Tủ sách Adyar số 59, tháng 11 năm 1918 NỀN TẢNG CHUNG CỦA MỌI
TÔN GIÁO
Tác giả H. S. OLCOTT
(Một bài thuyết
trình được đọc tại sảnh đường Pachaiyappa,
vào ngày 26 tháng 4
năm 1882)
Nhà xuất bản
Thông Thiên Học Adyar, Chennai (
NỀN
TẢNG CHUNG CỦA MỌI TÔN GIÁO Trước khi tiến hành thuyết
trình, tiên khởi tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc của bà Blavatsky (bạn đồng liêu
bác học của tôi) và chính tôi về sự
hoan nghênh nồng nhiệt và đặc biệt mà Ủy ban của
quí vị đã dành cho chúng tôi khi vừa
chân ướt chân ráo tới đây, và việc tụ
tập đông đảo bao gồm một số lớn những người có giáo
dục thuộc Chủ tịch đoàn. Như vậy chúng tôi
có thêm một bằng chứng nữa về sự kiện công
tác của chúng tôi ở Ấn Độ đã tiến triển nhờ
được giới trí thức ở bán đảo Ấn Độ giám sát
với sự chú tâm trìu mến. Một lần nữa, khi lần đầu
tiên viếng thăm thị trấn của Chủ tịch đoàn, chúng
tôi thấy mình hòa lẫn vào những người bạn
mà không thể hiểu lầm được việc họ thành thật hoan
nghênh chúng tôi; điều đó chắc chắn chứng tỏ
rằng người ta không đón tiếp chúng tôi như
những kẻ xa lạ mà là những người anh em từ vùng
đất xa xôi trở về với dân tộc của mình. Chúng
tôi hi vọng rằng những mối liên hệ anh em mà
chúng tôi đã tạo ra với nhau có lẽ chẳng bao
giờ bị cắt đứt mà sẽ càng ngày càng lớn
mạnh hơn khi thời gian khiến cho tất cả chúng ta thấy
mình cần phải thống nhất nỗ lực vì chính nghĩa
thiêng liêng phục vụ cho quyền lợi của Ấn Độ. Tôi tin
rằng quí vị sẽ kiên nhẫn chú ý tới những tư
tưởng mà giờ đây tôi sẽ trình bày để
cho quí vị xem xét.
Theo ông Herbert Spencer
thì “Tôn giáo là một thực tại lớn lao
(tôi xin nói là lớn nhất) và là một
sự thật vĩ đại – không kém phần là một yếu tố bản
thể và bất hoại trong bản chất con người”. Ông chủ trương
rằng các định chế tôn giáo trên thế giới đều
biểu diễn một tình cảm chân thực phổ biến khắp thế giới
trong nhân loại cũng đúng sự thật như bất kỳ định chế
nào khác. Ta không được lẫn lộn những điều mê
tín dị đoan thêm thắt vào (chúng đã
tràn lan và làm xuyên tạc tình cảm
tôn giáo) với bản thân tình cảm tôn
giáo. Điều này xảy ra quả
thật là một lỗi lầm đầy ác ý đối với cả những
nhà tôn giáo lẫn những người chống tôn
giáo. Khi quét sạch những khối u nhọt này, Khoa
học luôn luôn đưa chúng ta tới gần sự thật căn bản
và do đó nó phục vụ và là thân
hữu với tôn giáo chân chính. Căn bản của sự
thật là một bình nguyên rộng lớn gồm một tảng
đá mà thượng tầng kiến trúc thần học của thế giới
được xây dựng trên đó. Theo như tựa đề trong
bài thuyết trình của chúng tôi thì
đó là “nền tảng chung của mọi tôn giáo”.
Thế thì nó là
cái gì vậy? Tảng đá ấy là cái
gì? Đó là một khối hỗn hợp mà thành
phần cấu tạo có nhiều hơn một yếu tố. Trước hết ta cần có
ý niệm là một bộ phận trong bản chất con người
không hề mang tính vật lý; kế đó là
ý niệm về việc bộ phận phi vật lý này vẫn tiếp tục
tồn tại sau khi cái xác chết; thứ ba là
có tồn tại một Nguyên thể Vô cực ẩn bên dưới
mọi hiện tượng; thứ tư là có một mối quan hệ nào
đó giữa Nguyên thể Vô cực này và bộ
phận phi vật lý của con người.
Cả nhà khoa học lẫn nhà
thần học giờ đây đều công nhận sự tiến hóa của quan
niệm lớn lao hơn bắt nguồn từ quan niệm trí thức thấp kém
hơn theo cái trình tự phân bậc này. Sự tiến
hóa ấy có kèm theo một sự thải trừ vì trong
tôn giáo cũng như mọi địa hạt khác của tư tưởng, ta
không thể thấy được ánh sáng chừng nào chưa
xua tan được các đám mây đen. Sự thật nguyên
thủy là ánh sáng còn thần học là
các đám mây và chúng vẫn cứ là
đám mây mặc dù chúng lóng lánh
với mọi sắc thái của quang phổ. Bái vật giáo, việc
thờ cúng động vật, sùng bái anh hùng, thờ
cúng tổ tiên, sùng bái thiên
nhiên, sùng bái kinh sách; thuyết đa thần,
độc thần, hữu thần, linh thần, vô thần, duy vật (bao gồm cả
thuyết vật chứng), thuyết bất khả tri; việc mù quáng
tôn thờ ngẫu tượng, việc mù quáng tôn thờ
lò đúc – đó là Thủy và Chung của mọi
tư tưởng tôn giáo thuộc loài người, là thước
đo mức độ mù quáng tương đối về tâm linh.
Mọi khái niệm này đều phải
đi qua một lăng kính duy nhất đó là tâm
trí con người. Chính vì thế mà chúng
ta mới bất toàn, không phù hợp, mang tính
nhân bản xiết bao. Một con người chẳng bao giờ thấy được trọn cả
ánh sáng bằng cách nhìn từ bên trong
cơ thể mình ra bên ngoài; cũng giống như
người ta không thể thấy được ánh sáng thanh
thiên bạch nhật qua kính cửa sổ đã bị bụi
làm cho mờ tối hoặc nhìn thấy những ngôi sao qua
một thấu kính phản chiếu lem luốc. Tại sao vậy? Bởi vì
các giác quan của thể xác chỉ thích ứng với
những sự vật của cõi hồng trần và tôn giáo
thì vốn thuộc về siêu việt. Sự thật của tôn
giáo không phải là một điều mà ta quan
sát được bằng giác quan hồng trần song đó
là một điều để cho trực giác thông linh kiểm
nghiệm. Kẻ nào chưa phát triển được quyền năng tâm
linh này thì y không thể biết được
tôn giáo như là một sự kiện; y chỉ có thể
chấp nhận nó là một tín điều hoặc tô vẽ
nó cho bản thân coi như là một sự đa cảm của
xúc động. Sự ngu tín là cái khẩu hiệu
mà người ta khoác lên một xúc cảm,
còn sự bồng bột là một khẩu hiệu khác dành
cho xúc cảm khác. Ẩn sau cả hai thứ này là
sự Đa nghi vốn cũng đe dọa cả hai thứ.
Cũng giống như con người, tôn
giáo cũng trải qua nhiều giai đoạn; một là
tuyên cáo, tuyên truyền, tử vì đạo; hai
là chinh phục, tín ngưỡng; ba là lơ
là, tự phê bình; bốn là suy đồi,
ngoan cố bám lấy hình thức; năm là đạo
đức giả; sáu là thỏa hiệp; bảy
là suy thoái và diệt vong. Và cũng giống
như loài người, không một tôn giáo nói
chung nào mà không lần lượt trải qua những giai
đoạn ấy. Ngay chính vào lúc hiện tại, ta thấy
người thổ dân Úc châu đắm chìm vào vực
sâu của thuyết bái linh vật; người da đỏ Mỹ châu vừa
mới thoát ra khỏi Thời kỳ Đồ đá, còn người
Âu châu đang sung mãn trong cao trào văn minh
vật chất. Thế là chỉ cần thoáng nhìn qua lịch sử
tôn giáo ta cũng thấy các trường phái
và giáo phái rất dị giáo mọc ra trong mỗi
tôn giáo lớn; mỗi trường phái này đều
tiêu biểu cho sự đi chệch đặc biệt ra khỏi chính thống
giáo nguyên thủy, một số tiến riêng biệt theo con
đường hướng về mục tiêu tối hậu mà chúng tôi
vừa phác họa. Cũng giống như vị y sĩ quan sát các
triệu chứng của bệnh nhân, tôi cũng lưu ý thấy rằng
lịch sử thường xuyên biểu lộ thành những sự ghét
cay ghét đắng lẫn nhau giữa các bè phái
và giáo phái này; đây là bằng
chứng rõ rệt nhất về tính đúng đắn của tiên
đề khi chúng tôi phát biểu – mới vừa đây –
rằng bộ óc phàm của con người trên cõi trần
chẳng bao giờ thật sự biết được Tôn giáo. Tất cả những sự
thù ghét cay đắng và trả thù độc ác
của giáo phái này đối với giáo phái
kia, của tín ngưỡng của thế giới này đối với tín
ngưỡng của thế giới kia, cho thấy rằng con người đã nhầm lẫn
điều không cốt yếu lại coi là điều cốt yếu, điều
hão huyền lại coi là thực tại. Ta có thể trắc nghiệm lại phát biểu này một cách dễ dàng nhất. Ta hãy tạm thời bỏ qua cái cuộc chiến tranh này của các nhà thần học để xét tới lớp người đã phát triển được thần thông và ta thấy điều gì? Thay vì là sự tranh chấp thì lại có sự thái bình, thỏa thuận, khoan dung lẫn nhau, tán thành một cách đầy tình huynh đệ về những điều căn bản của tôn giáo. Cho dù tín ngưỡng công truyền của họ ra sao đi nữa thì họ vẫn cao cả hơn và vượt xa tín ngưỡng ấy, sự thánh thiện bẩm sinh và bản chất hiền hòa của họ đã mang lại sức sống và sức mạnh cho Giáo hội mà họ đại diện; họ là những đóa hoa của cái cây nhân loại, là anh em của toàn thể loài người, vì họ biết đâu là cái ánh sáng tỏa chiếu đằng sau những đám mây; họ thấy được cùng một tảng đá bên dưới nền móng của mọi Giáo hội. Tôi xin yêu cầu những vị nào muốn tin chắc về sự kiện này hãy đọc tác phẩm Dabistan của Mohsan Fami, trong đó ông ghi chép lại những quan sát của mình về các vị sādhus thuộc 12 tôn giáo khác nhau cách đây hai thế kỷ. Kẻ đa nghi thời nay ắt bảo rằng: “Cứ chấp nhận mọi tiên đề ấy đi thì làm sao ông có thể chứng minh cho tôi biết rằng khoa học đã chẳng quét sạch mọi giả thuyết tôn giáo ấy cùng với các thần thoại, huyền thoại, điều mê tín dị đoan và những điều cồng kềnh khác?” Được thôi, tôi xin trả lời rằng: “Có đấy”. Thông Thiên Học đang được xây dựng ngay chính trên cái đường lối dữ liệu ấy. Một số người nghĩ rằng chúng tôi chống đối lại Khoa học; nhưng ngược lại, chúng tôi nồng nhiệt ủng hộ khoa học chừng nào nó chưa bắt đầu giáo điều hóa những sự kiện mới xuất phát từ những dữ liệu đã biết nhưng chưa hoàn chỉnh. Khi khoa học đạt tới mức giáo điều như vậy thì chúng tôi sẽ thách đố nó, chiến đấu chống lại nó hết sức mình cũng chẳng khác nào khi chúng tôi chiến đấu chống lại sự giáo điều trong thần học. Đó là vì theo ý tôi thì chẳng có gì quan trọng khi bạn mù quáng tôn thờ một vật linh, một con người, một quyển kinh sách hoặc một cái lò đúc – đó cũng đều là việc mù quáng sùng bái ngẫu tượng; Khoa học có thể và đã từng độc ác vô lương tâm theo một đường lối giống như Giáo hội đã từng như vậy.
