![]() Những
chỗ khó khăn trong
Khoa Minh Triết Thiêng Liêng gọi là thông thiên học TẬP
2 THÁI
DƯƠNG HỆ CỦA CHÚNG TA bạch
liên CHƯƠNG
THỨ NHỨT NHỮNG
ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ SỰ SANH HÓA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ Muốn
thật hiểu sự sanh hóa một Thái Dương Hệ ta nên biết
ba nguyên tắc sau đây: 1)- Một
là: Mỗi Thái Dương Hệ đều do một vị Thái Dương
Thượng Đế sanh ra. Cũng như Đấng Tạo Hóa, Đức Thái Dương
Thượng Đế trước khi sanh hóa cũng phân làm ba
Ngôi: Ngôi
thứ Nhứt Ngôi
thứ Nhì và Ngôi
thứ Ba 2)- Hai
là: Các Thái Dương Hệ đều liên lạc với nhau
và giúp đỡ nhau, nhứt là những Hệ thống đồng một
Cung với nhau. 3)- Ba
là: Sự Sống vẫn là MỘT. Nó tiến hóa
và tiếp tục từ Thái Dương Hệ này sang Thái
Dương Hệ kia, đời đời kiếp kiếp, không bao giờ dứt đoạn. ĐỨC
THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ CỦA CHÚNG TA Ngài
vốn ở một Thái Dương Hệ khác lớn hơn
Thái Dương Hệ của chúng ta và ngày nay chắc
chắn nó đã tan rã rồi. Trước
khi sanh hóa, Ngài chọn một chỗ trên không
gian làm vị trí giang sơn của Ngài. Hào
quang của Ngài chiếu tới đâu dứt, thì chỗ đó
là giới hạn Tiểu Vũ Trụ của Ngài. Ngài
phác họa một chương trình gọi là
Thiên Cơ, trong đó có ghi từ lúc sơ khởi cho
đến lúc cuối cùng như: a)-
Ngày giờ thành lập bảy cõi của Thái Dương
Hệ. b)-
Những Dãy Hành Tinh và thời kỳ hoạt động của
chúng nó. c)-
Kiểu mẫu những nhơn vật, tức là hình thù,
màu sắc của các giống dân tộc, các
loài cầm thú, kim thạch và tinh chất. Mỗi kiểu mẫu
phải thực hiện cách nào và vào thời kỳ
nào cho tới khi công việc phải hoàn tất đúng
với mức độ của chúng. Nói tóm lại là đầy đủ
các chi tiết, không thiếu chi cả. MỤC
ĐÍCH SANH HÓA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ Một
Thái Dương Hệ sanh ra để giúp các Chơn Thần
(nói cho dễ hiểu là các Linh Hồn) tiến hóa
cho đến khi thành một bực Siêu Phàm. Rồi
ngày sau, không biết bao nhiêu triệu năm nữa mỗi vị
Siêu Phàm sẽ thành một vị Thái Dương Thượng
Đế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như
Thái Dương Hệ nầy vậy. NHỮNG
VỊ PHỤ TÁ ĐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ Đức
Thái Dương Thượng Đế có nhiều vị Phụ Tá như: 1)-
Các Đại Thiên Thần chưởng quản Ngũ Hành 2)-
Các vị Đại Thiên Thần coi về việc kiến trúc tức
là những vị Hành Tinh Thượng Đế (Les Archivistes). 3)-
Các vị Đại Thiên Thần coi về Văn Khố, tức là Nghiệp
quả gọi là các vị Nam Tào Bắc Đẩu (Lipikas). 4)-
Các vị Đại Thiên Thần, các vị Thiên Thần
và các Tinh Linh hay Ngũ Hành, phụ tá
các vị ở trên. 5)-
Những vị Bàn Cổ Cội Rễ Những vị Bàn Cổ
Mầm Giống (Manou Racine) Những vị Đại
Thiên Đế, những vị Đại Thiên Tôn, những vị Ngọc Đế,
những vị Phật, những vị Bồ Tát, những vị Đại Thánh đủ
các cấp bực. Những vị nầy vốn đồng ở một Thái Dương Hệ
với Đức Thái Dương Thượng Đế và có liên quan
với Ngài. NHỮNG
VỊ HÀNH TINH THƯỢNG ĐẾ Tại
Thái Dương Hệ của chúng ta có bảy vị Hành
Tinh Thượng Đế coi sóc sự tạo lập
bảy Hệ Thống Tiến Hóa. Mỗi Hệ Thống Tiến Hóa gồm bảy
Dãy Hành Tinh. Không phải bảy Dãy sanh ra
một lượt với nhau mà Dãy thứ Nhứt sanh ra rồi,
đúng ngày giờ thì tan rã. Dãy thứ
Nhì sanh ra, cứ tiếp tục như thế cho đến Dãy thứ Bảy.
Dãy thứ Bảy tan rã rồi thì một Hệ Thống Tiến
Hóa chấm dứt. (Xin xem quyển ba). Bảy Hệ
Thống Tiến Hóa có 49 Dãy Hành Tinh.
