Một
đề nghị chọn danh từ để gọi Tôn
giáo mới của Đức Thượng Đế khi
chuyển ngữ Lịch
sử tên gọi những Tôn giáo trên thế giới Vào thời Thượng cổ nhân loại chưa có phương tiện giao thông để di chuyển từ nơi nầy qua nơi nọ nên mỗi địa phương có một thổ ngữ riêng và sau nầy trên thế giới mới có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Đức Thượng Đế Cha Chung nhân loại giáo dục con cái của Ngài bằng cách gởi chư Thánh (ở Trung Hoa có Tam Hoàng Ngũ Đế vào thời Thượng cổ), chư Bồ Tát và chư Phật (ở Ấn độ) và chư Tiên tri (ở Ai Cập và Trung Đông) để dạy Đạo cho dân tại địa phương hành Đạo nơi mình sanh sống mà thôi. Lần lần khi người ta tạo được thuyền bè lớn thì Đạo được phổ biến rộng ra thêm và các dân tộc đã thọ được giáo lý dùng ngôn ngữ của họ mà dịch ra ngôn ngữ mới để phổ truyền triết lý Đạo cho các anh em đồng loại ở những nơi khác. Mỗi nơi đều có những danh từ riêng hay dịch trài trại tên của Tôn giáo và gọi tên Đấng Cha Trời theo ngôn ngữ của họ.
Đến thời Trung cổ nhân loại văn minh
tiến bộ khá cao và các đế quốc dùng
Tôn giáo
mượn lý do truyền Đạo để xâm lăng
những nước nhỏ, yếu và kém văn minh để
khai hóa, đồng thời làm thuộc địa để
gom góp tài nguyên thiên nhiên về mẫu
quốc làm giàu cho
nước mình. Các dân tộc Tây phương (Tây
Kim) phát
triển nhanh về cơ khí, kỹ thuật, vũ khí
tối tân... nên đánh chiếm rất dễ dàng
những nước nhược tiểu và vì họ chưa
biết rõ luật luân hồi và nhân quả nên
chưa
biết cộng nghiệp của dân tộc nên làm
nhiều việc tội lỗi lớn lao như tàn sát, bóc
lột, chia để trị, ngu dân để dễ sai
khiến... Những nhà truyền giáo được sự
yểm trợ của Nhà Nước Mẫu quốc, có
nhiệm vụ dịch Kinh sách ra tiếng địa phương,
hoặc giữ nguyên gốc chữ, hoặc âm giọng
theo tiếng La-tinh, hoặc đặt riêng theo ngôn ngữ
nước khác để gọi các danh từ của
Đạo, vì thế một Tôn giáo có nhiều tên
gọi khác nhau, cả tên của Đấng Cha Trời cũng
có nhiều tên khác nhau để gọi như :
Giê-hô-va,
Jahwe, JHWH, Allah, Thượng Đế, Ngọc Hoàng Thượng
Đế, Ông Trời, DER HERR, Brahma v.v... a) Thời Thượng
cổ thì tên của Tôn giáo có những
tên gọi như
sau: 1) Ấn-độ-giáo
theo Việt ngữ, bằng tiếng Anh là Hinduism,
tiếng Đức Hinduismus, tiếng Pháp Hindouisme, khi dùng
tên
của Đấng Brahma thì gọi Brahmaism, tiếng
Việt gọi là Bà-la-môn-giáo vv. 2) Do Thái
giáo, Chính
Thống giáo, Judism, Judhisme, Judismus, Orthodox... 3) Lão
giáo, Taoism, Taoisme,
Taoismus, Tiên Đạo, Đạo Lão, Tiên giáo, Đạo
... 4) Khổng
giáo,
Konfucianisme, Konfuzianismus, Konfucianisme, Nho giáo, Nho
Tông, Khổng
Thánh giáo, Đạo Khổng Mạnh... 5) Thần
Đạo, Shintoisme, Shintoism, Shintoismus... 6) Các
Tôn giáo khác do từ Đa Thần mà ra như Hoả
giáo,
Zoroasme hay do sự tổng hợp mà có Tôn giáo
mới như
Bahai và các Giáo Phái hay Sectes, Sekten… b) Thời Trung
cổ thì
có những danh từ để gọi tên các Tôn
giáo do chư
Thiêng Liêng chỉnh đốn lại những Tôn giáo xưa,
cũng cùng một Tôn giáo nhưng mang danh từ
khác: 1) Đức Phật
Thích
Ca chỉnh lại Ấn độ giáo hay Bà La-Môn giáo
thành
Phật giáo, Bouddhisme, Buddhism, Buddhismus, Phật giáo,
Phật
Tông, Phật Đạo, Đạo Phật, Thích giáo...