Bước đầu tiên là ta phải
đồng ý được với nhau xem từ ngữ “Khoa học” có nghĩa
là gì. Tôi coi khoa học là việc tập hợp
và sắp xếp những sự kiện mà ta quan sát được về
Thiên nhiên. Nếu đúng là như vậy thì
tôi xin phản đối những biện pháp nửa vời; tôi muốn
những quan sát ấy phải hoàn chỉnh bao quát trọn cả
Thiên nhiên chứ không chỉ là một nửa của
Thiên nhiên. Chẳng biết đó là cái loại
bản thể học nào khi ta giả vờ điều tra về các định luật
thuộc bản thể mình mà chỉ chú ý tới giải
phẫu cơ thể học, sinh lý học và bất cứ thứ gì
liên quan tới cái khung thể xác của con người
mà lại bỏ qua tất cả những gì liên quan tới chức
năng tâm trí của nó? Bạn ắt bảo rằng thật phi
lý, nhưng tôi xin hỏi bạn liệu việc nghiên cứu thể
xác mà không có tâm trí
có phi lý hay chăng so với khi nghiên cứu con người
cả về thể xác lẫn tâm trí mà lại lờ đi những
biểu lộ vượt xác phàm của bản chất trung gian của một con
người . Bạn ắt muốn tôi định nghĩa xem tôi ngụ ý
muốn nói gì về cái “bản chất trung gian” và
những biểu lộ vượt xác phàm: tôi xin thực hiện điều
ấy bằng cách bắt đầu với đề nghị rằng nơi một con người
có nhiều hơn mức ta có thể đốt nó bằng lửa,
dùng cọp để ăn thịt nó, dùng nước để làm
cho nó chết đuối, dùng dao để chặt nó ra
thành từng mảnh hoặc chôn vùi nó dưới đất để
cho thối rữa. Nhà duy vật ắt chối bỏ điều này nhưng việc
đó chẳng có gì quan trọng; ta có thể dễ
dàng chứng tỏ đề nghị nêu trên cũng giống như chứng
tỏ y là một con người.
Ở Âu Tây có một khoa
học được gọi là Tâm lý học: đây là
việc gọi không chính xác, thật ra đó
là một loại môn học khác nhưng ta chẳng cãi
nhau về từ ngữ làm chi. Được thôi, khi bạn thử phân
tích ý niệm của phương Tây ẩn bên dưới thuật
ngữ Tâm lý học này thì bạn ắt phát
hiện ra rằng nó chỉ liên quan tới những biểu lộ trí
thức bình thường và bất bình thường của bộ
óc. Một lớp nhà khoa học – nhất là những
nhà tâm thần học nghiên cứu về bệnh điên – quả
quyết rằng tâm trí là chức năng của não thất
bằng chất xám thuộc các thùy của bộ óc, nếu
ta làm tổn thương bộ óc bằng bất kỳ một hình thức
tai nạn nào, thì cảm giác bị cắt đứt, tư tưởng
ngưng tồn tại, tâm trí bị tiêu diệt, thế là
biến mất thực thể biết suy tư do đó có trách
nhiệm. Mọi thứ còn lại chỉ là cái xác chết
thối rữa và trước khi có tai nạn thì từ cái
xác chết thối rữa này có năng lượng điện từ nảy
sinh ra mọi thứ phân biệt con người với con thú thấp nhất,
cũng giống như hoa sen mọc giữa bùn.
Phe chống lại thì khẳng định rằng
bộ óc là cơ quan của tâm trí, là bộ
máy để biểu lộ tâm trí và cái điều
gì đó biết suy tư nơi con người vẫn còn suy nghĩ
và vẫn còn tồn tại cho dẫu bộ óc đã tan
nát, cho dẫu con người đã chết. Một đằng thì suy
nghĩ theo luận điệu của khoa học duy vật, một đằng thì suy tư
theo lối của Giáo hội Ki Tô và của số đông
cái gọi là các nhà Thần linh học hiện đại.
Phái duy vật coi con người là Đơn nhất, là một bộ
máy biết suy tư; phái kia coi con người là Lưỡng
tính, một tổ hợp của phần xác và phần hồn. Trong
cả hai trường phái này không hề có chỗ đứng
cho một “bản chất trung gian”. Thật ra thì thỉnh thoảng bạn cũng
thấy có một lời bóng gió thoáng qua
nào đó về một nguyên khí thứ ba cao
siêu hơn tức “Tinh thần”; chẳng hạn như trong kinh Tân
Ước của Ki Tô giáo (Thánh thư Thassaloniaus, V,
23) khi thánh Paul bảo rằng: “Tôi xin cầu nguyện
Thiên Chúa cho trọn cả tinh thần, phần hồn và phần
xác của quí vị được bảo tồn không bị tì vết
cho đến khi Chúa Giê su Ki Tô phục lâm –
đây là một phát biểu cho dù lành mạnh
đối với thần học thì lại mơ hồ chết người và phi
chính thống đối với khoa học. Nhưng trọn cả sự lơ mơ trong
giáo huấn Ki Tô cũng như giáo huấn của đồng cốt đều
ủng hộ cho thuyết lưỡng tính này; khi thể xác chết
đi thì nguyên thể thứ nhì bước vào đời sinh
hoạt mới mẻ của riêng mình cho đến khi nó đạt được
một trạng thái theo định đề một là tốt hẳn hai
là xấu hẳn. Giờ đây thì những nhà quan
sát có kinh nghiệm về hiện tượng đồng cốt đều đã
thấy nhiều hình linh hoạt hoặc sự xuất hiện ít nhiều
có thực chất của những người chết; họ coi đó là
phần hồn của người chết trở về viếng thăm lại địa hạt của người
còn sống. Họ chẳng có ý niệm gì về
cái bản chất trung gian này. Nhưng các triết gia
Ấn Độ đã phân tích con người sâu xa hơn
nhiều. Thay vì là một bộ phận đơn giản hoặc một cặp lưỡng
tính thì con người bao gồm không ít hơn bảy
nhóm riêng biệt theo sự quả quyết của các triết gia
Ấn Độ. Đó là: 1.
Thể vật chất tức Stūlasarīra 2.
Lingasarīra 3.
Nguyên sinh khí
tức Jīva 4.
Kāmarūpa, sinh ra thành
Māyāvirūpa 5.
Trí khôn ngoan
của óc phàm (tức hồn thú) - Manas
6.
Trí tuệ tâm linh
tức Buddhi 7.
Ātmā
Và sự phân tích của
họ tỉ mỉ đến nỗi mỗi một trong các nhóm này lại
được chia thành bảy nhóm nhỏ. Nói chung thì
các nguyên khí thứ nhất, thứ tư và thứ bảy
đánh dấu biên giới của con người tam phân tức tam
bội. Và nguyên khí thứ tư ở ngay giữa xác
phàm (Stūlasarīra) với Ātmā tức nguyên khí vĩnh
hằng thiêng liêng; nguyên khí thứ tư
này chính là bản chất trung gian mà
chúng ta đang tìm kiếm. Bây giờ thì người ta
hỏi chúng tôi một câu tiếp nữa là liệu
nguyên khí thứ tư Māyāvirūpa tức Song trùng thể
(Double) này của con người là thông minh hay
không thông minh, là vật chất hay tinh thần; kế nữa
liệu ta có thể dùng khoa học để giải thích hoặc
chứng minh được sự tồn tại của nó hay không. Chúng
tôi xin lần lượt xét tới những điều này.
