THÁI
CỰC ĐỒ
Vô Cực 无极, Thái Cực 太极
Dương động 阳动, Âm tĩnh 阴静
Kim 金, Mộc 木, Thủy 水, Hỏa 火, Thổ 土
Khôn đạo sinh Nữ 坤道生女, Càn đạo sinh Nam 乾道生男
Vạn vật hóa sinh万物生化
Ṿng tṛn này, Phật
gia gọi là Giác, Đạo gia gọi là Kim Đơn, Nho gia
gọi là Thái Cực. Gọi Vô Cực (Nguyên Thủy
vô vật) mà Thái Cực (Phái Sinh vạn vật chi
Bản Nguyên) nghĩa là không thể truy cứu được sự bắt
đầu của nó. Khi con người sơ sinh, có một điểm Linh
Quang, đó là Nguyên Nhân sinh ra h́nh
tướng, đó là Thái Cực thuyết. Khi cha mẹ chưa
sinh, th́ có một khối Thái Hư. Đó là
chủ trương: h́nh tướng ta sinh ra có nơi có chốn.
Đó là thuyết Vô Cực.
Độ sư nói: Dục nhận Bản Lai chân diện mục. Vị sinh
thân xứ thị Thái Hư.
Doăn Chân Nhân thuyết: Thái Cực có một
Lư, tự vận hành gọi là Thời Hầu. Trời đất tuy lớn
nhưng cũng không ngoài một hơi thở. Khi ngưng kết bất động
th́ gọi là Chân Chủng. Chân Chủng ấy tuy nhỏ
như hạt thóc, nhưng tranh thắng được với trời đất, lúc an
phục qui căn, tĩnh tức tra minh th́ là Thời Hầu
Thái Cực (Khi tĩnh), Dựng dục kết thực, giao cấu kết thai
th́ là Chân Chủng. Thái Cực (khi hoạt động).
Nếu ta bảo tồn được hai cực đó mà không mất
mát, th́ sẽ trường sinh bất hóa, há
đâu chỉ trọn một kiếp người mà thôi.
THÁI CỰC ĐỒ
PHÁT HUY
Lớn thay là Thái Cực trong
ta. Nó sinh sinh hóa hóa. Cùng đất trời
chung thủy. Nếu được trường sinh, bất hoá nó sẽ
siêu xuất thiên địa. Không làm hại sự sống,
không chết oan uổng, sẽ sống trọn một đời. Nếu đoạn tuyệt được
sinh tử, sẽ trường sinh, bất hóa. Sống trọn tuổi đời cũng
khác phàm phu. Nếu trường sinh, bất hóa, có
thể đồng Tiên Phật. Hai lẽ đó đều từ Thái Cực
phát xuất ra nhưng tác dụng không giống nhau.
Người người đều biết rằng Thái Cực có từ trước trời đất,
vạn vật, nhưng không biết rằng sau khi đă có trời
đất vạn vật, th́ vạn loài vẫn có đủ Thái
Cực. Thái Cực có Thời Hầu, có Chân Chủng.
Khi chưa có trời đất vạn vật, th́ Thái Cực ở hội
Tuất, Hợi. Có hai hội này, Thái cực mới có
được Nhất Nguyên Tạo Hóa (Một Nguyên là
129.600 năm, một hội là 10.800 năm).
Mỗi năm Thái Cực ở hai tháng: tháng 9 và
tháng 10. Có được hai tháng ấy, Thái Cực
mới có được một năm tạo hóa.
Mỗi tháng có 5 ngày Thái Cực, từ 26 tới
ngày 30. Nhờ có 5 ngày này, Thái Cực
mới có 1 tháng Tạo Hóa.
Mỗi ngày có hai giờ Thái Cực là giờ Tuất
và giờ Hợi. Nhờ hai giờ này, Thái Cực mới
có 1 ngày Tạo Hóa.
Mỗi giờ Thái Cực tại yểu yểu, minh minh hai Hầu. Nhờ hai Hầu
này, Thái Cực mới có một giờ Tạo Hóa.
