn sóc, che chở, nuôi
dưỡng các em. Vì thiếu ý thức,
các em
đã phá nát gia tài Mẹ Cha để
lại,
phá hoại một cách không thương tiếc,
không
một mảy may thương tiếc! Các
anh đây sinh trước, gần Cha Mẹ hơn nên hiểu
được
lòng Mẹ Cha đang tan
nát, đau khổ. Mẹ đã buồn vì
các con sinh
sau nở muộn đã không biết
thương yêu nhau mà trái lại cứ
chém giết,
hận thù nhau, làm hại lẫn
nhau khiến Mẹ Cha khổ sở vô cùng.
Không những thế,
các em còn dày xéo
lên thân thể Mẹ Cha mà không
biết rằng
các em đang giết hại chính đấng
đã sinh ra các em. Các anh biết
rõ việc
này nên chỉ muốn khuyên các em
hãy dừng lại, quan sát và ý
thức việc
làm hiện nay của các em vì giết
hại đấng sinh thành ra mình chính
là giết
hại chính mình đó.
Mẹ của các em là ai? Chính
là trái
đất này. Lòng Mẹ chính là
biển cả và
trái tim của Mẹ chính là những
dãy
núi cao có mặt khắp nơi. Này
các em!
đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống
biển
chính là chà đạp lên
thân thể
của Mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung
và con người
không thể sống mà không
có Mẹ. Nếu trái đất bị hủy hoại thì
chúng
ta sẽ sống ở đâu? Đây là một
vấn đề hết sức quan trọng và cần xét
đoán một
cách nghiêm chỉnh. Các
anh không biết trong vòng vài năm
nữa thế giới sẽ
biến đổi như thế nào?
Chắc không lấy gì tốt đẹp lắm đâu nếu
các em
cứ tiếp tục phá hoại mà
không biết bảo trì môi trường sinh
sống. Tại sao
được thừa hưởng một
gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta
lại phá
hoại nó đi vậy? Tại sao các
em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm
nay, thế hệ trước
đã giữ gìn
cẩn thận, đã trân trọng từng tấc đất, từng
ngọn suối, từng
khóm cây,
ngọn cỏ mà ngày nay các em lại
phá
nát không hề thương tiếc? Làm sao
các em có thể tự hào rằng
mình “văn minh”
khi nhân loại và mọi sinh vật
mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa? Làm
sao có thể
nói rằng nhân loại
đã “tiến bộ” khi con người ngày
càng gia tăng
thù hận, chỉ thích gây
chiến tranh khắp nơi? Các anh biết vậy nhưng phải
làm sao
đây? Làm sao
có thể nói cho các em biết rằng vũ
trụ có
những định luật vô cùng lớn
lao, không thể vi phạm được? Lòng
các anh vô
cùng đau đớn vì các anh
thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi,
mọi sự sống
đang lâm nguy và thảm
họa diệt vong chỉ còn trong giây
lát. Do đó
các anh muốn kêu gọi khẩn
thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng ngay những việc
có
tính cách phá hoại
đó lại, nếu không thì trễ quá
mất rồi!”
Ký giả Ereira ghi
nhận: “Thật khó có thể tin rằng những
người Kogi lại biết
rõ tình trạng
phá hoại môi sinh và chiến tranh
đang xảy ra
trên thế giới hiện nay khi
họ không rời khỏi phạm vi của đỉnh Sierra. Tuy
nhiên điều
này có lẽ
cũng không sai vì có nhiều bằng
chứng rằng
môi trường sinh sống của
nhân loại đang bước vào một giai đoạn nguy
kịch rõ
rệt. Một bằng chứng
hiển nhiên là lớp tuyết trên đỉnh
Sierra trước kia
vẫn đóng rất dày mà
nay chỉ còn trơ lại một vài mảng mà
thôi.