Tự thân cái Song
trùng thể ấy chẳng qua chỉ là một đám hơi, một mớ
sương mù hoặc một hình thể rắn chắc tùy theo trạng
thái ngưng tụ tương đối của nó. Xét vì
bên ngoài cơ thể có một loạt tình huống về
khí quyển, điện, từ, địa từ và những tình huống
khác cho nên hình tướng này có thể
không ai thấy được, thế nhưng nó có thể gây
ra những tiếng động hoặc bày ra những cuộc trắc nghiệm
khác về sự hiện diện của nó; xét tới một loạt
những tình huống khác thì nó có thể
hữu hình nhưng giống như một đám sương mù; khi
xét tới một loạt tình huống thứ ba thì nó
có thể ngưng tụ để hoàn toàn thấy được hoặc thậm
chí sờ mó được. Ta có thể lấp đầy hết bộ
sách này đến bộ sách khác chỉ bằng
vào những đoạn văn tóm tắt các trường hợp
đã được ghi chép lại về các cuộc thăm viếng hiện
hình này. Đôi khi hình tướng ấy biểu lộ sự
thông minh, nó biết nói; đôi khi nó
chỉ có thể hiện hình ra – tôi đang nói tới
việc người chết hiện hình. Bản thân tôi thấy hơn 500
cuộc hiện hình như thế ở một địa điểm nơi nước Mỹ mà
còn có cả trăm ngàn người khác cũng thấy;
tôi đã tường thuật lại kinh nghiệm của mình dưới
dạng một quyển sách mà một số nhà khoa học lỗi lạc
ở Âu Tây đã ca tụng là một bản ghi
chép công phu về những điều quan sát chính
xác theo khoa học. Tôi chỉ đề cập tới điều đó để
cho bạn biết rằng ở đây không có trường hợp
nào là ảo giác hoặc phát biểu vô căn
cứ. Vậy thì được thôi, ở đây ta có bản chất
trung gian của con người tác động bên ngoài thể
xác hoặc sau khi thể xác đã chết; mặc dù về
phần mình, vì vốn tin vào tâm lý học
Á đông cho nên tôi không tin rằng những
sự hiện hình sau khi chết này là chính chơn
nhơn tức là Chơn ngã biết suy tư và có
trách nhiệm. Tôi quan niệm rằng đó chẳng qua chỉ
là hình bóng mờ mờ nhân ảnh của người
đã chết, là vật chất được cấp năng lượng do tàn dư
của sinh lực vẫn còn vướng mắc trong các phân tử
lần lửa chưa tan biến đi. Nhưng để chứng minh cho mệnh đề của
mình, chúng tôi phải chứng tỏ được rằng cái
nguyên khí trung gian này (Ảo thân tức Song
trùng thể) có thể được tùy ý tách ra
khỏi thể xác người còn sống, được phóng chiếu ra
đi tới một nơi cách xa và được ý thức trọn vẹn của
con người làm linh hoạt.
Chúng ta có hai phương
diện để chứng minh điều này (1) qua bằng chứng hội tụ của
các người chứng kiến tận mắt được ghi chép lại trong kho
tài liệu của nhiều dân tộc khác nhau; (2) chứng cớ
của những nhân chứng còn sống. Trong các tác
phẩm triết học và tôn giáo của Ấn Độ có
nhiều bằng chứng như thế. Chẳng nói đâu xa chúng
tôi xin trích dẫn trường hợp Sankarāchārya, ông
làm cho thể xác đê mê xuất thần, bỏ nó
lại cho đệ tử canh giữ và nhập vào xác của một vị
vua vừa mới băng hà, sống trong đó một vài tuần;
còn trường hợp của Agastya, ông xuất hiện ngay trận chiến
nóng bỏng giữa Rāma và Rāvana, trong khi thể xác
đê mê xuất thần ở vùng đồi Nilghiris. Câu
chuyện này được tường thuật trong tác phẩm Rāmāyana.
Trong Yoga Sutras của Patañjali, người ta khẳng định
hiện tượng này nằm trong quyền năng của mọi người thành
tựu Siddha, vốn đã đạt được toàn bích về khoa
Yoga. Về phần nhân chứng còn sống thì tôi
là một trong những người ấy vì tôi đã thấy
Song trùng thể của nhiều người tác động một cách
thông minh ở cách xa thể xác họ. Và trong
quyển sách nhỏ này giờ đây tôi xin
trình bày cho quí vị (Những điều bóng
gió về Thông Thiên Học bí truyền,
Calcutta, 1882) ta thấy có chứng nhận của không ít
hơn 9 nhân vật nổi tiếng – 5 người Ấn Độ và 4 người
Âu châu – họ đã thấy những sự xuất hiện như thế
vào nhiều dịp khác nhau chỉ nội trong hai năm vừa qua.
Thế rồi ta có cả chục những sự chứng nhận tương tự của những
người đáng tin cậy sống ở những nơi khác nhau trên
thế giới mà ta đọc thấy được trong nhiều tác phẩm của
Âu Tây bàn về những đề tài này.
Tôi không cho rằng một công chúng đa nghi lại
hi vọng coi mớ bằng chứng này là có tính
thuyết phục chẳng dè dặt chút nào; hiện tượng được
trích dẫn vượt quá kinh nghiệm thông thường của con
người đến nỗi muốn tin nó là thực tại thì mỗi
người phải tự mình thấy và tin. Tuy nhiên tôi
xin khẳng định rằng ở đây chúng tôi có một
trường hợp có nhiều xác suất là đúng
vì theo những qui điển nghiêm nhặt nhất trong khoa học
chính thống thì chúng tôi không thể
nghi ngờ việc biết bao nhiêu nhân chứng cá biệt lại
đồng lỏa với nhau để nói dối; họ chưa bao giờ gặp hoặc nghe
nói tới những người kia, thật ra thậm chí họ cũng
không sống cùng một thế hệ; thế nhưng chứng cớ của họ bổ
sung lẫn nhau.
Nhưng nếu chúng tôi
có một trường hợp có lẽ là đúng thì
nhà khoa học ắt hỏi chúng tôi liệu chúng
tôi kế đến muốn yêu cầu khoa học điều gì. Liệu
chúng tôi có viện dẫn ra được một lời giải
thích tự nhiên và hợp khoa học hay chăng hoặc
đó là một lời giải thích siêu tự nhiên
vì vậy không hợp khoa học xét về hiện tượng Song
trùng thể của người sống xuất ra và người chết hiện
hình? Tôi chắc chắn rằng mình sẽ trả lời theo kiểu
tự nhiên và khoa học. Tôi vốn tận tụy với Khoa học
đến mức chối bỏ mạnh mẽ sự kiện có một hiện tượng phép lạ
đã từng xảy ra trong thời đại này hoặc bất kỳ thời đại
nào. Bất cứ điều gì phải xảy ra ắt phải được thực hiện
trong khuôn khổ của định luật thiên nhiên. Nếu giả sử
điều gì khác hơn thì cầm bằng như bảo rằng trong
các định luật của vũ trụ không có sự thường hằng
và người ta có thể dẹp chúng sang một bên,
dùng một Quyền năng vô trách nhiệm xía
vào để đùa giỡn theo ngẫu hứng. Chúng ta ắt sẽ ở
trong một vũ trụ cà giựt, khởi động và bị dừng lại giống
như một cái đồng hồ mà con nít đang chơi. Thuyết
siêu tự nhiên này ắt là lời nguyền rủa cho
mọi tín ngưỡng, nó treo lơ lửng như một cái lưỡi
dao của đao phủ thủ treo lủng lẳng trên cổ các tôn
giáo và chỉ chuốc lấy lời châm biếm của kẻ đa nghi.
Nó là cái rễ khô đã bị hết chất nhựa
vốn ăn sâu vào tâm khảm của bất cứ tín ngưỡng
nào dựa trên nó. Nếu nó được đưa vào
trong đoàn thể của một giáo hội thì nó
đã tiên liệu trước sự hủy diệt tối hậu cũng chắc chắn như
khối u ác tính ẩn tàng lẫn vào hệ thống cơ
thể con người mà một ngày kia sẽ giết chết cơ thể.
Và trong mọi thời kỳ thì thế kỷ 19 này là
một thế kỷ tồi tệ nhất mà những kẻ ủng hộ tôn giáo
siêu tự nhiên ra mặt công khai trước công
chúng. Chúng đang bị xuống dốc ở mọi xứ sở, bị tan chảy
trước ngọn lửa của phòng thí nghiệm giống như những bức
tranh bằng sáp. Không đâu, khi tôi đứng
lên bênh vực Ấn Độ giáo, Phật giáo hoặc
Bái Hỏa giáo, tôi muốn mọi người hiểu cho rằng
tôi không yêu cầu người ta tôn trọng hoặc khoan
dung đối với các tôn giáo ấy vượt ngoài
các giới hạn của định luật thiên nhiên; tôi
tin – không đâu tôi biết – rằng nền tảng của
các tôn giáo ấy mang tính khoa học và
xét về bản thân tôi thì các tôn
giáo ấy phải trụ vững hay sụp đổ dựa vào những
tình huống đó. Tôi không bảo rằng
chúng cũng dung hòa thiết yếu với khoa học nhưng
tôi xin nói rằng cho dù chúng có nền
tảng như thế nào đi chăng nữa, hoặc là rộng hoặc
là hẹp, hoặc là dài hoặc là ngắn,
thì nền tảng ấy phải là nền tảng hợp khoa học. Và
cũng như vậy khi tôi yêu cầu bạn đừng biến mình
thành ra kẻ lố bịch bằng cách chối bỏ bản chất trung gian
này nơi con người thì đó là vì nhờ
đọc nhiều và có nhiều kinh nghiệm cá nhân,
tôi tin chắc rằng Song trùng thể tức Ảo thân
là một sự kiện khoa học.
Vậy thì ta hãy
trở lại vấn đề liệu nó là vật chất hay là một điều
gì khác nữa? Tôi xin nói đó là
vật chất cộng với một điều gì khác nữa. Và
ở đây tôi xin dừng lại một lúc để nghĩ xem vật chất
là gì. Những nhà tư tưởng lơ mơ – trong số
đó ta phải kể vào những chàng trai non trẻ mới tốt
nghiệp đại học mặc dù họ rất vinh dự với tước hiệu ấy – rất hay
liên tưởng ý tưởng vật chất với những tính chất
là mật độ, có thể nhìn thấy được và
có thể sờ mó được. Nhưng điều này không dễ
biện minh. Không khí mà ta thở thì mắt
không thấy được, thế nhưng vật chất – tương đương của nó
là khí oxy, khí hydro, khí ni tơ và
axit carbonic, mỗi thứ đều bao gồm các nguyên tử có
thể cân đo được và dùng phép phân
tích để chứng minh được. Ngoại trừ trong những tình huống
chuẩn bị sẵn, còn thì điện không thể nhìn
thấy được thế nhưng nó vẫn là vật chất. Chưa ai đã
nhìn thấy chất Ether Vũ trụ của khoa học, thế nhưng nó
là vật chất ở trạng thái cực kỳ tế vi. Ta hãy
xét ví dụ quen thuộc là các dạng nước
và thử xem chúng nhanh chóng leo lên
các nấc thang tế vi cho tới khi chúng thoát khỏi
tầm nắm bắt của khoa học: nước đá cứng như đá, nước
đá chảy ra thành nước, hơi nước ngưng tụ lại, hơi nước
hóa nhiệt và không thể nhìn thấy được, điện,
và rồi nó vượt ra khỏi thế giới hậu quả để nhập
vào thế giới nguyên nhân.