Còn ba Hệ Thống Tiến Hóa vô hình,
không nói đến nên không kể vô đây. BẢY
VỊ HÀNH TINH THƯỢNG ĐẾ COI
SÓC SỰ SANH HÓA BẢY HỆ THỐNG TIẾN HÓA HỮU
HÌNH Các
Ngài là những trung tâm, những vận
hà do đó thần lực của Đức Thái Dương Thượng Đế ban
rải cho những sanh linh trong Tiểu Vũ Trụ của Ngài. Các
Ngài là những thành phần của Thái Dương
Thượng Đế. Ấn
Giáo gọi các ngài là Prajapattis. Thiên
Chúa giáo cũng gọi là Bảy Đại
Thiên Thần phủ phục trước ngai của Thượng Đế. 7
Esprits devant le trône de Dieu như: MICHEL
– có nghĩa là sức mạnh của Trời. GABRIEL
– có nghĩa là Vô sở bất tại tức là đâu
đâu cũng có Ngài, Ngài có mặt khắp
mọi nơi. RAPHAEL
– có nghĩa là quyền năng của Trời trị lành
các bệnh. URIEL –
có nghĩa là Ánh Sáng của Trời hay là
Lửa Trời. ZADKIEL
– có nghĩa là Lòng Nhân của Trời. CHAMUEL
– (không biết) JOPHIEL
– (không biết) Giống
in như Bảy vị Hành Tinh Thượng Đế Hư Không. Hỏa
Thần Giáo gọi là các Ngài là Amesha
Spentas. SỐ
3 và SỐ 7 Số 3: Tại sao
có Ba Ngôi? Theo lời của Đức Bà Annie Besant
nói thì đây là một trong những vấn đề
khó khăn nhứt của Siêu Hình Học, muốn giải ra phải
viết trọn một quyển sách. Tuy nhiên chúng ta
hãy cố gắng giải thử coi. Nếu
chúng ta phân tích cái gì có
ra trong Vũ Trụ thì chúng ta đi đến cái kết luận
là: Tất cả
đều chia ra “Ngã (Soi) và Phi Ngã (Non Soi)” hoặc
là “Tôi và Không phải Tôi”. Mỗi vật
đều thuộc về hoặc là “Ngã” hoặc là “Phi
Ngã”. Ngã
là Sự Sống, là Tâm thức. Phi
Ngã là Vật chất, là Hình hài. Chúng
ta đứng trước Nhị Nguyên. Nhưng mà hai vật
làm ra Nhị Nguyên nầy không phải là hai vật
chia rẽ với nhau, hai vật độc lập và không có
liên lạc với nhau. Thật ra có sự liên quan mật thiết
giữa hai vật. Thế
nên chúng ta có Tam Nguyên thay vì Nhị
Nguyên. Ấy là: Một
là Ngã. Hai
là Phi Ngã Ba
là sự liên lạc giữa Ngã và Phi Ngã,
tức là ba chứ không phải hai. Thế
nên số 3 làm nền tảng cho tất cả những Vũ Trụ chớ
không phải chỉ để riêng cho Vũ Trụ của chúng ta
là Thái Dương Hệ nầy mà thôi. Nói
tóm lại Ngã và Phi Ngã là
hai cái cực của một khối duy nhứt. Hai cực nầy vẫn có sự
liên lạc với nhau. Số 7: Ta biết
Đấng Độc Nhất Vô Nhị phân chia làm Ba Ngôi: 1)-
Ngôi thứ Nhứt 2)-
Ngôi thứ Nhì 3)-
Ngôi thứ Ba Mỗi
Ngôi có hai trạng thái: Âm và Dương. Ba
Ngôi có sáu Trạng Thái. Nhưng
có một trạng thái nó tổng hợp sáu trạng
thái nầy lại. Không có nó thì
không phân chia Âm Dương. Trạng thái nầy
có từ thuở Khai Thiên Tịch Địa. Thế
nên các Thánh kinh đều cho số 7 là quan
trọng. Đúng
vậy, Số 3 và Số 7 là hai con số thiêng
liêng rất nhiệm mầu. BẢY
CUNG CỦA THÁI DƯƠNG HỆ Thái
Dương Hệ có bảy Cung đồng một tên với bảy Cung
của Vũ Trụ. 1)-
Cung thứ Nhứt là Cung Ý Chí – Uy Quyền 2)-
Cung thứ Nhì là Cung Minh Triết - Bác Ái,
tức là Cung Giáo Dục và Tôn Giáo. 3)-
Cung thứ Ba là Cung Hoạt Động Sanh Hóa, tức là
Cung Thích Nghi; Chiêm Tinh Học thuộc về Cung nầy. 4)-
Cung thứ Tư là Cung Mỹ Lệ, Hòa Thanh (Cung Mỹ Thuật). 5)-
Cung thứ Năm là Cung Hiểu Biết Cụ Thể (Cung Khoa Học) 6)-
Cung thứ Sáu là Cung Sùng Đạo hay là
Lý Tưởng. 7)-
Cung thứ Bảy là Cung Pháp Môn – Phù Thủy. Mỗi
Cung còn chia ra bảy Chi (Sous Rayons) và ở dưới quyền
điều khiển của một vị Hành Tinh Thượng Đế. CHƯƠNG
THỨ HAI BA
NGÔI CỦA THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ Trước
khi sanh hóa, Đức Thái Dượng Thượng Đế phân
làm ba Ngôi như Đức Thượng Đế là Đấng Tạo
Hóa vậy. 1)-
Ngôi thứ Nhứt là SHIVA (Si Hoa) hay là Đức
Chúa Cha (Dieu, Le Père) 2)-
Ngôi thứ Nhì là VISHNOU (Quích Nu) hay
là Đức Chúa Con (Dieu, Le Fils) 3)-
Ngôi thứ Ba là BRAHMA (Phạn Vương) hay là Đức
Chúa Thánh Thần (Dieu, Le Saint Esprits). TRẠNG
THÁI CỦA BA NGÔI Trạng
thái của Ngôi thứ Nhứt là Ý Chí
(Volonté). Trạng
thái của Ngôi thứ Nhì là Minh Triết –
Bác Ái (Sagesse – Amour). Trạng
thái của Ngôi thứ Ba là Hoạt Động Sanh Hóa
hay là Trí Tuệ Sanh Hóa (Intelligence
créatrice). NHIỆM
VỤ CỦA BA NGÔI Ba
Ngôi có ba nhiệm vụ khác nhau. Ngôi
thứ Ba lập bảy cõi của Thái Dương Hệ. Ngôi
thứ Nhì sanh hóa hình dạng, cho
chúng nó sự sống đặng tiến hóa. Ngôi
thứ Nhứt cho Chơn Thần nhập thể. CÔNG
VIỆC ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ Công
việc đầu tiên của Đức Thái Dương Thượng Đế
là cho Thần lực của Ngài thấm nhuần Hỗn Ngươn Nhứt
Khí làm cho nó có sự sống riêng biệt
khác hẳn với Hỗn Ngươn Nhứt Khí làm ra mấy
Thái Dương Hệ khác và có ba đặc tánh
sau nầy gọi là ba Gu na (3 Gunas). 1)-
Trạng thái Ý Chí cho vật chất đặc tánh thứ
Nhứt là Tamas: Tịnh. 2)-
Trạng thái Minh Triết cho vật chất đặc tánh thứ
Nhì là Satwa: Hòa Thanh. 3)-
Trạng thái Hoạt Động cho vật chất đặc tánh thứ Ba
là Rajas: Động. 1/-
TAMAS: Tamas
có nhiều nghĩa như: a)-
Không cử động – không hoạt động (Inertie) b)-
Năng lực chịu đựng, đối kháng (Pouvoir de résistance) c)- Sự
ổn định (Stabilité). d)- Sự
yên tịnh (Calme). 2/-
SATWA: Satwa
có nghĩa là Tiết điệu (Rythme), Hòa thanh
(Harmonie). 3/-
RAJAS: Rajas
có nghĩa là Chuyển động (Mouvement). Có
