QUỐC VĂN
GIÁO KHOA THƯ, KỲ 5
LỜI
KHUYÊN CON
(Ca dao)
Bài học thuộc lòng
Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh
cửi, khi ra
thêu-thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để
chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Giải nghĩa. -
Canh cửi = dệt tơ,
dệt vải. -
Dùi mài = chăm-chỉ
học-hành. -
Kinh-sử = sách
vở học để đi thi. -
Kịp khoa = đây
là kịp khoa thi.
THƯƠNG NGƯỜI NHƯ THỂ THƯƠNG THÂN
Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom.
Thấy người già yếu ốm mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có
đức, muôn phần vinh hoa.
Nguyễn Trãi gia huấn.
Đại ý - Trong
bài nói phải thương hết cả mọi người cùng khổ,
hoạn nạn, như người tàn
tật, người già cả, người ốm yếu. làm điều hay thì
gặp hay, dù không
nữa, thì trong bụng cũng được hả hê.
Giải nghĩa.- Trông nom = coi sóc. -
Hoạn nạn = những
điều sẩy đến làm cho lo lắng khổ sở. - Phụ =quên ơn,
bội nghĩa. -
Có nhân = có
lòng thương yêu mọi người. - Có đức = có bụng tốt, ăn ở
tử tế với mọi người. -
Vinh hoa = sang
trọng, sung sướng.
ANH
NÓI KHOÁC
Tí và Sửu đi qua một đám ruộng bí.
Tí chợt trông thấy quả bí to, nói
rằng: "Chà! Quả bí đâu mà to như thế kia!"
Sửu có tính hay nói
khoác,
cười mà bảo rằng: "Thế đã lấy gì làm to.
Tôi đã từng thấy những quả bí
to hơn nhiều. Có một bận, thật mắt tôi trông thấy
một quả bí to bằng cả
một cái nhà ở trước mặt ta kia kìa. - Tí
nói: "Thế đã lấy gì làm lạ.
Tôi còn nhớ một bận tôi trông thấy cái xanh đồng
to vừa bằng cả cái đình làng ta ấy". - Sửu hỏi:
"Cái xanh ấy dùng để
làm gì mà to quá như thế?" - "À, thế
bác không biết à. Cái xanh ấy dùng
để luộc quả bí của bác vừa nói ấy mà."
Sửu biết Tí chế nhạo mình, mới nói lảng ra chuyện
khác.
Nói điều gì phải cho đúng với sự thật, chớ
nên bịa đặt ra mà người ta chê cười.
Giải nghĩa. - Nói khoác = nói quá sự
thật. - Quả = trái. - Xanh = đồ bằng đồng dùng
để đun nấu, có hai quai, và khác với cái
chảo, vì nó bằng trôn.
CON CHỒN VÀ CON
GÀ TRỐNG
Một hôm, con chồn gặp con gà trống ở
bụi tre. Gà sợ, kêu rối
rít. Chồn cũng sợ chủ nhà họ bắt được, thì họ
đập chết. Chồn bèn lấy lời ngon ngọt dỗ gà rằng: "Sao
bác lại gắt
gỏng như
vậy? Tôi với bác là họ hàng bà con
với nhau cả đấy mà." Gà thấy chồn
nói dễ nghe, cất tiếng gáy vui vẻ lắm. Chồn khen nức nở:
"Ôi chao! bác
gáy sao mà hay như thế! Song tôi còn nhớ
ngày xưa ông nhà ta gáy còn
hay hơn mấy, vì lúc cụ gáy cụ cứ nhắm mắt lại."
Gà lại gáy, nhưng vẫn
còn ngờ vực, chỉ nhắm có một mắt mà thôi.
Chồn ở dưới làm như gõ
nhịp,
vừa cười vừa nói: "Ôi chao ôi hay quá! Nhưng
nếu bác nhắm cả hai mắt
lại mà gáy, thì tôi chắc bao nhiêu
gà ở xung quanh đây nghe tiếng chỉ
những nổi cơn ghen lên mà chết!" Gà đắc ý, nhắm tít cả hai mắt lại, định
gáy cho thật hay, nhưng vừa há mỏ, chồn đã nhẩy
chồm lên cắn cổ mà tha về tổ để ăn thịt.
Ôi! Mật ngọt
chết ruồi! Hay ưa nịnh hót có khi hại đến thân.
Giải nghĩa. - Chồn =
giống vật mõm dài và nhọn, tai to, đuôi
dài, hay bắt gà và chim, ta
thường gọi là cáo, nhưng không được đúng
vì cáo thuộc về loài mèo. - Rối rít = chíu chít. - Gắt gỏng = rầy rà. - Gõ nhịp = đánh cái
gì để cùng họa theo vào tiếng đàn, tiếng
hát. - Nhắm
tít = nhắm
kín mắt lại, hai mi mắt như dính liền với nhau. - Mật ngọt chết ruồi = câu tục ngữ, nghĩa đen: con ruồi
thấy mật ngọt, ham ăn mà chết; nghĩa
bóng: người ta vì ưa lời nịnh mà hại đến
thân.
Tác giả:
Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận |