Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh ( Lão Tử) - Cao Đài không Cao Đài mới thật là Cao Đài ( Đức Lý Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo)



Nhãn thi chu Tâm, Lưỡng quang chủ tể, Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả ngã giả



                               

Ðặc-tính của Ðạo Cao Ðài

1. Cách lập giáo : Tôn giáo Cao Ðài được truyền bá ở thế gian do một Ðấng Giáo Chủ Vô Hình. Ngài là Ðấng Toàn Năng, Toàn Giác, Hằng Hữu và thanh quang điển lành của Ngài chiếu phóng khắp nơi trong Vũ Trụ.

2. Cách truyền giáo : Ngài là Ðấng Hóa Công hay Ðấng Sáng Tạo Vũ Trụ Vạn Vật hay Cha Trời hay Thiên Chúa hay Thượng Ðế...trực tiếp mở Ðạo trong Tam Kỳ Phổ Ðộ một cách thần diệu và nhanh chóng phi thường đó là ?Thiên Linh Ðiển?. Ngài trực tiếp dạy, lập Hiến Pháp nền Ðạo, tổ chức Tôn giáo Cao Ðài thuộc hữu hình chớ không do Ðấng Giáo Chủ mang xác phàm mở Ðạo như hai lần Phổ Ðộ trước. Chư vị Tiền Khai ÐạiÐạo là chư vị từ trên do Ngài cho đầu thai làm người để ti26p tay với Ngài tổ chức nền Ðạo ở cõi trần.

3. Phương tiện truyền thông : Ðức Thượng Ðế truyền thông điển quang của Ngài cho loài người qua đồng tửtrong trạng thái mê như một máy Fax và ngòi bu viết ra chữ là Cơ Bút hay Thần Cơ , Diệu Bút chớ không qua trung gian Ðấng Tiên Tri chấp bút trong trạng thái tỉnh mà viết Thánh giáo như xưa hoặc không giao cho Ðấng Giáo Chủ mang xác phàm dạy trực tiếp cho đệ tử hay Tông Ðồ như hai lần Phổ Ðộ trước.

4. Luật Ðạo và Nghi Lễ : Luật Ðạo giống như Hiến Pháp của nền Ðạo do chính Ðức Thượng Ðế ban Sắc cho Ðức Giáo Tông, cũng là Vô Vi, viết và Ngài chuẩn để ban hành mà tổ chức nền Ðạo( Tân Luật và Pháp Chánh Truyền ) . Nghi Lễ như cách thờ phượng, cách lạy, Thánh Tượng, Lễ vật... do chính Ðức Thượng Ðế giáng cơ dạy và giải thích rõ ràng, chớ không do người phàm hay chức sắc trong Giáo Hội trong các Tôn giáo đã có đặt ra theo phong tục địa phương hay ý riêng như hai thời kỳ Phổ Ðộ trước.Nghi Lễ và Lễ Vật mang một ý nghĩa huyền nhiệm về Huyền Môn Học như , Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tam tài, Ngũ Khí, Bát Quái, Ấn hay vị trí của Cơ sanh Hóacủa Tiên Thiên và Hậu Thiên trong Càn Khôn Vũ Trụ ( Tý và Dần trong bàn tay).

5. Thiên bàn : là cái bản đồ của Càn Khôn Thế giới và cũng là bản đồ luyện Đạo : Vị trí của Thánh Tượng, đèn, hương, hoa, trà, quả, lư hương, ly rượu, tách trà... là tượng trưng của càn Khôn Vũ Trụ và Tiểu Thiên Ðịa trong xác thân Tứ Ðại.

6. Mục đích và Tôn Chỉ của Ðạo Cao Ðài : mang tính chất quyết định, nhất thiết và kịp lúc trên con đường giải thoát hay hợp nhứt với Thượng Ðế hoặc tiến hoá nhanh trên con đường phản bổn hoàn nguyên : 

Cứu chư vị linh căn xuống thế độ trần mà quên đường về, tự tu kỷ và thiền định mà trở về ngôi vị cũ.

Giúp những linh hồn đang tiến hóa tiến nhanh hơn, tự tu kỷ, học thiền và hành thiền theo Pháp Môn Tam Công trong Cơ Phổ Ðộ mà tiến nhanh kịp lúc khi quả cầu 68 nầy đến ngày tàn, lên quả cầu 67 sống trong cõi nhàn tiếp tục tu hành trên con đường phản bổn hoàn nguyên.