Vì Đức Phật Thích Ca san bằng những
bất công của Bà-la-môn giáo với 4 giai cấp
nên Ngài
đưa ra triết lý thực hành tiệm tiến và công
bằng như Ngài dạy: Chúng sinh giai hữu Phật tính
hoặc Ta là Phật đã thành, chúng sanh
là Phật
sẽ thành v.v... với sự giải thích tại sao đời là bể
khổ (Tứ diệu đế) để có phương
pháp từ dễ đến khó hay tiệm tiến hay Bát
chánh đạo để hành. Người Ấn và các
dân
tộc Á châu tôn Ngài như vị Sư của mình
(Bổn Sư) và Ngài là bậc Thế Tôn, còn
các dân
tộc Tây phương coi Ngài như một triết gia và
nhà khoa học vĩ đại vì Ngài đã nói
rõ khoa
học mà sau nầy các nhà khoa học mới tìm ra
như
một hạt bụi là cả một thế giới hay
nguyên tử hay hệ thống mặt trời hay Tiểu
thiên địa cũng giống như Đại Thiên
Địa cũng như trong một giọt nước có
hàng triệu sinh linh mà
nhân
loại hiện nay dùng kính hiển vi mới thấy vi
khuẩn và vi trùng v.v...
Vì gọi là một triết lý nên
các dân tộc Tây
phương không dùng một danh từ riêng nào để
gọi mà dùng tiếp vĩ ngữ ism, ism, ismus để
gọi như Buddhism.... tức là triết lý do chính con
người
tại thế nghĩ ra chớ không phải do Đức
Chúa Trời phán.
2) Cũng như thế, các Tôn giáo tại
Trung Hoa như
Lão giáo, Khổng giáo được người Âu
châu dùng
tiếp vĩ ngữ isme, ism, ismus để gọi như
một triết lý do loài người phổ biến
chớ không coi là một Tôn giáo như Tôn
giáo họ
đã có với danh từ riêng mà họ đặt cho
và
không bao giờ dùng tiếp vĩ ngữ isme, ism, ismus để
đặt. Danh từ mà họ đặt cho Tôn giáo
của người Tây phương hay người tại
vùng Trung Đông chính họ được coi như duy
nhứt mà thôi thí dụ như: Christinity,
Christinité,
Christentum, Judentum, Orthodox cũng như trong Đạo
Hồi thì dùng chữ Islam, Còn khi bị dùng tiếp vĩ ngữ
isme, ismus...
là
coi như bị phê bình và khinh thường như
Dogmatismus, Christianismus... hay bị coi như quá bảo
thủ nên mới có Phái khác thệ phản và
họ
tự đặt cho danh từ của Giáo Phái họ như
Evangelium, Evangelist, Methodist, Tin Lành giáo, Anh
giáo v.v...
Đối với các dân tộc vùng Trung
Đông và
Bắc Phi thì họ không bao giờ dịch tên của Tôn
giáo họ ra ngoại ngữ mà để nguyên theo
tiếng Á rạp mặc dù đã được
truyền ra đến Á châu như ở Pakistan, Nam Dương,
Mã lai, Phi luật tân... họ bắt phải học
tiếng Á-rạp mới được đọc kinh
Hồi giáo là Koran hay Coran.
Lòng tự hào dân tộc và
lòng tự hào về
Đạo của mình cũng gây ra sự cố chấp,
tự cao và thiếu lòng khoan dung mặc dù các
Giáo Tổ
dạy là phải tập cho có lòng khoan dung, thương
người
như mình vậy, tha thứ cho kẻ thù mình v.v...