Vậy thì khi
đã có sẵn lời cảnh báo này, xin các
bạn trẻ đầu óc còn quá nóng nảy thuộc
trường Đại học Madras đừng có cãi lại tôi khi
tôi bảo rằng triết lý của Ấn Độ về con người thích
hợp với những đường lối của khoa học hiện đại, khít khao hơn
triết lý của Ki Tô hữu siêu tự nhiên hoặc của
nhà khoa học duy vật. Ta đã thấy cũng như các dạng
lần lượt của nước leo lên tới tận thế giới vô hình;
cũng vậy, ở đây Triết lý Bí truyền của Ấn Độ
giáo cung cấp cho ta một loạt phân bậc những sự bố
trí phân tử trong cơ cấu tổ chức của con người; ở đầu
bên này là khối cụ thể xác phàm,
còn ở đầu bên kia là điều tinh vi cuối cùng
tên là Ātmā, tức Tinh thần. “Nhưng làm thế
nào mà tất cả những điều này lại tồn tại
cùng nhau trong một tổ hợp duy nhất; phải chăng con người giống
như một cái tổ gồm những chiếc hộp hoặc những chiếc giỏ lồng
vào nhau, hay là ông ngụ ý muốn nói
rằng có một điều phi lý về khoa học khi hai sự vật
có thể chiếm cùng một không gian trong cùng
một lúc?” Đây là một thắc mắc bên lề
phát sinh từ thắc mắc chính yếu, nhưng chúng ta
phải xử trí nó trước.
Vậy thì tôi xin nói
theo như người ta giải thích cho tôi biết thì mỗi
một trong nhiều tập hợp nguyên tử hợp thành bảy bộ phận
của con người đều chiếm chỗ trong khoảng không gian xen kẽ giữa
hai tập hợp nguyên tử thô trược kế tiếp nhau. Chúng
được tập trung xét về nhiều loại năng lượng ở trong cái
mà người Ấn Độ gọi là Shadadharams, tức trung tâm
sinh lực mà đỉnh cao là Sahasrāram nơi Ātmā ngự. Điểm tối
cao này ở trên đỉnh đầu, những điểm khác ở
chót xương sống, bụng dưới, rún, tim, cuống họng
và trung tâm xoang trán. Vậy thì các
nguyên tử Buddhi thấm nhuần khoảng xen kẽ của Manas;
các nguyên tử Manas thấm nhuần khoảng xen kẽ của Kāmarūpa;
các nguyên tử của Kāmarūpa thấm nhuần khoảng xen kẽ của Jīva;
các nguyên tử của Jīva thấm nhuần khoảng xen kẽ của
xác phàm (Stūlasarīra). Và vì mỗi lớp
thô hơn đều chứa đựng các hạt của mọi nguyên
khí tinh vi hơn cho nên xác phàm là
cái vỏ thô nhất mà nhiều bộ phận của con người phức
hợp được chứa đựng trong đó. Thấm nhuần và cấp năng lượng
cho tất cả chính là Ātmā, tức cái năng lượng tối
hậu không ai hiểu nổi khi chỉ dùng các giác
quan của xác phàm; Brahman có mô tả cho con
người về Ātmā trong Māndūkya Upanishat bằng cách
nói rằng: “Con không phải là cái này,
không phải là cái kia, cũng chẳng phải là
cái thứ ba, cũng chẳng phải là bất cứ điều gì
mà tâm trí có thể lĩnh hội được nhờ
vào các nhận thức của thể xác. Thi sĩ bình
dân Telugu đã miêu tả hay ho và bóng
bẫy ý tưởng này trong bài thơ Sītārāma
Añjaniyam (vật chất vũ trụ) trong đó Sītā – bản
thân bà là nhân cách hóa của
Prakriti – được các con gái và vợ của các
Rishis yêu cầu chỉ rõ chồng mình, nhưng vì
khiêm tốn nên bà không chỉ ra. Bấy giờ
các phụ nữ lần lượt chỉ một số người đàn ông
khác nhau, mỗi lần chỉ lại hỏi: “Đây có phải
là chồng bà không?” Bà trả lời không,
nhưng khi họ chỉ tới Rāma thì bà im lặng vì thậm
chí bà không thể nói tới vị chúa tể
của lòng mình trước mặt những kẻ xa lạ. Do đó thi
sĩ muốn ta hiểu rằng trong khi ta có thể tha hồ nói Ātmā không
phải là gì, thì khi bắt buộc phải nói xem
Ātmā là cái gì, ta ắt phải im lặng vì lời
lẽ không có khả năng diễn tả được ý tưởng cao
siêu.
Bây giờ ta đã chuẩn bị sẵn
sàng để trả lời hai thắc mắc mà nhà phê
bình tưởng tượng nêu ra. Khi được phóng ra một
cách hữu thức vượt ngoài tầm thể xác nhờ
vào năng lượng phát triển của một Điểm đạo đồ về Khoa học
Huyền bí, Kāmarūpa chứa trong nó mọi Manas và
Buddhi (kể cả Chittham và Ahankāram – ngã
chấp) tức là Trí tuệ và Trí huệ Tâm
linh. Điểm đạo đồ rời bỏ cái vỏ phàm tục của mình
– bỏ lại Jīva và Lingasarīra trong đó và nhất thời
sống, suy nghĩ và hành động trong cái Song
trùng thể này của bản thân. Trạng huống
nguyên tử của nó ít thô trược hơn trạng huống
của xác phàm cho nên nó có quyền năng
cao về mặt di chuyển và nhận thức. Các hàng
rào vốn ngăn cản được cơ thể - chẳng hạn như các bức
vách của một căn phòng – không thể chặn đứng được
nó vì các hạt của nó có thể đi
xuyên qua các kẽ vật chất thô trược hợp thành
bức vách. Chính trong thế giới nội tâm mà
nó có thể đi du hành qua không gian giống
như tư tưởng vốn bản thân là một dạng năng lượng. Hoặc nếu
muốn thì Điểm đạo đồ có thể chỉ cần phóng ra một
hình ảnh vô trí của bản thân khiến cho
nó xuất hiện ở nơi mà mình có thể tập trung
tư tưởng của mình. Tùy theo Điểm đạo đồ muốn mà
hình ành ấy chẳng qua chỉ là một hình ảnh
hão huyền hay là chính bản ngã của
mình; nó có thể chỉ là vật chất không
thôi hoặc là vật chất cộng với bản thân y.
Khi chúng tôi tường thuật
về bản chất trung gian của một người xét theo khoa học
thì tôi đã chứng tỏ rằng chúng ta có
thể làm như vậy qua việc tập hợp các chứng cớ và
bằng cách quan sát cá nhân. Chúng
tôi có thể nói thêm rằng ta có thể
có thêm bằng chứng nữa bằng những phương pháp tốt
hơn và bảo đảm hơn hết đó là việc bản thân
ta hãy trải qua một khóa tự rèn luyện cần thiết để
có thể phóng chiếu được Song trùng thể của
chính mình. Đó là vì đây
không phải là khoa học đặc quyền dành cho một
vài cá nhân được ưu đải mà là một
khoa học chân chính dựa trên định luật thiên
nhiên và bên trong tầm với của bất cứ người
nào có đủ điều kiện. Người nông dân thấp
hèn nhất cũng có thể vén được bức màn
bí mật như vị quân vương kiêu hảnh nhất hay
là vị tu sĩ có địa vị tôn quí nhất.
Nhưng người ta thường thắc mắc: tại sao
những bí mật này lại không được công khai đối
với thế giới cũng thoải mái như các chi tiết trong
hóa học hoặc bất cứ ngành tri thức nào
khác? Đối với một kẻ lý luận hời hợt thì cũng tự
nhiên thôi khi thắc mắc như vậy, nhưng đây
không phải là một thắc mắc lành mạnh. Sự
khác nhau giữa khoa học tâm linh và khoa học vật
lý cốt ở chỗ ta chỉ có thể học được khoa học tâm
linh bằng cách tự triển khai các thần thông.
Không một giáo sư đại học nào có thể triển
khai chúng giúp bạn cũng như bất kỳ người bạn, thân
bằng quyến thuộc nào khác; bạn phải tự triển khai
chúng cho bản thân. Liệu có một người nào
khác lại có thể học giúp bạn môn âm
nhạc, tiếng Bắc phạn, hoặc hội họa hoặc điêu khắc hay chăng? Liệu
có một người nào khác có thể ăn, ngủ hoặc
cảm thấy ấm cúng hay lạnh lẽo, hoặc tiêu hóa hoặc
thở hít giúp bạn hay chăng? Thế thì tại sao bạn
lại trông mong y học tâm lý dùm bạn? Cho
dù bạn có trông mong điều ấy đến đâu đi chăng
nữa thì dù sao y cũng không thể làm được
điều đó và đấy là câu trả lời tối hậu cho
mọi kẻ thắc mắc như thế. Ta cũng không hoàn toàn
chắc chắn được rằng cho dù bạn cố gắng nhiều như vậy, chưa chắc
gì bạn đã triển khai được những quyền năng này cho
bản thân. Liệu mỗi người đều có hay chăng năng khiếu về
ngôn ngữ, âm nhạc, thi ca, khoa học hoặc triết học? Bạn
biết rằng mỗi bộ môn này đều đòi hỏi một vài
năng khiếu minh bạch nào đó và nếu bạn không
có năng khiếu thì bạn không bao giờ trở
thành một nhạc sĩ, thi sĩ, khoa học gia hoặc triết gia được.
Các ngành khoa học vật lý rất khó lĩnh hội
ngay cả khi bạn có năng khiếu tự nhiên, nhưng khoa học
tâm linh còn khó hơn khoa học vật lý –
tôi hầu như có thể nói rằng khó hơn mọi khoa
học vật lý tổ hợp lại. Chính vì thế mà
người ta đã mô tả Chơn sư là “tinh hoa hiếm hoi của
một thế hệ những người tìm hiểu” (quyển Thế giới Huyền
bí của ông Sinnett trang 101) và mọi thế hệ
Sādhu chân chính đều được tôn vinh là một bậc
siêu nhân. Người ta chỉ áp dụng từ ngữ này
cho ngài theo nghĩa ngài đã vượt trên những
nhược điểm, thành kiến và vô minh của đồng loại.