điều nên nhớ là: Không có ba đặc
tánh nầy thì Hỗn Ngươn Nhứt Khí không biểu
hiện ra được. CHƯƠNG
THỨ BA NHIỆM
VỤ CỦA NGÔI THỨ BA hay
làTRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ NHỨT (1ere Vague de Vie) TẠI
SAO GỌI LÀ LƯỢNG SÓNG SANH TỒN HAY LÀ TRIỀU
LƯU SANH HÓA? (Vague de Vie) Bởi
vì Thần lực của Đức Thượng Đế tuôn ra từng đợt in như
những lượng sóng ngoài biển và bởi Thần lực nầy
ban sự sống cho vật chất cho nên mới gọi nó là
“Lượng Sóng Sanh Tồn” hay là “Triều Lưu Sanh Hóa”. Không
có sự sống của Đức Thái Dương Thượng Đế ban
cho thì chúng ta và vạn vật ngày nay
không có ở đây đâu. TANMATRA
VÀ TATTVA Do
đâu mà Thần lực của Đức Thượng Đế tuôn ra? Ấy
là do sự biến đổi tâm thức của Ngài (Modification
de Sa conscience). Pháp môn nói rằng: Sự biến đổi
tâm thức của Đức Thượng Đế sanh ra một năng lực, một sự rung động
gọi là Tanmatra (Tăng ma tra). Năng lực nầy là sự chuyển
động xây tròn mau lẹ một cách phi thường,
không thể tưởng tượng nổi, đó là Fohat. Hiệu
quả của Fohat hay là sự chuyển động nầy gây ra trong vật
chất gọi là Tattva (Tát hoa). Đức Subba Rao là vị
thay mặt Chơn sư đặng rèn luyện Đức Leadbeater có cho một
thí dụ về Tanmatra và Tattva như sau đây rất
rành rẽ: Hãy xem trên bãi biển, một lượng
sóng lặng lẽ bò lên cát rồi dựt xuống, để
lại một vết dài đánh dấu giới hạn của nó. Nước
lớn, một lượng sóng khác chạy lên bãi xa hơn
lượng sóng trước. Tới phiên nó cũng để lại một dấu
vết rồi trở ra khơi. Nếu ta
tưởng tượng lượng sóng là Tanmatra do sự biến đổi tạm
thời của Đại dương thì cái dấu vết để lại trên
bãi biển là Tattva. BẢY
TANMATRA VÀ BẢY TATTVA Muốn
lập bảy cõi của Thái Dương Hệ thì Đức Thái
Dương Thượng Đế biến đổi bảy lần Tâm Thức của Ngài
và sanh ra bảy hiệu quả khác nhau. 1)- Sự
biến đổi của Tâm Thức lần thứ Nhứt (1er Tanmatra) sanh
ra Nguyên tử căn bản làm ra cõi Adi, cõi Tối
Đại Niết Bàn, gọi là Adi Tattva. Nguyên
tử căn bản hay là Adi Tattva là gì? Ấy
là Tinh thần của Đức Thái Dương Thượng Đế bao bọc trong
một lớp vỏ mỏng Ngươn Khí, cội rễ của vật chất. Adi
nghĩa là đầu tiên (Le Premier). Tattva
nghĩa là: Nguyên tử căn bản của một cõi nào
đó (Matière atomique d’un plan). 2)- Sự
biến đổi Tâm Thức lần thứ Nhì (2è Tanmatra)
sanh ra nguyên tử căn bản làm ra cõi Anoupadaka,
Cõi Đại Niết Bàn, gọi là Anoupadaka Tattva. Anoupadaka
nghĩa là: Không có áo (sans robe). 3)- Sự
biến đổi Tâm Thức lần thứ Ba (3è Tanmatra)
sanh ra nguyên tử căn bản làm ra cõi Niết
Bàn gọi là Akasa Tattva. 4)- Sự
biến đổi Tâm Thức lần thứ Tư (4è Tanmatra)
sanh ra nguyên tử căn bản làm ra cõi Bồ Đề gọi
là Vayu Tattva. 5)- Sự
biến đổi Tâm thức lần thứ Năm (5è Tanmatra)
sanh ra nguyên tử căn bản làm ra cõi Trí Tuệ
(Thượng Giới) gọi là Agni Tattva. 6)- Sự
biến đổi Tâm thức lần thứ Sáu (6è Tanmatra)
sanh ra nguyên tử căn bản làm ra cõi Dục Giới
(Trung Giới) gọi là Apas Tattva. 7)- Sự
biến đổi Tâm thức lần thứ Bảy (7è Tanmatra)
sanh ra nguyên tử căn bản làm ra cõi Hồng Trần (Hạ
Giới) gọi là Prithivi Tattva. XIN XEM
TẤM BẢNG DƯỚI ĐÂY
SỰ BIẾN ĐỔI HỖN NGƯƠN NHỨT KHÍ
Ngôi
thứ Ba dùng Thần lực xoi lủng Hỗn ngươn Nhứt
Khí, Koilon, ra hằng hà sa số những bọt (bulles). Mỗi bọt
là một điểm sáng, mà cũng là một lỗ trống
trong Koilon. Thật sự, mỗi bọt là một trung tâm của
Tâm Thức của Ngôi thứ Ba. Ngày nào ý
chí của Ngài còn cầm giữ nó thì
nó còn nguyên vẹn, ngày nào
Ngài không tưởng tới nó thì nó sẽ tan
rã. Ngài
dùng những bọt nầy đặng lập bảy cõi của
Thái Dương hệ. BẢY
CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ (Les
7 plans du Système Solaire) Bảy
Cõi nầy là: 1)-
Cõi thứ Nhứt – Plan Adi: Cõi Tối Đại Niết Bàn
(Mahaparanirvana) hay là Cõi Tối Đại Thiêng
Liêng. 2)-
Cõi thứ Nhì - Plan Anupadaka: Cõi Đại Niết Bàn
(Paranirvana) hay là Cõi Đại Thiêng Liêng 3)-
Cõi thứ Ba - Plan Atmique: Cõi Niết Bàn
(Nirvana) hay là Cõi Thiêng Liêng 4)-
Cõi thứ Tư - Plan Bouddhique: Cõi Bồ Đề (Thế giới
Trực giác) 5)-
Cõi thứ Năm - Plan Mental:
Cõi Trí Tuệ hay là Cõi Thượng Giới (Thế
giới Tư tưởng). 6)-
Cõi thứ Sáu - Plan Astral: Cõi Dục Giới hay là
Cõi Trung Giới (Thế giới Tình cảm) 7)-
Cõi thứ Bảy - Plan Physique: Cõi Hạ Giới hay
là Hồng Trần (Thế giới của sự Hoạt động) NHỮNG
NGUYÊN TỬ LÀM RA BẢY CÕI 1)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Adi – Tối Đại Niết
Bàn có một bọt Koilon. 2)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Anupadaka – Đại Niết
Bàn có 49 bọt Koilon. 3)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Niết Bàn
có (49) 2 = 2.401 bọt Koilon. 4)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Bồ Đề có (49) 3 =
117.649 bọt Koilon. 5)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Trí Tuệ
có (49) 4 = 5.764.801 bọt Koilon. 6)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Trung Giới có
(49) 5 = 282.475.219 bọt Koilon. 7)
Nguyên
tử căn bản làm ra cõi Hạ Giới hay là
Hồng Trần có (49) 6
= 13.811.287.201 bọt Koilon, nhưng số nầy phải cộng thêm một số