Vì có
quá nhiều Tôn giáo,
Chi Phái
tên gọi khác nhau, sự hiểu biết khác nhau hay
sự hiểu lầm tăng thêm nên mới có thánh
chiến, chiến tranh Tôn giáo, anh em cùng một Cha
Chung chém
giết lẫn nhau. Do đó mà mới có Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ do chính Đức Thượng
Đế khai mở. c) Thời hiện đại
và cận đại với Tôn giáo mới của Đức
Thượng Đế. Vì
chân giáo của chư Giáo Tổ hai thời kỳ Phổ
Độ trước bị thất truyền và bị chư
vị tiếp nối sửa đổi chánh giáo ra phàm giáo
hay quốc giáo của mỗi quốc gia riêng như các nước
vùng Trung Đông nên Đức Thượng Đế không
cho chư Giáo Tổ mang xác phàm nữa để mở
Đạo mà chính Ngài dùng huyền diệu cơ
bút để
viết Thánh ngôn, Thánh giáo và luật
lệ hay Tân
luật và Pháp chánh truyền và Ngài
mượn chư
Tiền Khai cũng là chư Tiên vị giáng thế khai
Đạo bằng hình thức hữu hình là Đạo
Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
vào năm 1926 tại Việt Nam. Lần đầu tiên
Đức Thượng Đế hay Đấng Cha Chung Nhân
loại chỉ dùng ba vần La-tinh để gọi chính tên
Ngài là A, Ă, Â mà khai bút, tập cho
đồng tử dùng
phương pháp xây bàn để cho chư vị Tiền
Khai làm quen với phương pháp thông linh mới giữa
Trời và Người. Sau khi Chư Tiền Khai tin tưởng
Đấng A, Ă, Â là Ông Trời thì Ngài mới
xưng
danh là Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài
Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát và
Ngài không mượn
cách xây bàn quá chậm chạp nữa mà với
đồng
tử như một Telefax viết ra Thánh giáo. Trong
những cơ bút sau Ngài giải thích rõ
ràng sự
tạm mượn danh xưng qua ba bực cao nhứt trong
Tam Giáo.
Như vậy Tôn giáo mới do chính Đức
Thượng
Đế mở mà phần hữu vi như Toà Thánh Tây
Ninh, Tổ Đình của Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ với Ba Đài, Cửu Viện, các Cơ
Sở hay Cơ Quan sau cùng là Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý
đều do chư Tiền Khai và chư vị tiếp
nối lập nên, vì Đức Thượng Đế là
vô hình nên phải có người phàm mới lo
xây cất
và tổ chức để hoằng khai Đại Đạo
được.
Đạo Cao Đài được mở ra trong giai
đoạn cực kỳ khó khăn là đất nước
Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ mà lúc
nào chính
phủ Pháp cũng muốn tiêu diệt sự đoàn
kết với chính sách chia để trị, trong lúc
đó
những người yêu nước kháng chiến chống
Pháp giành độc lập lại theo một lý thuyết
cũng ngoại lai là vô thần nên cũng tìm
cách tiêu
diệt Tôn giáo vì Tôn giáo là
hữu thần, do đó
tại Quảng Ngãi mới có 3000 vị tử đạo.
Theo tư tưởng ảnh hưởng của chính
phủ Đế quốc Pháp thì các học giả người
Pháp viết sách về Đạo Cao Đài đưa Tôn
giáo nầy liệt vào như một Đảng Phái Chính
Trị chống chính phủ thực dân, nên tác giả
các
sách viết về lịch sử Đạo Cao Đài không
viết trung thực theo triết lý Đạo mà tìm
các
đánh lạc hướng Tôn giáo mới để làm
giảm đức tin của chư tín đồ Đạo
Cao Đài đừng nhập môn quá nhiều làm
thành
sức mạnh kháng chiến. Những sách nầy in hình
Quân
đội, hình vị Trung Tướng Bộ Trưởng
Quốc Phòng Chính Phủ Bảo Đại cũng là
chức sắc Đạo Cao Đài mang quân phục v.v... và
các tác giả Âu Mỹ dựa theo những tài liệu
nầy mà viết thêm sách hay luận án,
sách giáo khoa cho môn
Ethik hay môn Đức dục tại Tây phương. Các tác
giả không chuyển ngữ bằng gốc các Thánh ngôn,
không dịch triết lý Đạo hay không đi sâu
vào Thánh
giáo nên gây ra sự hiểu lầm cho độc giả Tây
phương và trẻ con học trong trường cũng
như các nhà nghiên cứu Đạo chưa có
tài
liệu bằng tiếng Việt hay chưa học
được tiếng Việt.
Họ không coi Đạo Cao Đài như một Tôn
giáo của Ông Trời mà coi như một Chi Phái
chính
trị mà khi dùng chữ Secte, Sekte... thì có
tính cách khinh thường
hay liệt vào như các Phái gây tai họa như ở
Nhựt bổn dùng hơi ngạt giết người hay
Phái tại Dallas đã tự sát tập thể v.v...