Người ta thật là vô minh
và mù quáng trước kinh nghiệm của loài
người khi thường xuyên yêu cầu chúng tôi,
những Sáng lập viên Thông Thiên Học,
hãy biến các hội viên thành những bậc cao
đồ. Chúng tôi phải chỉ ra con đường tắt dẫn lên đỉnh
Hi mã lạp sơn, những đường đèo độc đạo dẫn tới các
đạo viện trên đồi Nilghiris. Thiên hạ không sẵn
lòng làm việc và chịu khó để thu lượm kiến
thức giống như tất cả những người đã có được kiến thức từ
trước đến nay mà họ chỉ muốn leo lên một cái toa xe
hạng nhất để được thẳng tới đằng sau Bức màn che bí mật
Nữ thần
Những đầu óc như thế
có gia nhập Hội Thông Thiên Học thì cũng
không lợi ích gì và tôi khuyên
họ nên ở ngoài Hội. Chúng tôi không
muốn những cá nhân tầm phào ích kỷ như thế.
Hội chúng tôi vốn làm việc nghiêm túc,
cần mẫn, xả thân cho nên chúng tôi chỉ cần
những người xứng đáng với tên gọi là người
và đáng được chúng tôi tôn trọng.
Chúng tôi cần những người mà thắc mắc đầu
tiên không phải là “liệu tôi gia nhập Hội
thì có lợi ích gì chăng?” Công
trình của chúng tôi đòi hỏi người ta phải
phụng sự tức là những người chỉ biết thỏa mãn với việc
lao động vì thế hệ sắp tới và những thế hệ nối tiếp nữa;
những người ấy khi thấy tình trạng tôn giáo
trên thế giới thật đáng phàn nàn – thấy
các tín ngưỡng cao quí bị đồi bại, thấy các
đền thờ, nhà thờ và nơi thờ tự đông nghẹt những kẻ
đạo đức giả và kẻ nhạo báng – thì họ cháy
bỏng một ham muốn đốt lên trở lại ngọn lửa tâm linh
và đạo đức trên bàn thờ đã bị ô uế, để
đưa tri thức của các bậc Thánh hiền tới trong tầm tay của
một thế giới nặng trĩu tội lỗi. Chúng tôi cần những người
Ấn Độ yêu thương nước Ấn với một tình cảm thuần khiết đến
nỗi họ coi việc phụng sự và đau khổ vì ích lợi của
nước Ấn Độ là một niềm vui và một sự vinh dự vô
giá. Chúng tôi cần những người nhất thời có
thể dẹp qua một bên những hận thù ấu trĩ về chủng tộc, về
tín ngưỡng và giai cấp cũng như đã dẹp qua một
bên tấm vải bị lấm lem hoặc một chiếc áo bị sờn
rách; với một tấm lòng yêu thương và một
lương tâm trong sạch, họ sẵn sàng chung tay với mọi người
khác – dù cho người ta là da đen hay da trắng, da
đỏ hay da vàng, người nô lệ hay người tự do – có
con tim hòa nhịp với tình yêu thương nước Ấn Độ
cùng với những đàn con trẻ rải rác khắp thế giới
thuộc nhiều chủng tộc. Chúng tôi hoan nghênh nhất
là những người sẵn lòng chà đạp lên
lòng ích kỷ của mình khi nó xung đột với
lợi ích chung. Chúng tôi hoan nghênh
nhà nghiên cứu khoa học thông minh có những
quan niệm rộng rãi về đề tài của mình đến mức y
thấy hoàn toàn là quan trọng cần phải giải quyết
được bí mật về Thần lực cũng như biết được các tổ hợp
nguyên tử của Vật chất và khi cảm thấy điều đó y
không sợ và cũng chẳng xấu hổ khi tôn làm
thầy bất cứ ai có đủ tài năng cho dù người ấy
thuộc sắc da nào đi chăng nữa.
Bây giờ ta hãy xúc
tiến thêm một bước lập luận khoa học của mình. Xét
vì ta đã chứng minh được sự tồn tại của Song trùng
thể cũng như việc nó phóng chiếu ra bằng cách
nào? Dĩ nhiên là phải tốn năng lượng. Năng lượng ấy
là sinh lực do ý chí phát động. Khả năng
tập trung ý chí vì mục đích này
là một năng lực có thể tự nhiên hoặc thụ đắc.
Có một số người tự nhiên có năng khiếu mạnh đến nỗi
họ thường phóng Song trùng thể của mình đi ra nơi
xa, khiến chúng hiện hình ra thấy được mặc dù họ
chưa một ngày nghiên cứu về khoa tâm lý;
tôi có biết cả người nam lẫn người nữ thuộc loại
này. Nhưng đây là một quyền năng không
thông dụng và chẳng phải lúc nào cũng
có thể vận dụng được ngoại trừ khi ta đã thật sự
thông thạo về khoa học tâm lý. Tác dụng của
bộ óc qua việc máy móc triển khai dòng lực
ý chí đã được Bain và Maudsley trình
bày ít nhiều tỉ mỉ, còn trong tác phẩm Vũ
trụ Vô hình, giáo sư Tait và Balfour
Stewart đã truy nguyên cho ta thấy tác dụng năng
động của sự tiến hóa tư tưởng trong chất Ether mà người
Ấn Độ gọi là Ākāsa hằng ngàn năm nay. Họ đã đi xa
đến mức bảo rằng có thể nghĩ tới một mệnh đề theo đó sự
tiến hóa của tư tưởng chỉ trong bộ óc của một người
thôi cũng ảnh hưởng năng động tới một hành tinh ở xa.
Nói cách khác, khi tư tưởng triển khai ra
thì nó lập nên một rung động của các hạt
chất ether và chuyển động này ắt phải tiếp tục vô
hạn. Thế mà đạo sĩ yoga triển khai được một dòng như vậy,
xoay chuyển nó vào chính mình thành
ra một lực tập trung; tiếp tục quá trình này cho
đến khi quyền năng ấy đủ mạnh để trục xuất Song trùng thể ra
khỏi cái khung thể xác rồi phóng chiếu nó
đi tới nơi đâu mà mình muốn. Như vậy ta đã
chứng tỏ được sự thật về Ảo thân, việc nó có thể
tồn tại bên ngoài cơ thể và năng lượng khiến
nó phóng chiếu ra. Tôi không thể đi sâu
vào chi tiết để triển khai lập luận này vì
tôi chỉ có thể giữ chân bạn một tiếng đồng hồ trong
thời tiết nhiệt đới nóng nực này. Nhưng ít ra
tôi tin rằng mình đã chứng tỏ cho các bạn
điều vốn chỉ dựa vào các nguyên tắc khoa học chứ
không cần tới sự mê say của những kẻ ủng hộ thuyết
siêu tự nhiên.
Và bây giờ liệu cái
Song trùng thể này nó chẳng có gì
khác hơn là cái thường được gọi là “Linh
hồn” – có bất tử chăng? Không đâu, nó
không bất tử. Vì nó là một khối tập hợp vật
chất cho nên cuối cùng nó phải tuân theo luật
tản mác, sớm muộn gì cũng phân rã và
làm chia lìa vũ trụ ngoại giới bất cứ thứ gì mang
tính vật chất. Đó là định luật của các
hình tướng thuộc hành tinh cũng như các
hình tướng nhỏ bé hơn. Vì mọi thứ mang tính
vật chất trong một ngôi sao chủ yếu là được ngưng tụ từ
các nguyên tử lỏng lẻo trong không gian, cho
nên cũng giống như vậy đối với vật liệu của cơ thể con người cho
dù nó là thô trược hay tinh vi thì
nó chủ yếu là cũng được ngưng tụ từ các
nguyên tử hỗn loạn trong chất Ākāsa. Và chúng phải
trở về tình trạng phân tán này bất cứ khi
nào lực hướng tâm hút chúng vào trong
cốt lõi của con người không còn chống lại lực ly
tâm do các nguyên tử trong không gian
hút chúng ra. Điều này đưa ta tới thẳng vấn đề sự
liên tục tồn tại sau khi thể xác chết. Đây là
điều chia rẽ giữa các tôn giáo trên thế giới.
Phái nhị nguyên khẳng định rằng linh hồn lên
thiên đường hoặc xuống địa ngục để được ân thưởng hoặc chịu
phạt đời đời tùy theo hành vi mà nó thực
hiện khi còn ở trong thể xác. Mặc dù họ
không gọi đích danh như thế, song đúng là họ
dạy thuyết công và tội. Đó là vì ngay
cả các nhà thần học cực kỳ phản khoa học cũng khẳng định
rằng một Đấng thiêng liêng thưởng phạt đã tiền định
trước một số người sẽ được cứu chuộc còn một số người bị
đày đọa; những nhà thần học ấy cũng cho ta biết rằng
cái công tín ngưỡng trong một hệ thống đạo đức
và giới luật nào đó để được chia xẻ cái
công gánh tội dùm của người khác, là
những điều kiện tiên quyết cho sự cực lạc trong tương lai.
Vì vậy ta có thể giả định rằng cái công tức
Nghiệp Quả ấy là hòn đá tảng của Tôn
giáo. Đây là một mệnh đề vừa hợp lý vừa hợp
khoa học vì tư tưởng, lời nói và hành vi
của một người là biết bao nhiêu nguyên nhân ắt
phải thể hiện ra thành các hậu quả tương ứng, những
nguyên nhân thiện chỉ có thể tạo ra các hậu
quả thiện, những nguyên nhân ác chỉ có thể
tạo ra các hậu quả ác trừ phi chúng bị hóa
giải bởi những nguyên nhân mạnh hơn mang tính thiện.
Tôi không cần đi vào
việc phân tích siêu hình thế nào
là thiện thế nào là ác. Ta có thể
lướt qua điều ấy dựa vào định đề đơn giản là bất cứ điều
gì mang tính chất làm con người đồi bại,
thúc đẩy sự bất công khốn khổ, đau khổ, vô minh
và thú tính trong xã hội đều cốt yếu
là ác; điều gì có khuynh hướng ngược lại
là thiện. Tôi ắt gọi một tôn giáo là
tồi nếu nó dạy rằng cứ làm điều ác đi rồi sẽ gặt
quả thiện vì điều thiện chẳng bao giờ bắt nguồn từ điều
ác; cây ác không sinh ra trái thiện.