bọt nhứt định nữa, tất cả gồm 14 ngàn triệu vì
cách cấu tạo đặc biệt của nguyên tử. Nguyên tử căn
bản Hồng Trần không phải là nguyên tử Hóa
Học. SỰ
THÀNH LẬP NHỮNG CẢNH (Les
Sous Plans) Sau khi
làm ra những nguyên tử rồi, Ngôi thứ Ba mới phối hợp
chúng nó lại thành từng nhóm: Mỗi
nhóm hai nguyên tử, mỗi nhóm ba nguyên tử,
mỗi nhóm bốn nguyên tử v. v. đặng lập ra bảy cảnh. Mỗi
cõi có bảy cảnh. Bảy cõi có 49 cảnh. BẢY
CẢNH CỦA CÕI THƯỢNG GIỚI HAY
LÀ CÕI TRÍ TUỆ Riêng
cõi Thượng Giới hay là Trí Tuệ
khác lạ hơn mấy cõi kia. Cõi nầy chia ra
làm hai: Cõi Thượng Thiên và cõi Hạ
Thiên. Cõi
Thượng Thiên (Plan Mental supérieur, Ciel
supérieur) hay là cõi Vô Sắc Giới (Monde
Aroupa) bởi vì tại đây tư tưởng xẹt ra từ lằn đi từ Thượng
Trí nầy qua Thượng Trí kia, chớ không có
hình dạng như mấy cõi dưới. Phật
Giáo gọi cõi nầy là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Cõi
Thượng Thiên gồm ba cảnh cao của Thượng Giới. Ấy
là: Cảnh
thứ nhứt Cảnh
thứ nhì Cảnh
thứ ba. Còn
cõi Hạ Thiên gồm có bốn cảnh còn
lại là: Cảnh
thứ tư Cảnh
thứ năm Cảnh
thứ sáu Cảnh
thứ bảy. Tại
cõi Hạ Thiên, tư tưởng còn có hình
dạng. Người ta gọi nó là cõi Sắc Giới (Monde
Roupa) hay là cõi Hữu Hình. BẢY
CẢNH CỦA CÕI TRẦN Cõi
Trần cũng chia làm bảy cảnh vậy, song trừ ra
các nhà Huyền bí học thì ít ai để
ý tới điều nầy. Đó là lẽ tự nhiên, bởi
vì trước đây không có ai dạy công khai
những sự bí mật của Tạo Công. Bảy
cảnh của cõi Trần là: 1)-
Cảnh thứ nhứt làm bằng nguyên tử căn bản Hồng Trần cũng
gọi là chất Dĩ thái thứ nhứt. (1er sous plan,
sous plan atomique ou 1er sous plan
éthérique). 2)-
Cảnh thứ nhì là cảnh Dĩ thái thứ nhì (2è
sous plan éthérique). 3)-
Cảnh thứ ba là cảnh Dĩ thái thứ ba (3è sous
plan éthérique). 4)-
Cảnh thứ tư là cảnh Dĩ thái thứ tư (4è
sous plan éthérique). 5)-
Cảnh thứ năm là cảnh của chất hơi (Không khí). 6)-
Cảnh thứ sáu là cảnh của chất lỏng (Nước). 7)-
Cảnh thứ bảy là cảnh của chất đặc (Đất). Nói
tóm lại, bốn cảnh cao làm bằng chất Dĩ
thái Hồng Trần (Ether physique). Còn
ba cảnh thấp làm bằng chất đặc, chất lòng
và chất hơi. BẢY
CÕI Ở CHUNG MỘT CHỖ VỚI NHAU Ta
đương ở cõi Trần đây. Còn sáu cõi
kia: Trung Giới, Thượng Giới, Bồ Đề, Niết Bàn, Đại Niết
Bàn, Tối Đại Niết Bàn không phải ở xa cả
ngàn, cả muôn dặm đâu. Chúng nó ở
trên đầu ta, dưới chơn ta, bên hông ta, sau lưng ta,
trước mặt ta và cũng ở trong mình ta nữa, có thể
nói là chúng nó xỏ rế với nhau. Mới
nghe qua chắc quí bạn lấy làm lạ lùng lắm,
vì đó là chuyện kỳ dị hết sức, nhưng cũng
là sự thật một trăm phần trăm. Xin
quí bạn nhớ nguyên tắc nầy thì biết: Chất
khí ở cảnh cao thì màu sắc đẹp đẽ, mảnh mai, rung
động mau lẹ và chun thấu qua chất khí ở cảnh thấp hơn
nó. Thế
nên chất khí làm cõi Trung Giới chun thấu
qua chất khí làm cõi Trần. Chất
khí làm cõi Bồ Đề chun thấu qua chất khí
làm cõi Thượng Giới, chất khí làm
cõi Trung Giới và chất khí làm cõi
Trần v. v. . . Hồn Ma
ở trong cái Vía, cái Vía làm bằng
chất khí tạo ra cõi Trung Giới. Thế nên Hồn Ma đi
ngang qua thân mình ta mà không đụng chạm chi
cả, mà chúng ta cũng không hay biết điều nầy. Cũng
như Tinh Linh hay Ngũ Hành, thân hình làm
bằng chất Dĩ thái cho nên họ ở trong lửa, trong đất, trong
nước, cũng như ta sống trong không khí mà
không đụng chạm. Nước, lửa hại họ không được. Vì thế
khi thấy trong sách Huyền bí học nói các
Thổ Thần ở trong Đất, Thủy Thần ở dưới Nước, Hỏa Thần ở trong Lửa
thì chớ nên lấy làm lạ. Ngày
nào ta mở được Luân Xa của cái
Phách ở giữa trán ta sẽ thấy được các Tinh Linh
và cách họ làm việc cho Thiên Cơ. Ngày
nay khắp hoàn cầu đã có nhiều người mở
được Thần Nhãn, thế nên vấn đề Thiên Nhãn
không còn là câu chuyện mơ hồ hay viễn
vông nữa. Cũng
xin nhớ rằng: Dầu cho cõi Tối Đại Niết Bàn đi nữa,
nó cũng làm bằng vật chất, song chất nầy mảnh mai
và tế nhị hơn chất Hồng Trần ở Thế gian. Đừng
cho rằng Niết Bàn đáng quí hơn cõi Trần,
cõi nào cũng tươi tốt, cũng có sự lợi ích
riêng của nó. Nếu cõi Trần đầy dẫy những sự đau khổ
nên tối tăm là tại con người làm cho nó
hóa ra nhơ bợn và tự mình không chịu tự khai
sáng cho mình đặng xem coi cảnh trời xinh đẹp bao la
bát ngát vô tận vô biên. Ta chỉ cần
thay đổi thái độ thôi thì tất cả đều trở nên
tốt lành. TÊN
MỖI THỨ KHÍ Tôi
tưởng nên đặt tên mỗi thứ khí cho dễ nhớ. Tỷ như: 1)-
Chất khí làm ra cõi Tối Đại Niết Bàn
là NGƯƠN KHÍ. 2)-
Chất khí làm ra cõi Đại Niết Bàn là
TIÊN THIÊN KHÍ. 3)-
Chất khí làm ra cõi Niết Bàn là
ÂM DƯƠNG KHÍ (AKASHA) A ka sa. 4)-
Chất khí làm ra cõi Bồ Đề là THÁI
THANH KHÍ hay là Chất Bồ Đề. 5)-
Chất khí làm ra cõi Thượng Giới hay là
cõi Trí Tuệ là chất THƯỢNG THANH KHÍ hay
là chất Trí Tuệ. 6)-
Chất khí làm ra cõi Trung Giới hay là
cõi Dục Giới là THANH KHÍ. 7)-
Chất khí làm ra cõi Hạ Giới hay Thế Gian là
chất HỒNG TRẦN. Cõi
Trung Giới tiếng Pháp gọi là Plan Astral. Chữ
Astral do chữ Astre, ngôi sao mà ra; bởi vì chất
khí làm ra cõi Trung Giới chói sáng
như sao, cho nên người ta gọi nó là Plan Astral.