Khi người ta viết về Đạo Cao Đài
mà nói Tôn giáo nầy có Quân Đội
hay nói Tòa Thánh xây
cất theo kiểu màu mè pha trộn các Đạo khác
vừa giống nhà thờ bên Tây vừa có chữ
thập có móc (Hackenkreuz) bằng chữ N và S của
Hitler
vì họ chưa hiểu chữ Vạn của Đạo
Phật thì họ chưa hiểu gì về Đạo
của Đấng Cha Chung Nhân Loại, nên quân đội
Pháp đã liệt Đạo Cao Đài theo
Phát-xít
thời Đệ nhị thế chiến, vì một số
vị có liên hệ với Nhựt.
Với những lý do trên mà người ở
các dân
tộc khác dịch ra ngoại ngữ để gọi
Đạo Cao Đài là Néo-Buddhisme hay ĐẠO Phật
tân
cải hay Syncretisme hay Đạo gom góp vay mượn
triết lý tổng hợp từ các Tôn giáo
khác vv.
Khi người Tây phương nhìn và suy nghĩ
về các kiến trúc tại Tòa Thánh Tây
Ninh thì họ dùng
những danh từ bất kính để viết. Khi họ
nhìn ba vị Thánh khởi nguyên cho phương pháp
thông
linh là huyền diệu cơ bút là Ngài Trạng
Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Văn hào Victor Hugo và Ông
Tôn
Dật Tiên thì các tác giả Tây phương
hiểu
lầm cho rằng Đạo Cao Đài thờ các nhà văn,
nhà chính trị v.v...
Hiện nay các tác giả viết sách về
Tôn giáo
học hay các nhà Tôn giáo Nhân Chủng
học nghi ngờ
ở những sách do người Pháp viết nên tự tìm
đến những vị cao niên người Việt Nam thâm
hiểu về Đạo Cao Đài hay là tác giả
nhiều sách về lịch sử Đạo Cao Đài như
cụ Đồng Tân hiện ngụ tại Úc Châu
để tham khảo, đặt nhiều câu hỏi, mượn
tài liệu để tham khảo như các Giáo sư
tại Trường Đại Học Sydney, Cambridge,
Oxford... và các Trường Đại Học nổi
tiếng trên thế giới không dùng chữ Sekte để
gọi các Chi Phái trong Đạo Cao Đài mà
dùng là
Branches, Zweige, còn khi viết về triết lý Đạo
Cao Đài thì chư vị nầy dùng danh từ là
Siêu
triết lý để nói giáo lý Đạo Cao Đài
(Superphilosophy). Đa số các sách cũ bằng tiếng
Anh, tiếng Đức thì còn dùng chữ Caodaism,
Caodaisme,
Caodaismus vì các tác giả chưa nghiên cứu
tường
tận hay chưa hiểu rành tiếng Việt và Hán
Việt.
Chúng tôi viết bài nầy nhằm mục
đích xóa
tan những sự hiểu lầm của các tác giả
đã chết hay còn sống người nước khác cũng
như các Webmaster hay người Việt Nam chưa biết
rõ về Đạo Cao Đài mà dám viết trên
Internet
về Đạo Cao Đài sai lạc sự thật hoặc
viết sai hay dịch sai danh từ tiếng
Việt ra ngoại ngữ mà sách đã in ra từ trước
lâu rồi, khi hiểu được sẽ đính chính
lại trong tự điển hay viết sách khác với
danh từ đúng nghĩa.
Một số tác giả Tây phương đã
hiểu mục đích nầy nên các sách mới
dùng
chữ khác như Nhà Nhân Chủng học Matthias Laubscher
tại Trường Đại Học
Ludwig-Maximilians-University Munchen dùng chữ Caodaismus cũ
nhưng
chữ D viết hoa là CaoDaismus, còn các giáo
sư tại Úc
Châu thì để nguyên tiếng Việt là DAO CAO DAI
để
chỉ Tôn giáo mới và không có tên
nào để gọi
Đức Chí Tôn nên chư vị gọi là DUC CAO DAI
không
có bỏ dấu vì trước đây chưa có font
Unicode, có lẽ bây giờ thì mọi người kể
cả người ngoại quốc có thể bỏ
dấu cho đúng tiếng Việt với unicode được
là Đạo Cao Đài và Đức Cao Đài.
