Chương
II
Lời Tiên Tri trong hai bài thơ của Chơn Linh cụ Thủ Khoa
Huân vào năm 1913 (13 năm trước ngày Khai Đạo) Cụ Thủ Khoa
Huân tức nhà cách mạng kháng chiến chống
Pháp Nguyễn Hữu Huân. Ông thi đậu Tiến sĩ đầu khoa
nên tục gọi là Thủ Khoa Huân. Ông còn
là một văn thi sĩ. Khi bị Pháp bắt, đem ra xử, trước
pháp trường ông còn làm bài thơ đọc
lớn lên trước khi bị chém đầu. Đến năm 1913 vào
ngày 3 tháng Giêng, tại Quận Cao Lãnh (Việt
Nam) có một số kỳ hào, văn Nho họp nhau tại nhà
ông Lê Quang Hiển, nhạc phụ ông Diệp Văn Kỳ
phò cơ bút thỉnh Tiên. Khi cơ lên, chơn linh
cụ Thủ Khoa Huân có giáng bút hai bài
thơ sau đây: Dụng đất CAO ĐÀI nhiệm khuất thân,
Từ triêm đào lý nhứt môn Xuân. Canh tân bồi ức giang san cựu, Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt tân. Cửu thập thiều quang sơ bán lục, Nhất luân minh nguyệt vị tam phân. Thừa nhàn hạc giá không trung vụ, Mục đỗ CAO ĐÀI tráng chí thân. Giải thích chữ Nôm (tiếng Việt) của cụ Thủ Khoa Huân giáng: Co dủi CAO ĐÀI khoẻ tấm
thân, Dạo xem đào
lý đượm màu Xuân,
Giang san chẳng khác ngàn năm cũ, Ngày tháng chờ thay một chữ tân. Chín chục thiều quang vừa nửa sáu, Một vừng trăng rạng chửa ba phân. Thừa nhàn cỡi hạc không trung ruỗi, Chạm mắt CAO ĐÀI khoẻ tấm thân. Trong bài thơ có nhắc
đến bốn lần danh từ CAO ĐÀI. Thời bấy giờ các vị hầu
đàn không rõ danh từ ấy có nghĩa gì?
Tuy nhiên, các ông biết rằng đại cương hai
bài thơ ấy có nói về quốc vận một cách
sâu xa. Hai câu 5 và 6 có ý nói
ngày kỷ niệm 3 tháng 1 năm 1913 vì ở câu
nào cũng ngụ ý nói đến số 3. Sau da92n cơ ấy
ông Lê Quang Hiển để hai bài thơ nầy trên
trang (là cái khánh nhỏ để thờ) làm kỷ
niệm. Mãi đến năm 1927 Tòa Thánh Tây Ninh
phái chức sắc đến Quận Cao Lãnh truyền Đạo và hai
chữ CAO ĐÀI đã được mọi người nhắc đến vì
lúc trước đọc mà không hiểu nghĩa gì. Chừng
đó ông Lê Quang Hiển nhớ lại hai bài thơ của
cụ Thủ Khoa Huân cho 13 năm trước, leo lên trang lấy ra
và đem trình ra trước chức sắc nói trên. __________________________________________________________________ |