
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN
thuyết
THƯỜNG THANH TỊNH KINH

1.
Lão Quân viết: Ðại Ðạo vô hình sanh
dục. Thiên Ðịa Ðại Ðạo vô tình vận
hành nhựt nguyệt. Ðại Ðạo vô danh , trưởng dưỡng
vạn vật.
2.
Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh viết Ðạo, phù Ðạo
dã, hữu thanh, hữu
trược, hữu động; Thiên thanh, Ðịa trược, Thiên động,
Ðịa tịnh (Thanh dã
trược chi nguyên động tịnh dã chi cơ).
3. Nam thanh, Nữ trược; Nam động, Nữ tịnh,
giáng bổn, lưu mạc nhi sanh vạn vật.
4. Nhơn năng thường thanh tịnh, Thiên địa
tất giai qui.
5. Phù nhơn thần háo thanh, nhi
tâm nhiễu chi.
6. Nhơn tâm háo tịnh, nhi dục
khiên chi.
7. Thường năng khiển kỳ dục, nhi tâm tự
tịnh, trường kỳ tâm nhi thần tự thanh, tự nhiên lục dục bất
sanh, tam độc tiêu diệt.
8.
Sở dĩ bất năng dã, nội quán kỳ tâm, tâm
vô kỳ tâm; ngoại quán kỳ hình,
hình vô kỳ hình. Viễn quán kỳ vật, vật
vô kỳ vật; tâm giã ký ngộ,
duy kiến ư không.
9. Quán không diệt
không, không vô sở không,sở không
ký vô, vô vô diệc vô, vô vô
kỳ vô,
trạm nhiên kỳ tích, tịch vô sở tích, dục khởi
năng sanh, dục ký bất
sanh, tức thị chơn tịnh.
10. Chơn thường ứng vật, chơn thường đắc
tánh, thường ứng thường tịnh, thường thanh tịnh hỉ.
11. Như thử thanh tịnh tiệm nhập chơn đạo,
ký nhập chơn đạo, danh vi đắc đạo.
12. Tuy danh đắc đạo, thiệt vô sở đắc.
13. Vị hoá chúng sanh, danh vi đắc
đạo, năng ngộ chi dã, khả truyền Thánh Ðạo.
14. Thái Thượng Lão Quân viết:
Thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ háo tranh.
15. Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức, chấp trừ
chi dã bất minh đạo đức.
16. Chúng sanh sở dĩ bất đắc chơn đạo
dã, vị hữu vọng tâm.
17. Kỳ hữu vọng tâm tắc kinh kỳ thần.
18. Kỳ kinh kỳ thần tức trứ vạn vật.
19. Kỳ trứ vạn vật tức sanh tham cầu.
20. Ký sanh tham cầu tức thị phiền
não, phiền não vọng tưởng ư khổ thân tâm.
21. Tiện tạo trược nhục, lưu lãng sanh tử,
thường trầm khổ ải, vĩnh thất chơn đạo.
22. Chơn thường chi đạo, ngộ dã tự đắc, ngộ
đạo dã thường thanh tịnh hỉ.
Thanh Tịnh Kinh Chung
太 上 老 君 说 常 清 静 经
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN THUYẾT THƯỜNG THANH TỊNH KINH
大道无形,生育天地;大道无情,运行日月;大道无名,长养万
物;吾不知其名强名曰道。夫道者 :
有清有浊,有动有静;天清地浊,天动地静;男清女浊,男动女静;降本流末,而生万物。清者浊之源,动者静之基;人能常清静,天地悉皆归。
Đại đạo vô
hình, sanh dục thiên địa; đại đạo vô tình,
vận hành nhật
nguyệt; đại đạo vô danh, trường dưỡng vạn vật; ta chẳng biết gọi
là gì,
chỉ tạm gọi là đạo. Phàm Đạo ấy : có thanh
có trọc,
có động có tĩnh; thiên thanh địa trọc,
thiên động địa tĩnh;
nam thanh nữ trọc, nam động nữ tĩnh; giáng gốc giữ ngọn,
mà sanh vạn
vật. Thanh là nguồn của trọc, động là cơ của tĩnh;
người thường
hay thanh tĩnh, thì Đạo trời đất đều gồm đủ nơi thân.
夫人神好清,而心扰之;人心好静,而欲牵之。常能遣
其欲,而心自静;澄其心,而神自清;自然六欲
不生,三毒消灭。所以不能者,为心未澄,欲未遣也,能遣之者 :
内观其心,心无其心;外观其形,形无其形;远观其物,物无其物;三者既无,唯见于空。观空亦空,空无所空;所空既无,无无亦无;无无既无,湛然常寂。寂无
所寂,欲岂能生;欲既不生,即是真静。真常应物,真常得性;常应常静,常清静矣。如此清静,渐入真道;既入真道,名为得道;虽名得道,实无所得;为化众
生,名为得道;能悟之者,可传圣道。
Phàm thần của
người ưa thanh, mà tâm thường bị quấy rối; tâm của
người
ưa tĩnh, mà bị dục kéo lôi. Thường chế ngự được
dục, thì tâm tự tĩnh;
lắng được tâm, thì thần tự thanh; tự nhiên lục dục
chẳng sanh, tam độc
tiêu diệt. Chưa được như thế, vì tâm chưa lắng, dục
chưa chế ngự vậy.
Phải thường chế ngự : trong xem xét tâm, tâm
không thật có gì để gọi là
tâm; ngoài xem xét thân, thân
không thật có gì để gọi là thân;
ngoài
xem xét vật, vật không thật có gì để gọi
là vật; Cả 3 đều không, mà còn
cái thấy cả 3 đều không. Cái thấy là
không cũng không, không không chỗ
không; chỗ không đã không, không
không cũng không; không không đã
không, trạm nhiên thường tịch. Tịch không chỗ tịch,
chẳng sinh khởi
dục; dục đã chẳng sanh, tức là chân tĩnh.
Chân thường ứng vật, chân
thường được tính; thường ứng thường tĩnh, thường thanh tĩnh vậy.
Thanh
tĩnh như thế, dần dần nhập chân đạo; đã nhập chân
đạo, gọi là đắc đạo;
tuy gọi đắc đạo, thật không chỗ được; vì dạy chúng
sanh, tạm gọi đắc
đạo; ngộ được như vậy thì có thể truyền thánh đạo .
上士无争,下士好争。上德不德,下德执德,执着之者,不明道德。众生所以不得真道者,为有妄心,既有妄心,即惊其神,既惊其神,即着万物,既着万物,即生
贪求,既生贪求,即是烦恼,烦恼妄想,忧苦身心,便遭浊辱,流浪生死,常沉苦海,永失真道。真常之道,悟者自得;得悟道者,常清静矣!
Thượng sĩ chẳng tranh,
hạ sĩ hay tranh. Bậc thượng đức không để ý đến
kẻ khác coi mình là có đức hay chê
mình là không có đức, còn bậc hạ đức
chấp đức, do vì bám chấp, nên đạo đức chẳng
trong sáng. Chúng
sanh sở dĩ chẳng được chân đạo bởi vì có vọng
tâm, đã có vọng tâm, thì
kinh động đến thần, đã kinh động đến thần, tức là
bám chấp vạn vật, đã
chấp vạn vật, thì sanh tham cầu, đã sanh tham cầu,
chính là phiền não,
phiền não vọng tưởng làm ưu khổ thân tâm, tạo
ra vinh nhục đổi dời, nổi
trôi sanh tử, đắm chìm bể khổ, mất hết chân đạo. Đạo
chân thường này,
ngộ mà tự được; ngộ được đạo thì thường thanh tĩnh vậy.

清 靜經
Thanh Tĩnh Kinh
Lê Anh Minh dịch
& chú thích
Kinh
này có tên gọi đầy đủ là «Thái
Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh
Kinh» 太上老君說常清靜經, còn có tên là
«Thái Thượng Hỗn Nguyên Thượng Đức
Hoàng Đế Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh» 太上混元上德皇帝說常清靜經,
«Thường Thanh
Tĩnh Kinh» 常清靜經, hay «Thanh Tĩnh Kinh» 清靜經. Nội dung
của kinh là giải
thích sự diệu dụng của thanh tĩnh. Để đạt sự thanh tĩnh
thì người tu
phải «tam quán»: nội quán (nhìn
vào trong), ngoại quán (nhìn ra ngoài),
và viễn quán (nhìn ra xa). Tam quán để thấy
vạn vật đều là không; tức
là «trừng tâm» (làm trong sạch
tâm) để diệt trừ vọng tâm, diệt trừ
phiền não.
Tác giả của bản kinh này chưa rõ
là ai. Có thuyết
cho rằng đó là Cát Huyền 葛 玄 (164-244); có
thuyết cho rằng tác giả là một đạo sĩ ẩn danh, sống
vào đời Đường (618-907)
hoặc Ngũ Đại (907-1279). Bản kinh này (có lời chú
của Thuỷ Tinh Tử 水精子) đã được đưa
vào
«Chính Thống Đạo Tạng» 正統道藏. Đây là bản
kinh
được giới Đạo sĩ rất xem trọng. Giáo phái Thanh Tĩnh
Phái 清靜派 của Toàn Chân
Đạo 全真道 quy định đây
là bản kinh nhật tụng của
đạo sĩ bản môn, nên bản kinh được lưu hành rất rộng
và có nhiều bản chú thích
của các nhà như: Đỗ Quang Đình 杜光庭, Thuỷ Tinh Tử 水精子, Hỗn Nhiên Tử 混然子, Hầu Thiện Uyên 侯善淵, Lý Đạo Thuần 李道純.
Đàn Bửu Liên Đăng Tây Đức
Trở lại
trang chánh