Ở động vật, th́ Thái Cực an phúc, sinh nở
vào ban đêm. Ở thực vật, th́ Thái Cực quy
căn, kết trái. Ở người, th́ Thái Cực, yên
tức, ảo minh, giao cấu, kết thai. Giao cấu đúng thời, điều dưỡng
đúng phép,
sẽ không làm tổn thương Thái Cực, th́ sẽ
sống một đời b́nh thường.
Nếu đoạn tuyệt được dâm dục, vào được ảo minh, bảo
toàn được Thái Cực, th́ có thể trường sinh
bất tử. Sống hết một đời (như phàm nhân) rồi cũng bị hủy
hoại, c̣n thành tiên, tác Phật sẽ trường
sinh bất tử, không bao giờ bị hủy hoại. Như vậy có
khác với phàm phu, với cầm thú, cỏ cây
không?
HỒN PHÁCH ĐỒ
Hồn là Thần của Khí.
Có thanh có trọc. Mũi mồm hô hấp được là nhờ
nó. Hô là Khí Dương Thân, Hấp
là Khí Âm Khuất. Phách là Thần của
Tinh. Có hư có thực. Tai mắt nghe, thấy được là
nhờ nó. Thấy được là Dương Minh. Nghe được là
Âm Linh. Dương Thần là Hồn. Âm Thần là
Phách.
Hồn Phách hỗ tương làm nhà cửa cho nhau nương
náu. Sống là Tinh Khí.
Chết là Hồn Phách. Quỷ Thần là cái
ǵ công cộng của Trời Đất.
HỒN PHÁCH THUYẾT
Quỉ Vân là Hồn. Quỉ Bạch
là Phách. Vân là Phong. Phong là Mộc.
Bạch là Khí. Khí là Kim. Gió
tán phát nên nhẹ nhàng. Khinh Thanh
là Phách theo Hồn mà Thăng.
Kim là kiên cố, trọng trọc. Trọng trọc là Hồn theo
Phách giáng. Cho nên thánh nhân lấy
Hồn vận Phách. Chúng nhân th́ lấy
Phách nhiếp Hồn.
Hồn ban ngày ở nơi mắt. Phách ban đêm ở nơi Gan.
Ban ngày Hồn thấy vật. Phách ở Gan nên nằm mộng.
Mộng nhiều th́ Phách chế Hồn. Biết nhiều th́ Hồn
thắng Phách.
Cho nên, nhân có Phách mới có Tinh,
nhân có Tinh mới có Hồn. Nhân có Hồn
mới có Thần, nhân có Thần mới có Ư,
nhân có Ư mới có Phách.
Năm thành phần ấy vận hành không ngừng. Cho
nên Tâm tà nguỵ của ta bị lưu chuyển mấy ức vạn năm
vô cùng cực.
Mầm hạt tương sinh, không biết mấy vạn châu thiên.
Trời đất tuy lớn, nhưng nếu quả mà không hạt, cũng
không sinh được cây con.
Con mái và trứng tương sinh, không biết mấy vạn
châu thiên. Âm Dương tuy diệu, cũng không
làm được trứng mà không có trống mái.
Cho nên Thánh Nhân thấy vạn vật sinh xuất, lấy
Tính mà đối với chúng chứ không lấy
Tâm. Tính là Tâm khi chưa manh nha.
Không Tâm thời không Ư. Vô Ư sẽ
không có Phách. Không có Phách
sẽ hết thụ sinh, và luân hồi sẽ măi dứt.