Những tác giả viết sách in từ lâu
đã
chết rồi thì không thể đính chính được,
còn các tác giả những sách mới hay những
Webmaster có
Homepage trong Internet chưa hiểu về Đạo Cao Đài
mà khi hiểu được thì cũng nên cũng viết
lên để đính chính hay nói về đức tin
mới của mình hay những tác giả vô thần
tại Việt nam bóp méo chân lý cũng nên
nghĩ lại
nếu sai vì không hiểu thì sửa thì Ông
Trời cũng
không nỡ bắt tội vì lúc trước vô minh
nên
mới sai. Vì
có quá nhiều ngôn ngữ
mà Tôn giáo mới
của Đức Thượng Đế phải là Tôn giáo
chung cho nhân loại sau nầy kéo dài trong thời gian
700.000
năm thì việc dịch Thánh giáo, dịch tên của
Tôn
giáo... phải dựa trên nguyên tắc chung cho
nhân loại
cho hợp lý, phổ thông đại chúng và có
tính khoa
học hơn mới được.
Đề nghị :
Chúng tôi có đề nghị như sau:
Danh xưng của Đạo Cao Đài nếu là
phổ thông đại chúng thì gọi là: Đạo Cao
Đài hay Cao Đài giáo nguyên tiếng Việt
và khi
gọi đến Đức Chí Tôn thì viết là DUC CHI
TON hay bỏ dấu tiếng Việt: Đức Chí Tôn hay
DUC CAO DAI (Đức Cao Đài) như một số giáo sư
Đại học tại Úc đã dùng khi viết giảng
khoa Đại học.
Nếu dịch cho dân chúng trong nước khác
hiểu thì nên dịch như sau: 1) Phổ
thông: Đức
ngữ thì dịch là Die
Cao-Đài-Religion hay để nguyên tiếng Việt là
Đạo Cao-Đài. Pháp
ngữ : La religion de Cao Đài Anh
ngữ : The Cao-Đài religion Tuyển
Chọn và Tu Tịnh : Cao Đài Đại Đạo
nếu để nguyên tiếng Việt hay bằng Đức
ngữ : Die Esoterische Lehre Gottes Pháp
ngữ : L’ enseignement ésotérique de Dieu Anh
ngữ : The esoteric teaching of God Những
danh từ có tiếp vĩ ngữ ism, isme, ismus phải
được bỏ đi hay dịch đúng theo nghĩa
là Đạo của Ông Trời như ở Tây phương
đã đặt cho Đạo Thiên Chúa trước đây
là Christentum, Judentum thì có thể dịch là
CaoDaitum chớ
không dịch ra tiếng Đức là Caodaismus nữa. 2)
Theo
thời kỳ trong lịch sử nhân loại : Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ
Tiếng Đức : Die universelle Amnestie in der Dritten
Phase der Errettung, Erziehung und Erlưsung Gottes.
Tiếng Pháp: La troisième Amnestie universelle
de Dieu ( có
nơi dịch chữ en orient là không đúng)
Tiếng
Anh : The Third Universal Amnesty of God Trong
các Thánh Giáo Đức Chí Tôn xưng danh
: Ngọc Hoàng
Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương Thì
nên dịch cho đúng nghĩa chớ không nên dịch như
trước đây có vài tài liệu dịch chữ Orient,
có nghĩa là Thượng Đế dạy chỉ có
ở phương Đông, vì ngày nay nhân loại
là cả
hoàn cầu rồi , con cái của Cha Trời là khắp
thế giới nên phải dịch chữ Universal mới
đúng. Thí
dụ bằng tiếng Đức dịch là : Jade-Kaiser
im Namen CAO ĐÀI GROßER UNSTERBLICHER UND GROßER
BODHISATVA Xin chư vị cao kiến đóng góp và hy vọng rằng thiển kiến nầy để giúp những người đã lỡ dịch bằng những từ Secte hay dịch sai nên sửa lại Web site của mình để từ vô minh trở thành minh triết và chánh tín. (Chư vị bên Hoa Kỳ, bên Pháp, bên Tây Đức nhất là ở Leipzig có thể dịch bài nầy ra các ngôn ngữ khác và đưa ra mỹ ý đóng góp thêm. Tệ sĩ xin thành kính tri ân quí vị cao kiến giúp đỡ trong việc chung cho nền Đạo mới của nhân loại trong tương lai, với hy vọng một Đạo, một THẦY, một Cha Chung thì tránh được những gì đã xảy ra do quá nhiều tín ngưỡng gây nên, hầu chuẩn bị cho đời Thượng Nguơn Thánh Đức như chư Thiêng Liêng đã tiên tri trước trong Thánh giáo). Hà Phước Thảo |