Thật ra trừ cõi Trần, thì từ cõi Trung Giới trở
lên các chất khí đều chói sáng rực
rỡ. Tại mấy cõi nầy không có ngày,
không có đêm như ở Thế Gian. Mặt Trời, mặt trăng ở
tại cõi Trần nầy không có soi sáng mấy
cõi kia. SỰ
LIÊN LẠC GIỮA BẢY CÕI HƯ KHÔNG VỚI
BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ CHÚNG TA. Có
sự liên lạc giữa bảy cõi Hư Không với bảy
cõi của Thái Dương Hệ chúng ta không? Có,
nhưng không phải cõi nầy thông đồng với
cõi kia như ta tưởng mà có một điều rất kỳ lạ
là: Cảnh
thứ bảy, cảnh chót của cõi Hư Không làm ta
cảnh thứ nhứt của mỗi cõi của Thái Dương Hệ chúng
ta. Tỷ như:
Cảnh thứ bảy của cõi Niết Bàn Hư Không làm
ra cảnh thứ nhứt của cõi Niết Bàn chúng ta. Cảnh
thứ bảy của cõi Thượng Giới Hư Không làm ra cảnh
thứ nhứt của cõi Thượng Giới của chúng ta. Xin xem
hình, nhưng e cho không thể tưởng tượng nổi. Ở vào
trình độ thấp kém, chúng ta không giải
thích được sự liên hệ đó ra sao. Phải mở tới huệ
nhãn mới thấy được điều đó mà dầu thấy được cũng
không đủ danh từ để diễn tả. CÔNG
VIỆC CỦA NGÔI THỨ BA HIỆN GIỜ HÃY CÒN Người
ta kính cẩn nói rằng Ngôi thứ Ba giống như một
Nhà Hóa học làm việc trong một phòng
thí nghiệm rộng mênh mông. Công việc đó
hiện giờ vẫn còn. Sự biểu
hiện Thần lực của Ngài tại cõi Trần là Điện. Đức
Leadbeater có nói rằng: khó mà mô tả
điều kiện ở tại trung tâm Trái Đất. Người ra gặp những lỗ
hang lớn làm nơi trú ngụ cho nhiều loại không thuộc
về sự tiến hóa của chúng ta. Một trong những giống
đó thấp thỏi hơn tất cả những giống dân nào đương ở
trên mặt Địa cầu. Một giống khác gần với trình độ
chúng ta mặc dầu khác hẳn với những điều mà
chúng ta có thể hiểu được. Không
nên tiếp xúc với họ, bởi vì họ
không biết cang thường luân lý như chúng ta.
Gần họ thì rất nguy hiểm . Khi ta
tiến gần tới trung tâm Trái Đất thì ta gặp một chất
mà người nào không thấy thì không quan
niệm được. Chất nầy đặc và cứng hơn loại kim, cứng hơn hết
các chất mà ta đã biết, nhưng nó có
thể chảy dễ dàng như là nước. Nhưng còn một chuyện
khác nữa, chất nầy không hạp với chúng ta,
mà nó liên lạc với một sự tiến hóa
riêng biệt. Trung
tâm Trái Đất được xem như là một phòng
Hóa học của Ngôi thứ Ba. Tại đây nhiệt độ và
áp lực phi thường, không giống những điều ta thấy ở
trên mặt đất. Có những hạng Thiên Thần và
những Tinh Linh (Ngũ Hành) đặc biệt vâng theo mạng lịnh
của Ngài, dùng nhiệt độ và áp lực
phân chia nguyên tử căn bản rồi phối hiệp lại đặng
làm những nguyên tố mới. Công việc nầy người ta
không hiểu được. Có một điều mà chúng ta
không tưởng tượng mà cũng không ngờ là trung
tâm Trái Đất liên lạc trực tiếp với trung tâm
Mặt Trời. Những nguyên tử sanh ra từ trung tâm Mặt Trời
theo bề thứ tư (4è dimension) tới ngay trung
tâm Trái Đất chớ không đi ngang qua mặt đất đặng
xuống dưới sâu. CHƯƠNG
THỨ TƯ NHIỆM
VỤ CỦA NGÔI THỨ NHÌ HAY
LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ NHÌ (2è
Vague de Vie) Khi bảy
cõi lập xong rồi thì Ngôi thứ Nhì bắt đầu
hoạt động. Người
ta cũng kính cẩn nói rằng Ngài không
khác nào một người thợ dệt trong một cái xưởng.
Ngài dệt nhiều thứ hàng mới như vải sồ, lụa là,
gấm vóc để may y phục cho Linh Hồn mặc. Ấy là những Thể
của con người dùng để hoạt động ở mấy cõi Trời. Thần lực
của Ngài thuộc về hạng đặc biệt gọi là Sự Sống và
Hình Dạng hay là Tinh Thần và Vật Chất. Ngài
cho Thần lực của Ngài thấm nhuần những chất
khí tạo ra bảy cõi làm cho chúng nó
có tư cách kết thành những hình dạng.