Một tôn giáo chỉ được tuyên truyền bằng cách
chỉa gươm hoặc bằng cách đưa thánh tử vì đạo
lên giàn hỏa thiêu hoặc bằng cách dùng
những dụng cụ tra tấn, hoặc bằng cách hủy hoại xứ sở, bắt
nhân dân làm nô lệ; hoặc bằng những chiến lược
quỉ quyệt dụ dỗ người lớn trẻ con dốt nát lìa bỏ gia
đình, giai cấp và tín ngưỡng của cha ông;
tôn giáo ấy là một tôn giáo hèn
hạ mang tính ma quỉ, kẻ thù của sự thật, hủy diệt hạnh
phúc xã hội. Nếu tôn giáo không dựa
vào lời nói dối thì ta có thể chứng minh
được sự thật và nó có thể đứng vững như ngọn
núi đá chống lại mọi đợt công kích của kẻ đa
nghi. Một tôn giáo chân chính không
hành động ám muội như một kẻ phong cùi trần truồng
che giấu vết lở loét của mình khi một kẻ phê
bình bạo dạn quét mắt tìm thấy và yêu
cầu xuất trình giấy chứng minh. Nếu tôi đứng đây để
bênh vực cho điều thiện trong Ấn Độ giáo thì
đó là vì tôi tin chắc rằng điều thiện vốn
tồn tại và cho dù một số người có thể nghĩ những
điều quá lố rối rắm của nó về phong tục, huyền thoại
và mê tín dị đoan là hoang đường và
thậm chí ấu trĩ đến đâu đi nữa thì bên dưới
những điều đó vẫn có một hòn đá tảng sự
thật, sự thật khoa học. Trên hòn đá tảng ấy
nó có định mệnh vươn cao trải qua vô số thế hệ vị
lai, cũng như nó đã từng đứng sừng sững trải qua vô
số thế hệ rao giảng cái Tín ngưỡng từ thời xa xưa khi
các bậc Thánh hiền từ trên đỉnh cao Hi mã
lạp sơn chiếu ánh sáng sự thật tâm linh chói
lọi lên một thế giới vô minh và hắc ám.
Thật là hợp lý khi bạn
muốn hỏi tôi rằng liệu những người trong quí vị phải
làm thế nào khi bản thân quí vị không
có năng khiếu thoát ra khỏi cái bức màn che
thể xác vốn gây ra hão huyền để có được một
nhận thức thực sự mật thiết về sự thật “Thiêng liêng” trải
qua các giác quan tâm linh đã phát
triển. Vì bản thân chúng tôi đã chứng
tỏ rằng không phải ai ai cũng có thể là Cao đồ
được, cho nên liệu chúng tôi mang lại niềm an ủi
nào cho những người khác? Điều này khiến ta cần
nhất thời để mắt tới thuyết tái sinh. Nếu cái
quãng nhỏ cuộc đời này mà giờ đây
chúng ta đang trải qua là toàn bộ kiếp sinh tồn
của con người; nếu bạn và tôi chưa bao giờ sống trước khi
và sẽ chẳng bao giờ sống trở lại thì ắt chẳng có
một tia hi vọng để hiến cho bất cứ tâm trí nào
không thể tự tử về mặt trí thức vì mù
quáng tin tưởng. Giáo lý về việc gánh tội
thay cho người khác không chỉ là không thể
quan niệm nổi mà còn là hoàn toàn
ghê tởm đối với kẻ nào có một quan niệm rộng lớn
hơn và hợp khoa học hơn về nguồn gốc và số phận của con
người so với quan niệm của các nhà nhị nguyên. Một
quan niệm với những nhận thức tôn giáo dựa trên trực
giác cho rằng nhân và quả vốn tương đồng, có
một Định luật toàn bích và ngự trị tương ứng khắp
cả vũ trụ; bên dưới bất kỳ quan niệm hợp lý nào về
tính vĩnh hằng ắt luôn luôn có cùng
một thần lực đang hoạt động cũng như hiện nay – người nào
có quan niệm như vậy ắt gạt phắt đi cái lời quả quyết
rằng giây phút sống hữu tình ngắn ngủi này
của ta là kiếp sống duy nhất.
Khoa học đã truy nguyên
chúng ta qua một chuỗi kiếp sinh tồn dài không thể
tưởng tượng nổi – trong các giới nhân loại, động vật, thực
vật và khoáng vật – tới tận cái nôi của sự
sống hữu tình vị lai, tức chất Ether trong không gian. Thế
thì liệu một nhà khoa học có dám cả gan quả
quyết rằng bạn và tôi (vốn tiêu biểu cho một
trình độ tiến hóa tương đối cao) đã đạt được mức
này mà trước đó không phát triển qua
các kiếp sống khác hoặc là trên trái
đất này hoặc là trên các hành tinh
khác? Và nếu y không dám thì y phải
tuân theo những qui luật của chính y về việc bảo
toàn và tương quan năng lượng, y phải suy ra từ trọn cả
sự tương tự trong thiên nhiên cho rằng vượt ngoài
kiếp sống này còn có một kiếp sống khác
dành cho chúng ta. Lực làm cho chúng ta
tiến hóa không thể bị tiêu phí đi, nó
phải tiếp tục đường lối rung động của mình cho đến khi đạt mức
giới hạn. Và tín đồ Ấn giáo cũng như Phật
giáo, các Cao đồ Kỳ na giáo và Bái
Hỏa giáo đều định nghĩa cái giới hạn ấy là một thế
giới trừu tượng vượt ngoài tầm thế giới hiện tượng hão
huyền và đau khổ. Cho dù họ gọi nó là
gì đi chăng nữa – là Mukti hoặc Niết Bàn hoặc
Ánh Sáng – thì đó cũng là
cùng một ý tưởng; đó là hệ quả của
Nguyên thể năng lượng vĩnh hằng sau khi đã băng qua một
chu kỳ tương quan với vật chất. Bản chất Trung gian nói chung
chẳng bao giờ đạt được cái giới hạn tối hậu ấy vì
nó mang tính vật chất xét về hình tướng,
kích cỡ, màu sắc và các mối quan hệ
nguyên tử; do đó nếu ta gọi nó là “phần Hồn”
thì ta có thể nói rằng phần Hồn không bất tử
bởi vì điều gì mang tính vật chất đều luôn
luôn có khuynh hướng trở lại tình trạng
nguyên tử sơ thủy. Và khi lập luận theo những tiên
đề này, triết gia Ấn giáo dạy rằng điều thoát ra
ngoài thế giới hiện tượng chính là Ātmā tức TINH
THẦN. Và thế là trong khi xét theo quan điểm Ấn
giáo thì thật chính xác khi ta bảo rằng
phần Hồn không bất tử, thế nhưng ta cũng phải nói
thêm rằng “Tinh thần” là bất tử bởi vì không
giống như phần Hồn tức Bản chất Trung gian, Ātmā không chứa đựng
các thành tố hữu hoại và có thể bị
tiêu diệt mà có bản thể không thay đổi
và vĩnh hằng.
Sự lẫn lộn các từ ngữ “phần Hồn”
và “Tinh thần” giờ đây thông dụng xiết bao
thì lại gây bối rối và có đầy ác
ý xét về mức độ này.
Ta không có lập luận
nào chống lại thuyết Tái sinh của Á đông,
theo đó ta không nhớ được những kiếp trước kia của
mình. Ta đã quên hết 95% những diễn biến trong cuộc
đời hiện nay của ta. Trí nhớ không thể hiện những
mánh khóe ranh ma nhất. Mỗi người trong chúng ta
đều có thể nhớ lại một diễn biến tầm phào nào
đó trong các diễn biến thuộc trọn một ngày, một
tháng hoặc một năm, thuộc các năm thơ ấu nhất của ta,
và diễn biến ấy tuyệt nhiên chẳng hề quan trọng và
xét theo biểu kiến cũng chẳng được dự tính ghi khắc
không thể phai nhòa được lên ký ức nhiều hơn
các diễn biến khác. Làm thế nào lại như vậy
được? Và nếu việc hoàn toàn quên mất đa số
những diễn biến trong đời mình không phải là bằng
chứng cho thấy chúng đã không tồn tại một
cách hữu thức vào lúc đó, thì việc
ta quên mất toàn thể những kinh nghiệm trong các
kiếp trước không hề là lập luận chống lại sự kiện
có những kiếp trước kia. Tôi cũng chẳng cần phải vội
vã nói thêm rằng những lời tự xưng là nhớ
được kiếp trước mà trường phái Luân hồi hiện đại
khẳng định liệu có phải là bằng chứng đáng tin cậy
cho những kiếp đó hay chăng; cũng có thể lắm, tôi
không nói đó chỉ là những mánh
khóe tưởng tượng, những ảnh tượng trong trí não
được gợi nên do những ảnh hưởng ngẫu nhiên ngoại lai. Vấn
đề duy nhất đối với chúng ta đó là trong khoa học
và khoa luận lý liệu ta có cần nêu định đề
cho bản thân mình là có một loạt các
kiếp sống ở đâu đó, vào nhiều lúc
khác nhau. Và tôi nghĩ rằng ta phải trả lời khẳng
định cho câu hỏi này.
Như vậy sau khi đã công
nhận có nhiều kiếp sống và trở lại với lập luận của
mình, ta thấy rằng ngay cả khi bất cứ người nào trong số
chúng ta không có khả năng đạt được quả vị cao đồ
trong kiếp này, thì y vẫn còn có khả năng
đạt được quả vị ấy trong kiếp tới. Nếu chúng ta khởi sự
thì chúng ta ắt tạo ta một nguyên nhân
mà sớm muộn gì cũng tỉ lệ với năng lượng nguyên
thủy, nguyên nhân ấy sẽ đưa ta tới quả vị cao đồ,
cùng với nó là hiểu biết những định luật ẩn
tàng về bản thể, cũng như con đường phá vỡ xiềng
xích của vật chất để đạt được Giải thoát – Mukti.