7. Các bài Kinh chứa nội dung huyền nhiệm : Không như các Tôn giáo có trước các bài Kinh là sự tán tụng Ðấng Thiên Chúa hay Mantra hay lời Phật dạy không thôi , mà lời Kinh trong Ðạo Cao Ðài mang đủ các tính chất : vừa tán tụng công đức Ðấng Sáng Tạo, chư Giáo Tổ mà còn giải thích lịch sử Ðấng Giáo Tổ , tóm tắt lời dạy Ðạo, mỗi danh từ là một ý nghĩa sâu xa. Người hành Ðạo đọc Kinh để cầu lý, lần lần sẽ hiểu thêm ra, hiểu cách hành thiền để tự giải thoát. Các bài Kinh đều có dạy về các nguyên lý Vũ Trụ và cách vận chuyển Ðạo khi thiền.

8. Ðức Thượng Ðế và Ðức Lão Tử dạy thiền trực tiếp : Ðấng Cha Lành và Ðức Lão Tử cũng như Ðức Ngô Minh Chiêu và chư vị tu theo Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi giáng cơ dạy trực tiếp cho các hành giả tại thế và điều kiện thọ pháp rất gắt gao
( trương chay, tuyệt dục, nhập môn, xin Thầy bằng cách xin keo) nhưng cũng dễ dàng
( ai quyết chí cũng được Thầy Thượng Ðế ban ơn) để giữ chân truyền, tránh thất truyền như hai lần PHổ Ðộ trước.

9. Các Pháp Môn được dạy cho mọi trình độ tiến hóa. Tùy theo cơ suyên mà thọ pháp hoặc tịnh tiến ( từ dễ và thấp đến cao) hoặc cơ giải thoát ( xin keo, được Thầy Thượng Ðế cho keo thì hành cơ giải thoát khi qui liễu).

10. Giáo lý Ðại Ðạo là cơ tận độcho toàn nhân loại chớ không riêng cho dân tộc Việt nam.

11. Thánh giáo Ðạo Cao Ðài là lời dạy của chính Ðức Thượng Ðế, Ðức Diêu Trì Kim Mạu, chư Phật, chư Giáo Tổ, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, chư vị liễu đạo đắc quả, chư vị Anh Hùng, chư Hiền, chư Chơn Nhơn... chớ không do một Tiên Tri mặc khải chấp bút viết ra hay do Ðấng Giáo Chủ giảng cho đệ tử hay Tông Ðồ viết lại sau khi chư vị nầy đắc đạo như hai thời kỳ Phổ Ðộ trước.

12. Giáo lý Ðạo Cao Ðài là những tóm lược hay sự cho học sinh ôn bài của chư vị Thầy để học sinh dự kỳ thi cuối khóa hay Long Hoa Ðại Hội hay Ngày Phán Xét Cuối Cùng ( chớ không phải giáo lý tổng hợp, góp nhặt, vay mượn từ các Tôn giáo khác có trước... như nhiều học giả Tây phương lầm tưởng mà đặt ra danh từ syncrétisme như các sách đã in).

13. Cách xưng hô của Ðấng Giáo Chủ rất thân mật trong tình Cha con trong Ðại Gia Ðình Càn Khôn Vũ Trụ , tình Thầy trò trong Trường Ðời trần gian trên quả cầu mang sồ 68 trong số 72 quả cầu. Ðức Thượng Ðế xưng là THẦY. Ngài không dùng danh từ của ngôn ngữ địa phương do loài người đặt ra mà gọi Ngài như trước ( Thí dụ như Giê-hô-va , Allah ...) mà Ngài mượn danh từ hay không tên hay vô danh mang ý nghĩa tượng trưng trong ngôn ngữ Việt Nam là CAO ÐÀI .

14. Giáo lý Ðạo Cao Ðài mang tính cách khoa học và hiện đại và là nền tảng cho các ngành khoa học trong tương lai.

15. Giáo lý Ðạo Cao Ðài duy trì Ngũ Giới Cấm trong Ðạo Phật nhưng được chính Ðức Thượng Ðế giải thích rất rõ ràng nguyên do tại sao cấm, nhờ đó nhân loại hiểu rõ nguồn gốc của tội lỗi mà tránh vấp phải hoặc lần lần giảm tội lỗi, hoàn thiện hơn và là điều kiện để tu và hành pháp môn trong Ðại Ðạo.

16. Các danh từ trong Thánh Giáo Ðạo Cao Ðài là những từ căn bản, phong phú lấy từ chữ Hán Việt, chữ Nôm, chữ Pháp có dấu ngoặc và các Thánh giáo sau nầy trong Thánh Giáo Sưu tập được chư Thiêng Liêng dùng rất khoa học, chính xác đúng theo trình độ tiến hoá của nhân loại trong giai đoạn khoa học kỹ thuật cao tột nầy ( Thí dụ như các danh từ do Ðức Di Lạc Thiên Tôn gọi Ngọn đèn từ huệ và Ngài cho mở dấu ngoặc transistor hay Ðức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy về thiền... hay Ðức Thượng Ðế dẫn thí vụ như kỹ sư....)


Hà Phước Thảo

MỤC LỤC

<BGSOUND SRC="BackgroundPiano9.wma" LOOP="99">