Hình dạng nầy có một bản tánh bí mật
và vô cùng mầu nhiệm mà ta gọi là SỰ
SỐNG. Ngày
nào Sự Sống còn ở trong Hình Dạng
thì ngày đó Hình Dạng còn tồn tại,
ngày nào Sự Sống bỏ Hình Dạng thì
ngày đó Hình Dạng bắt đầu tan rã, bởi
vì Sự Sống kết hợp với Vật Chất lại đặng làm ra những cơ
quan của Hình Dạng và duy trì chúng
nó. Người
ta nói rằng: Một hình dạng sanh ra là Sự Sống của
Ngôi thứ Nhì có một việc phải tiến hành
xuyên qua hình dạng đó. Hình dạng nầy
càng ngày càng tăng trưởng, là vì Sự
Sống càng ngày càng đi tới mục đích của
nó. Khi nó hoàn thành sứ mạng thì
nó rút lần lần ra khỏi Hình Dạng. Đây
là thời kỳ già yếu, cằn cỗi, sanh lực không
còn dồi dào như trước nữa. Khi Sự Sống lìa khỏi
Hình Dạng đó rồi thì Hình Dạng đó
chết. Nhưng Sự Sống nầy không mất đi đâu. Nó sẽ thấm
nhuần một Hình dạng khác tốt đẹp hơn và cứ tiến
lên như thế mãi. Sự Sống
càng ngày càng phát triển thì
Hình Dạng càng ngày càng tiến hóa,
càng mảnh mai, càng đẹp đẽ hơn trước cho tương xứng với
Sự Sống bên trong. Hình
Dạng nào không theo kịp sự tiến triển của Sự
Sống thì Sự Sống sẽ bỏ Hình Dạng đó đặng lấy một
Hình Dạng khác hạp với nó, như thế nó mới
biểu lộ được dễ dàng. Tại
cõi Trần nầy sự Biểu hiện Thần lực của Ngôi thứ Nhì
là Sanh lực Prana, là sự SANH TỒN. Không
có sanh lực Prana thì các nguyên
tử không thể kết hợp với nhau lại đặng làm thành
hình dạng. Thí
dụ: Ta vẫn biết Dưỡng khí và Khinh khí
do Ngôi thứ Ba sanh ra. Nhưng nếu không có ảnh hưởng
sanh lực của Ngôi thứ Nhì thì hai phân tử
Khinh khí không bao giờ hiệp được với một phân tử
Dưỡng khí đặng làm ra nước đâu. Chính
là nhờ Thần lực của Ngôi thứ Nhì
mà vật chất mới hiện ra cho chúng ta thấy như ngày
nay và chúng ta mới có xác thân nầy
đây. HƠI
THỞ CỦA ĐỨC THƯỢNG ĐẾ (Souffle
du Logos) Kinh
thánh của các Tôn giáo lớn đều có
những câu sau nầy (toàn là lời bóng
dáng): 1)-
Souffle du Logos – Hơi thở của Đức Thượng Đế. 2)- Le
Logos expire et inspire – Đức Thượng Đế thở ra và hít
vô. 3)- Et
le Logos soufflait dans ‘les eaux de l’espace’ pour former les bulles
qui créent les Univers. Và
Đức Thượng Đế thổi vào nước trên không
gian đặng làm ra những bọt – những bọt nầy hóa sanh những
Vũ trụ. Hơi thở
của Đức Thượng Đế ra sao? Không ai biết cả vì ở vào
trình độ tiến hóa của
chúng ta hiện giờ, chúng ta rất dốt về Huyền bí
học. Có
một điều ta nên suy nghĩ là: Hơi thở của con
người cũng là một sự bí mật. Quả
thật lúc hít vô dưỡng khí vào biến
đổi máu đen ra máu đỏ còn lúc thở ra
thán khí ra ngoài. Nhưng không phải chỉ
có bao nhiêu đó mà thôi đâu. Mỗi
cơ quan trong mình con người đều có cách thở
riêng. Quả Địa
cầu và các Hành tinh đều thở, thở một cách
nhịp nhàng. Hơi thở của con người, hơi thở của vạn vật đều
có liên quan mật thiết với hơi thở của Đức Thượng Đế. Sách
Thánh nói rằng lúc Đức Thượng Đế thở
ra thì Vũ trụ sanh ra. Khi Ngài bắt đầu hít
vô thì vạn vật sửa soạn trở về với Ngài tức
là Phản Bổn Hườn Nguyên. Vị
nào đã dùng những danh từ Hơi Thở và Nước
trên Không gian trong Thánh kinh lần đầu tiên
là vị có Huệ nhãn. Vị ấy đã đọc được những
Tiên Thiên Ký Ảnh (Clichés akasiques) thấy
được hình ảnh của sự tạo thiên lập địa, của sự sanh
hóa Tiểu Vũ trụ nầy. Chúng ta đây đọc đến mấy chữ
‘Nước trên Không gian’ chúng ta không
có quan niệm gì cả. Bởi vì chúng ta
không thấy cái chi hết. Nước đây tượng trưng cho vật
chất thuộc về Âm. HƠI
THỞ CỦA ĐỨC THƯỢNG ĐẾ LÀ CÁI CHI? Trong
cuốn Hóa Học Huyền Bí (La Chimie Occulte) trương 152 xuất
bản năm 1920. Đại đức Annie Besant và Leadbeater có giải
nghĩa ‘Hơi thở của Đức Thượng Đế’ như sau đây: ‘Hơi
thở hay là Linh khí của Đức Thượng Đế là Thần Lực
choán hết những không gian nầy. Ấy là Thần Lực
nó giữ cho những không gian nầy được trống trải mặc dầu
áp lực phi thường của Ngươn Khí Koilon’ (Le
souffle du Logos est donc la force qui remplit ces espaces. C’est la
force qui les maintient ouverts malgré la formidable pression du
Koilon). (La
Chimie Occulte page 152 Edition 1920). (Xin
xem lại đoạn ‘Koilon là chất đặc cứng và sức mạnh của
Koilon, quyển I). Một
cuốn sách Huyền bí học rất cổ kính nói về
Ngươn khí Koilon như vầy: ‘Bản
chất của Ngươn khí trong trẻo như pha lê, người ta
trông suốt ngang qua nó và thấy mọi vật . . .