HOÀ
HỢP TỨ TƯỢNG ĐỒ
Kim Thuỷ hợp xứ 金水合处
Mộc Hoả vi lữ 木火为侣
Tứ giả hỗn độn 四者混沌
Liệt vi Long Hổ 列为龙虎
Thiên tam sinh Mộc. Vị cư Đông. Kỳ tượng vi Thanh Long
天三生木位居东其象为青龙
Thiên nhất sinh Thuỷ. Vị cư Bắc. Kỳ Tượng vi Huyền Vũ
天一生水位居北其象为玄武
Địa nhị sinh Hoả. Vị cư Nam. Kỳ tượng vi Chu Tước
地二生火位居南其象为朱雀
Địa tứ sinh Kim. Vị cư Tây. Kỳ tượng vi Bạch Hổ
地四生金位居西其象为白虎
Thanh Long, Huyền Vũ giáng phương bàn 青龙玄武降方蟠
Bạch Hổ, Chu Tước hạ phương viên 白虎朱雀下方援
Tứ tượng hoà hợp nhập Trung Cung 四象和合入中宫
Hoá tác nhất Linh qui Tử Phủ (Đan Điền) 化作一灵归紫府
Thanh Long, Huyền Vũ hợp hoà
Bạch Hổ, Chu Tước một nhà đoàn viên
Trung Cung hoà hợp mọi miền
Kim Đơn thấy tại Đan Điền chẳng sai.
Mắt chẳng xem th́ Hồn tại Gan
Tai chẳng nghe th́ Tinh tại Thận
Lưỡi bất động th́ Thần tại Tâm
Mũi chẳng ngửi th́ Phách tại Phế.
Bốn cơ quan đó
vô lậu, th́ Tinh Thuỷ, Thần Hoả, Hồn Mộc, Phách Kim
đều tụ ở trong Ư Thổ, như thế gọi là Hoà hợp Tứ
Tượng.Hợp nhăn quang, ngưng nhĩ vận, điều tị tức, giam thiệt
khí.
Tứ Đại sẽ bất động, để Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ đều hội ở Trung Cung,
gọi là toản thốc Ngũ Hành vậy.
Nên nói:
Tinh Thần Hồn Phách Ư, 精神魂魄意
Toản thốc qui Khôn vị 攒簇归坤位
Tĩnh cực kiến Thiên Tâm 静极见天心
Tự hữu Thần Minh chí 自有神明至
Tinh Thần Hồn Phách Ư
Hoà hợp tại Trung Cung,
Tĩnh cực Thiên Tâm hiện
Thần minh tự nhiên đến.
HOÀ HỢP TỨ TƯỢNG
THUYẾT
Tứ Tượng là: Thanh
Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ.
Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Long Mộc sinh Hoả, đều thuộc về Tâm.
Tâm là tượng Đế chi Tiên (Tâm là gốc
của ngũ hành)
Tâm là Chân Vô, Linh Diệu.
Nếu Tâm mà bất động th́ Long ngâm, mây
khởi,
Chu Tước xếp cánh (Nguyên Thần qui phục) và
Nguyên Khí ngưng kết.
Hổ Kim sinh Thuỷ, đều thuộc về thân.
Thân này, từ muôn kiếp vốn thanh tịnh, nên
là Diệu Hữu của Chân Vô.
Thân mà bất động, th́ Nguyên Khí sẽ y
phụ và Nguyên Tinh sẽ kết thành. Tinh ngưng,
Khí tụ, th́ Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả sẽ hồn dung nơi
Chân Thổ. Tinh, Thần, Hồn, Phách sẽ hoà hợp tại
Chân Ư.
Chân Ư là Kiền Nguyên, là Vạn vật chi
thuỷ, thiên địa chi mẫu, âm duơng chi căn, thuỷ hoả chi
bản, nhật nguyệt chi tông, tam tài chi nguyên, ngũ
hành chi tổ.
Vạn vật nương vào đó để sinh thành, Thiên
Linh nhờ đó mà thư thái. Ư mà bất
động th́ Nguyên Thần, Nguyên Khí tương giao,
tinh khí thần tương hội, Tinh thuỷ, Thần Hoả, Hồn mộc,
Phách kim (Tứ tượng) sẽ hoà hợp, Ngũ hành sẽ toản
thốc nơi Đan Điền. Tất cả đều hội tụ về Trung cung và Đại Đan
thành vậy.
Tử Dương chân nhân nói: Ngũ hành toàn
yếu nhập Trung ương 五行全要入中央。
&&&&&
Trời khai Đạo vào thời mạt hậu,
Dụng điển mầu soi thấu quần sinh,
Dụng lằn Thiên Điển diệu linh,
Chuyển truyền Tâm Pháp Chơn Kinh vô lời.