Và bước đầu tiên để khởi sự là phải tẩy rửa ta khỏi
những thói quen ham muốn tai hại, từ bỏ những thành kiến
vô lý, những giáo điều và sự thiếu khoan
dung, cố gắng phát hiện điều cốt yếu là cơ bản và
điều không cơ bản trong tôn giáo mà người ta
giảng dạy, sống theo lý tưởng cao nhất về điều thiện, trí
huệ và chánh niệm tâm linh mà người ta
rút ra từ tôn giáo ấy, cũng như từ trực giác
thuộc bản thể của chính mình. Tôi coi người ấy
là một kẻ điên rồ đả phá ngẫu tượng khi y
làm sụp đổ bất cứ tôn giáo nào – nhất
là một trong những tôn giáo cổ truyền trên
thế giới – mà không khảo sát nó và
tin theo nó về sự thật nội tại. Tôi coi y là một kẻ
hiếu danh sốt sắng muốn vá víu một Tín ngưỡng mới
xuất phát từ những Tín ngưỡng cũ chỉ với mục đích
nổi tiếng trong bàn dân thiên hạ. Tôi coi y
là một kẻ nhiệt tình điên loạn khi trông mong
biến mọi người sao cho nhìn thấy sự thật cũng giống như
chính mình, bởi vì không có hai con
người nào thậm chí có thể thấy một cái
cây hoặc một lùm cây giống nhau chứ đừng nói
chi tới việc lĩnh hội những mệnh đề siêu hình một
cách cũng minh bạch như thế. Còn về phần những kẻ
nào đi khắp thế giới tuyên truyền cho tín ngưỡng
tôn giáo đặc thù của mình mà
không có khả năng chứng tỏ nó cao siêu hơn
các tín ngưỡng khác lẽ ra nó được thay thế
hoặc trả lời dứt khoát những thắc mắc đúng đắn của
các nhà phê bình thì họ hoặc
là những kẻ mơ mộng đầy hảo ý hoặc là những kẻ
điên rồ tự đắc. Nhưng cho dù họ có thể là
điên, hiếu danh hoặc đần độn thì nếu họ chân
thành, cá nhân họ vẫn có quyền được
tôn trọng theo cái mức độ chân thành
mà họ luôn luôn biểu lộ. Trừ phi toàn thể thế
giới sẵn sàng chấp nhận một thủ lãnh duy nhất không
thể sai lầm và mù quáng chọn theo một tín
điều duy nhất thì chỉ có một qui tắc khôn ngoan duy
nhất bao giờ cũng phải được khoan dung đối với đồng loại của
mình; đó là bản thân chúng ta
luôn luôn có óc phán đoán
què quặt và chẳng bao giờ được hoàn toàn tự
do. Đó là chính sách và nền tảng
đã được công khai tuyên bố của Hội Thông
Thiên Học mà bạn có thể thấy được qua việc đọc
quyển sách nhỏ bao hàm Điều lệ và Qui tắc của
nó. Nền tảng đó là khoan dung lẫn cho nhau
và tình huynh đệ đại đồng.
Bạn ắt bảo rằng phải có những
giai đoạn sơ cấp đưa tới quả vị cao đồ, do đó khoa học hiện đại
đã nêu ra một số giai đoạn sơ cấp ấy. Tôi xin
nói với bạn rằng tâm lý học là khoa học
khó khăn nhất mà ta đi sâu được tới tận đáy
của nó, thế nhưng việc khảo cứu của Tây phương đã
dẹp sạch được nhiều chướng ngại trên con đường ấy. Cho đến nay
thuật thôi miên mesmer là ngành nghiên
cứu cần thiết nhất mà ta phải tiếp thu trước tiên.
Nó cung cấp cho bạn (1) bằng chứng về việc tâm trí
có thể tách rời khỏi sự tồn tại hữu thức trên
cõi trần, một đối tượng bị thôi miên mesmer
có thể phô bày một ý thức trí tuệ
hoạt động và óc phân biện trong khi cơ thể y chẳng
những yên ngủ mà còn chìm sâu trong
một sự xuất thần đến nỗi giống như một cái xác đang hấp
hối hơn là một con người còn sống; (2) nó cung cấp
cho bạn bằng chứng về việc có thể thật sự truyền tư tưởng từ một
tâm trí này sang một tâm trí
khác; không cần thốt ra một lời hoặc đưa ra một dấu hiệu
có thể nhận thức được, nhà thao tác mesmer
có thể truyền cho đối tượng tư tưởng ở trong tâm
trí mình; (3) nó dễ dàng chứng tỏ thực tại
về một quyền năng nghe các âm thanh và thấy những
sự vật diễn ra ở khoảng cách xa, liên lạc tư tưởng với
những người ở xa, nhìn xuyên qua tường, nhìn xuống
tận lòng đất, nhìn xuống đáy biển sâu thẳm
và nhìn xuyên qua mọi chướng ngại khác đối
với mắt phàm; (4) có khả năng nhìn vào cơ
thể con người, dò tìm vị trí và
nguyên nhân bệnh tật, kê đơn thuốc thích hợp
cũng như có khả năng truyền sức khỏe và phục hồi sức sống
tâm trí và thể lực bằng cách đặt tay của
nhà thôi miên mesmer lên trên đối tượng
hoặc y truyền sinh lực tráng kiện của mình vào một
ly nước để cho bệnh nhân uống hoặc truyền vào quần
áo để cho bệnh nhân mặc; (5) có khả năng thấy được
quá khứ và thậm chí dự báo được tương lai.
Khoa học Thôi miên Mesmer khiến cho một người – không
phải là bậc Cao đồ về tâm lý học Á
đông cao cấp – có thể chứng minh hoàn toàn
cho bản thân và cho người khác khả năng đạt được
những điều này và còn nhiều điều khác nữa.
Tôi nói như vậy dựa vào thẩm quyền của một Ủy ban
thuộc Hàn lâm viện Pháp. Thế rồi ngoài khoa
Thôi miên Mesmer ra còn có những ngành
vô cùng quan trọng như thuật Trắc tâm, thuật
vân dụng Od, thuật Đồng cốt và những thuật khác hầu
như ít được nhắc tới vượt ngoài tầm bài thuyết
trình hiện nay của tôi. Mỗi một và tất cả thuật
này đều giúp cho người tìm hiểu đạt được minh
triết “Thiêng liêng” để có một quan niệm thông
minh và hợp khoa học về các định luật của “cái
Điều gì đó Vĩnh hằng” (theo cách gọi của Herbert
Spencer) mà bạn có thể gọi là Thượng Đế hoặc bất
cứ hồng danh nào mà bạn thích. Dù bạn chọn
cho nó hồng danh nào thì kiến thức về nó
cũng là mục tiêu cao nhất dành cho tư tưởng con
người và việc đạt được tình trạng hài hòa
với nó chính là hoài bão cao
siêu nhất, cần thiết nhất và là bước đầu của một
con người thông tuệ. Nói tóm lại thì việc
theo đuổi kiến thức này chính là THÔNG
THIÊN HỌC (Minh triết Thiêng Liêng) và phương
pháp khảo cứu chính đáng cấu thành Khoa học
Thông Thiên Học.
Và thế là chỉ cần một
câu phát biểu tôi cũng giải đáp được cả
ngàn thắc mắc xem Thông Thiên Học là
gì và đâu là mục tiêu của việc khảo
cứu Thông Thiên Học. Mãi cho đến lúc
này, hầu hết quí vị cũng như đại đa số người Ấn Độ đều
tưởng tượng cho rằng chúng tôi đến để rao giảng một
tôn giáo mới nào đó, để tuyên truyền
một sự hoang tưởng mới mẻ nào đó, để dựng nên một
“Giáo hệ Mới mẻ” nào đó. Giờ đây bạn thấy
mình đi xa sự thật đến đâu và dân gian
nói chung đã đối xử bất công với chúng
tôi như thế nào. Thay vì rao giảng một
tôn giáo mới, chúng tôi chỉ rao giảng những
điều khẳng định cao siêu của các tôn giáo xưa
nhất trên thế giới để cho thế hệ hiện nay tin tưởng được. Chúng
tôi không hiến ra điều đó qua những bản ngã
vô minh tồi tàn của mình bởi nó làm
sao có thể tiếp dẫn quí vị và hướng đạo quí
vị, nhưng chính các đấng Thánh hiền khả
kính thuộc thời cổ sơ mới làm được điều đó.
Chúng tôi không yêu cầu quí vị trung
thành với một người Mỹ hoặc một người Nga mà là
trung thành với một triết lý Ấn Độ xa xưa. Chúng
tôi đến không phải để kéo đổ hoặc hủy hoại mà
để xây dựng lại cái cơ cấu dẻo dai của tôn
giáo Á đông. Chúng tôi yêu cầu
quí vị giúp chúng tôi dựng nó
lên trở lại không phải dựa trên bãi cát
trôi ưa phản bội của đức tin mù quáng mà dựa
trên nền tảng vững như đá của sự thật, rồi dùng xi
măng gắn những viên đá rời rạc của nó dính
cứng vào chất xi măng kết dính của Khoa học Hiện đại. Ấn
độ giáo đích thực chẳng có gì phải sợ
công trình khảo cứu của Khoa học. Cho dù những
thế hệ trước kia có thể đã truyền thừa cho quí vị
bất cứ điều gì sai trái thì chúng tôi
cũng sẵn sàng bỏ qua, và khi đã đến lúc cho
chúng tôi nhìn xuyên suốt qua những điều
hão huyền hiện nay thì chúng tôi ắt hoan
hỉ làm như thế. “Thế giới không thể xây dựng được
trong một ngày” và chúng tôi đâu phải
là kẻ dốt nát hăng hái mơ tới việc có thể
dò ra được và phá tan những sai lầm thâm căn
cố đế chỉ nội trong một ngày, một năm hoặc một thế hệ. Ta chỉ
cần bao giờ cũng muốn biết sự thật, sẵn lòng lên tiếng
vì sự thật, hành động vì sự thật và nếu cần
thì chết vì sự thật khi chúng ta đã
khám phá ra nó.
Thiên hạ thường thắc mắc theo
tôn giáo chúng tôi thì làm sao
chúng tôi có thể liên giao bình đẳng
và thân hữu với những người thuộc Tín ngưỡng đối
nghịch. Tôi xin trả lời rằng việc cá nhân
chúng tôi ưa thích tôn giáo trên
thế giới này hơn tôn giáo khác chẳng
liên quan gì tới vấn đề nói chung là
Thông Thiên Học (Minh triết Thiêng liêng).