Nó không giống chất nào mà người ta biết ở
tại cõi Trần cả. Vì Vô minh và ảo tưởng
người ta ngỡ là không gian trống rỗng.’ Đọc
đoạn nầy chúng ta nên suy nghĩ coi có lý hay
không? Trước
mắt ta có một lớp không khí, nhưng nó
không án mắt ta, cho nên ta mới thấy vạn vật. Thế
thì nó trong trẻo. Thường thường con người thấy
hình các đồ vật mà không bao giờ có
ý nghĩ rằng giữa mình và đồ vật có một lớp
không khí bao phủ. Không khí cũng là
vật chất như các món đồ của mình thường
dùng nhưng nó khác một chút là
nó trong vắt và nhẹ nhàng. Nhưng đừng lầm, chừng
một trận cuồng phong nổi dậy thì cây cối trốc gốc,
nhà cửa sập đổ tan tành. Có
những việc trải qua trước mắt vẫn trái ngược nhau. Ấy
là đá cát trống rỗng mà ta thấy nó
đặc cứng, còn thật sự không gian đặc cứng mà ta lại
thấy nó trống rỗng. PRANA
LÀ HƠI THỜ
CỦA ĐỨC THÁI DƯƠNG THƯỢNG ĐẾ Prana,
danh từ Phạn ngữ, chiết tự ra như vầy: PRA:
dedans là ở trong NA:
Respirer, Se mouvoir, Vivre : là Hơi thở,
là Chuyển động, là Sống. Thế
nên Đức Bà Annie Besant mói nói: ‘Prana
là hơi tiết ra (souffle émis) hay là hơi thở ra
(espir) của Đức Thái Dương Thượng Đế, ở một mức độ nhỏ bé
hơn nó là hơi thở của con người.’ Tất cả
những lực hấp dẫn, những lực kết hợp đều do Prana sanh ra. Khi Đức
Bà Blavatsky nói rằng: ‘Hấp lực (gravitation) chỉ
là một trạng thái của một lức lớn lao hơn’. Đó
là bà muốn ám chỉ Prana. Hấp lực là một
trong những cách biểu hiện của Prana. Xin
nhắc lại: Hơi thở ra của Đức Thái Dương Thượng Đế ám chỉ
lúc Sanh Sanh, Hóa Hóa, trong Đạo đức gọi
là thời kỳ Thành, Trụ. Còn
hơi thở vô của Ngài là lúc vạn
vật Phản Bổn Hườn Nguyên. Ấy là lúc đúng
ngày giờ thì Thái Dương Hệ phải tan rã. Vạn
vật đều trở về nhập vô Tâm của Đức Thái Dương Thượng
Đế (Pralaya) trong Đạo đức gọi là thời kỳ: Hoại, Không. THÀNH
- TRỤ - HOẠI – KHÔNG, bốn danh từ nầy ám chỉ: a)
Lúc
Thái Dương Hệ (hoặc Vũ trụ, Càn khôn)
mới sanh ra. b)
Lúc
nó tiến hóa và c)
Lúc
nó tan rã khi ngày giờ đã điểm. CHƯƠNG
THỨ NĂM NHIỆM
VỤ CỦA NGÔI THỨ NHỨT HAY
LÀ TRIỀU LƯU SANH HÓA THỨ BA Khi con
thú sắp có Thượng Trí đặng đi đầu thai làm
người thì Ngôi thứ Nhứt bắt đầu làm việc.
Ngài cho Chơn Thần nhập thế. Ấy
là Triều lưu Sanh hóa thứ Ba. Tại cõi Trần nầy, sự
biểu hiện Thần Lực của Ngài là Linh Hồn bất tử trong một
xác thân hư hoại rồi chết mất. SỰ
BIẾN ĐỔI HỒN THÚ RA THƯỢNG TRÍ Trước
đây nói cho dễ hiểu là khi con thú có
Thượng Trí thì nó có cá tính
và được đi đầu thai làm người. Nhưng sự thật là
khi con thú tiến hóa khá cao rồi Chơn Thần mới
biến đổi Hồn Thú ra Hồn Người và sanh ra Chơn Nhơn. CHƠN
THẦN BIẾN ĐỔI HỒN THÚ CÁCH NÀO? Chơn
Thần ở tại cõi Đại Niết Bàn (Paranirvana) nhưng
Ngài xuống tại cõi Bồ Đề và ở đó chờ
cái Trí con thú mở mang tột bực rồi thì mới
xuống biến đổi Hồn nó ra Thượng Trí và sanh ra
Chơn Nhơn. Đây là một vấn đề cực kỳ khó khăn
ngoài sức tưởng tượng con người. Một vị
Cao đồ của Chơn sư đã nói: “Ấy là sự phối hợp của
ba Triều Lưu Sanh Hóa. 1)-
Những tế bào làm ra xác thân con thú
thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Nhứt (1ère
émanation divine). 2)-
Xác thân con thú và sự sống của nó
thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Nhì (2è émanation
divine). 3)-
Chơn Thần thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa thứ Ba (3è émanation
divine). Phải mở
tới Huệ nhãn, nghĩa là phải tới bực A na hàm
và A la hán mới thấy rõ ràng, dầu muốn diễn
tả cũng không có đủ danh từ, mà cũng không ai
biết nói cái gì, vì trình độ của
chúng ta chưa đủ sức hiểu nổi những điều bí mật của Tạo
Công. Chơn
Thần phóng ra một phần nhỏ nhít của mình gọi
là Chơn Nhơn (Ego) vô ở Thượng Trí; Chơn Nhơn lại
phóng ra một mảnh nhỏ của mình và ở trong ba thể:
Xác thân, Vía và Hạ Trí của con
người. Người ta gọi mảnh nhỏ nầy là Phàm Nhơn
(Personnalité). Mảnh nhỏ nầy là điểm lương tri mà
người có Huệ nhãn trông thấy trong mình con
người. Nói theo cách tượng trưng, ấy là con người
màu vàng rực rỡ lớn bằng ngón tay cái ở
trong trái tim. Nhiều người thấy nó giống như một
ngôi sao chói sáng rực rỡ ở trong đầu tại hạch mũi
(corps pituitaire) hoặc tại cuống họng, hoặc tại pléxus solaire
(đơn điền?) tùy theo con người thuộc về giống dân
chánh hay giống dân phụ và thuộc về Cung nào. (Xin
xem quyển Chơn Nhơn và Phàm Nhơn – L’Ego et la
personnalité của Đức Leadbeater). HIỆN
TƯỢNG RỒNG LẤY NƯỚC Đức
Leadbeater có nói: Sự biến đổi Hồn Thú ra Hồn
Người giống như hiện tượng rồng lấy nước, điều nầy thường xảy ra ở
ngoài biển như sau đây: ‘Trên
mặt biển có một đám mây bay là
là, ngay chỗ đó nước xao động và nổi lên
những lượng sóng lớn, người ta thấy một cái vòi từ
đám mây thòng xuống và xây tròn
hết sức mau. Dưới biển, một xoáy nước hiện ra và thay