Gần đỉnh núi có một hồ nước
rất lớn, vốn là nơi lưu trữ nước khi tuyết tan
vào
mùa hè. Hồ nước này
sẽ đổ xuống các sông ngòi, chảy qua
những đồng bằng
trước khi chảy ra
biển. Hiện nay hồ nước này cũng đã gần cạn
khô, mực
nước tại sông ngòi
quanh vùng đều xuống rất thấp và dân
chúng ở
vùng đồng bằng đã than là
suốt mấy năm nay, nạn hạn hán đã
hoành hành
dữ dội, số lượng thóc lúa
thu hoạch được càng ngày càng xuống
rất thấp. Khắp
nơi trên thế giới,
người ta nói về tình trạng nhiệt độ gia
tăng (Global
Warming) gây ra
bởi nạn đốt rừng, phá núi, xẻ đường
và hậu quả của
những ô nhiễm kỹ
nghệ. Thêm vào đó biển cả cũng gặp
nhiều khó
khăn bởi việc các chất cặn
bã gia tăng, giết hại các vi sinh vật, căn
bản của đời
sống các loài
thủy tộc. Thêm vào đó, việc
phát triển
các kỹ thuật đánh cá tối tân
bằng các tấm lưới khổng lồ như lưới vét
(Drift Net) của
các quốc gia
tân tiến đã làm nhiều dân tộc
sống ở ven biển
gặp nhiều khó khăn về
thực phẩm vì chẳng còn có cá
để ăn”.
Người ta đã tiên đoán
rằng chỉ vài năm nữa thế giới sẽ lâm
vào
tình trạng suy kiệt dinh
dưỡng. Nạn đói kém sẽ xảy ra khắp nơi,
và những
quốc gia làm chủ được
thực phẩm sẽ là những quốc gia có quyền
lực mạnh nhất.
Biết rõ nguy nan
này, các quốc gia tân tiến đang
phát động
những căn bản kinh tế, kỹ
nghệ mới đặt trên vấn đề môi sinh mà
nạn nhân
đầu tiên sẽ là các quốc
gia kém mở mang, chậm tiến. Chính những
quốc gia
này sẽ trở thành miếng
mồi ngon để các quốc gia tân tiến
kéo đến mở mang
kỹ nghệ, phóng uế bừa
bãi các chất cặn bã, và
phá hoại
môi sinh. Nhân danh khoa học kỹ thuật,
các quốc gia tân tiến đang cho thuyên
chuyển những
nhà máy, kỹ nghệ từ
xứ họ qua những quốc gia khác dưới những danh
nghĩa rất tốt đẹp
như hợp
tác, phát triển kỹ thuật. Hiển nhiên
họ đã
ý thức tình trạng phá hoại
môi sinh và hậu quả của nó trong
quốc gia của họ
và quyết định nếu kỹ
nghệ là cần thiết thì hậu quả của
nó phải xảy ra
một nơi nào khác chứ
không phải trên lãnh thổ của họ.
Nói một cách khác, chính
sách
“thực dân mới” sẽ không xây dựng
trên
tình trạng chiếm đất, nhưng sẽ
đặt trên căn bản phá hoại môi sinh
tại những nơi
khác, vì đây là một sự
phá hoại có tính cách vĩnh
viễn,
không thể phục hồi. Những quốc gia mà
môi sinh bị phá hoại sẽ không bao giờ
ngóc
đầu lên được khi tình trạng
thực phẩm thiếu sót vì đất mầu bị
phá hoại, rừng
rậm bị phá hủy, biển
cả và đất đai chứa đựng toàn những chất
ô nhiễm. Dĩ
nhiên dân chúng sẽ
bị những bệnh tật kỳ dị không thể chữa, những thứ
bệnh có
thể gây tổn
thương đến yếu tố di truyền và hoàn
toàn suy kiệt
nhân lực (Oligarchy)
bởi các hóa chất kỹ nghệ.
Thế giới ngày nay đang bước vào một
khúc quanh lịch sử mà trong đó
tình trạng
môi sinh sẽ đóng một vai trò
thiết yếu, quan trọng. Khi phái đoàn
ký giả
đài BBC rời rặng Sierra vào
tháng hai năm 1993, những người Kogi đã
ân cần nhắn
nhủ: “Xin các ông
hãy mang thông điệp này ra gửi cho
thế giới
bên ngoài để nhân loại biết
rằng tình trạng đã thực sự nguy kịch lắm
rồi! Nếu họ
không chịu thức
tỉnh thì đợi đến bao giờ nữa đây?”
|