QUỐC VĂN
GIÁO KHOA THƯ
LÒNG
KÍNH YÊU CHỊ
Ông Lý Tích làm quan to đời xưa. Ông
đã già mà vẫn yêu kính chị một
cách khác thường. Một hôm, bà chị ốm,
ông thân
hành đi nấu cháo cho
chị ăn, chẳng may gió quạt ngọn lửa cháy cả râu.
Bà chị nói rằng; "Nhà thiếu gì đầy tớ
mà em lại khổ
thân như
vậy?" - Ông đáp lại rằng: "Nay chị đã già,
mà em cũng già rồi, dẫu em
có muốn nấu cháo cho chị ăn mãi, phỏng đã
dễ mà được hay sao?"
Một người như ông Lý Tích, làm quan quyền quí bao nhiêu mà yêu chị như thế,
thật là đáng khen thay!
Ôi!
Anh chị em là cùng một cha mẹ sinh ra, ở với nhau từ thuở
nhỏ dại cho
đến khi khôn lớn, dạy bảo nhau, bênh vực nhau, lúc
vui cười, lúc
buồn-bực, bao giờ cũng có nhau, thì cái
tình thân
ái biết bao giờ cho phai
nhạt đi được!
Giải nghĩa. - Ốm = đau. - Thân hành = Tự mìnhh đi làm lấy. - Khổ thân = để thân mình phải chịu điều khổ. - Quyền quí = có quyền tước sang trọng. - Thân ái = yêu mến thân thiết.
KÍNH TRỌNG NGƯỜI GIÀ CẢ
Một
lũ học trò ngồi xúm xít ở hàng nước, đang
cười cười nói nói. Có một cụ
già lưng còng, tóc bạc, cũng muốn vào
hàng nước nghỉ. Nhưng mấy cái ghế
chật ních cả rồi, cụ cứ loanh quanh (xa xẩn) đứng ở ngoài.
Một
cậu học trò ít tuổi nhất, thấy thế, vội vàng đứng
ngay vậy, nhường chỗ
mời cụ ngồi. Sau lại cầm hộ cả cái điếu đưa cho cụ hút
thuốc. Mấy cậu
ngồi bên cạnh, bây giờ cùng bảo nhau ngồi dồn lại
cho rộng chỗ.
Cụ già ăn thuốc xong, khen các cậu rằng:
“Các cậu là học trò tràng
nào, mà khéo học được những điều lễ phép
như thế! Lão đây thật lấy làm quí hoá
cái nết của các cậu”.
Giải nghĩa: Xúm xít: tụ họp nhiều người lại một
chỗ. Chật ních: không còn chỗ hở
nào. Cầm hộ: cầm giúp (hộ là
tiếng quen dùng ở miền Bắc). Ăn thuốc: (lối nói quen
dùng ở miền Bắc) tức hút thuốc lào.Tràng: (tiếng quen dùng
ngày xưa) trường. Lão: tiếng người già tự
xưng.
LÒNG THƯƠNG KẺ TÔI TỚ
Ông
Lưu Khoan thuở xưa là một ông quan có tiếng
nhân từ. Một hôm, ông mặc
áo, đội mũ chỉnh tề, sắp đi chầu. Con thị tì bưng
bát cháo lên hầu.
Chẳng may lỡ tay đánh đổ cháu ra áo chầu. Con thị
tì sợ hãi, vội vàng
lấy tay vuốt chỗ cháo đổ. Ông Lưu Khoan không đổi
sắc mặt, từ từ nói
rằng: “Mầy có bỏng tay không?”
Ôi!
Tay người ta bỏng thì đau đớn nhiều, áo quí
mà hoen bẩn là việc nhỏ.
Ông Lưu Khoan biết quên cái áo bị bẩn của
mình, mà chỉ nghĩ đến tay
bỏng của người đầy tớ, thật là người có đại độ, biết
thương người dưới.
Giải nghĩa: Nhân từ: có lòng thương
người. Chỉnh tề: ngay ngắn, đàng
hoàng. Chầu: vào triều để tiếp
đón vua và nghe vua ra các mệnh lệnh. Thị tì: tiếng gọi người ở gái
trong nhà quan ngày xưa. Không đổi sắc mặt: ý nói
không chút giận dữ. Bỏng: (tiếng quen dùng ở
miền Bắc) phỏng, dộp. Hoen bẩn: (tiếng quen dùng ở
miền Bắc) bị vấy điều dơ, bị các chất dơ làm cho xấu đi. Đại độ: có độ lượng lớn,
có bụng rộng rãi, biết bao dung và thương người.
Tác giả:
Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận
|