vì đi sâu xuống đáy biển, nó lại dâng
lên cao như cái vòi. Lần lần hai cái
vòi xáp lại gần, rồi trong chớp nhoáng
chúng nó nhập lại làm một cây nước.’ Ta
có thể so sánh như vầy: Chơn Thần là một
đám mây, mặt biển là Hồn Khóm, những lượng
sóng là những tánh tốt, những tư tưởng mạnh mẽ,
còn cây nước là Thượng Trí. Thật sự
là không thể đem những vật hữu hình mà cắt
nghĩa những vật vô hình được. Những lời trên
đây giải một cách miễn cưỡng mà thôi. Xin
quí vị đọc quyển: L’homme visible et invisible (Con người hữu
hình và vô hình) Chương VII
L’âme Collective animale và Chương X La 3è émanation
divine. HAI
HẠNG CHƠN THẦN Chơn
Thần là một Điểm Linh Quang của Đức Thái Dương Thượng Đế,
tức là Con của Ngài. Có
hai hạng Chơn Thần: a)- Một
hạng ở với Đức Thái Dương Thượng Đế, không chịu xuống Trần
đầu b)- Một
hạng tình nguyện xuống năm cõi dưới: NIẾT BÀN, BỒ
ĐỀ, THƯỢNG GIỚI, TRUNG GIỚI và HẠ GIỚI, đặng học hỏi và
kinh nghiệm. Tới một ngày kia sau khi mở mang và vận dụng
tất cả những quyền năng còn tiềm tàng trong mình
thì con người thành một vị Siêu Phàm. Từ địa
vị Siêu Phàm con người lần lần bước lên từ bực Cao
cả nầy tới bực Cao cả kia, cuối cùng sẽ thành một vị
Thái Dương Thượng Đế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ
Trụ khác giống như Thái Dương Hệ nầy vậy. Hiểu
như thế thì biết chúng ta là những người
tình nguyện, chớ không phải Đức Thượng Đế bắt buộc
chúng ta phải xuống phàm. Tại
không biết những lẽ trên đây nên có
người đã nói: ‘Tôi không cần sanh ra. Sanh ra
làm chi mà phải chịu đau khổ quá vậy.’ Đúng
vậy, nói một cách tổng quát,
cõi Trần đầy dẫy tội lỗi, con người lặn hụp trong bến mê,
sông khổ, chỉ vì con người làm theo ý muốn
của mình trái nghịch với Luật Trời, không
tuân theo lời chỉ dạy của các vị Giáo Chủ,
các vị Thánh Nhơn, Hiền Triết. Bởi
Nhân nào Quả nấy chớ không phải Trời đày đọa
con người. Muốn
tránh khỏi họa tai thì con người phải học rành
Luật Nhân Quả, Luân Hồi, trau giồi hạnh kiểm lo giúp
người tùy phương tiện, thì là sửa đổi số mạng
mình kiếp nầy và kiếp sau nữa ra tốt đẹp. Phải
tập tự chủ tức là sửa trị ba Thể: Thân, Vía,
Trí; bắt buộc chúng nó sống theo lời dạy của
sách vở Đạo đức chơn truyền được bao nhiêu hay bấy
nhiêu, ban đầu ít sau nhiều, phải bền chí dầu chưa
thấy kết quả đến tức khắc. Ngoài ra không còn
phương nào khác nữa. CÓ
THỂ BIẾT ĐƯỢC CUNG MẠNG CỦA
MỖI NGƯỜI CHĂNG? Nêu
ra câu hỏi nầy thật khó trả lời. Với con mắt
phàm, chúng ta không phân biệt thật
đúng Cung mạng của con người. Tuy
nhiên có thể coi theo cách hành động
mà đoán được chút đỉnh con người thuộc về Cung
nào. Thường
thường 1)-
Người thuộc về Cung thứ Nhứt chiếm vật ham muốn của mình nhờ sức
mạnh và ý chí cương quyết. 2)-
Người thuộc về Cung thứ Nhì cũng dùng ý
chí, song rất hiểu biết những phương tiện để sẵn cho mình
dùng và điều khiển sức mạnh của mình theo chiều
hướng tốt đẹp hơn hết. 3)-
Người thuộc về Cung thứ Ba dùng quyền năng tư tưởng của
cõi Trí Tuệ và ghi chú kỹ lưỡng lúc
nào thuận tiện. 4)-
Người thuộc về Cung thứ Tư dùng sức mạnh của Dĩ Thái. 5)-
Người thuộc về Cung thứ Năm dùng một thứ lực gọi là
Ánh sáng của cõi Trung Giới (Lumière
Astrale). 6)-
Người thuộc về Cung thứ Sáu tin tưởng hiệu quả tốt đẹp của sự
cầu nguyện và đặt hết đức tin vào Đấng Thần Minh
mà mình thệ nguyện. 7)-
Người thuộc về Cung thứ Bảy dùng phù phép,
bùa chú và cũng hiệu triệu Ngũ Hành
giúp đỡ. Về
phương pháp trị bịnh: 1)-
Người thuộc về Cung thứ Nhứt dùng sanh lực Prana. 2)-
Người thuộc về Cung thứ Nhì hiểu biết sâu xa chứng bịnh
và biết đích xác phải điều khiển sức mạnh của
mình thế nào đặng có hiệu quả tốt đẹp. 3)-
Người thuộc về Cung thứ Ba cầu khẩn các vị Tinh Quân
(Esprits Planétaires) và lựa chọn lúc nào
ảnh hưởng của Hành Tinh thuận tiện hơn hết cho sự dùng
thuốc men. 4)-
Người thuộc về Cung thứ Tư tin tưởng về những phương tiện hữu
hình như xoa, bóp, có thể nói là
châm cứu. 5)-
Người thuộc về Cung thứ Năm dùng thuốc men. 6)-
Người thuộc về Cung thứ Sáu chữa bịnh nhờ đức tin mãnh
liệt. 7)-
Người thuộc về Cung thứ Bảy dùng những câu chơn ngôn
hay thần chú. Hồi sơ
khởi mỗi người ở một Cung, nhưng đi đầu thai thì mỗi kiếp đều
chịu ảnh hưởng của một Cung hay một Chi khác nhau. Có khi
bị hoàn cảnh bắt buộc vì sanh sống phải làm một
nghề không thích hợp với năng khiếu và nguyện vọng
của mình. Vì đó lâu đời thì
không còn biết được Cung chánh của mỉnh là
Cung nào nữa. Tới
chừng nào được Điểm Đạo vào Quần Tiên Hội
thì mới thật biết mình thuộc về Cung nào. H Ế T Thật
sự có bảy Hành, song hai Hành trên
không có tiết lộ ra. Trong kiếp thứ 17 mới
rồi. Alcyone đi với Demeter xuống thám hiểm dưới trung tâm
trái đất có gặp bọn họ. |