Kinh Vô Lời Thầy Trời khải thị,
Là Chơn Truyền Huyền Bí Kỳ Ba,
Là nền Chánh Pháp Ma Ha,
Vô Vi Đại Đạo không Ta không Người.
Đó là nền Đạo Trời thâm viễn,
Các con hành sẽ hiển diệu mầu,
Là cơ Đại Đạo cao sâu,
Luyện Hồn luyện Tánh đặng vào Chơn Tâm.
Tâm Đạo vốn cao thâm khó ngộ,
Muốn t́m vào tận chỗ Tâm Mầu,
Trước tua phải khá luyện trau,
Mượn h́nh Nhân Thể leo cao Thang Trời.
Thang Trời nơi thân người khá rơ,
Sinh làm người phải tỏ Nguồn Chân,
Phải biết Máy Nhiệm nơi Thân,
Thân người là máy để phăn đường về.
Thân bao gồm nhiều bề nhiều lớp,
Trước trui rèn cái khớp đầu tiên,
Cho thân ích thọ diên niên,
Đủ ngày đủ tháng luyện chuyền lớp trong.
Luyện lần lần cho xong bảy lớp,
Luyện chừng nào đến khớp cuối cùng,
Pháp Thân Chơn Thể nhập cung,
Nhập nguồn Đại Điển Huyền Khung Máy Trời.
Đường tu luyện nhiều đời nhiều kiếp,
Đến giai tầng ḥa hiệp Âm Dương,
Đó là giai đoạn cuối đường,
Cần đến Nhân Thể Âm Dương luyện giồi.
Lư Âm Dương đồng ngôi đồng vị,
Âm Dương b́nh yếu chỉ Đạo Mầu,
Âm Dương tương khắc tương giao,
Âm Dương Nhị Lư tương trao tương điều.
Cứ chuyển vận theo chiều tiến hóa,
Đến chừng nào Nhân Quả triệt tiêu.
Không c̣n phân cách đôi chiều,
Âm Dương hiệp nhứt vượt siêu Khôn Càn.
Càn Khôn vượt thẳng đàng lên nữa,
Ra khỏi ṿng cương tỏa Nghiệp - Duyên,
Thẳng đường trực chỉ Huyền Thiên,
Nhập vào cảnh giới tuyệt huyền tuyệt linh.
Tu một kiếp Ngọc Kinh trở lại,
Gặp Đạo Thầy th́ phải quyết hành,
Hành cho đến chỗ viên thành,
Có Thầy dẫn dắt chỉ rành đường đi.
Con chỉ cần khắc ghi lời dạy,
Giữ hành y một mảy chẳng rời,
Trong Tâm luôn tưởng có Trời,
Giữ ḍng giao cảm thời thời chẳng ly.
Ḷng dặn ḷng từng li cẩn cẩn,
Quyết một ḷng cần mẫn luyện trau,
Hành y pháp Đạo một màu,
Không xê không dịch lúc nào cũng tu.
Tu như vậy công phu mới đủ,
Đủ phân lường mới rũ sạch trần,
Luyện Tâm luyện Tánh luyện Thân,
Vào ra chặt giữ cân phân mọi bề.
Tu kín cất Thầy phê từng điểm,
Tu đủ đầy Thầy kiểm từng phần,
Luyện Thân luyện Khí luyện Thần,
Tâm an Thân định giải Trần đoạn Duyên.
Nhập vào cảnh Thiêng Liêng huyền nhiệm,
Công đủ đầy Thầy điểm Pháp Linh,
Thọ truyền Diệu Pháp Tâm Kinh,
Luyện cho thoát tục đăng tŕnh về nguyên.
THỦ KHẢM ĐIỀN LY
Hống thị Thanh
Long tủy
Nội Đan, Ngoại Đan
Nữ đan hiệp tập
Pháp
của Tôn Bất Nhị
Xá Nữ
Phương Nhị Bát
Giáp
Tích Quan Chỉ Huyền
Cao Đài đại thụ
Tối
Thượng Bật Nhất Tu Tiên
Trở
lại Mục Lục
|