Chúng tôi ủng hộ Thông Thiên Học là
phương pháp duy nhất giúp cho người ta phát hiện
được cái Điều gì đó Vĩnh hằng mà
không yêu cầu những người có tín ngưỡng
khác hơn chúng tôi phải theo tín ngưỡng của
chúng tôi và bỏ đi tín ngưỡng của
chính họ. Hai Sáng lập viên chúng
tôi đều rao giảng một tôn giáo khoan dung,
nhân từ, tử tế, vị tha, bác ái; tôn
giáo ấy không bới móc những điều xấu xa trong
tín ngưỡng của người lân cận mà chỉ mưu tìm
những gì tốt đẹp khiến cho y sống trọn với bộ luật đạo đức
và sùng đạo nhất mà y có thể tìm
được. Tóm lại, chúng tôi rao giảng cái
tôn giáo được thể hiện qua Qui tắc Vàng của Khổng
tử, của Phật Thích Ca và của các bậc giáo
chủ thuộc hầu hết mọi tôn giáo lớn; điều đó được
bảo tồn để cho hậu thế hâm mộ và kính ngưỡng trong
Chiếu chỉ của Đức Vua A Dục ghi trên những phiến đá đơn lẻ
và những phiến đá ở Hindustan. Nếu tuân theo
tín ngưỡng đơn giản này thì chúng tôi
chẳng khó khăn gì khi sống hoàn toàn
hài hòa với kẻ tuân theo bất kỳ tín ngưỡng
nào gặp gỡ chúng tôi trong tinh thần hỗ tương. Nếu
chúng tôi có đấu tranh với những kẻ tự xưng
là Ki Tô hữu thì đó chỉ là vì
họ đã phản bội lại giáo huấn của Đấng mà họ tự cho
là mình gọi bằng Thầy, và họ đã dùng
đủ mọi mánh khóe hèn hạ và không xứng
đáng để ra sức chống lại ảnh hưởng đang gia tăng của
chúng tôi. Chính họ đã chiến đấu chống lại
chúng tôi vì chúng tôi đã bảo
vệ Ấn Độ giáo và các tôn giáo
Á đông khác, chúng tôi không
chiến đấu chống lại họ. Nếu họ thực hành các huấn điều
của chính mình thì chúng tôi chẳng
bao giờ lên tiếng hoặc dùng ngòi bút để
chống lại họ vì lúc bấy giờ họ ắt tôn trọng
tình cảm tôn giáo của người Ấn giáo,
Bái Hỏa giáo, Kỳ na giáo, Do Thái
giáo, Phật giáo và Hồi giáo, và đến
lượt họ cũng xứng đáng được chúng tôi tôn
trọng. Nhưng họ bắt đầu bằng cách vu khống thay vì lập
luận và tôi e rằng vu khống sẽ là vũ khí
được ưu ái nhất để dẫn tới một kết cuộc cay đắng. So sánh
với cách ứng xử khiếm nhã của người đồng hương ưa
cãi vã vốn đã diễn thuyết ở đây vào
ngày hôm trước, tố cáo kinh Phệ đà là
sự ghê tởm, dơ dáy, còn các nhà
Thông Thiên Học là những kẻ phiêu lưu
không đáng tôn trọng thì cách cư xử
của vị luật sư Hồi giáo mới cao quí và dịu
dàng làm sao khi ông bảo vệ cho Raymond Lully trước
một tòa án Hồi giáo có khuynh hướng phạt
Lully vì ra sức tuyên truyền cho tôn giáo
mình ở xứ sở này. “Hỡi tín đồ Hồi giáo, nếu
quí vị nghĩ một người Hồi giáo đã hành động
lập được công trạng khi ra sức rao giảng Hồi giáo trong
đám người ngoại đạo thì tại sao chúng ta lại
không thể nhân từ đối với Ki Tô hữu này khi
động cơ thúc đẩy của y cũng đồng nhất như thế?” Tôi
không thể nhớ tới những lời chính xác nhưng
đó là ý nghĩa của nó. Cái tiếng
nói Nhân từ dịu dàng thốt ra từ cửa miệng của vị
luật sư ấy và những lời lẽ của ông ta là tiếng vọng
của Tinh thần sự thật.
Vậy thì hỡi những người nam phụ
lão ấu ở Madras, nếu quí vị tự xưng là những người
yêu nước Ấn Độ thì quí vị hãy biến
mình để cho xứng đáng với sự ban phúc của
các bậc Thánh hiền, hãy chung lòng chung
sức với chúng tôi để tiến hành công
trình vĩ đại này. Chúng tôi yêu cầu
quí vị không cần phải có danh dự, không cần
phải có lợi ích thế tục hoặc cũng chẳng tưởng thưởng cho
cá nhân chúng tôi. Chúng tôi
chẳng mưu cầu việc dụ quí vị theo chúng tôi;
quí vị hãy chọn những nhà lãnh tụ
chính đáng trong số những người thanh khiết nhất
và minh triết nhất nơi quí vị thì chúng
tôi ắt sẽ theo quí vị. Chúng tôi không
tự cho mình là bậc thầy của quí vị vì tất
cả những điều mà chúng tôi có thể giảng dạy
đều là những điều mà chúng tôi học được từ
Á đông; Phúc âm mà chúng
tôi truyền bá vốn bắt nguồn từ các bậc ẩn sĩ nơi
vùng sơn cước của Ấn Độ chứ không bắt nguồn từ các
vị giáo sư ở phương Tây. Chúng tôi biện bạch
cho Ấn Độ để phục hồi tôn giáo cổ truyền của nó, để
minh chứng cho sự vinh quang xưa kia của nó, để duy trì
sự vĩ đại của nó về khoa học, nghệ thuật và triết học.
Nếu có bất kỳ sự ưu ái ích kỷ nào đối với
giáo phái hoặc giai cấp hoặc thành kiến cục bộ cản
đường đi thì bạn hãy dẹp nó sang một bên,
ít ra cho tới khi bạn làm được một điều gì
đó cho xứ sở sinh ra bạn, để cho dòng dõi cao
quí của bạn được nổi danh. Trong đám đông người tụ
tập này, tôi thấy trên trán của quí vị
có vẽ những vạch giáo phái thẳng đứng của
phái Nhị nguyên và phái Bất nhị thờ Vishnu
cũng như các đường vằn nằm ngang của phái thờ Shiva.
Đây là những sự biểu thị bên ngoài của những
sự dị biệt tôn giáo thường bộc phát thành
những lời lẽ cay đắng và những hành vi cay đắng. Nhưng
theo một ý nghĩa khác hơn mắt phàm, tôi thấy
có một tập hợp những dấu hiệu giáo phái biểu thị
mối nguy hiểm lớn lao hơn cho quốc gia và tính linh của
Ấn Độ. Những dấu hiệu này đã in hằn sâu trong
trí óc và tâm hồn của một số người – mặc
dù may mắn thay không phải là tất cả - trong
đám các thanh niên đầy triển vọng nhất, những đứa
con ưu tú nhất của mẹ Ấn Độ đang đau buồn, chúng
đã gặm nhấm hết cái óc tự hào là họ
thuộc về dân Ấn Độ và đã được truyền thừa
các tôn giáo này. Đó là những
học vị Cử nhân Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Cử nhân Văn chương, Thạc sĩ Khoa học Xã hội và
Nhân văn mà trường Đại học ở đó dành cho
quí vị. Sau ba năm giao tiếp với quốc gia Ấn Độ và đồng
hóa được với tư tưởng của nó, tôi hầu như cảm thấy
rùn mình khi một thanh niên thuộc dòng
dõi quí tộc nào đó được giới thiệu với
tôi là đã tốt nghiệp Đại học có bằng cấp.
Tôi đâu có đánh giá thấp tầm quan
trọng của giáo dục Đại học hay sự vinh dự mà người ta đạt
được qua việc có một bằng Đại học, nhưng tôi xin bảo rằng nếu
người ta chỉ đạt được đặc quyền ấy mà phải hi sinh danh dự quốc
gia cũng như trực giác tâm linh thì đó
là một lời nguyền rủa đối với kẻ đã tốt nghiệp và
một thảm họa cho xứ sở của y. Chẳng thà tôi thấy một người
Bairāgee dơ dáy tin theo trực giác của tổ tiên đối
với khả năng tâm linh của con người, còn hơn là
tôi thấy kẻ tốt nghiệp Đại học ưu tú nhất lại mất hết niềm
tin ấy. Chẳng thà tôi kết giao với vị ẩn sĩ trần truồng
trong rừng rậm còn hơn là giao tiếp với một người tốt
nghiệp Đại học mặc dù chất đầy bằng cấp nhưng do một giáo
trình lịch sử và khoa học giả mạo, đã mất hết mọi
niềm tin vào bất cứ thứ gì lớn lao trong Vũ trụ hơn hẳn
Haekel hoặc Comte hoặc không tin vào bản thân
mình có bất cứ quyền năng nào cao siêu hơn
khả năng sinh con đẻ cái, tư duy hoặc tiêu hóa. Nếu
muốn, bạn có thể gọi tôi là kẻ Bảo thủ; tôi
là kẻ Bảo thủ trong chừng mực là chừng nào
các giáo sư thời nay có thể chỉ cho tôi thấy
một Triết lý không thể công kích được; một
Khoa học tự mình chứng minh cho mình nghĩa là mang
tính công lý tiên đề; một Khoa Tâm
lý học bao quát được mọi hiện tượng tâm linh; một
Tôn giáo mới vốn là trọn cả sự thật không hề
khiếm khuyết – thì chừng đó tôi mới không
tuyên bố rằng điều mà tôi cảm nhận, điều mà
tôi biết chính là sự thật, nghĩa là
các đấng Thánh hiền đã biết được các
bí mật của Thiên nhiên và của Con người; chỉ
có một nền tảng chung cho mọi tôn giáo và
trên nền tảng ấy đã và đang có sự hài
hòa và thân hữu như huynh đệ của các bậc Đạo
trưởng và các Điểm đạo đồ bí truyền thuộc mọi
Tín ngưỡng lớn trên thế giới. Nền tảng ấy chính
là Thông Thiên Học (Minh triết Thiêng
liêng). Cầu mong sao các đấng Chơn sư cổ truyền ban
phúc cho nước Ấn Độ nghèo khó của chúng ta! * * * * * * * * * |